Chủ Nhật, 24 tháng 9, 2017

Mùa xuân đang nói về hạnh phúc

Mùa xuân đang nói về hạnh phúc
Đầu đề này mượn nguyên một câu thơ Nguyễn Đình Thi, thích nghi cho một bài báo Xuân lấy hạnh phúc làm đối tượng.
Ngoài việc hợp thời, chữ hạnh phúc ở đây mang nội dung sâu rộng, trong đoạn kết một bài thơ ngắn, làm năm 1977:
Lá non đã xanh rờn mặt đất
Mùa xuân đang nói về hạnh phúc
Cảnh chim bay trên sông núi lạ lùng
Giữa ngàn cây
Gội sương giá tình yêu đến.
Hạnh phúc trên ba tọa độ: thiên nhiên - đất nước - tình yêu. Hạnh phúc muôn đời, trong và ngoài lịch sử, và trong khoảnh khắc lứa đôi.
Hạnh phúc, niềm vui riêng của từng người có lẽ cũng tùy dân tộc và thời đại. Người Việt hôm nay, sau những gian truân, không thể nói hạnh phúc chung chung, bình thường, như con người nơi khác.
Sau Cách mạng Pháp 1789, trên diễn đàn Quốc dân đại hội, ngày 4.3.1794, Saint Just đã có câu tuyên bố để đời: hạnh phúc là một tư tưởng mới tại Âu châu. Không phải là trước đó, người Âu không biết hạnh phúc, nhưng phải đợi đến thế kỷ 18 khái niệm này mới được phổ biến, tranh luận rộng rãi, như một đối tượng trong đời sống của từng cá nhân hay công dân. Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ ngày 4.7.1776 đã đòi hỏi hạnh phúc như một quyền cơ bản của con người. Tiêu ngữ độc lập - tự do - hạnh phúc xuất hiện từ 1945 tại Việt Nam, phần nào cũng bắt nguồn từ đấy, và chữ hạnh phúc, từ đây trở thành một lý tưởng chính trị, bên cạnh ý nghĩa thường tình mà nó vẫn có - nhưng chỉ vài ba mươi năm về trước. 
Trước đó, ta có chữ hạnh và chữ phúc nhưng không có danh từ hạnh phúc. Cả hai khái niệm hạnh và phúc đều là những điều may mắn, tốt đẹp đến từ bên ngoài. Quyền họa phúc trời tranh mất cả (Cung Oán Ngâm Khúc); còn từ kép hạnh phúc là một cảm nhận nội tâm và chủ quan, dù cần hoàn cảnh khách quan yểm trợ. Ví dụ ta nói con hơn cha là nhà có phúc; nhưng chắc gì đã hạnh phúc. 
Nội hàm hiện đại của từ hạnh phúc du nhập từ Âu Tây, qua Trung Quốc, đến Việt Nam đã thay màu đổi sắc. Ở phương Tây, nó thừa hưởng tư tưởng Hy Lạp và Thiên Chúa giáo; đến Việt Nam nó chịu ảnh hưởng Lão Trang và Phật giáo, thêm phần hồn hậu dân gian. 
Từ lâu đời, Đông phương có truyền thống đi tìm an tịnh cho tâm hồn. Thậm chí đây còn là điều cốt lõi trong hiền triết phương Đông.
Vào thời bình minh của văn học nước ta, thơ văn thời Lý của các thiền sư rạng ngời hạnh phúc, là việc đương nhiên. Vì là thơ Thiền. Đến đời Trần, danh tướng Trần quang Khải, trong hai bài thơ Xuân, đã đạt tới hai câu kết: đè nghiêng ngọn giáo đọc thơ chơi - Vỗ thanh gươm cũ nhớ non xưa (bản dịch Ngô Tất Tố), chí khí hào hùng mà thần thái thanh tịnh, có thể xem như là hình ảnh hàm súc, uyên áo của hạnh phúc. 
Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi là những bài ca hạnh phúc: núi láng giềng, chim bậu bạn, mây khách khứa, nguyệt anh tam (em); niềm vui của bậc cao nhân, chan hòa trong trời đất và xã hội. Thơ chữ Hán cũng diễn tả niềm vui đó:
Trại đầu xuân độ
Độ đầu xuân thảo lục như yên
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên
Dã kính hoang hương hành khách thiểu
Cô châu trấn nhật các sa miên
Xuân Diệu dịch thần tình:
Cỏ xuân đầu bến xanh như khói
Thêm hạt mưa xuân nước vỗ trời
Đường nội vắng xa hành khách ít
Thuyền côi gác bãi suốt ngày ngơi
Bài thơ tả cảnh ông lái đò ngày xuân, không hiện thực. Vắng khách là ông lái thất thu, phải làm việc khác để sinh nhai, chứ không thể gác thuyền ngủ suốt ngày. Nhưng thơ hay, sâu sắc vì dự phóng giấc mơ hạnh phúc của tác giả ; giấc mơ có thiết tha, sâu sắc mới đưa đến một nguyên tác hay như thế, hay từ hình ảnh đến nhip điệu, âm thanh. Và Xuân Diệu phải tâm đắc và hạnh phúc lắm mới dịch hay như thế, nhất là câu cuối, một chuỗi âm thanh quyện vào nhau, dìu dặt, dìu dắt nhau đến một chữ ngơi cuối câu, hiếm hoi, thảnh thơi, tuyệt cú. Đọc hằng trăm trang luận bàn hạnh phúc, không sướng bằng gặp một chữ «ngơi» nơi Xuân Diệu hạnh phùng Nguyễn Trãi. 
Nhưng người xưa, bên cạnh niềm vui lớn chan hòa trong trời đất, có khái niệm gì về niềm vui riêng lẻ giữa đôi lứa, trong gia đình, như ngày nay ta thường hiểu hai chữ hạnh phúc? Nhất định là có, như khi người cung nữ sống lạnh lẽo trong vách quế đã mơ ước cuộc đời bình dị, nhưng đầm ấm với chồng con : lau nhau ríu rít còn con cũng tình (Cung Oán Ngâm Khúc, câu 296). Mỗi chữ, mỗi chữ nôm na, dân dã, đều gợi hình, gợi cảm, líu ríu gọi về một cảnh sống cụ thể  cục kịch nhà quê (câu 299), ngày nay ta gọi là hạnh phúc.          
Thế hệ văn thơ được gọi là tiền chiến quan tâm nhiều đến hạnh phúc, tiêu biểu là Huy Cận, trong tập Lửa Thiêng:
Hạnh phúc rất đơn sơ
Nhịp đời đi chậm rãi
Mái nhà yên bóng trưa
Ong hút chùm hoa cải.
Chỉ trong hai mươi chữ, Huy Cận đã nói rất nhiều, dường như trọn vẹn về hạnh phúc - trước tiên là quan hệ êm ả với thời gian. Khổ nạn lớn nhất của người đời, và đời người, là niềm hoảng hốt trước thời gian, giằng xé, tàn phá, bôi xóa. Nhưng nguyên lý của cuộc sống, thời gian lại là yếu tố của hạnh phúc, nảy mầm, sinh lộc, đơm hoa, kết trái.
Về hạnh phúc, tiếng Việt tinh vi, trong chủ quan của tôi, cùng một từ, ta nói «thung dung», nghe không thong thả bằng chữ «thong dong », «tháng ngày» không khoan thai như «ngày tháng».
Hạnh phúc còn là quan hệ đẹp với không gian, tiêu biểu là mái nhà, yên và ấm dưới bóng trưa. Và hoa cải nữa chứ. Màu hoa tươi sáng, đơn sơ và hiền hậu trong vườn, vườn tôi, vườn nghèo, vào một ngày chớm đông se lạnh. Con ong, bằng không gian và thời gian, biến nhụy hoa thành mật ngọt, vừa là quy luật, vừa là phép lạ.
Mật ngọt là tinh hoa của hạnh phúc trần gian.
Mấy câu thơ này nằm trong bài Hối Hận, không có trong Tuyển Tập thơ Huy Cận, 1986. Thơ tuyển, cho dù của Huy Cận, không phải bao giờ cũng hạnh phúc.
Nhà thơ Pháp Aragon có câu thơ nổi tiếng, vì Jean Ferrat phổ nhạc: ai nói hạnh phúc, đôi mắt thường buồn, vì chữ hạnh phúc thường gợi lại nguồn thương đã qua, nguồn vui đã tắt, rười rượi âm hưởng u hoài.
Người Việt Nam, sau hai cuộc chiến tranh dài, lại trải qua những gian nan, xiêu lạc. Nói đến hạnh phúc, không khỏi ngỡ ngàng. Trong chiến tranh, miền Nam cũng như miền Bắc, giữa muôn ngàn thất bát, bên ngoài chính kiến, hạnh phúc là gì ? Không đặt câu hỏi đó là bạc tình.
Nhà văn Dương thị Xuân Quý, phóng viên chiến trường, đã hy sinh tại mặt trận Quảng Nam ngày 8.3.1969, trước khi mất, bà còn viết: may mắn tôi được có mặt, gặp nhiều nguy hiểm, nhưng vui kỳ lạ. Chồng bà, nhà thơ Bùi Minh Quốc, cùng chiến đấu trên một địa bàn, đã có Bài thơ về Hạnh Phúc làm ngay sau đó:
Hạnh phúc là gì?
Bao lần ta lúng túng
Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi chưa ra
Cho đến ngày cất bước đi xa
Miền Nam gọi, hai chúng mình có mặt
Hạnh phúc nơi đây là thực hiện một nhiệm vụ thiêng liêng, không quản ngại an nguy cho tính mệnh.
Một cảm xúc nhẹ thoáng
Trong một góc vườn cháy khét lửa na-pan
Em sửng sốt gặp một nhành hoa cúc
Và em gọi đó là hạnh phúc
Hạnh phúc bất ngờ, lung linh một đóa hoa vàng, nhành hoa cúc, làm nhớ niềm vui của Quang Dũng, nơi một chiến trường khác, đồng bằng sông Hồng, 1954 :
Nhớ một con đường biên giới
Nằm chờ giặc qua
Mũi súng kề bên cành cúc dại…
(Bài Nhớ những mùa xuân, 1954, không có trong những tuyển tập)
Trong giai đoạn đất nước phân chia, thơ Miền Nam ít nói về hạnh phúc, thậm chí hai chữ hạnh phúc cũng ít được dùng.
Du Tử Lê , khoảng 1967, bắt đầu một bài thơ:
Hạnh phúc tôi từ những ngày nước lớn
Trời mưa mau tay vuốt mặt không cùng
Chữ hạnh phúc ở đây là một từ hoa, một phản cú (antiphrase) có nghĩa ngược lại, vì cả bài thơ tả niềm bất hạnh, đỉnh cao là hình ảnh «con dế buồn tự tử giữa đêm sương». Nhưng cụm từ «hạnh phúc tôi…» nổi tiếng và gây ấn tượng vì Từ Công Phụng đã phổ nhạc hay, dưới tiêu đề Trên ngọn tình sầu, 1969, làm nổi bật. Sau đó, kết thúc bài hát, nhạc sĩ láy lại ba lần «hạnh phúc tôi…»
Nghiệm cho cùng, trong nghệ thuật, thể hiện được niềm đau khổ, cũng là một hạnh phúc. 
Hạnh phúc, trong nghĩa trọn vẹn của nó, là một hoang tưởng, một giấc mơ không bao giờ với tới, như trong thơ Nhã Ca, thời bà còn là cô gái trẻ, khoảng 1960:
Kỷ niệm sầu như tiếng thở dài,
Đêm chìm trong tiếng khóc tương lai.
Tầm xa hạnh phúc bằng đêm tối,
Tôi mất thời gian,  lỡ nụ cười.
Đời sống ôi buồn như cỏ khô,
Này anh, em cũng tợ sương mù.
Khi về tay nhỏ che trời rét,
Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ.
Điều đó không có nghĩa là con người Miền Nam không biết có hạnh phúc, trong lẽ tương đối, giữa một xã hội bất ổn và tinh thần bất định.
Có khi con người «lẫn trốn» như Hoài Khanh:
Người em gái trở về đây một bận,
Con đường câm bỗng sáng ánh diệu kỳ.
Tôi lẩn trốn vì thấy mình không thể:
Mây của trời rồi gió sẽ mang đi.
Thân phận, 1962
Đã xa rồi thời Áo Trắng, tiền thế chiến, của Huy Cận:
Đôi lứa thần tiên suốt cả ngày
Em ban hạnh phúc chứa đầy tay. 
Tiêu biểu cho thơ Miền Nam, từ ngôn ngữ, đến tình cảm, tư tưởng có lẽ là Tô Thùy Yên, 1971:
Biết đã trễ nên không thèm hối hả,
Cuộc tình này như chút đỉnh khoan dung
Của định mệnh cũng có lần nới thả,
Hạnh phúc này như sóng rã trên sông.
(trích từ Thơ Tình Miền Nam, nxb Thư Ấn Quán, 2008, Hoa Kỳ, địa chỉ tranhoaithu@verizon.net. Thơ Nhã Ca, Hoài Khanh, cũng vậy)
Hạnh phúc ở đây bất ngờ, bất chợt, mong manh – là một may mắn, do một kẽ hở của định mệnh khoan dung,  nới thả.
Tôi nghĩ đây có thể là một quan niệm tiêu biểu cho tâm trạng Miền Nam thời đó. Sau này, trong tập Thơ Tuyển 1995, Tô thùy Yên có bài Ánh Tàn Dư nói nhiều về hạnh phúc:
Hãy hạnh phúc nhất thời
Như dấu lặng.
Hãy hạnh phúc nhất thời
Như tiếng mưa rào, như lời cỏ hát,
Như ánh chớp đùa, như hạt sương gieo,
Như gợn nước lan reo mà tự hủy
(…) Hãy hạnh phúc nhất thời,
Hạnh phúc mãi.
Ôi cuộc trăm năm,
Tấm chăn nghèo
Chắp chằm muôn mảnh vụn.
Bài thơ không ghi thời điểm sáng tác, nhưng theo cách sắp xếp của Thơ Tuyển, có thể là một tác phẩm bản lề khi tác giả sắp rời Việt Nam - mới đến Hoa Kỳ, 1993, nghĩa là hình thành trong nước và viết lại khi ra nước ngoài. Nói điều này để uyển chuyển ý nghĩa chữ «thơ Miền Nam» ở đây.
Dù sao hình ảnh hạnh phúc, cuộc đời như «như một tấm chăn nghèo, chắp chằm muôn mảnh vụn» vẫn là một biểu tượng hàm súc, cảm động, giàu ý nghĩa chung cho cả dân tộc gian truân qua nhiều thời đại.
Bất cứ ở đâu, hoàn cảnh nào, thì hạnh phúc tự nó vẫn đơn sơ, như ai đó một lần đã nói. Nhưng đơn sơ mỗi nơi, mỗi lần mỗi khác. Luận bàn từ đông sang tây, từ cổ chí kim, không khó. Nói về một chùm hoa cải, một nhành cúc dại,  một tiếng mưa rào, khó hơn.
Trong định nghĩa nào đi nữa, hạnh phúc cũng tiềm tàng một cơ bản đạo đức. Chữ hạnh, chữ phúc của người xưa đã vậy, ngày nay cũng vậy. Nói chung, hạnh phúc là đồng tình giữa con người và cuộc sống, bắt đầu từ cuộc sống của chính mình, sau đó mới đến niềm vui trong một nhân gian không toàn thiện, một không gian không hoàn mỹ và một thời gian không vĩnh viễn.
Viết về hạnh phúc, mình phải hạnh phúc, may ra mới mang đến cho người đọc một thoáng hạnh phúc.
 Tết Dương lịch, 2007
Đặng Tiến
Theo http://www.tanvien.net/






1 nhận xét:

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...