Sự du hành của
hình tượng hổ trong hội họa
Đã từ lâu, hổ thống ngự trong tâm thức dân gian và kho tàng
văn chương của nhiều dân tộc, quốc gia trên thế giới. Những con hổ mang một màu
sắc thần bí và gây ấn tượng bởi sức mạnh, đời sống đơn độc và sự táo bạo dũng cảm
của chúng. Loài động vật mệnh danh chúa tể muôn loài này đóng một vai trò quan
yếu trong văn hóa cổ xưa lẫn hiện đại, được sử dụng để đại diện cho nhiều đặc
trưng và bản sắc khác nhau xuyên suốt lịch sử. Với giá trị giàu biểu tượng tính
của mình, đương nhiên hổ cũng hiện diện như là một motif phổ biến trong nghệ
thuật. Nhân năm mới Nhâm Dần, chúng ta sẽ cùng du hành Đông – Tây để khám phá
và thưởng ngoạn hình tượng hổ trong hội họa.
Trong văn hóa phương Đông, hổ chiếm một vị trí tối thượng. Hổ
trở thành linh vật quốc gia ở các nước như Malaysia, Hàn Quốc, Bangladesh và Ấn
Độ. Ngược dòng thời gian, các nhà khảo cổ khi khai quật tại Mohenjo-daro, trung
tâm đô thị lớn nhất và sớm nhất trên thế giới nơi lưu vực sông Ấn, đã phát hiện
hình tượng hổ trên con dấu Pashupati, thuộc về nền văn minh Indus cách đây 4000
năm. Vương triều Chola bắt đầu từ thế kỉ III TCN cũng lấy hổ làm biểu hiệu, và
hình ảnh hổ được xuất hiện trên đồng xu, con dấu và cờ của triều đại này. Rất
nhiều tộc người ở Ấn Độ tin rằng mình là hậu duệ của hổ. Người Warli ở Tây Ấn Độ
tôn sùng hổ thần có tên Vaghya hoặc Vaghadeva, tin rằng vị thần rừng này ban
phát sự sống cho mọi sinh vật, còn bộ lạc Gondi ở miền Trung Ấn Độ cũng phụng
thờ nữ thần hổ Waghai Devi. Truyền thuyết sáng thế của người Naga vẫn còn kể lại
câu chuyện hổ từng là anh em của loài người, trước khi thất bại trong cuộc thi
đấu với người và phải bỏ vào rừng. Còn trong Ấn Độ giáo, hổ gắn liền với những
vị thần Hindu như Shiva và Durga. Nữ thần Durga – vị thần tượng trưng cho sự bảo
hộ, thiên chức làm mẹ, sức mạnh, chiến tranh và hủy diệt – được mô tả điển hình
hóa trong các bức tranh thờ với tám tay và cưỡi trên lưng hổ.
Ở Trung Quốc, hổ là một trong mười hai con giáp, đồng thời là
một trong “tứ tượng” (bốn sinh vật thần thoại Trung Hoa cổ đại, cùng với Thanh
Long, Huyền Vũ và Chu Tước) và là đối trọng với rồng (Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ;
Long tranh, hổ đấu; Long bàn, hổ cứ). Giống như nữ thần Durga của Ấn Độ giáo, tổ
sư Trương Đạo Lăng của tông phái Ngũ Đấu Mễ Đạo – tổ chức Đạo giáo đầu tiên xuất
hiện thời Đông Hán – cũng gắn liền với hình ảnh ngồi trên lưng hổ. Bạch hổ là một
đề tài phổ biến trong tranh thủy mặc Trung Hoa trung đại, thậm chí cấu thành một
bộ phận phong thủy trong điêu khắc lẫn kiến trúc. Bức tranh Bạch hổ thường được
gia chủ treo trên tường đối diện với cửa vào để đảm bảo quỷ dữ không thể xâm nhập
vào nhà. Tranh vẽ hổ truyền thống ở Trung Quốc thường theo một trong hai motif
chính: thứ nhất là “thượng sơn”, hình tượng hổ được mô tả đầu ngẩng cao nhìn về
phía trăng tròn sáng tỏ, điểm xuyết một vài nhành cây, tạo ra không gian an
yên, trấn tĩnh; thứ hai là “hạ sơn”, hổ được khắc họa như đang săn mồi, dáng điệu
hung dữ, sẵn sàng vồ lấy mục tiêu trong phút chốc, hậu cảnh thường là đá lớn phủ
tuyết trên núi, nhằm nhấn mạnh sức mạnh oai linh của mãnh thú áp chế đối
phương. Một trong những họa sĩ Trung Hoa vẽ hổ đáng kể đến là Hồ Tảo Bân (1897
– 1942). Sinh ra ở Thuận Đức, Quảng Đông, ông được học hội họa truyền thống từ
bé và sau này theo học hội họa phong cách phương Tây và Nhật Bản tại Viện Mĩ
thuật Thành phố Kyoto. Năm 1914, ông quay trở về Trung Quốc và tham gia sáng lập
hội nghiên cứu hội họa ở Giang Tô và đến năm 1922 thành lập trường mĩ thuật tại
Quảng Đông. Được sự bảo trợ của chính quyền Quảng Đông lúc bấy giờ, ông đã tham
quan hơn 30 quốc gia khắp các châu lục Á, Âu, Mĩ và Phi để tập hợp tranh ảnh về
hổ, tham gia các cuộc săn bắt hổ của người bản xứ để quan sát và chụp ảnh làm
tư liệu sáng tác. Sự nghiệp của ông ước tính để lại hàng trăm bức tranh vẽ hổ,
sau này được gia đình quyên góp cho các bảo tàng như Bảo tàng Nghệ thuật Hồng
Kông, Bảo tàng Nghệ thuật Macao, Bảo tàng Cố cung Quốc gia Đài Bắc, Đài Loan. Một
trong những bức tranh nổi tiếng nhất của Hồ Tảo Bân đóng góp cho Bảo tàng Nghệ
thuật Hồng Kông là Chính nghĩa không cho phép quay đầu lại (1942) được
ông hoàn thành vào năm cuối cùng của cuộc đời mình.
Ở Nhật Bản, tuy không phải là loài vật bản địa, nhưng hổ cũng
đã được du nhập vào đất nước này và từng bước thâm nhập vào tâm thức người Nhật
nhờ… hội họa. Các nhà sư lữ khách từ Trung Hoa khi sang Nhật đã mang theo những
bức tranh vẽ hổ và chúng nhanh chóng trở thành một món hàng thịnh hành vào thế
kỉ XVI. Trên cơ sở Thần đạo (Shinto) mang tính chất hướng về tự nhiên, vật linh
và đa thần, người Nhật vốn dĩ rất gần gũi với các loài động vật và coi chúng
như là sứ giả của thần linh, như cáo là đại diện cho thần Inari mùa màng, bồ
câu là đại diện cho thần chiến tranh Hachiman… Khi được tiếp xúc, các họa sư Nhật
Bản thời Edo sớm bị thu hút bởi kích cỡ và sự uy dũng của hổ, và bắt đầu khai
triển các chủ đề liên quan tới hổ dựa trên óc tưởng tượng của mình. Bậc thầy
tranh ukiyo-e (phù thể) Nhật, người sau này có ảnh hưởng không nhỏ tới
trường phái ấn tượng Âu châu là Katsushika Hokusai (1760 – 1849), vào giai đoạn
cuối đời đã chuyên chú vẽ về hổ. Một trong những tuyệt phẩm cuối cùng trong sự
nghiệp sáng tác dài lâu của Hokusai là bức Hổ trong tuyết được ông vẽ
vào năm cuối cuộc đời của mình, 1849. Bầu không khí của bức tranh lụa chứa đựng
đầy tính màu nhiệm huyền bí, thể hiện tinh tế sức mạnh của tinh thần. Một chú hổ
già, thân hình uyển chuyển và bóng bẩy, đầu ngẩng cao giương vuốt bay về phía
trước trong khung cảnh tuyết rơi. Điểm độc đáo nhất của tác phẩm nằm ở hoa văn
trên bộ lông của hổ: bằng những đường nét lượn sóng, Hokusai tạo ra một hiệu ứng
dao động cộng hưởng. Phía trước hổ là những cành tre tuyết trắng phủ dày, loáng
thoáng những chiếc lá kết hợp lại mang hình dạng đồng dạng hoàn toàn với bộ móng
vuốt sắc nhọn của hổ. Thần thái của chú hổ già như thể đang mỉm cười, bày tỏ sự
hài lòng trước cuộc sống viên mãn; bởi vậy, có nhiều ý kiến cho rằng hình tượng
này tượng trưng cho việc Hokusai rời trần thế để bay sang thế giới bên kia
không còn vướng bận, nuối tiếc. Bức tranh hổ của Hokusai đã phá vỡ những mặc định
thường có về hổ – khỏe mạnh, dũng mãnh, bạo liệt, để mang lại một cảm thức thuần
túy Nhật Bản – mềm mại, thanh tao, tĩnh tại, đầy tính thiền.
Đối với phương Tây, hổ xuất hiện như một động vật ngoại lai,
và tất yếu nó thỏa mãn thói chuộng lạ (exotique) vốn là đam mê của các tác giả
châu Âu khi sáng tác về phương Đông. Người châu Âu lần đầu diện kiến hổ từ thời
La Mã cổ đại, khi hổ được trưng bày và huấn luyện trong gánh xiếc, hoặc được
đưa vào các đấu trường để chiến đấu với các đấu sĩ. Kể từ đầu thế kỉ XVII, hổ
được coi như là một sản vật lạ sau những công cuộc viễn chinh về phía Đông, được
trưng bày trong các vườn thú. Vua James I nước Anh thậm chí còn nuôi một con hổ
trong bộ sưu tập thú quý của mình tại tháp London. Hổ gieo cho người phương Tây
một cảm xúc lưỡng phân, vừa kinh sợ vừa sùng bái. Thi hào William Blake đã
không thể che giấu nổi sự ngưỡng mộ trước vẻ đẹp khôi vĩ của loài mãnh thú này
trong bài thơ Tyger được chấp bút năm 1794: Hổ kia, hổ kia cháy bừng như lửa/
Chúa sơn lâm bừng cháy giữa rừng đêm/ Liệu đôi mắt hay bàn tay nào bất tử/ Dựng
được nơi ngươi vẻ đối xứng kinh hoàng? Đối với Blake, hổ tượng trưng cho sự
hoàn hảo của thế giới tự nhiên hoang dã, đồng thời thể hiện một sức mạnh có khả
năng tận diệt.
Cũng với một tinh thần chuộng lạ, các họa sĩ phương Tây nhanh
chóng đưa hổ vào trong các bức họa của mình. Tác phẩm Vườn địa đàng và sự
sa ngã của con người là một bức tranh nổi tiếng được trưng bày tại Bảo
tàng Mauritshuis, The Hague, Hà Lan. Bức họa tái hiện cảnh trí vườn địa đàng do
Đức Chúa trời tạo ra trong Sáng thế kí 2 (mục 8-14), cùng cảnh Adam và Eva ăn
trái cấm trong Sáng thế kí 3 (mục 4). Đây là sự kết hợp của hai danh
họa Flemish kiệt xuất thế kỉ XVII, phần hình tượng của bức tranh được thực hiện
bởi Peter Paul Rubens (1577 – 1640), còn phần cỏ cây thực vật được Jan Brueghel
Già (1568 – 1625) đảm đương. Trong bức tranh này, hình tượng hổ đang chơi đùa với
báo đóng vai trò như một đối xứng chiều ngang với hình tượng Adam và Eva đang
chuẩn bị ăn trái cấm. Cùng khoảng năm 1615, Rubens còn sáng tác thêm bức Cuộc
săn hổ, hiện được trưng bày tại Bảo tàng Musée des Beaux-Arts de Rennes, thành
phố Rennes.
Không thể không kể đến những bức tranh hổ của Eugène
Delacroix (1798 – 1863), một họa sĩ tiên phong của trường phái lãng mạn Pháp
thế kỉ XIX, người nhận nhiều ảnh hưởng từ Rubens. Một trong những sở thích của
Delacroix là vẽ hổ và sư tử tại Vườn Bách thảo Paris (Jardin des Plantes). Nếu
như hổ của Rubens chỉ là một loài muông thú thuần bản năng bị con người săn bắt
trong tự nhiên, thì hổ của Delacroix là một sự nhân cách hóa, thể hiện mục đích
của người họa sĩ muốn khơi dậy những cảm xúc rất người ở loài động vật dữ dội
này. Loạt tác phẩm Hổ con chơi đùa với mẹ (1830), Hổ và rùa (1862), Hổ
và rắn (1863) của Delacroix đặc tả một khía cạnh khác: sự hồn nhiên của
loài hổ. Rồi cũng chính những tác phẩm về đề tài hổ của Delacroix lại truyền cảm
hứng cho họa sĩ nhà đoan Henri Rousseau, để ông vẽ nên bức tranh đầu tiên mang
lại tên tuổi cho mình, Hổ trong bão nhiệt đới (1891). Vị họa sĩ mang
phong cách hội họa ngây thơ (naive art) nguyên là một viên chức thuế quan, tự học
vẽ và đến năm 49 tuổi mới toàn tâm toàn ý theo đuổi nghệ thuật; cho dù sinh thời
bị giới phê bình chế giễu nhưng lại trở thành một ảnh hưởng lớn tới những nghệ
sĩ tiên phong (avant-garde), lập thể và siêu thực sau này.
Rousseau đã mở ra cả một chân trời hội họa nguyên thủy. Xoay quanh motif hổ,
ông còn vẽ thêm các tác phẩm Săn hổ (1895), Người do thám bị hổ
tấn công (1904), Trâu bị hổ tấn công trong rừng (1908) và Trận
thư hùng giữa trâu và hổ (1908). Điểm chung giữa Delacroix và Rousseau là
mặc dù chỉ tới vườn bách thảo để chiêm ngưỡng hổ, chưa từng rời khỏi Pháp để đặt
chân đến một khu rừng nhiệt đới nào, nhưng cả hai thông qua hội họa đã tạo ra một
thế giới sinh động, một sinh thái nguyên sinh mà ở đó hổ là nhân vật trung tâm
được cấp cho một sức sống riêng, một sinh mệnh riêng. Rồi từ cánh rừng nguyên
sơ, hổ đã bước chân vào địa hạt mơ màng của siêu thực với những ám ảnh phân tâm
học của Freud, qua bức Giấc mơ đến từ đường bay của một con ong xuyên qua
quả lựu, một giây trước khi thức giấc (1944) của Salvador Dalí.
Ta quay trở về Việt Nam. Cũng giống với các nước đồng văn trong
khu vực, hình tượng “ông ba mươi” ở nước ta đã tồn tại trong rất nhiều truyền
thuyết, truyện cổ tích, thậm chí gắn liền với tục thờ hổ và tín ngưỡng thờ Mẫu.
Với quan niệm được coi là loài vật có sức mạnh thiêng liêng trừ diệt ma quỷ,
hình tượng hổ đã được thần thánh hóa và tái hiện thông qua chất liệu tạo hình
đa dạng ở hầu khắp các công trình thờ tự như đền, đình, miếu. Trong mĩ thuật Việt
nổi bật nhất là hình tượng hổ trong tranh dân gian Hàng Trống với lịch sử trên
400 năm. Hổ trong tranh Hàng Trống có thể là độc hổ, tứ hổ, song đặc sắc nhất
là tranh Ngũ hổ. Tranh Ngũ hổ gồm năm hình tượng hổ với năm màu
sắc khác nhau có đối xứng dọc, dung chứa nhiều nguyên lí văn hóa phương Đông,
như Ngũ hành (Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ), Ngũ phương (Đông – Tây – Nam – Bắc
– Trung ương). Ẩn tàng trong sự vận động của màu sắc chính là sự vận động của
Âm dương – Ngũ hành. Sự sắp đặt vị trí của Ngũ hổ trong tranh Hàng Trống
có một dụng ý riêng biệt, với hổ vàng (hoàng hổ) tượng trưng cho mệnh Thổ tọa ở
vị trí trung tâm, còn xung quanh lần lượt là hổ đen (hắc hổ) tượng trưng cho
hành Thủy, hổ xanh (thanh hổ) tượng trưng cho hành Mộc, hổ trắng (bạch hổ) tượng
trưng cho hành Kim, hổ đỏ (xích hổ) tượng trưng cho hành Hỏa, tạo nên một đồ họa
Ngũ hành tương sinh theo chiều kim đồng hồ (Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc
sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim). Bên cạnh cốt lõi huyền bí phương Đông
cho phép người chiêm ngưỡng có nhiều khả thể diễn dịch khác nhau, tranh Ngũ
hổ còn hấp dẫn bởi thủ pháp nghệ thuật ước lệ, tượng trưng được nghệ nhân
thể hiện thông qua hình dạng lẫn màu sắc. Do đó, tranh Ngũ hổ Hàng Trống
vừa có giá trị tín ngưỡng với tư cách là tranh thờ, vừa sở hữu giá trị nội tại
về nghệ thuật lẫn kĩ thuật, đồng thời mang một giá trị sâu sắc chứa đựng hằng số
của văn hóa dân tộc, vốn là sự hội tụ của những luồng tư tưởng, văn hóa và tôn
giáo trên nền tảng cơ tầng bản địa.
Hổ đã có một lịch sử lâu đời trong nghệ thuật biểu đạt, và vẫn
tiếp tục là một đề tài lôi cuốn các họa sĩ. Dù là Đông hay Tây, dù được thể hiện
bằng thủ pháp ước lệ tượng trưng của phương Đông, hay tả thực bằng kĩ thuật phối
cảnh và chiaroscuro (sáng tối) của phương Tây, mỗi một hình tượng hổ
trình hiện trong hội họa đều có một sắc thái đặc trưng riêng, một đời sống
riêng, một hàm ý văn hóa riêng.
Theo Phạm Minh Quân/VNQĐ
23/2/2022
Nguyễn Công Thanh
Nguồn: Vanvn
Theo https://vanchuongphuongnam.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét