Thứ Sáu, 22 tháng 9, 2017

Một nhân cách, một tâm hồn

Một nhân cách, một tâm hồn 
Trong cuộc đời, dẫu không ít lần ta phải chứng kiến sự ra đi của người thân thích, bạn bè và cả người chưa quen biết, để tự nhủ lòng rằng, cái gì đến rồi sẽ đến, nhưng khi nhận được tin dữ về nhà thơ Trần Quốc Minh, người bạn thân thiết đã từ giã cõi trần, tôi vẫn không khỏi bàng hoàng. Sao cuộc đời thật lắm điều cay nghiệt, khi những người lương thiện chân tình và ngay thẳng lại cứ lần lượt lìa xa, dẫu tuổi tác đã xế chiều và sức khỏe từng dự báo điều chẳng lành.
Như có linh tính mách bảo, cách đây chừng vài ba tuần, sau thời gian im lặng khác thường cùng đôi ba lần gọi điện, nhắn tin tới nhà thơ Trần Quốc Minh mà không nhận được hồi âm, tôi vội đến tư gia nhà thơ thăm ông. Sức khỏe của ông rất yếu, không ngồi dậy được, nằm lâu người lở loét nhiều chỗ, nói năng khó khăn và hơi lẫn. Chăm sóc ông chủ yếu là bà Dậu, một người vợ luống tuổi, mộc mạc, thật thà, vất vả lận đận lâu nay. Tôi ngồi hỏi han nhắc nhở bà vợ ông hồi lâu, kể cả việc dặn bà cách sử dụng điện thoại di động của ông Minh phòng khi cần liên lạc, việc mà từ trước tới nay bà chưa bao giờ đụng đến. Trở về nhà, tôi vội gọi điện cùng báo tin cho bạn bè trong giới văn chương về tình trạng nguy kịch của nhà thơ Trần Quốc Minh, dẫu vẫn biết từ trước đến nay anh chị em cũng rất quan tâm  trong việc thăm hỏi. Trước mỗi sự mất mát, người ta hay nghĩ quẩn quanh không đâu, về số mệnh, về thân phận, kể cả nỗi giận buồn vô cớ, cùng cả sự bất lực của mình khi phải chứng kiến, phải chịu đựng trước tình cảnh mỗi lúc một đuối dần, như ngọn đèn dầu lụi bấc của người thân thiết.
Cuộc đời nhà thơ Trần Quốc Minh là cả chuỗi ngày nối tiếp nhau của sự vất vả, từ tấm bé đến khi qua đời. Ông bị dị tật bẩm sinh, đi lại khó khăn, phải dùng đến chiếc nạng. Hồi học ở trường cấp 3 Ngô Quyền (Khóa 1959-1962), tôi và ông Minh cùng khóa nhưng khác lớp, biết nhau có lẽ cũng do cùng yêu thích văn chương. Sau khi tôi tốt nghiệp khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội cùng một thời gian dài công tác giảng dạy ở tỉnh Hải Hưng, kể từ năm 1973 tôi chuyển công tác về Hải Phòng mới thực sự gần gũi nhà thơ Trần Quốc Minh và trở nên thân thiết. Mến ông trước hết ở đức độ cùng nghị lực vượt qua hạn chế về sức khỏe, hoàn cảnh gia đình để sống, làm việc và làm thơ. Thi đỗ vào trường Đại học Tổng hợp, do không đủ sức khỏe, ông trở về làm việc tại một Hợp tác xã may mặc ở phố Hoàng Văn Thụ. Công việc kế toán đòi hỏi sự tỉ mẩn chỉn chu, có thể phần nào ảnh hưởng đến sáng tác thơ ca của ông. Hằng ngày, ông lê bước chân cùng chiếc nạng từ nhà đến nơi làm việc, nhọc nhằn và kiên nhẫn.
Căn phòng nhỏ của gia đình ông trong ngách hẻm ở phố Trần Hưng Đạo, gần trụ sở Hội Văn học nghệ thuật Hải Phòng. Nhà ông cũng là nơi thường lui tới của nhiều anh chị em văn nghệ sĩ ở địa phương, kể cả ở nơi xa. Đôi lúc có thời gian rảnh rỗi, tôi tới cùng ông đàm đạo thơ ca cùng chuyện đời. Có khi, tôi còn dùng xe đạp đèo ông đi dạo quanh phố, đến công viên gần nhà ông, ngồi ghế đá đọc cho nhau một đôi bài thơ mới viết. Cái thời hồn nhiên say mê pha chút lãng mạn ấy đã lùi xa, đi vào trong ký ức của thế hệ ngày ấy, trở thành kỷ niệm một đi không trở lại, đến bây giờ đã có nhiều đổi khác. Là người sống chí tình với bạn bè, ông để lại nhiều tình cảm tốt đẹp trong lòng mọi người. Sau này khi gia đình ông chuyển đến căn phòng trên gác hai khu tập thể Vạn Mỹ, Hải Phòng, thì dường như ít khi ông ra khỏi nơi ở. Có lẽ chỉ có lần ông ra ngoài là hôm bạn bè đặt ông trên chiếc xe lăn khiêng xuống đường sang bên khách sạn đối diện khu nhà ở để tổ chức lễ cưới cho cậu con trai duy nhất của ông là cháu Việt. Đời cũng làm sự trớ trêu, đúng giây phút nâng cốc chúc mừng hạnh phúc của con trai cùng con dâu ông, thì tôi nhận được cú điện thoại từ gia đình cũng của một người bạn thân làm giáo viên là Đặng Thông, báo tin ông Thông đang hấp hối, điều mà chúng tôi nín thở theo dõi từng ngày. Thế là tôi vội mừng sớm cho gia đình ông Minh, bày tỏ sự thông cảm để quay về tiễn biệt ông bạn lần cuối. Cả ngày ông quẩn quanh một mình trong căn phòng. Người vợ đảm đang  bán hàng vặt ở chợ. Con trai đi tàu biển, thỉnh thoảng về nhà, cả đến khi có con dâu cùng đứa cháu nội thì cuộc sống của ông cũng không bớt được là bao ở sự vất vả, nhất là đơn độc. Có ai đó nói rằng, sự cô đơn, có khi còn sợ hơn cả sự nghèo khổ. Vậy mà ông như bị vây hãm giữa hai điều đó, dẫu quanh ông còn có gia đình, nhưng khoảnh khắc ấy, ông chẳng thể làm gì, ngoài làm… thơ. Để đến thăm ông, chỉ có thể vào buổi chiều chạng vạng tối, khi có người nhà trở về mở cửa đón khách. Có lần ông trượt ngã, va đập đau đớn một mình trong nhà chẳng ai hay mà cũng chẳng thể gọi ai. Liên lạc với người thân, bạn bè là chiếc điện thoại cùng bộ máy tính. Ông là người hay quan tâm đến những biến diễn trong đời sống văn chương cũng như đời thường. Thỉnh thoảng, ông lại gửi cho tôi một vài tin tức bè bạn chuyển đến, mà ngay chính tôi cũng chưa được biết, kể cả liên quan đến bản thân mình như có bài in trong tuyển tập này nọ. Hay như cái lần được bạn bè tặng ông chiếc láp-tốp, ông cũng gọi điện báo tin vui cho tôi. Bạn bè ít giấu giếm nhau, mà thường chia sẻ, kể cả chuyện riêng tư. Có khi ông còn là chiếc cầu nối chuyển những tín hiệu gần xa đến tôi bởi sự tế nhị nào đó.
Đã có lúc, tôi tự hỏi, ví thử không có thơ ca, ông sẽ sống ra sao? Thơ ca vừa là niềm vui, vừa là chỗ vịn tựa tinh thần của ông, là người bạn đồng hành trong suốt cuộc đời. Thơ ông hiền lành, giản dị, trong trẻo tình người. Giữa vòng xoáy nghiệt ngã của thời cuộc, khi còn không ít sự lầm lẫn giữa cái thật giả, hay dở mà người lương thiện chân chính còn có được chỗ đứng, được ghi nhận, thậm chí tôn vinh, thì cũng còn là điều đáng mừng. Chật vật là thế, nhưng ông vẫn kiên trì, lặng lẽ sáng tác, bù đắp lại sự vắng hụt trong cuộc sống đời thực. Ông viết bằng cái tâm và cái tình, những gì gần gũi quanh mình cùng sách vở. Ngoài thơ ca thường lệ, ông còn viết thơ trào phúng, một dạo, dạng thơ này được sử dụng khá cởi mở với cái tên Trần Quốc Minh xuất hiện tương đối quen thuộc. Ông còn làm thơ cho thiếu nhi, và viết cả truyện mini nữa.
Thế rồi, sức khỏe của ông  ngày một giảm sút. Gian phòng nhỏ hẹp nằm khuất phía sau chỉ vừa đủ chiếc giường một nơi ông nằm cùng vài thứ vặt cho người ốm. Vậy mà ông vẫn tỉnh táo trò chuyện cùng gia đình, bạn bè cho đến ngày sức lực cạn kiệt. Nhớ lại ngày đầu năm đến thăm ông, thấy tôi ngồi cạnh cả vật dụng bất tiện, bà Dậu, vợ ông cứ nhắc tôi ngồi tránh ra ngoài. Người vợ ấy có biết đâu rằng, bây giờ tôi chỉ ao ước lại ngồi cạnh giường ông nằm, để tâm sự, cho dù môi trường ấy có bất tiện thế nào chăng nữa.
Mới đó mà bây giờ ông đã ra người thiên cổ. Vẫn biết sinh lão bệnh tử là luật đời, nhưng sao lại là lúc này, sao lại ở đây, sao lại là ông, người bạn tâm giao mà đôi lúc ông buột miệng bảo tôi rằng, ông ấy chưa nói hết câu mà tôi đã hiểu ý ông. Là bởi vì lời nói ra đâu chỉ là vỏ bọc ngôn ngữ thông thường, đó là sự ký thác tâm tư tận đáy lòng, là sự giao hòa của những suy cảm, chưng cất qua bao năm tháng của đời người, một giác quan không thể gọi tên, bí ẩn thiêng liêng và mãi trường tồn.
Hải Phòng, ngày 19/8/2017
Phạm Ngà 
Theo https://vanhaiphong.com/




1 nhận xét:

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...