Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2025

Tiếng chuông đền Diềm

Tiếng chuông đền Diềm

Trời nhá nhem, chị Cần lao vào đền Diềm, rập đầu trước ban thờ Đức Ông, nức nở khóc, máu ở miệng rịn ra, lẫn trong nước mắt. Cô Trinh ngồi nhập tịnh ở hậu cung, thấy ngực nhói như có gai châm, ngoái nhìn qua khe cửa hẹp, nhận ra chị Cần, ngực lại nhói một cơn nữa. Cô bám tay, rờ chân bước qua bậu cửa, tiến gần về phía chị Cần, nghe rõ dần âm thanh thoát ra từ tấm lưng rung bần bật phủ phục trên sàn nhà.
Tấm lưng loang dần thành vệt sáng mờ đục, Trinh nhìn thấy chị Cần rời khỏi ruộng lúa bước lên bờ, bùn bám quanh bắp chân, chảy xuống thấm vào đất. Đám ướt loang rộng như thửa ruộng của chị. Chị đứng ở đầu bờ, nước mắt trộn lẫn bùn. Chồng chị xuất hiện, gầm gừ, “Còn úp mặt vào đấy đến bao giờ”. Chị ngửa mặt lên cho nước mắt chảy ngược lại, bảo “Khi nào tôi không sống nữa”. “Đừng có thách”, chồng chị rít lên. Chị bỏ chạy, chồng chị vừa đuổi theo vừa lảm nhảm “Dở hơi vừa thôi, chỗ ấy rồi sẽ thu cả đống tiền, gấp ngàn vạn lần trồng với cấy, ngồi một chỗ mà hưởng sung sướng không muốn cứ thích úp mặt vào bùn, rồi như con mẹ mướp thế kia, tanh đéo chịu được”. “Mặc tôi”, chị Cần vừa mở khoá cổng vừa đáp lại. Chồng chị gầm lên “Tao nói lần nữa, hết vụ này tao làm gì mặc mẹ tao, cấm cãi”. “Đừng ép tôi”. “Con mẹ mày, dám thái độ với tao hả”, kèm theo đó là cái tát như trời giáng khiến chị Cần xây xẩm mặt mày. Chị thét lên “Đồ…” còn hai chữ “khốn nạn” không thoát ra khỏi cổ nhưng nó đã bật lên não như phát súng lục bửa tung đầu chị, chị lao ra đường, bùn đất từ quần áo tay chân văng rắc lấm tấm trên con đường bê tông viền hoa tím thẫm. “Dám đi đừng có vác mặt về”, tiếng gầm thét của chồng bám theo chị, cánh tay vung lên xé gió giáng vào chị. Chị cắm đầu chạy về đền Diềm.
Trinh không nghe thấy chị Cần khấn xin gì, chỉ thấy tiếng nấc. Mặt chị vẫn úp lên hai bàn tay rập người dưới đất như bào thai cuộn trong bụng mẹ. Mùi bùn đất, mùi mồ hôi, nước mắt, mùi hơi thở nghẹn trộn lẫn mùi khói hương cuối ngày khiến ngực cô Trinh căng cứng lại. Cô ngồi xuống, vỗ lưng cho chị dễ thở. Chị Cần bớt khóc ngẩng đầu ngồi dậy, Trinh đưa khăn mùi xoa cho chị lau mặt, vừa ra hiệu vừa khóc nhọc phát những âm thanh méo mó “Đường cùng thì về đây”.
Chị Cần vịn tay cô Trinh đứng lên, lầm lũi đi ra cửa. Bước qua khoảng sân rộng đến hồ Vọng. Hồ Vọng hình bán nguyệt trồng toàn sen trắng. Hoa nở trước khi hè đợi cuối thu dâng xong ngày giỗ kỵ Đức Ông mới thôi hoa. Chị Cần vục nước rửa mặt rồi quay lên.
Cô Trinh dọn cho chị một chỗ ngủ cạnh cô ở phía cuối gian giải vũ bên tả đền Diềm. Lúc nào cô cũng có vài cái giường gấp để đỡ đần người làng Diềm hoặc khách thập phương chẳng may sa cơ lỡ bước.
Đêm lặng im. Hai người đàn bà không ngủ, không nói chuyện. Chị Cần biết cô Trinh nghe không rõ, phát âm khó nhọc, mắt cũng mờ, chỉ nhìn được bóng mà không thấy người nên nói chuyện thì thầm cô không nghe thấy mà nói to, đêm hôm lỡ vẳng đến tai ai rồi cả làng biết vợ chồng chị bất hoà thì chả ra làm sao. Chị nhìn trân trân lên nóc mái, nước mắt nối đuôi nhau thấm ướt gối. Cô Trinh trở mình sột soạt, thi thoảng lại thở dài. Cô quý chị Cần bao nhiêu thì thương chị ấy bấy nhiêu, không phải vì chị hay giúp cô việc này việc khác mà vì cô thích nghe những lời cầu khấn của chị.
Lần đầu tiên cô nghe được tiếng người là tiếng khấn của chị Cần. Đó là một buổi chiều muộn, lẽ ra cô đã đóng cửa đền nhưng thấy lòng dạ bồn chồn, thi thoảng có tiếng nấc vang trong tai nên cô mở cửa đợi. Từ ngày giữ từ đền Diềm, hôm nào cô nghe thấy tiếng nấc là hôm ấy có người đến đền ngồi khóc. Chị Cần không khóc nhưng tiếng kêu nghẹn cứng “Xin ông phù hộ cho con bền tâm vững dạ. Cái cô tằng tịu với chồng con đánh tiếng doạ nạt con, con chỉ muốn nhảy lên đánh vỡ mặt nó ra, cho nó bài học đáng đời, nhưng con mà làm vậy thì con không còn là người làng Diềm, người làng Diềm không cư xử vậy, ông ơi ông linh thiêng phù hộ cho con dập tắt cơn điên tức này và bày cho con cách trừng dạy nó mà không phải chửi bới đánh đập, ông ơi xin ông phù hộ cho con”. Cô Trinh nghe rành rọt từng tiếng, bàng hoàng ngoảnh mặt về phía âm thanh vừa vọng tới, trong ánh sáng mờ mờ của cây đèn dầu hoả cũ kỹ, cô nhìn rõ khuôn mặt chị Cần, rõ đến từng giọt nước mắt đang tràn trên mặt. Những giọt nước mắt loang dần, phủ kín nơi chị ngồi, bọc chị trong một kén nước đục mờ. Im thít. Trinh cố lắng nghe một lần nữa. Không còn âm thanh nào ngoài tiếng nấc cô vẫn thường nghe thấy cả khi không có bóng người. Cũng không còn hình ảnh nào ngoài bóng người phủ phục dưới nền đất. Cô đứng nép vào cột đền để chị khóc thoả thuê. Nếu có người để chia sẻ, chị đã chẳng đến đền Diềm, nếu có chỗ để giải toả, chị cũng không phải khóc nghẹn vậy. Không riêng gì chị, bất cứ ai đến nơi này đều cần được riêng tư, bất kể họ đến vì chuyện vui hay buồn. Vậy nên người giữ từ đền Diềm xưa nay không ai có đôi tai lành. Ông từ trước Trinh hai tai điếc đặc nhưng mắt sáng, nhìn được lá cây để bốc thuốc chữa bệnh giúp người làng Diềm. Trinh không may mắn như thế, mắt cô chỉ nhìn được bóng mà không thấy mặt người, nhìn được bát nhang mà không thấy chân nhang. Tai nghe được tiếng nhưng không rõ thanh. Miệng phát ra âm nhưng không rõ lời.
Chị Cần trở mình, Trinh nghe tiếng nuốt nước mắt, tiếng nén cơn thở dài vừa mệt vừa sợ. Cô định nói gì đó với chị nhưng âm thanh cô phát ra chỉ như tiếng kêu của bầy nghê canh cửa, đêm vắng thế này, những âm thanh ấy chỉ khiến chị Cần sợ hãi mà thôi, nhỡ lọt qua bức vách, đến tai người làng Diềm, họ lại nghĩ trong đền có ma thì Trinh lại đắc tội. Đức Ông ngự ở đây để che chở cho người làng Diềm mà Trinh để người ta sợ không dám đến thì Trinh không còn mặt mũi nào giữ từ đền Diềm.
Đền Diềm không lớn nhưng xây dựng tinh tế công phu, mấy trăm năm mưa nắng dãi dầu mà đường nét hoa văn gỗ lạt vôi hồ không hề rụng sứt. Đền thờ Đức Ông có tên tuổi đàng hoàng trong sử sách. Đức Ông xếp núi nắn sông cho làng phong quang rộng rãi, vừa hứng lắng phù sa sông Long trước mặt vừa tựa lưng vào núi Móc đón giữ gió lành nắng ngọt. Núi Móc còn vô số loài cây thuốc ông mang về trồng để chữa bệnh rồi truyền lại cho người làng Diềm tự trồng cấy thu hái mà bảo vệ mình. Sông Long mỗi năm dồn về vô số phù sa, nuôi cánh đồng làng Diềm bốn mùa xanh tốt. Đất đai làng Diềm không chỗ nào để cỏ cây mọc vô nghĩa. Những bụi hoa ven đường, những bụi cỏ bên bờ ruộng, những cây tầm gửi trên các bờ rào… cây cỏ nào cũng có thể dùng làm thuốc hoặc thức ăn thức uống. Người làng Diềm trân quý Đức Ông, giữ đền Diềm như ngọc quý, bảo nhau dựng nhà quần tụ xung quanh đền thờ Đức Ông cho gần gụi ấm cúng, bất kể việc nào to nhỏ lớn bé vui buồn sướng khổ đều về đền báo cáo Đức Ông xin Đức Ông phù trợ.
Đền Diềm mỗi năm hai lần mở hội, rước kiệu từ đền lên núi Móc, con cháu làng Diềm về, rủ khách thập phương về chật kín đường làng. Trong đám khách thập phương ấy, có anh Duệ. Cái chữ Duệ vừa xuất hiện trong ý nghĩ, xung quanh Trinh đã thoảng đến mùi nước hoa công nghiệp, nồng và khét, thứ mùi lạ không giống bất kỳ mùi người nào ở làng Diềm, chỉ nghĩ đến thôi, chân tay Trinh đã bủn rủn.
Anh Duệ là chủ khu nghỉ dưỡng trên đồi Sam bên kia sông Long. Đồi Sam có suối nước nóng sớm chiều khói sương lả lướt như chốn thiên đường. Như thiên đường không đủ, anh muốn nó phải thật là thiên đường, muốn ai đến đồi Sam phải ở lại lâu, phải làm việc gì đó tốn bớt sinh lực dư thừa, mà tốn bằng các trò thơi thân xác thì thường phàm quá, phải làm gì đó thiêng quý phiêu linh cơ. Vậy là anh thầu thêm múi Móc. Núi Móc có ba chỏm quây quanh một khoảng trống rộng. Thuở xưa Đức Ông ngồi ở đó, hái lá trên chỏm núi cao, dưới bờ sông rộng, vươn tay múc nước nóng đồi Sam về chưng sắc thuốc chữa bệnh. Anh Duệ bám vào đấy, thuê người viết thêm những câu chuyện ly kỳ thần bí khiến ai đã đến đồi Sam nhất định phải sang núi Móc.
Hôm khởi công xây bậc đá trên núi Móc, anh Duệ về đền dâng lễ, gọi Trinh ra ngoài theo lối cửa sau, ghé sát tai Trinh “Tôi mới chế được lọ kem dưỡng da nên tặng cô. Kem này làm bằng lá thuốc hái ở núi Móc, ở đồng làng Diềm và nước lấy từ đồi Sam, cô dùng thử đi, cô đã đẹp rồi, sẽ đẹp thêm nữa”, vừa nói anh Duệ vừa đặt lọ kem lên tay Trinh, chạm tay vào tay Trinh, truyền sang Trinh luồng điện nóng sực. Bàn tay Trinh rát như phải bỏng, khuôn mặt nóng bừng, toàn thân như trấu ngún. Anh đi rồi, mùi nước hoa công nghiệp còn vây bám quanh Trinh, quanh cán chổi cô cầm quét lá mỗi sáng, quanh thành giường nơi cô nằm ngủ mỗi đêm. Cô nhắm mắt cũng thấy Duệ, mở mắt cũng thấy Duệ, nghe tiếng lá rơi cũng ngỡ bước chân của Duệ.
Tiếng trở mình của chị Cần không đủ át tiếng Duệ thì thào bên tai Trinh “cô đẹp rồi, sẽ đẹp thêm nữa”. Mùi bùn đất, mùi mồ hôi mằn mặn thân thuộc của chị Cần biến mất, xung quanh Trinh ngào ngạt mùi nước hoa của Duệ. Trinh càng cố cưỡng lại, nó càng táp vào mũi Trinh. Trinh thấy ngạt thở. Cô trở dậy sang đền. Từ hồi gặp Duệ, mỗi lần bị bủa vây trong mùi nước hoa nồng nặc của anh, Trinh lại vào đền, nhờ khói hương xoá tẩy.
Trời sáng. Trinh sang nhà giải vũ, không thấy chị Cần nên đi tìm. Mặt trời trải xuống sân đền vài vệt nắng hình lá cau trong suốt, cô nhìn thấy dấu chân chị, dấu chân đi về phía ruộng lúa dự, lún sâu trong bùn đất. Chị đứng trong đất, lưng chạm nắng, má chạm những đọt lúa đang trổ đòng, trong chốc lát, cơ thể chị ướp đầy mùi đòng đòng thơm mướt. Đó là đám ruộng hương hoả của gia tiên để lại cho vợ chồng chị cấy lúa dự, giống lúa hạt tròn mẩy, thơm ngậy, chỉ có ở làng Diềm. Trước đây mọi thửa ruộng chỉ trồng lúa dự, nhưng đất hẹp người đông lúa không đủ ăn nên người ta chuyển dần sang giống lúa năng suất hơn, chị sợ lúa giao phấn, mất giống, đến mùa lúa lên đòng chị tỉ mẩn đi thụ phấn cho từng đọt, hết ngày sang đêm, cả làng bảo chị thần kinh, nhưng đến hội cũng động viên chị được một câu rằng may nhờ có chị mà làng còn gạo quý cúng Đức Ông, cúng rồi làng hưởng lộc, rồi con cháu còn biết mùi lúa gạo quê nhà. Lâu nay, mấy mảnh ruộng quanh nhà chị chuyển sang trồng hoa cho khách chụp ảnh, thu vé một ngày bằng cả vụ lúa, chị không sợ lúa bị lạc mất giống thì lại phải lo giữ miếng ruộng cho lúa bám chân. Giữ với thiên hạ thì dễ, đằng này lại giữ với chồng. Chồng chị đẹp trai, lại lắm tài vặt, đục đá cũng giỏi, chế máy móc cũng hay. Từ hồi anh chế được máy hái, sao, sấy thuốc, bán cho người làng, bán sang cả làng bên rồi cải tiến để sấy được cả lúa rau củ quả, bán khắp huyện khắp tỉnh, anh nhường hẳn việc đồng áng cho chị, bảo chị cứ cấy hái cho vui, mọi thứ anh lo tất. Anh đi ra ngoài giao du nhiều hơn, đi đâu cũng có người thương. Thương quá nên anh sa ngã. Chị Cần khiến anh bỏ được cô nọ thì cô kia tiến tới, đành bảo “anh đi đâu làm gì quan hệ với ai thì kệ anh, nhưng đừng bán đứng tôi, đừng để đứa nào nó nhục mạ tôi, làm hại hai đứa con tôi”. Mọi chuyện nói với chồng, chị không bao giờ nói đến lần hai. Chị luôn nhắc mình là người làng Diềm, làm gì cũng nghĩ trước nghĩ sau, giữ nếp nhà cho ấm êm thì mọi sự mới vững bền.
Cô Trinh thở dài, sân đã quét xong, nắng đã xiên xuống hồ sen nhặt dần từng hạt sương trong suốt trên lá mang về trời. Cô mở cửa đền, châm hương nến.
Anh Duệ đến, dắt theo nhiều người, cười nói xôn xao. Mùi nước hoa từ xa đã khiến Trinh líu ríu bước chân. Họ vào đền dâng lễ, đi một vòng hết các cung thờ. Duệ ngồi lại với Trinh trong nhà biện lễ, cầm tay cô hỏi “Em dùng hết lọ kem dưỡng đó chưa, dạo này da dẻ trắng sáng tươi nhuần rồi đấy. Em làm việc trong cung nhiều, suốt ngày ngửi mùi nhang, không tốt cho sức khoẻ. Tôi mới chế xong loại thuốc dùng đường uống, cũng là cây lá làng mình thôi. Bôi kem ngoài da, uống thuốc vào bụng thì hiệu quả càng bền vững lâu dài”. Trinh chưa kịp hoàn hồn thì Duệ vòng tay qua cổ, đeo cho Trinh cái vòng ngọc trai, ghét sát Trinh nói “Em có biết em rất đẹp không, tôi sẽ nghiên cứu cho ra bài thuốc chữa được mắt cho em, em cần phải được chiêm ngưỡng nhan sắc của chính mình”. Trinh thấy mình nằm gọn trong vòng tay Duệ, toàn thân mềm nhũn đợi đón cái ôm siết thật chặt, nhưng Duệ đeo vòng xong buông tay ra, một ngón tay quệt lên má Trinh rát như sắt nung. Duệ đi. Mùi nước hoa vây kín lấy Trinh, thấm vào da thịt Trinh. Cô lập cập bước vào hậu cung, vấp bậu cửa, ngã chúi người xuống. Trong tai bật lên tiếng ông từ thều thào trong cơn hấp hối “Già đã cố hết sức nhưng không chữa lành cho con được, số phận đã an bài rồi, con ở đây mà nhờ cậy Đức Ông, chịu khó đèn nhang cho Ông, nhưng phải nhớ giữ thân tâm sạch sẽ, một lòng một dạ nhang khói cho ngài. Nhớ chưa. Từ đền Diềm xưa nay không có đàn bà. Đàn bà không được vào cung cấm. Nhớ chưa. Giữ thân tâm trong sạch. Nhá”. Trinh thắp thêm một cây nhang nữa dù nhang cũ chưa hết, quỳ sát dưới bát nhang, hít rút mọi sợi khói bốc lên, bao nhiêu người đến dâng lễ, đốt thêm bao nhiêu nhang cô cũng không hay biết, mùi nước hoa, mùi hơi thở của Duệ vẫn bọc kín quanh Trinh.
Cô ngộp thở. Đóng cửa đền lên núi Móc.
Trinh không băng qua ruộng lúa nhà chị Cần, không đi phía sông Long, không đi lối anh Duệ đang phá đá xây bậc mở đường lên núi mà đi con đường khác, con đường ngày xưa ông từ dẫn Trinh đi hái độc dược. Ông bảo một vài loại bệnh phải chữa bằng độc dược, một vài người phải tự mình lên núi mới chữa khỏi. Ông cho Trinh lên núi hái độc dược về chữa trị, nhưng không được, Trinh không thể nối nghiệp ông mà bốc thuốc chữa bệnh cho người làng Diềm. Từ đền Diềm nhất định phải làm được gì đó có ích cho người làng mới được ở lại. Trinh tàn tật vậy sao ông dám trao chìa khóa đền Diềm. Nhưng ông không biết Trinh đứng gần người làng Diềm là biết họ muốn cầu xin gì, chuyện gì đã đến, sắp đến với họ, dù không nói được thành tiếng, không nghe được bằng lời nhưng cô biết ách ủi an đỡ đần họ.
Trinh leo lên cao dần. Mồ hôi rịn ra hai bên tóc, đầm đìa lưng áo. Gió từ sông Long khi mặn khi ngọt luồn vào tóc, thấm vào da thịt Trinh. Cô dừng lại khi trèo tới bãi đá trống, hít hà mùi nước sông Long, mùi lúa đang thì con gái, mùi hoa lá cỏ cây lẫn trong đá. Cô chắp tay trước chỏm núi rất lâu mà không biết mình đang nghĩ gì, cầu xin ai phù trợ điều gì. Trinh đến đây rồi, ai đang ngự ở đây mà nghe thấu thì phù hộ cho Trinh. Nhưng phù hộ cái gì. Phù hộ để mình không gặp lại anh Duệ, để anh đừng đến đền Diềm. Không được, anh Duệ về làng làm đường xây trường lắp điện mở mang làng Diềm, thành ân nhân của làng Diềm rồi, sao có thể ngăn anh về đền. Phù hộ để mình không còn khả năng nhận biết mùi vị. Mình đã mờ mắt, đã ù tai, còn cái mũi để ngửi mà không ngửi được nữa thì còn gì để sống, còn gì để giữ đèn nhang đền Diềm. Phù hộ để anh Duệ đừng đến gần mình. Đến gần hay không cũng tại mình, do mình. Mình không đẩy anh ra, không đứng cách xa anh ra vì sợ khiếm nhã với khách về dâng lễ hay vì mình muốn được cuốn vào vòng xoáy các mùi hương mê hoặc của anh. Mình nhận quà vì không muốn người cho phiền lòng hay cũng muốn mình thêm sang quý xinh tươi. Mình không thể từ chối hay không muốn từ chối. Chối lọ kem dưỡng da, lọ thuốc bổ, cái vòng cổ thì được nhưng có chối được mùi nước hoa không, mùi hơi thở nóng ấm của anh không. Anh ta có vòng tay quanh mình cả đời được không. Không được, không được, mình sống được nhờ Đức Ông, nhờ đền Diềm, nhờ lòng thơm thảo của người làng Diềm, ân chưa trả hết, nợ giải chưa xong, sao có thể vì sự chăm chút khác lạ của khách đường xa mà quên phận mình. Trinh hít thở sâu, gió sông Long tràn vào mũi, mang theo vô số bụi đá, những hạt bụi mặn và tanh như máu.
Trinh chắp tay kính cẩn trước chỏm núi cao nhất để cầu khấn. Ở nơi gần trời, gần các vị thần cao siêu, hẳn là họ biết điều gì tốt nhất để phù trợ cho Trinh. Trinh quỳ đến khi thấy lòng nhẹ bẫng mới thôi.
Chiều nhọ mặt người Trinh về tới đền Diềm. Chị Cần thấy Trinh, mắt sáng lên, “Tôi tưởng cô mất tích, bảo người làng ăn tối xong chia nhau đi tìm” Trinh muốn hỏi “Cả làng đi tìm tôi cơ á” nhưng không cất thành tiếng, nước mắt bung ra rồi cuộn ngược lại. Chị Cần vừa sắp cơm vừa nói nhưng Trinh không nghe rõ nữa. Cô cũng không nhìn rõ chị đang làm gì, chỉ thấy tay chị không để yên. Cái bàn tay kia, Trinh đã từng nhìn thấy từng ngón cử động không ngừng, đó là cái đêm chị cầm tấm áo của chồng đến, xin Đức Ông giải bùa mê thuốc lú để chồng chị thay tâm đổi tính mà lo thu vén gia đình, chị quỳ trước nhang án, hai tay giơ phía trước, lầm rầm khe khẽ “Người ta không đoái thương chia sẻ với con đã đành, còn bỏ rơi bỏ rớt thằng Linh, thằng Lâm, tuần nào cô giáo cũng gọi con lên nhắc nhở, chúng nó đang lớn, bị bạn bè bêu riếu bố có bồ nên đánh nhau, làm con nhà người ta bị thương. Bố nó đã không biết ăn năn, còn đánh đập con thừa sống thiếu chết, Ông soi đường chỉ lối cho con, con phải làm gì để giữ chồng, dạy con bây giờ”, môi chị mấp máy, mắt chị không chớp nhưng nước chảy đầy ra má, tay chị lần vuốt liên tục từ cổ áo xuống, trượt qua các khuy áo. Có sợi chỉ hơi bong ra, chị rút cho chặt, quấn lại quanh chân khuy rồi miết vuốt đến khuya. Nước mắt chảy đến đâu, tay chị run đến đấy nhưng không bỏ sót một vết chỉ nào trên tấm áo còn đầy mùi mồ hôi của chồng chị.
Chị Cần đưa cho Trinh cốc nước ấm, cô khẽ rùng mình, hình như tay anh Duệ cũng ấm thế này, cô giơ cốc uống ừng ực như người sắp chết khát rồi ngồi thừ ra ghế, trước mắt cô là cái mâm đồng sứt góc, đĩa cà muối, lạc rim, bát canh rau mồng tơi hái ngoài bờ rào và vài ngọn bồ công anh. Chị Cần mở vung nồi cơm, khói trắng bật lên ngoằn ngoèo giữa hai khuôn mặt, Trinh thấy cánh tay chồng chị Cần giơ lên, giáng thẳng xuống đầu chị, cô bật dậy, lao người ra đỡ, suýt nằm sấp lên mâm cơm. Chị Cần tái mặt né sang một bên. Cô Trinh run rẩy, chân tóc dựng đứng ngồi thụp xuống ghế.
Có tiếng đẩy cánh cổng gỗ phía xa, mùi nước điếu lẫn với mùi nước hoa xộc đến. Trinh đứng bật dậy bước nhanh vào cửa đền. Mới đặt một chân trong bậu cửa thì Trinh dừng lại, người đang vào không phải Duệ, là chồng chị Cần.
Anh ta đi thẳng đến chỗ chị, ngồi xuống cái ghế Trinh vừa ngồi, bảo vợ: “Về đi, mai tao lên núi đục đá cho cai Duệ, nó định biến ba chỏm trên đỉnh núi Móc thành ba cái tượng, tao thợ chính, về mà coi nhà, chuyện khác tính sau”.
Chị Cần vào cung cúi đầu lễ tạ Đức Ông, chào cô Trinh rồi theo chồng về. Cô Trinh nhìn theo bóng chị, nước mắt tứa ra.
Ba chỏm đá được chêm đục đẽo gọt tỉ mỉ, chẳng mấy chốc thành ba ông khổng lồ ngồi chễm trệ trên đỉnh núi Móc, hiên ngang nối đất với trời. Anh Duệ thuê người kể thêm vài câu chuyện huyền bí về ba ông khổng lồ nữa, rồi chuyện núi Móc, sông Long, chuyện lá thuốc làng Diềm, chuyện ngôi đền thiêng có thể chữa bách bệnh cho người trần gian. Núi Sam càng lúc càng đông khách, khách đến vừa nghỉ dưỡng, vừa tham quan ngắm cảnh, đi thuyền hóng gió trên sông Long, vừa qua sông hành lễ, cầu cúng, chữa bệnh. Chồng chị Cần được anh Duệ thuê trông coi, khai thác các dịch vụ ở khu núi Móc nên ở hẳn trên đó, lâu lâu mới ghé qua nhà. Làng Diềm nhà ai cũng có vài người làm thuê cho anh Duệ, người già yếu không đi làm thuê thì mở quầy hàng bán đồ lễ ngay lối vào đền Diềm, trẻ con choai choai đi học nửa ngày còn nửa ngày đổi nhau giăng dây trông xe. Việc nhàn hạ, kiếm được nhiều tiền, không ai trồng lúa nữa.
Hội làng, mọi con đường vào đền Diềm đông chật khách, con đường dẫn từ đền Diềm lên núi đặc ngẫn người đi rước kiệu, đoàn rước được thuê từ khắp nơi đến, kiệu to lọng lớn trống phách vang trời, có cả đoàn vũ công vừa đi vừa hát vừa nhảy múa, họ mặc đủ các kiểu áo quần, từ váy đụp, áo yếm đến áo tứ thân, áo the khăn đống, rồi váy xoè đính kim cương lấp lánh, kim sa bó sát thân người, rồi các cô vũ công che thân bằng ba mảnh vải con con ở ngực ở háng, vừa đi vừa nhún nhảy, đoàn rước kéo dài từ đền Diềm đến chân núi rồi từ đỉnh núi theo sông Long về đền Diềm. Người làng Diềm có vài ông già bà cả cầm chấp kích cờ lọng theo đoàn kiệu còn lại cúc cung ra vào phục dịch khách thập phương. Anh Duệ kêu đường chật quá, đền chật quá, người làng gật gù bảo phải.
Chiều ngày cuối hội, anh Duệ vào cung cấm dâng lễ tạ, Trinh lánh ra ngoài. Anh lễ xong ra tìm Trinh, cho Trinh cái chăn màu cánh sen, bảo “Trời sắp sang đông rồi, anh đặt người ta làm riêng cho em cái chăn lụa tơ tằm, em đắp cho ấm, coi như đêm đêm anh giúp em bớt lạnh, được không”. Trinh choáng váng. Duệ đi, mùi nước hoa quay tròn xung quanh nhấc bổng Trinh lên ném vào đỉnh cơn lốc xoáy đầy hơi nóng từ Duệ, Trinh thấy loáng thoáng mùi tanh hoi mằn mặn vừa khiến cô lợm giọng vừa khiến cô muốn dán mũi vào đó hít hà.
Suốt đêm hôm ấy và nhiều ngày sau, mùi của Duệ vây kín xung quanh Trinh, quanh cả gốc cây gạo nơi anh thường đỗ xe, quanh bờ rào găng anh thường đi qua, bám đầy những chiếc lá khô trên sân đền khiến Trinh càng quét nó càng đậm đặc. Cô nhốt mình cả ngày trong đền, cả đêm cũng ngồi lỳ trong cung cấm, thắp thật nhiều hương, nhưng không xua tẩy được.
Trời lạnh xuống, sen hồ Vọng chỉ còn lơ thơ vài tàu lá ngả màu xanh sẫm, cô Trinh vẫn ngồi trong cung cấm, mặc kệ người người vào ra khấn vái kêu cầu.
Khuya, có tiếng đập cửa yếu ớt, tiếng bước chân lê vào đền, tiếng khóc đắng chát, cô Trinh thấy đau thắt ngực, run rẩy vịn tay vào cánh cửa kéo mình đứng lên thoát khỏi tư thế kiết già đã ngồi suốt nhiều ngày. Ngoài tiền đường là chị Cần. Tóc rối bù ròng ròng nước, miệng méo xệch, máu trộn lẫn nước mắt tướt xuống cổ, xuống áo. Áo chị đầy bùn. Bùn nhuộm khắp người chị. Trinh rùng mình nhìn thấy trên khuôn mặt nhầu nhĩ méo mó của chị là bàn tay vâm váp của chồng chị vừa giáng xuống, cái giáng dữ dằn như hôm cô nhìn thấy trong làn khói nồi cơm chưa kịp xới. Bàn tay ấy túm tóc chị, vùi chị xuống thửa ruộng chị mới gặt “mày thích giữ thì tao cho mày giữ, nằm đấy mà giữ cái mả mẹ mày, sướng không biết đường mà sướng, mày không thích sướng thì để tao sướng, con mày sướng, biết chưa”. Chị ngóc đầu lên lại bị vùi xuống, đến khi không còn sức chống đỡ, cũng bàn tay ấy, lôi chị vứt lên bờ. Sương đêm rửa mặt cho chị, rũ tóc cho chị, dìu chị vào đền Diềm.
Cô Trinh rửa bùn, băng vết thương cho chị Cần. Tấm chăn lụa chỏng chơ trên giường từ hôm Trinh nhận, Trinh rải ra chiếu, bảo chị nằm lên cho đỡ đau, kéo phần còn lại đắp quanh người chị, xoa bóp các huyệt mạch ru chị vào giấc ngủ, giấc ngủ đầy những cơn thở nghẹn. Chị ngủ rồi, mùi bùn đất, mùi mồ hôi, mùi nước mắt đã gói kín trong tấm chăn lụa, mùi nước hoa, mùi hoi khét của Duệ lại tràn đến, quấn bọc bủa vây Trinh. Trinh bật khóc, tiếng khóc bị ép lại rồi thoát ra qua vòm cổ người ngọng thành thứ âm thanh hoang dại ghê người.
Đêm lạnh, sương giăng kín trời, lả lơi khắp làng Diềm, ánh đèn cao áp trên núi Móc, trên bến sông Long khiến đêm không còn màu đen. Cô Trinh vừa khóc, vừa ra hồ Vọng múc nước về đun với ngũ vị hương và vài cánh sen khô. “Con bao sái tượng Đức Ông xong, xin nước thừa mà thanh tẩy mình, Già chỉ giúp được con đến thế thôi” tiếng ông từ già vẳng đến tai Trinh. Cô lầm lụi vừa làm vừa nuốt nước mắt. Những ngón tay thường ngày nhanh nhẹn bao nhiêu lúc này chậm chạp rời rã bấy nhiêu. Trinh cố tập trung vào từng vết khăn, từng giọt nước ấm, tỉ mỉ làm sạch mọi hạt bụi trên pho tượng.
Trinh bắc ghế trèo vào long đình lau phía lưng tượng. Từ hồi đền đông khách, Trinh không có nhiều thời gian để bao sái tượng nên không lau phía sau lưng, bụi đã bám cáu thành từng tảng dày đặc. Trinh di mạnh các ngón tay để đẩy bụi làm trượt xuống mảnh ghép lưng bức tượng, mùi bụi tràn ra, bịt kín mũi Trinh, trước mắt cô hiện ra khoảng trống đen thẫm, sâu thăm thẳm. Trinh lách vào, chui tọt trong lòng bức tượng, mùi khói hương tích giữ lâu ngày, mùi hoa sen, mùi nước ngũ vị hương, mùi mồ hôi nước mắt người làng Diềm, mùi tanh hôi của gián chuột, mùi hoá chất làm thơm… quánh đặc. Cô nhướn người nhìn qua hai hốc mắt pho tượng, đất dưới chân sụt xuống. Cả ngôi đền rùng rùng chuyển động, tiếng máy móc ầm ĩ, tiếng người tiếng xe ồn ào náo nhiệt. Đàn ông trai tráng làng Diềm lố nhố ôm lấy cột đền, nhấc bổng lên, dời ra mảnh ruộng nhà chị Cần, chồng chị đứng cạnh anh Duệ chỉ trỏ, bảo người ta kéo giãn các cây cột, các bức vách, thổi pho tượng Đức Ông phình ra như quả bóng bay rồi tô vẽ sơn son thếp vàng, lấp la lấp lánh. Trong phút chốc, đền Diềm cao rộng thênh thang, người người ra vào ngó nghiêng nói cười hỉ hả, vài ông già làng diềm mặc đồng phục đứng cạnh các nhang án, vài chị ngồi ghi chép cạnh hòm tiền, vài cô gái xinh đẹp đứng cạnh tủ thuốc tươi cười chào khách, Trinh nhìn thấy cỏ cây hoa lá làng Diềm sấy khô đóng túi in hình lộng lẫy, thấy lọ thuốc Duệ mang cho Trinh uống, thấy mùi kem dưỡng da Duệ tặng Trinh hôm nào đang chảy ra từng giọt, trà lướt trên mặt Trinh. Mặt Trinh nóng ran, tay chân co giật. Đức Ông cầm tay cô, bấm các huyệt trong lòng bàn tay, trên khuôn mặt rồi dắt cô ra bến sông. Chị Cần đang chèo thuyền, cái thuyền bé như vỏ trấu lúa dự, nở dần thành cánh sen hồ Vọng. Đức Ông dắt Trinh bước lên thuyền, nước sông Long sóng sánh đẩy thuyền về phía mặt trời. Mặt trời rọi vào mắt Trinh, chói nhức.
Không phải mặt trời, là ánh đèn pin chị Cần, chị ngủ mê hét lên rồi thức giấc, không thấy Trinh chị càng sợ, chị lấy đèn pin đi tìm Trinh, thấy hai bàn chân chìa ra từ long đình, chị hét lên định lao vào lôi Trinh xuống nhưng nhớ ra mình là đàn bà có chồng, không được vào hậu cung nên lao ra đường cầu cứu.
Chị lao đi còn Trinh tụt xuống, cô ngửi thấy mùi nước hoa của Duệ, thứ nước hoa toàn hoá chất khiến hai cánh mũi Trinh rát buốt, xoáy đến tận óc. Cô tụt xuống khỏi pho tượng, chạy ra gác chuông phía sau đền, ra sức đánh chuông cầu cứu.
Tiếng chuông vang lên rền rĩ, quánh đặc trong sương mù. Trinh không biết lâu nay người ta vẫn đánh quả chuông khổng lồ trên núi Móc báo hiệu các đoàn hành hương dâng lễ, tiếng chuông càng nhiều chứng tỏ khách về càng đông. Không ai còn nhớ đến lời hẹn ước về quả chuông đền Diềm chỉ cất lên khi làng có việc hệ trọng.
Chị Cần vẫn ra sức chạy, vừa chạy vừa kêu cứu. Vài người đi chợ sớm, nhìn thấy chị, chặc lưỡi “khổ, chồng đánh một trận mà phát điên phát dại thế này cơ”.
23/9/2019
Vũ Thanh Lịch
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Một cách tiếp cận thơ Thiền

Một cách tiếp cận thơ Thiền Thơ ca dân tộc có một bộ phận thơ Thiền đặc sắc. Nhiều bài thơ của các Thiền sư từ  thời  Lý (1010-1225) - Trần ...