Nếu cuộc đời không có Tết ta
Tết Việt là một phần văn hóa đặc sắc của con người Việt,
chỉ cần dẫn chứng mỗi cặp bánh chưng, bánh dày đã thấy được thế giới quan, nhân
sinh quan của dân tộc ta thuở ngày xửa, ngày xưa như thế nào rồi. Vẫn phải lưu
tâm truyền thống bởi mất truyền thống là mất dân tộc như mỗi con người ta khi
không còn nhớ tới mẹ cha thì làm sao còn quê hương cơ chứ. Vẫn phải Tết ta
thôi, dù rằng bây giờ Tết không cần đầy đủ nếp xưa Thịt mỡ, dưa hành, câu
đối đỏ/ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh…
Tết ta, mỗi cuộc đời dân Việt ít nhiều đều mang trong nó những ký ức ấm áp về những ngày đón xuân đó. Kể cả những người Việt đang không còn sống trên lãnh thổ này chắc cũng nhiều xôn xao lắm khi Tết ta đến. Tết Việt chọn đoàn tụ làm điểm nhấn, đi đâu về đâu cũng mong có dịp trở lại quê nhà đón xuân. Cái cảm giác lâng lâng đầu Giêng vẫn là thương nhớ của bao người…
Tôi đã đi qua sáu mươi tám cái Tết ta, nếu lấy chiếc dây thời
gian xâu chuỗi lại chắc chắn sẽ được một vòng ký ức chấp chới. Mang vào cổ, người
không còn ít tuổi như tôi lắng nghe được biết bao âm thanh quá khứ, trước hết
là tiếng của ba mẹ mình trong ngôi nhà lá ba gian hai chái có những cột lim đen
bóng nằm ở cuối dòng sông Gianh bộn gió. Gió bấc. Những cơn gió thổi từ hướng
đông bắc tới, mang theo cái rét căm căm mà thời không đủ chăn, đủ áo là nỗi sợ
của con nhà nghèo. Tháng Chạp ta, mặc nhiên mùa đông chưa qua, nước ruộng còn
đóng váng đen, cây cỏ hiu hắt nhấp nhô những khoảng buồn mơ hồ vắng vẻ. Tôi
mang nỗi buồn sớm, nhưng chẳng mảy may nghĩ đó là dấu hiệu của kẻ được sống bằng
nhịp điệu của những con chữ sau này, dẫu bốn mươi ba năm cuộc đời mình từng
khoác áo lính. Thì đã sao, cho đến bây giờ khi tuổi mon men chạm ngưỡng “cổ lai
hy” hình như tôi vẫn đủ độ rung cảm để nhận ra trong gió lạnh cái đã xa lắc, xa
lơ gắn với những phiên đất trời luân hồi đi qua và trở lại. Mẹ nói, giọng nhẹ
và buồn, gần hết năm rồi, lại thêm một cái Tết… Ba bảo, giọng ấm và vui, lo chi
em nờ, răng rồi cũng có thịt treo trong nhà. Dân Việt, đàn ông thường lạc quan,
đàn bà hay lo nghĩ. Quẩn quanh chợ búa, bếp núc và hay xót con khi chúng chưa
được no ăn, lành mặc là mẹ. Ngày thường chả sao chứ năm hết Tết đến mà con cái
chưa đủ quần áo mới thì lòng mẹ sao yên. Niềm vui của con chan chao qua mẹ. Ánh
mắt mẹ tươi hơn, nụ cười mẹ sáng hơn khi ngắm nhìn con trai, con gái mình hơn hớn
mặc quần áo mới ngày Nguyên đán. Tối ba mươi, áo mới của các con vẫn còn gấp kỹ
trong rương chỉ đến sáng mồng một Tết cả lũ mới được mẹ lay dậy để mang áo mới
và nhận tiền mừng tuổi. Chả mấy mẹ cha cho con trẻ mặc áo mới đêm ba mươi Tết cả
đâu vì sợ nó ngủ mê đái dầm. Tật mê ngủ đái dầm của trẻ con trời cũng bó tay.
Nghĩ lại mà thương mẹ vô hạn.
Xa xưa Tết cũ còn chấp chới trong tôi những tờ 1 hào mừng tuổi.
Nó xứng đáng được gọi là báu vật thời ấu thơ. Mệnh giá lì xì thời ấy thường giống
nhau như thế. Tờ 1 hào có màu đỏ tươi, bằng giấy, dễ ỉu, dễ rách và không được
trơn láng, bền dai như tiền polime bây giờ. Giá trị tiền mừng tuổi cho trẻ nhỏ
không cao thấp, đôi khi ở mức một trời, một vực như cái để trong phong bao lì
xì nhiều màu sắc, hình dạng của thời nay. Ý nghĩa đồng tiền lì xì của thời tôi
thơ bé thật trong veo. Khi trao đồng hào lì xì cho con cháu người lớn gửi gắm
trong đó lời cầu chúc đứa trẻ mạnh khỏe, mau lớn, chăm ngoan. Tết phảng phất
hơi ấm đồng dao tôi được mẹ đọc cho nghe thời con nít và cũng chẳng cần nhiều
thời gian lắm bọn trẻ con thuộc làu làu để hòa nối lời nhau khi rồng rắn đi
trên đường làng Xúc xắc xúc xẻ/ Năm mới năm mẻ/ Nhà nào còn thức/ Mở cửa cho
chúng tôi/ Bước lên thềm cao, thấy đôi rồng ấp/ Bước xuống thềm thấp, thấy đôi
rồng chầu/ Bước ra đằng sau thấy nhà ngói lợp/ Voi ông còn buộc, ngựa ông còn cầm/
Ông sống một trăm linh năm tuổi lẻ/ Vợ ông sinh đẻ đứa con tốt lành. Đồng dao
Việt hồn nhiên, hiền hòa nhưng chứa đựng trong đó nhân sinh quan rất lành mạnh.
Nó tựa như những mầm hạt lành gieo vào tâm hồn trẻ thơ khát vọng bình yên và hạnh
phúc giản dị.
Tết Việt mang trong nó sự biết ơn ấm áp. Cuộc sống thời nay
đã và đang có những đổi thay lớn, từ cách sắm Tết, chơi Tết bây giờ đã khác xưa
lắm nhưng với tôi khó mà quên được những món ăn ký ức. Món thịt kho tàu của mẹ.
Món cá chuối (trái chuối sứ luộc kỹ, ép hết nước, lấy dao khía hình xương cá
trên vỏ rồi dầm với nước mắm ngon có đủ gia vị tỏi, ớt và đường) của cha. Mứt gừng.
Bánh in. Bánh ít. Bánh bột lọc được ăn bốn mùa, không được xếp vào bánh Tết.
Bánh chưng, bánh tét thì chả nói cũng thuộc thức cúng, thức ăn đầu bảng của Tết
ta rồi. Đêm ba mươi, cái nhớ quẩn quanh nồi bánh chưng, bánh tét sôi lục bục.
Trời tạnh ráo, bếp bắc ở góc sân, lũ trẻ vây quanh bập bùng ngọn lửa. Hong hóng
đợi bánh chín để được nhận cái bánh chưng út ít ba gói riêng cho chúng tôi.
Nhưng rất ít đứa trẻ thức được đến giao thừa. Nồi bánh chưng chưa phải thêm nước
lũ trẻ đã leo lên giường mắt nhíp lại không tài nào mở ra được. Bọn tôi chỉ
nghe được tiếng pháo giao thừa tì tạch nổ trong giấc mơ và những chiếc bánh nếp
út ít bốc khói nghi ngút trong nỗi chờ các chủ nhân của nó vào thời khắc đất trời
sang canh ngan ngát trầm hương.
Và, không thể không nao nao khi nhớ lại những cái Tết thời
chiến tranh khi chúng tôi chưa kịp thanh xuân. Mười năm đạn nổ bom rơi chứ ít ỏi
gì đâu. Tôi nhớ ngôi nhà bé nhỏ nép dưới chân núi nơi sơ tán bên cạnh chiếc hầm
chữ A đắp đất cao cỏ mọc xanh mướt. Cỏ trên những mái hầm thường xanh tươi hơn
nơi khác. Hơi người có phải là thứ dinh dưỡng tốt cho loài cỏ không nhỉ. Mấy
ngày Tết ngừng bắn nên bọn tôi đêm không phải ngủ hầm, ngày tung tẩy trên đường.
Đùa nghịch thỏa thích không phải lo máy bay, tàu chiến Mỹ dội bom, bắn pháo. Áo
Tết vẫn cứ lừng thơm mùi vải nhưng màu không còn sáng nữa, chỉ xanh đậm (gọi là
màu xanh công nhân) và cỏ úa (giống áo quần bộ đội) thôi. Sau Tết Mậu Thân
1968, tôi và các đứa em thơ dại của mình không còn được đón Xuân bên mẹ nữa.
Mùa hè năm đó mẹ tôi đã ra đi vì bom bi Mỹ. Cái Tết đầu tiên vắng mẹ, thật buồn.
Buồn lắm khi trong chái bếp ám màu bồ hóng không có dáng ngồi của mẹ được ánh lửa
viền quanh. Buồn lắm với cái Tết đầu tiên bữa cơm chiều ba mươi thiếu món thịt
kho tàu. Ba uống rượu nhiều hơn. Cắn ớt cũng nhiều hơn. Những trái ớt chỉ thiên
bé nhỏ chỉ nhỉnh hơn hạt thóc chút ít ba hái từ cây mẹ trồng trước sân. “Ba bây
ăn ớt nhiều, mẹ trồng trước sân mấy cây để ba hái cho gần”. Văng vẳng bên tai
tôi lời của mẹ. Chiến tranh đã ngoạm vào khẩu phần Tết của chúng tôi, những đứa
trẻ ngây thơ. Tôi cầu mong đất nước này đừng bao giờ có cuộc chiến tranh nào nữa.
Quá đủ rồi sự thương đau của dân tộc tôi qua những cuộc binh đao khốc liệt.
Càng lớn khôn, tôi càng thấm thía nỗi đau trong câu thơ này của Hữu Thỉnh: Một
đời người mà chiến chinh nhiều quá/ Em níu giường níu chiếu đợi anh. Thật lòng,
tôi chỉ muốn kể lại hương vị Tết của những năm tháng yên bình khi những trái
bom đầu tiên chưa rơi xuống dòng sông Gianh nhưng chẳng hiểu vì sao cảm xúc đã
kéo tôi vào ký ức buồn như thế. Tết nào, tôi cũng dành mấy phút trò chuyện với
mẹ. Mẹ. Gương mặt trái xoan. Đoan trang và nhân từ. Mẹ. Gánh gồng, đôi chút
nghiêng nghiêng giữa gió lào cát trắng. Mẹ ơi, Cát đi mãi chẳng thành đường/
con đi theo lối mẹ thường hát ru…
Tết Việt mang trong nó sự biết ơn lặng lẽ. Nếu dùng sự phô
trương để tri ân trời đất, tổ tiên, những người khuất vắng hữu danh và vô danh
là không đúng. Tôi yêu sự sâu lắng trong những chuyển động của con người và
thiên nhiên song hành cùng dòng chảy của mùa xuân. Mùa khởi niên phải là nhân
duyên đẹp nhất giữa con người và thiên nhiên. Con người thấu cảm mùa xuân như
là sự khởi đầu chứa chan hy vọng tốt lành. Khi nhân duyên đầy đủ thì sự vật xuất
hiện, khi nhân duyên thiếu vắng thì sự vật ẩn tàng. (Lời Thầy Thích Nhất Hạnh).
Hạnh phúc con người chắc cũng vậy, cũng phải biết gieo nhân lành để hái quả đẹp.
Tết Việt hướng về sự yêu thương nên chắc chắn nó sẽ không bao giờ mất đi trong
văn hóa con Rồng cháu Tiên. Cái văn hóa lấy yêu thương làm cốt lõi, đi qua mấy
nghìn năm dựng nước và giữ nước nhất định sẽ tồn tại mãi với dân tộc chúng ta.
Càng hòa nhập với nhân loại càng phải biết giữ gìn bản sắc ấy mà Tết Việt là một
phần minh chứng. Có lúc người ta muốn bỏ Tết ta đi hay nhập Tết âm vào Tết
dương cho gọn ghẽ, tiết kiệm. Tôi nghĩ rằng, không nên thế. Tết Việt là một phần
văn hóa đặc sắc của con người Việt, chỉ cần dẫn chứng mỗi cặp bánh chưng, bánh
dày đã thấy được thế giới quan, nhân sinh quan của dân tộc ta thuở ngày xửa,
ngày xưa như thế nào rồi. Vẫn phải lưu tâm truyền thống bởi mất truyền thống là
mất dân tộc như mỗi con người ta khi không còn nhớ tới mẹ cha thì làm sao còn
quê hương cơ chứ. Vẫn phải Tết ta thôi, dù rằng bây giờ Tết không cần đầy đủ nếp
xưa Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ/ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh…Tết ta,
mỗi cuộc đời dân Việt ít nhiều đều mang trong nó những ký ức ấm áp về những
ngày đón xuân đó. Kể cả những người Việt đang không còn sống trên lãnh thổ này
chắc cũng nhiều xôn xao lắm khi Tết ta đến. Tết Việt chọn đoàn tụ làm điểm nhấn,
đi đâu về đâu cũng mong có dịp trở lại quê nhà đón xuân. Cái cảm giác lâng lâng
đầu Giêng vẫn là thương nhớ của bao người…
1/4/2024
Nguyễn Hữu Quý
Nguồn: Tạp chí Nhật Lệ
Theo https://vanvn.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét