Nhà văn Anh Đức như tôi đã biết
Nhà văn Anh Đức bị đột quỵ cách đây hơn mười năm, bị hôn mê
sâu đến 20 ngày. Nhờ các bác sĩ tận tình cứu chữa, nên sau đó tỉnh lại. Và sống
đến hơn 10 năm là cũng nhờ các bệnh viện, nhất là nhờ chị Loan, người vợ hiền
đã có một mối tình tuyệt đẹp với anh…
Ngày xưa… Đó là những ngày ở Hà Nội sau năm 1954. Anh Đức lúc
đó trẻ, đẹp trai, từ miền Nam tập kết ra. Hồi đó, anh đã là loại quý hiếm vì 17
tuổi, anh đã được Giải thưởng Cửu Long – một giải văn học của Nam Bộ kháng chiến.
Ra Bắc, anh tiếp tục sáng tác và sau những truyện ngắn đầu tay về miền Bắc, anh
thành công ở truyện Một truyện chép ở bệnh viện – một đề tài miền
Nam gần gũi với anh hơn. Một truyện chép ở bệnh viện thành phim
Chị Tư Hậu với nữ diễn viên Trà Giang, đạo diễn Phạm Kỳ Nam được giải Bạc ở Liên
hoan phim Matxcơva 1963. Nhưng lúc phim đang quay thì Anh Đức đi B (1962). Đồng
chí Lê Đức Thọ gửi anh đi máy bay quân sự đến Quảng Bình rồi từ đó lội bộ vào
Nam Bộ. Anh bị sốt rét ác tính, phải điều trị ở Bệnh viện R của BS. Đoàn Thúy
Ba. Mấy năm sau, người yêu anh – một nữ sinh Trưng Vương xinh đẹp cũng được đồng
chí Lê Đức Thọ giải quyết cho vào Nam theo anh. Họ cưới nhau và sinh con trai đầu
lòng ở R, ở chiến khu. Ông Mười Cúc (đồng chí Nguyễn Văn Linh) quý mến đôi vợ
chồng vào Nam chiến đấu, thỉnh thoảng ghé cho cháu bé hộp sữa…
Sau này, khi đồng chí Nguyễn Văn Linh đã là Tổng Bí thư, Anh
Đức có những công việc văn hóa – văn nghệ cần gặp, ông Mười tiếp liền, có khi
còn gọi các đồng chí lãnh đạo khác đến cùng nghe, cùng giải quyết. Sự tín nhiệm
của Anh Đức đối với lãnh đạo là tuyệt đối. Khi có người “gièm” anh, ông Tư Ánh
(Trần Bạch Đằng) bảo: Tao sống với Anh Đức đã mấy chục năm, tao còn lạ gì nó,
thôi đi!… Một nhà văn xuất thân “dân ruộng” ở Bình Hòa, An Giang đi làm báo,
làm văn lúc còn thiếu niên ở Nam Bộ, tập kết ra Bắc rồi về lại miền Nam viết
văn chiến đấu, chia sẻ với đồng bào, đồng chí mình, nhà văn ấy là vàng ròng của
Cách mạng.
Tiểu thuyết Hòn Đất của anh là tiểu thuyết quy mô đầu
tiên về cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ của nhân dân miền Nam. Ở Kiên Giang,
vùng Hòn Đất có mấy hòn như thế, căn cứ địa của huyện. Tụi địch huy động hàng vạn
quân đến quét. Du kích, nhân dân bám trụ kiên cường, đánh địch, diệt ác ôn, quyết
không cho chúng chiếm… Trong cuộc chiến đó đã xuất hiện những nhân vật được tác
giả dựng lên với tất cả tình cảm, sự hiểu biết của mình: chị Sứ, bà Cà Xợi, anh
Nghiệp nông dân cày ruộng và cả những tên ác ôn như thằng Xăm… Chị Sứ (tên thật
là Ràng) giờ nằm ở một nấm mồ bất tử do nhân dân xây nên và tên Hòn Đất (vốn chỉ
một hòn núi đất đá) đã được đặt tên cho một huyện. Nhà văn đã làm bất tử những
chiến công vĩ đại của thời đại.
Hòn Đất vang dội vì nó đem đến cho nhân dân Nam – Bắc niềm
tin vào nhân dân, niềm tin vào sức mạnh Việt Nam, để mười năm sau ta toàn thắng.
Sau Hòn Đất là những truyện ngắn, bút ký viết đều đều trong một chiếc
chòi nhỏ chiến khu, bên cạnh những trọng trách lãnh đạo văn nghệ chiến trường.
Sức thu hút của tác phẩm Anh Đức, con người Anh Đức thật là lớn… Hàng loạt các
nhà văn đặt tên hiệu mình có chữ Anh như Lê Anh Xuân, Anh Động…, noi gương nhà
văn “anh cả” ở trong rừng chiến đấu và sáng tác. Hồi đó, cụ Nguyễn Tuân ở Hà Nội
đội chiếc mũ sắt phòng không, bám trụ 51 Trần Hưng Đạo – nơi đóng trụ sở Hội
Văn nghệ để viết Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi. Tấm lòng của nhà văn già, nhà văn mà
Tkachev – dịch giả lỗi lạc người Nga nói là “viết xong thì thành cổ điển”, đối
với Hà Nội, đối với kháng chiến giải phóng miền Nam, thật tuyệt vời. Và cụ
đã chọn làm sóng phát thanh Tiếng nói Việt Nam để thư từ văn chương cùng Anh Đức,
một nhà văn có thể nói là đại diện cho văn học miền Nam đang chiến đấu. Hai nhà
văn ở hai đầu đất nước, qua những bức thư Cà Mau ấy đã làm công chúng thấy dậy
lên trong lòng mình biết bao tình cảm Nam – Bắc cao đẹp, thấy tin yêu, thấy
tràn sức để ra chiến tuyến…
Sau bao nhiêu năm viết, ngòi bút và tấm lòng nhà văn vẫn luôn
đau đáu hướng về những vấn đề lớn của đất nước. Trình độ viết văn được nâng lên
qua học tập, nghĩ suy. Anh tiếp cận với văn chương thế giới, tiếp cận với những
danh gia vừa là đàn anh vừa là bạn thân như Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Huy
Cận… để học ở họ cái bề dày văn hóa dân tộc và nhân loại, để mà “hạ bút” viết
hàm súc, sâu lắng, tài hoa, ký thác ở trang văn những tâm sự về người, về đời…
Anh Đức là một ngòi bút lớn của thời chúng ta. Anh được Giải
thưởng Hồ Chí Minh và nhiều giải thưởng khác, ai cũng thấy xứng đáng, không một
lời nói ra, nói vào…
Thoạt mới gặp, người ta thấy Anh Đức hơi “khô”, thấy anh
nghiêm cẩn như một ông linh mục. Nhưng gần lâu thì đó là một người thắm thiết
tình cảm và rất đáng tin cậy, suốt đời làm việc, cống hiến hết mình, không đòi
hỏi gì cho mình, trong veo, kiên định. Anh trong hoàn cảnh khó khăn nào cũng
luôn tin ở nhân dân, ở Đảng, ở sự nghiệp mà mình dốc lòng từ thuở thiếu niên.
Trước những vấn đề thời cuộc, vấn đề văn nghệ, anh luôn đem tấm lòng son đỏ đó
mà nhìn nhận rất chính xác, sáng suốt!
Một nhà văn – chiến sĩ, một nhà văn tiêu biểu của thời đại chống
Mỹ đã ra đi. Thật tiếc thương và không gì có thể bù đắp.
Về phần riêng mình, tôi với anh vừa là anh em vừa là bạn thân
vong niên luôn sát cánh bên nhau, luôn bàn bạc cùng nhau mà không bao giờ trái
ý. Anh, cùng với Chế Lan Viên, Bảo Định Giang, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu
và nhiều người khác đã lập nên Trung tâm Nghiên cứu Quốc học và tạp chí Hồn Việt
để làm chỗ dựa cho anh em chiến đấu, góp phần vào sự nghiệp chung. Kỷ niệm của
tôi về anh có rất nhiều, nhưng cốt lõi của nó là tình thương yêu sâu nặng của gần
40 năm giữa chúng tôi… Vĩnh biệt anh, lòng tôi thấy trống vắng bao nhiêu… Viết
về anh những dòng hời hợt này, mong rằng sẽ có dịp viết về anh sâu hơn, kỹ hơn
nữa.
Nhà văn Anh Đức tên thật là Bùi Đức Ái, sinh ngày 5.5.1935 tại
xã Bình Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Khi mới bắt đầu sự nghiệp văn học,
ông viết với bút danh Bùi Đức Ái (tên thật của ông). Nhưng sau một thời gian hoạt
động, ông bắt đầu lấy bút danh mới là Anh Đức.
Ông từng đoạt giải Nhất truyện ngắn báo Văn Nghệ (1958), Giải
thưởng Nguyễn Đình Chiểu (1965) và được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học nghệ thuật (2000) do những đóng góp với văn học Việt Nam trong
giai đoạn chiến tranh. Nhắc đến nhà văn Anh Đức, nhiều thế hệ người đọc sẽ nhớ
đến tác phẩm như Hòn Đất (viết năm 1966) cùng với Giấc
mơ ông lão vườn chim, Bức thư Cà Mau đã được đưa vào sách giáo khoa để
giảng dạy. Ngoài ra, khi nhắc đến ông, nhiều khán giả sẽ nhớ ngay đến bộ
phim Chị Tư Hậu được chuyển thể từ truyện Một chuyện chép ở
bệnh viện được nhà văn Anh Đức viết vào năm 1958. Không chỉ sáng tác, nhà
văn Anh Đức còn gắn liền cuộc đời mình trong công tác quản lý với các chức vụ:
Tổng Biên tập báo Văn nghệ Giải phóng, Tổng Biên tập tạp chí Văn và là Ủy viên
Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn TP.HCM nhiều khóa liền.
22/5/2022
Mai Quốc Liên
Theo https://vanhocsaigon.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét