Lại bàn về nhạc vàng
Mở Đầu Câu Chuyện:
Cách đây vài năm trong nước bỗng dậy lên cuộc tranh luận về
'nhạc sến' mà có thời còn được gọi là 'nhạc vàng', 'nhạc mùi', 'nhạc phản động'
v.v... của miền nam trong cuộc chiến. Có hai phe rõ rệt; phe chê thì dùng lập
trường chính trị 'chuyên chính' của những thập niên 70s hay 80s lên án là nhạc
rẻ tiền hạ cấp, ủy mị bi quan của... 'ngụy quân, ngụy quyền' (mà ngày nay, thời
hội nhập hòa giải, không tiện gọi như thế nữa), tiêu biểu là ông Nguyễn Lưu, rồi
gần đây có ông Vương Tâm với bài "Nhạc sến biến dị" xuất hiện trên
báo Sức khỏe và Đời sống của Bộ Y tế; phe khen thì hình như là những nhà trí thức,
người làm văn học nghệ thuật đã sống vào giai đoạn ấy ở trong nam và thuộc trường
phái 'xét lại' (sau khi đã được phép của Nhà Nước) thuộc "Câu lạc bộ
bolero Sài Gòn".
Sau 1975, trong một thời gian dài 'nhạc vàng' bị cấm triệt để
theo chỉ đạo văn hóa chính trị từ Hà Nội, cho mãi đến những năm 1990s khi Việt
Nam mở cửa thì nó mới được dần từng bước được cho phép phục hồi.
Chuyện phân biệt 'nhạc vàng' hay 'nhạc đỏ' có thể là để phân
biệt theo màu cờ 'quốc-cộng' của hai phía lâm chiến từ những năm 1945 kháng chiến
chống Pháp và 'Quốc Gia Việt Nam' của vua bù nhìn Bảo Đại do Pháp dựng lên chứ
không phải đợi về sau có hai chính phủ nam bắc vào 1954 khi Mỹ nhúng tay vào,
mà phần lớn 'nhạc vàng' bị lên án đều được sáng tác mạnh theo giai điệu bolero,
rumba, habanera...ở giai đoạn này. Ngày nay có vị đã hăng say gán thêm cho nó
là 'nhạc sến' mới rách việc. Hai từ 'nhạc sến' và 'nhạc vàng' chỉ xuất hiện
càng ngày càng nhiều sau 1975.
Tôi không phải là một nhạc sĩ và sự hiểu biết về nhạc lý rất
hạn chế, nhưng tôi lại là người rất mê nhạc và suốt ngày được vây quanh bởi tiếng
nhạc du dương dù khi đang làm việc. Tôi không muốn đi sâu vào phần phân tích
chuyên môn về âm nhạc hoặc phân tích tính tuyên truyền chính trị của nội dung
các bài nhạc đương thời. Tôi chỉ muốn đóng góp một ít nhận xét vào những cuộc
tranh luận ồn ào trên báo chí trong nước bấy lâu nay về 'nhạc sến' chỉ vì tôi
đã sống trong giai đoạn ấy ở miền nam lúc tuổi còn xanh để có một cái nhìn
tương đối vô tư hơn. Có điều cần được khẳng định: Trước 1975 không ai có khái
niệm nhập nhằng đánh đồng 'nhạc vàng' với 'nhạc sến'. Hơn nữa, từ 'sến' không hề
được dùng để ám chỉ 'nhạc vàng'. Chúng là hai phạm trù khác nhau.
Hình như chuyện so sánh vớ vẩn về 'nhạc sang' và 'nhạc sến'
đã xuất hiện trong bài "Thánh đường" âm nhạc "dzung dzinh"?
của Hữu Trịnh trên báo TT Và VH ngày 2/2/2011 nhân sự kiện hai ca sĩ hàng đầu của
'nhạc vàng' Tuấn Vũ, Hương Lan từ hải ngoại trình diễn hơn 10 đêm tại Nhà hát Lớn
Hà Nội trước và sau Đại lễ Một Ngàn Năm Thăng Long. Trong bài ấy ông ta đã 'ta
thán' rằng "... Nhà hát Lớn Hà Nội - nơi được nhiều người xem là
"thánh đường" âm nhạc của thủ đô - là nơi đáng lý phải dành cho âm nhạc
bác học như giao hưởng, thính phòng, những buổi độc tấu của các nghệ sĩ nhạc
hàn lâm chứ không phải là nơi dành cho nhạc "sến". Mà cũng lạ thay,
hàng ngàn người "giàu sang" nối nhau đến nghe Tuấn Vũ hát với giá vé
phải mua bằng tiền triệu."
"Nhạc xưa ... là những ca khúc trữ tình cách đây trên 30
năm, trên thị trường âm nhạc ... được phân thành 2 loại: nhạc "sang"
(như của các tác giả Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Dương Thiệu Tước, Đặng Thế
Phong...) và nhạc "sến" (của những tác giả như Thanh Sơn, Lam
Phương...)."
"Khi công chúng quay lại với nhạc xưa phải chăng là giới
nhạc sĩ hiện nay đã không có được những ca khúc làm thỏa mãn nhu cầu nghe của
công chúng. Một thị trường âm nhạc bát nháo với những ca khúc đạo nhạc, ca từ
nhảm nhí, gây sốc, giai điệu vô cảm... đã nói lên điều đó?"
"Khi Tuấn Vũ và Hương Lan có hơn 10 show diễn cháy vé tại
Nhà hát Lớn Hà Nội, nhạc sĩ Đặng Hữu Phúc đã có bài viết Khi Đặng Thái Sơn
không thể "địch" lại Hương Lan, Tuấn Vũ."
Viết được nhận xét như thế làm tôi có cảm tưởng là nước ta
chưa hề trải qua giai đoạn cùng khổ của chiến tranh và thời bao cấp tem phiếu.
Bối Cảnh
Theo một bài viết của Hà Đình Nguyên thì ông ta muốn tìm ý
nghĩa của từ 'sến' như thế nào và gán cho "ý kiến của nhiều lão làng trong
giới ca nhạc thì "sến" do chữ sen (trong từ con sen: người giúp việc
nhà) đọc trại mà ra. Trước 1954, chỉ có ở miền Bắc mới gọi "ô sin" là
con sen, trong Nam gọi là "ở đợ"... Do thường giúp việc cho chủ Tây
hoặc trong các gia đình theo Tây học nên các cô được các nhà văn, nhà báo có óc
hài hước thêm cho cái tên "Marie" phía trước để trở thành Mari-Sến.
Sau 1954, "Mari-Sến" vào Nam. Dạo đó, nước máy chưa được đưa tới từng
nhà, chiều chiều các Mari-Sến lại tụ tập quanh cái máy nước (fontaine) để hứng
nước gánh về nhà, từ đó lại đẻ thêm cái tên "Mari-Phông ten". Trong
khi đứng chờ đầy gánh nước, các cô thường vui miệng hát với nhau (vài câu nhạc
vàng)... Thế là thành... nhạc sến! Một sự hình thành quá đỗi "mơ hồ"
nên cũng khó mà định nghĩa. Thôi thì, hễ loại nhạc nào mà các chị gánh nước mướn,
các anh đạp xích lô, thợ thuyền (gọi chung là giới bình dân) khoái hát thì...
đó là "nhạc sến"!"
Rõ là hơi phiến diện. Thực ra vào khoảng 1954, dưới các thỏa
hiệp Geneva Pháp đã từng bước rút ra khỏi Việt Nam để Mỹ vào thay thế. Nam bộ vốn
là Nam kỳ quốc nên tên dân thành thị và có quốc tịch Pháp thường có kèm tên tây
ví dụ Trần Văn Đôn còn gọi là André Đôn, hoặc Nguyễn Khánh còn gọi là Raymond
Khánh hoặc Nicolas Turner Khánh; còn phái nữ thì ố la la, Marie, Thérésa,
Yvonne, v.v... Lợi dụng có quốc tịch Pháp một số lớn giàu có di dân sang Pháp, số
còn lại với tên tây thường bị dân trong nước chế giểu nên mới có những tên như
Marỉ-Sến hay Mari-Phông ten; chứ các chị 'sen' thời bấy giờ vốn thất học ở quê
lên phố kiếm sống làm gì được phong lưu lãng mạn đến thế. "Trước 1954, chỉ
có ở miền Bắc mới gọi 'ô sin' là con sen, trong Nam gọi là 'ở đợ'" Trước
1954, ngoài bắc làm gì đã có 'ô sin'; nếu có thì người chủ đã bị đem đi đấu tố
rồi còn đâu?
Trong một bài báo khác của Tuấn Khanh, trên báo Tuổi Trẻ ông
cố gắng truy nguyên danh từ Marỉ-Sến. Đúng là từ này phát xuất từ tên nữ tài tử
người Áo nổi danh thời ấy ở Hollywood là Maria Schell (1926-2005) và các phim của
cô đã được chiếu ở các đô thị miền nam vào những năm 1950s và 1960s đã làm thổn
thức bao trái tim trẻ và tên cô thường được nhắc nhở luôn trong giới trẻ thời ấy
và vô tình đi vào... văn học dân gian, chứ thật tình không khởi đi từ chữ
'sen', hay 'con ở' gì cả; và thế là nhà văn trẻ nổi danh Tuấn Huy đưa luôn vào bài
báo của mình. Tôi còn nhớ cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông có tựa là "Ngày
Vui Qua Mau" vào khoảng 1962, 1963 đã được giới trẻ đón nhận nồng nhiệt vì
lối viết bức phá thoát ra khỏi lối viết 'hàn lâm' của nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Thời ấy trong giới trẻ chúng tôi hay dùng từ 'sến' như một loại
ngôn ngữ chế biến ám chỉ (slang) để tỏ ý chê bai việc gì quê mùa thô kệch, kém
phẩm chất, không thời thượng cốt chọc quê bạn bè cho vui. Nó chẳng hề mang ác ý
mỉa mai thành phần giai cấp thấp kém nào, nhất là 'con sen, người ở' mà trong
nam thường gọi lịch sự hơn là 'người giúp việc'. Ví dụ 'sao thằng ấy ăn mặc sến
quá'; 'bài thơ mày làm sến quá'; 'mày ca sến quá'...
Lịch Sử
Nước ta vốn không có được một nền dân ca đại chúng lâu bền,
mà chỉ lưu truyền hạn chế trong vùng miền cục bộ; có lẻ dân tộc nào cũng thế bởi
khung cảnh lịch sử xa xưa chưa có các phương tiện truyền tải lan xa như ngày
nay. Lại nữa ta cũng chẳng có một điệu nhảy nam nữ cộng đồng tiêu biểu trong
các lễ hội như 'lam-vong' của các dân tộc bạn Lào, Cam-Bốt, có lẽ vì ảnh hưởng
lâu đời của đạo lý cụ Khổng 'nam nữ thụ thụ bất thân'.
Trên bước đường nam tiến, cổ nhạc của ta đã pha trộn, xào nấu
với rất nhiều cổ nhạc của dân tộc suy vong nhiều nhất là từ âm nhạc Chăm; từ ca
trù hay hát ả đào, chầu văn, quan họ, hát xoan, hát ghẹo, hát chèo v.v. của miền
bắc xuôi xuống trung phần với hò mái đẩy, ca huế hay ca lý, nam ai, nam thương,
nam bình rồi đến vào nam bộ có hò nện, hát bộ, hồ quảng, cải lương...
Theo một nhà văn hóa Chăm, Inrasara thì ngay các bài 'Người
ơi, người ở đừng về' hay 'Bèo dạt mây trôi' của quan họ Bắc Ninh cũng vướng
chút hơi hám Chăm. GS. Trần Văn Khê lại phân biệt ca Huế có hai loại Quan nhạc
(mà ta hay gọi cung đình) để phân biệt với Tục nhạc (dân ca hay dân nhạc).
Nhưng có tác giả khác nhận xét: "Văn hóa Nghệ thuật của giai cấp nào đều
không là sản phẩm trí tuệ của nhân dân. Khi đã bác học hóa thì trở thành lối
chơi của ông hoàng bà chúa, giới quý tộc (nhạc sang?), khi đã dân gian hóa thì
vẫn là sản phẩm trong tổng thể văn hóa dân gian (nhạc sến?) mà thôi."
Ai cũng đều nhận ra nhạc Huế chịu ảnh hưởng đậm hơn của nhạc
Chăm ở vùngđất mới nên nghe có mang một nỗi buồn ai oán dễ khiến người ta chau
mày rơi lụy. Hoặc xa hơn nữa vào thời Trịnh Nguyễn, khi chúa Nguyễn Hoàng đem
dân vào trấn Thuận Hóa thì vùng này vốn là xa xăm biên địa làm cho lưu dân luôn
hoài hương cố quận và tình cảm đã đi sâu vào các ca khúc da diết ấy? Vậy "những...
chia ly và mất mát trong tình yêu. Lời hát não nề, than vãn cầu mong được bù đắp
... sự lê thê, buồn bã khai thác âm hưởng cổ nhạc theo hướng yếm thế, ru ngủ
lòng người tạo nên cảm giác chán chường bế tắc" (theo Vương Tâm, 'nhạc
sến biến dị') nào phải đợi đến có 'nhạc vàng', 'nhạc sến' mới hiển lộ?
Khổ nỗi các điệu hát theo ngũ cung này rất khó trình diễn
cùng với những nhạc cụ cổ khó chơi như đàn kìm, đàn cò, đàn bầu, đàn tranh...
nên hầu như chỉ giành cho những lễ hội, cho các nghệ nhân chuyên nghiệp do đó
mà dần thất truyền và mai một vì không được phổ biến rộng rãi trong các thế hệ
trẻ, có lẽ vì quan niệm lỗi thời 'xướng ca vô loại'. Ngày nay cổ nhạc của vùng
miền chỉ tồn tại trong các sô trình diễn dân ca cho việc phục vụ du lịch. Thấy
mà thương!
Tân Nhạc
Khoảng đầu thế kỷ 20, đời sống của giới trẻ trong nước nhất
là ở Hà Nội, cái nôi văn học cả nước dù muốn dù không cũng phải chịu ảnh hưởng
Âu hóa. Ngoài bắc Hội Khai Trí Tiến Đức chủ trương "dùng khí cụ và chút ít
phương pháp của Âu Tây để hòa những bản đàn cổ" hoặc "bài đàn như trước
viết lại cho đúng phương pháp Âu-Tây". Ở Huế thì ảnh hưởng Âu nhạc phát hiện
bằng sự thành lập nhóm Tỳ bà với nhạc sư Nguyễn Hữu Ba và trong Nam có nhạc sĩ
Trần Quang Quờn đặt bài bản mới phỏng theo cung điệu xưa, sáng chế nhạc khí mới
và đặt ra cach chép nhạc riêng; phong trào cải lương làm cho đờn ca tài tử phát
triển mạnh theo hướng sân khấu; dùng đàn guitare và violon để đờn Vọng cổ v.v.
Vào thời kỳ này, cùng với phong trào Âu hóa mọi mặt đời sống
trong nước, điệu bolero đã được phổ biến rộng rãi trên thế giới bắt đầu xâm nhập
vào Việt Nam và hưng thịnh dần vào những năm 1940-1950 với nhịp điệu 4/4 chậm
rãi và dìu dặt hơn thay cho nhịp 3/4, thì nó như cá gặp nước, dễ học, dễ trình
diễn, dễ nhớ, đi thẳng vào câu chuyện, hợp với tâm tình giàu thơ nhạc của dân
Việt cho nên nó đã được đón nhận nồng nhiệt. Nhạc cụ thì chỉ cần một chiếc
guitar cũng đủ nên đã xuật hiện nhiều nhạc sĩ, ca sĩ tài danh đã thổi hồn Việt
vào cho nó để rồi nó... định cư và trở thành 'nhạc đại chúng' lúc nào không
hay.
Điều đặc biệt ít người để ý đến là điệu bolero lại dễ ăn khớp
với những giòng thơ lục bát của Việt Nam cho nên nhiều bài thơ hay thời tiền
chiến đều được phổ nhạc nhuần nhuyễn và dễ đi sâu vào lòng đại chúng hơn. Có
nhiều bài thơ được quần chúng biết đến rộng rãi đều nhờ các bản 'nhạc vàng'.
Thế là nền tân nhạc của Việt Nam đã được thiết lập. Nhạc được
sáng tác đa số ở Hà Nội trước thời kháng chiến chống Pháp 1945 được gọi là Nhạc
tiền chiến, ít ai gọi là 'nhạc sang'. Loại nhạc này thường theo điệu Slow,
Boston hoặc Valse buồn lê thê nhưng thiên về lãng mạn mơ mộng cá nhân.
Sau Hiệp định Geneva, đất nước bị chia cắt làm hai phần rồi
trở thành hai chính thể đối kháng. Trong khoảng thời gian tương đối dài suốt 5
năm, hai bên VNDCCH phía bắc và VNCH phía nam trải qua một giai đoạn hòa bình
ngưng bắn để tái thiết và chấn chỉnh. Ngoài bắc thì chịu ảnh hưởng nặng của khối
Cộng sản Trung Xô gặp thời chuyên chính sắt máu của Stalin và Mao nên toàn xã hội
phải đặt mình dưới sự kềm kẹp gay gắt. Bằng chứng là những bản nhạc được phát
trên đài Hà Nội thời bấy giờ chịu ảnh hưởng nặng của nhạc điệu Trung quốc líu
la líu lít đến nay chẳng ai còn muốn nghe lại. Trong nam thì vốn liếng văn học
nghệ thuật đã được di tản theo giòng người di cư đông đảo nên nếu nói đến 'nhạc
vàng' là phải nói đến cái di sản 'tiểu tư sản thành thị' của thời Pháp thuộc.
Nguồn Gốc của Điệu Bolero
Di sản ấy vốn đã chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Pháp và nói rộng
hơn là văn hóa tây phương Âu Mỹ và của những trào lưu âm nhạc thế giới thời bấy
giờ.
Người ta đã phân biệt nhạc cổ điển Tây phương khởi sự từ 1600
đến 1910 gồm 3 giai đoạn:
1) Giai đoạn Baroque từ 1600 đến 1750, chỉ chuyên trình diễn
trong cung đình và nhà thờ.
2) Giai đoạn nhạc cổ điển (1750- 1820), chú trọng đến
âm thanh của nhạc cụ hơn là biểu lộ tình cảm nội tâm.
3) Giai đoạn lãng mạn sau
cuộc cách mạng Pháp: (1820- 1910), chú trọng về tình cảm cá nhân hay lòng yêu
quê hương và điệu bolero đã xuất hiện trong giai đoạn này. Frédéric Chopin đã để
lại một hòa khúc dương cầm trứ danh mang tên 'bolero' Op. 19 viết vào năm 1833
sau khi đến nghe ca sĩ Tây Ban Nha Manuel Garcia trình diễn tại Paris lần đầu.
Như thế Bolero đã khởi đầu trong giai đoạn của dòng nhạc
lãng mạn vừa kể, trở thành điệu khiêu vũ đại chúng nhịp 3/4 ở Tây Ban Nha do vũ
sư Sebastian Cerezo, với những buổi giới thiệu điệu nhảy này đầu tiên vào năm
1780.
Đấy là nói theo lối viết lịch sử chiếm đoạt của tây phương,
vơ vào những cái hay của người thành của mình. Hình như điệu bolero bắt nguồn
xa hơn nữa từ những di dân nô lệ châu Phi sang các vùng đất mới Mỹ châu và được
các nhà thực dân Tây, Bồ du nhập vào mẫu quốc của họ. Bolero dễ bắt nhịp với những
thao tác lao động hàng ngày và có thể biến đổi chậm nhanh tùy theo tâm trạng buồn
vui của người hát. Bolero truyền thống của Cuba lại phát xuất từ Santiago de
Cuba cuối thế kỷ 19 bởi Pepe Sanchez, trở thành điệu rumba vào năm 1930; và từ
đó nẩy thêm các điệu bolero-mambo hay nói gọn là mambo, rồi bolero-cha hay
Cha-cha-cha.
Âm hưởng của bolero vì thế đã mang nỗi buồn bất hạnh của lưu
dân bị chèn ép bóc lột. Nó đã được vài nghệ nhân vô danh nào đó hát lên nỗi niềm
tâm sự của mình theo nhịp gõ của vật dụng thô sơ quanh một bếp lửa trại ở một xứ
sở xa xăm không còn đường về cố quận, và từ đó được lan xa. Vì vậy bolero luôn
tải đi một câu chuyện buồn được kể theo vần điệu du dương lên bổng xuống trầm.
Dân Phi châu vốn sống gần gũi với thiên nhiên, cần có một thể
chất khỏe mạnh để sinh tồn và nhạy bén học được các nhịp điệu của môi trường
hoang dã và phổ thành nhạc. Vì thế không lạ gì khi họ rất giỏi về thể thao và
âm nhạc. Ngày nay nhạc Phi châu đã trở thành gốc nhạc đại chúng của cả thế giới.
Điệu tango theo nhịp 2/4 or 4/4 xuất phát từ Nam Mỹ vào khoảng
1911 và dần lan đến Âu Mỹ nhưng rồi bị tàn úa do những cấm cản của các chế độ độc
tài quân phiệt đã làm cho bolero không có đối thủ và lan truyền trên thế giới rộng
rãi hơn.
Ở Việt Nam thì bấy giờ nền tân nhạc chỉ mới tập tễnh đi những
bước đầu đời. Đến những năm sau 1954 bỗng trong nam du nhập rộ lên những bản nhạc
bolero trứ danh như Besame Mucho, Histoire d'un amour, Aime-moi, Ciao ciao
Bambina, La chanson d'Orphée vv... do nữ danh ca bất hủ của Pháp Dalida qua những
đỉa nhựa Barclay làm cho điệu bolero càng được mến mộ. Dalida còn đặt chân đến
Việt Nam trình diễn vào năm 1961 trong thời vàng son của cô. Nếu có kẻ chê 'nhạc
vàng' buồn não nề, thê lương, nghẹn ngào ... thì nay ta thử nghe lại các bài
Besame Mucho, Historia de un amor theo ngôn ngữ gốc spanish trình bày bởi
Cesaria Evora, Julio Iglesias, Dianna Krall, Layra Fygi... xem có ngẩn ngơ man
mác buồn hay không?
Nước Mắt Trong Cuộc Chiến
Thường dân lúc nào cũng đều vô tội và là nạn nhân trong những
cuộc chiến tranh tương tàn. Lịch sử Việt Nam nào có khác và trong những cuộc
tranh giành quyền lực khi đất nước bị phân chia dân chúng hai phe đều bị bắt buộc
phải cuốn vào cuộc chiến và gánh chịu nhiều hậu quả khốc liệt của chết chóc, ly
tán, mất mát và đau buồn thì dĩ nhiên những tình tiết than thân trách vận, những
nỗi niềm u uất buồn thảm là tâm trạng chung đều được các nghệ sĩ có tài đem vào
các tác phẩm văn chương nghệ thuật, trong đó có 'nhạc vàng' thành những bản sầu
ca. Nhiều người bảo chỉ có các ca sĩ thời danh cũ trong nam mới thể hiện tuyệt
vời các bản sầu ca ấy. Vì sao? vì họ đã từng sống trong giai đoạn ấy và khi họ
trình diễn thì cũng như chính họ kể lại một đoạn đời đắng cay sầu thảm của
mình. Họ đã thả hồn vào bài nhạc, và người nghe cảm thấy gần gũi và được vuốt
ve vì họ cũng cảm nhận có một phần đời lạc loài của mình trong bài hát.
Cũng cùng điệu bolero nhưng các bản nhạc sáng tác sau này
trong nước thời hết chiến tranh không hấp dẫn giới trẻ lẫn già nữa vì không có
'nỗi đau đoạn trường' của giai đoạn chiến tranh như ca sĩ Trà Mi nhận xét:
"Nhạc bây giờ cũng là lời nói (kể chuyện), nhưng nghe nó ngang phè phè.
Còn lời của nhạc vàng cũng chỉ là lời nói bình thường thôi, nhưng thấy nó khác,
nghe nói không chướng tai." Cácca sĩ trẻ trong nước tuy đã được đào tạo
'hàn lâm'nên vững về thanh nhạc và hát rất hay nhưng khi trình bày những ca
khúc 'nhạc vàng' vẫn chưa lột hết được 'phần hồn' của nó.
Điểm khác biệt giữa 'nhạc tiền chiến' và 'nhạc vàng' đậm nét ở
chỗ: 'nhạc tiến chiến' thì lãng mạn, buồn, tiếc nuối với mơ mộng cá nhân xa vời
hảo huyền, không có giới hạn của thời gian, như trong nhạc của Văn Cao với
Trương Chi, Thiên Thai... còn 'nhạc vàng' cũng lãng mạn nhưng thấm đẫm u buồn của
niềm đau tang thương của quần chúng, mang tính thời sự và ai cũng cảm thấy có
tâm sự của mình trong ấy. Vì thế phải cần một thời gian dài suy ngẫm, và khi cơ
hội đến đúng lúc các thế hệ trẻ sau chiến tranh và đồng bào ngoài bắc cùng thế
hệ 'nhạc vàng' mới có sự thông cảm và đồng cảm cho giòng nhạc buồn rười rượi
này. Mà lạ lắm, đối với con người thì cái gì nghèo, buồn và dang dở thì nhớ da
diết; chớ ít ai than vãn khi vui và đời thì khóc nhiều hơn cười.
Tuy nó có mang đủ thứ âm hưởng buồn não nề, thê lương, nghẹn
ngào, đau đớn, tiếc nuối, ngầm chan chứa nỗi bất hạnh nhưng nó không hề toát ra
nỗi uất hận người, hận đời ... Nó vẫn còn ẩn mang một khát khao vượt thoát, một
sự khoan thứ cao thượng, một sự nâng niu trân trọng tất cả những gì quý giá còn
lại, dù là mỏng manh nhất, trong những gì bị coi là đổ vỡ, bị coi là thất bại...
Nên nhớ những bản nhạc bolero xuất hiện trong nam vào những
năm đầu sau 1954 không thê lương như về sau khi chiến tranh mỗi lúc mỗi gia
tăng khốc liệt, tràn từ thôn quê về thành phố, thanh niên phải rời ghế học đường
đi ra chiến trường sớm mà sống chết chỉ là đường tơ kẻ tóc, để lại bao tình yêu
bị đổ vỡ. Có lẻ thanh niên ngoài bắc cũng thế mà thôi, nhưng tình cảm bị đè nén
bởi chính sách kiên quyết tập trung phục vụ cho chiến tranh giải phóng của Đảng.
Một giòng nhạc, những ca khúc luôn có một dĩ vãng và khi người
nghe đã từng trải nghiệm sống trong giai đoạn ấy thì mối cảm thụ lại càng thêm
sâu sắc. Vì thế người ta vẫn còn thích và nhớ nhiều đến 'nhạc vàng' vì nó đã
ghi dấu một giai đoạn lịch sử đau thương của đất nước, chập chờn hư ảo với đói
khổ, nghèo nàn, chết chóc, chia ly... mà trong văn học vẫn chưa có tác phẩm nào
có tầm, vô tư nói lên được nỗi khổ đau không thốt được bằng lời của dân tộc mà
không bị vướng víu với lập trường chính trị. 'Nhạc vàng' hay 'nhạc sến' vẫn sống
mãi như điệu bolero là thế.
Di Sản Của Nhạc Vàng
Sau 1975 khi Việt Nam được thống nhất, và khi Nhà nước bắt đầu
chính sách mở cửa giao lưu với thế giới vào những năm đầu 1990s, đất nước ngày
càng thay đổi với thế hệ trẻ sau chiến tranh đang khao khát những hình thái nghệ
thuật cởi mở thông thóang hơn. Trong môi trường cung-cầu của thị trường kinh tế
mới, khi di sản âm nhạc của miền bắc sau chiến tranh thật nghèo nàn không đủ
cung cho nhu cầu mới nên dần dà người miền nam sử dụng lại những bản 'nhạc
vàng' gợi nhớ, rồi những băng đĩa từ hải ngoại đua nhau tràn ngập thị trường
chui nội địa đã dấy lên một trào lưu 'tìm về dĩ vãng'. Trước sức ép không ngăn
cản nổi , các nhà lãnh đạo đã khôn ngoan nới dần cho phép phổ biến 'nhạc vàng'.
Họ thấy rằng cấm mà nó vẫn được mọi người sính chuộng thì nên cao tay hơn là
'cho phép' cho đắc nhân tâm. Cũng may là tầm nhìn của các nhà lãnh đạo văn hóa
trong nước không đến nỗi chật hẹp như ý kiến của các ông 'vệ binh đỏ' cỡ Nguyễn
Lưu hay Vương Tâm. Nay với kỹ thuật internet, các trang mạng nổi danh trong nước
như NhacCuaTui và Zing đã tải hầu hết những bản nhạc vàng thời danh của miền
nam cũ.
Các chế độ cũ trong nam thời chiến tranh đã bị xóa tên nhưng
những di sản để lại trong nền văn học, nghệ thuật, văn hóa giáo dục với sự đóng
góp của quần chúng trong đó có 'nhạc vàng' không phải là không đáng trân quí.
Thói thường xưa nay trong lịch sử nhân loại là dân tộc chiến thắng lại luôn
sùng bái những giá trị văn hóa nghệ thuật của kẻ chiến bại; huống chi đây lại
là di sản của đồng bào dân tộc. Cho nên cố gán ghép và đánh đồng một giòng nhạc
phổ thông đại chúng phát triển mạnh mẽ trong nam theo trào lưu thế giới vào với
những xấu xa của các chế độ chính trị cũ của miền nam để phê phán bừa bãi là một
thái độ kém hiểu biết và thiếu nghiêm túc. Vả lại cái gì tồn tại được lâu dài
chắc phải được quần chúng tán thưởng ủng hộ, trong đó có nghệ thuật phi chính
trị; vì thế nên gọi 'nhạc vàng' đúng cách là 'nhạc đại chúng' (pop music) trong
thời chiến tranh.
Trên đời thứ gì cũng đều có hai mặt tương phản hay dở, tồi tốt,
đẹp xấu... thì nhạc cũng vậy, có bài làm đắm say lòng người nhưng cũng có bài
'sến' hết biết. Hơn nữa mọi sự còn phải tùy duyên gặp thời đúng lúc; ví như có
nhiều ca nhạc sĩ tài danh cũ miền nam khi còn ở trong nước thì phong trào tái
diễn 'nhạc vàng' chưa được cho phép như Trần Thiện Thanh, Thanh Lan, Phương Hồng
Quế... đành phải sống âm thầm; còn những người đã ra đi và trở về đúng lúc thì
được kiệu rước trên vai từ nam ra bắc như Hương Lan, Tuấn Vũ, Chế Linh, Tuấn Ngọc...
Ôi biết làm sao mà đoán trước được lòng người nhưng dĩ nhiên quần chúng thưởng
ngoạn thường rất nhạy bén, cái hay sẽ tồn tài bằng mọi cách và cái dở, sến sẽ
đi vào thùng rác; chẳng cần đến cơ quan quản lý văn hóa chỉ đường để 'giáo dục
về thẩm mỹ âm nhạc' theo lối biện luận dao to búa lớn.
Hiện nay, khi các giọng ca mùi và muộn của 'nhạc vàng' đua
nhau về nước trình diễn và được đón nhận nồng nhiệt đã không ít người lý giải rằng
họ đã gặp may. Thế giới đang bị suy thoái kinh tế, đời sống trong nước thoải
mái khá hơn trước nhiều, lại gặp lúc thị trường ca nhạc nội địa đang mệt mỏi giậm
chân tại chỗ với các nhạc trẻ và ca sĩ dòng teen chẳng làm nên cơm cháo gì nên
họ đã gặp đúng thời vận dù muộn ở buổi xế chiều.
Nhạc Sang và Nhạc Sến
Trong bài "Nhạc sến biến dị" của Vương Tâm lại đưa
ra lời nhận xét của nhạc sĩ Đỗ Bảo: "Giáo dục về thẩm mỹ âm nhạc ở tự mỗi
người nghe là còn hạn chế, chẳng hạn so với phần đông nhân dân lao động, lực lượng
trí thức vẫn còn vô số người nghe nhạc Sến, nhạc não nùng".
Xin ông tha cho nhân dân được nhờ! "Giáo dục về thẩm mỹ
âm nhạc ở tự mỗi người nghe là còn hạn chế," Ai, cơ quan nào giáo dục về
thẩm mỹ âm nhạc cho 'tự mỗi người nghe'? Câu nhận xét sao lủng củng quá. Có vẻ
như ông muốn toàn dân phải được được giáo dục để chỉ để thưởng thức nhạc giao
hưởng, opera... như ông, mà nay hình như chẳng có mấy ai quan tâm?
Tính cảm thụ nghệ thuật là đặc tính chung tuy có cao thấp của
người thưởng ngoạn, nhưng đều hướng về chân thiện mỹ và do đó mà tạo ra luật
đào thải tự nhiên từ quần chúng tiêu dùng. Cái gì hay đẹp phục vụ đời sống thường
nhật của quần chúng đều được mọi người yêu chuộng nên trường tồn, cái gì chỉ phục
vụ cho chính trị nhất thời đều sớm tàn lụi. Bằng chứng là nhạc đại chúng của miền
nam đến nay vẫn còn được yêu chuộng trong khi 'nhạc đỏ' chẳng còn ai nhắc nhở.
Sang hay sến còn tùy tâm cảm của người thưởng thức; chẳng nên
mang nhận xét tính cá mè một lứa đầy phiến diện như của nhạc sĩ Pháp Hector
Berlioz khi nói về nhạc Trung Hoa thì cho là giống "chó ngáp mèo mửa"
hay một ông hoàng ở Lahore, Pakistan lại cho nhạc tây phương chỉ là "tiếng
sói tru giữa sa mạc".
Cái thói thượng lưu cung đình mà có lẻ nhiều tác giả tranh luận
cho là 'nhạc sang' vẫn còn đeo đẳng mãi cho đến thời nay, dù thực lố bịch vẫn
chưa chịu biến mất. Trong một dịp du lịch châu Âu vào năm 2000, khi đến Vienna
thủ đô Áo, trong chương trình tham quan có một buổi nghe nhạc Watlz ở Schoenbrunn
Palace Concerts tồn tại từ thời nữ hoàng Maria Theresa của giòng Habsburg, du
khách được nhắc nhở phải ăn mặc nghiêm trang chỉnh chu với bộ vét và cà vạt khi
đến dự. Có chán không kia chứ!
Thính phòng rộng im phăng phắc, mọi người ngồi như tượng chỉ
thỉnh thoảng có tiếng ho nhẹ cố nén xuống của thính giả; trong khi hôm trước đến
dự buổi ca vũ dân gian (theo các tác giả kể trên, chắc là loại 'sến') Tyrolean
Evenings Family Gundolf Show ở Innsbruck thì du khách ăn mặc thoải mái, nốc
bia... vô tư; còn đám vũ công nam trên sân khấu thì chỉ độc quần cộc cao lên tận
bẹn tay thì vỗ chân liên tục rất vui tai, lạ mắt và... tiền (từ du lịch) thì cứ
chảy vào như nước. Mọi người đều hả hê thoải mái chẳng còn biết phân biệt đâu
là sang và đâu là sến nữa. Mong các nhà tranh luận kiểu 'vệ binh đỏ' nên đi ra
nước ngoài nhiều để có cái nhìn thực dụng thông thoáng hơn.
Ông Vương Tâm lại thêm "Trước đây ở ta có những lệnh cấm
với những bài hát Sến có những lời ca dung tục, bi lụy não nề thì nay càng cần
phải làm triệt để hơn. Các cấp các ngành văn hóa có lẽ phải tạo nên nhiều sắc lệnh
chặt chẽ hơn để nâng cao chất lượng chương trình biểu diễn hoặc các album được
ra đời." Tôi mong ông sớm được làm quan to về quản lý văn hóa có quyền để
ông sớm ra tay quét dọn những tệ nạn vi phạm thuần phong đạo đức, dâm ô trụy lạc,
gia tăng bạo lực, giết người bừa bãi hiện đang lan tràn trong nước dưới ảnh hưởng
của các xã hội bạo lực Âu Mỹ qua internet. Khi nêu ra những đề nghị như trên,
không biết ông đã sống vào thời nào? thời chuyên chính vô sản, thời bao cấp tem
phiếu hay thời đại điện tử?
Lời phê bình đề nghị trên làm tôi nhớ lại các cáo buộc thiếu
đứng đắn của một ông khác Nguyễn Lưu, con của cựu cán bộ cao cấp Nguyễn Xiển,
đã viết trên báo rằng ca khúc 'Mùa thu chết' của nhạc sĩ Phạm Duy, từng làm bộ
trưởng văn hóa thời Nguyễn Văn Thiệu, đã xuyên tạc cách mạng tháng 8. Bút sa gà
chết, nào có rút lại được? Rõ khổ!.
Kết Luận
Các vụ thảo luận ồn ào về 'nhạc vàng', 'nhạc sến', 'nhạc phản
động' v.v... ở trong nước cho ta thấy có nhiều yếu tố phũ phàng khó chối cãi là:
1) Thái độ chính trị của Nhà Nước trước chính sách giao lưu cởi mở với thế giới
bất khả phản hồi, cho nên việc cho phép 'nhạc vàng' sống lại chỉ là hệ quả.
Chính trị luôn là thành tố quyết định đời sống của xã hội.
2) Một số quan văn
hóa 'bảo hoàng hơn vua', trước đây đã được đào tạo theo lối hàn lâm, lo sợ cho
vị trí và quyền lợi của mình nên đưa ra nhiều đề nghị chống đối 'nhạc vàng' lỗi
thời mang tính phỉ báng thiếu cơ sở.
3) Tình hình yếu kém của nền tân nhạc hiện
tại trong nước sau một thời gian dài 'nhạc vàng' bị cấm vẫn không tìm được lối
thoát nên dòng nhạc và nghệ sĩ cũ vẫn được dân chúng đón chào khi tái ngộ, chứng
tỏ giá trị nghệ thuật nhất định của 'nhạc vàng'.
4) Với trào lưu ảnh hưởng mạnh
mẽ của Âu Mỹ qua internet ngày nay, chưa biết nghệ thuật của ta sẽ được gạn lọc
như thế nào và đi về hướng nào trong mai sau.
5) Luật đào thải tự nhiên của người
thưởng ngoạn trong thời kinh tế thị trường sẽ là người trọng tài vô tư nhẩt.
Tương lai của 'nhạc vàng' cũng sẽ có giới hạn của nó. Que sera, sera.
Mong các lời luận bàn về 'nhạc vàng' một cách tiêu cực của
các quan văn hóa (không chức vụ) nên chấm dứt từ đây; và lối đánh đồng 'nhạc sến'
với 'nhạc vàng' chỉ làm cho mọi người cười cho sự hiểu biết nông cạn của mình
cũng nên chấm dứt luôn.
2012
Trần Hải Âu
Trả lờiXóavé máy bay eva air khuyến mãi
mua vé máy bay đi mỹ ở đâu
mua ve may bay hang korean air
săn vé máy bay đi mỹ giá rẻ
vé máy bay đi canada giá rẻ
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngau Hung Du Lich
Kien Thuc Du Lich