Nguyễn Vy Khanh viết về Võ Hồng
Võ Hồng sinh ngày 2-12-1922 (khai sinh ghi 5-5-1921) tại
làng Ngân Sơn, quận Tuy An, tỉnh Phú Yên. Con một gia đình điền chủ, sớm mồ
côi mẹ. Học trường làng, trường phủ Tuy An và trường tỉnh Sông Cầu rồi trường
Collège Quy Nhơn. Năm 1940, ông đậu bằng thành chung, ra Hà Nội học tú tài.
Năm 1943, Hà Nội bị đồng minh oanh tạc, ông bỏ về quê nhà. Năm 1945, ông lên
Ðà Lạt giữ chức bí thư tòa Tổng Ðốc bốn tỉnh cực Nam Trung Việt thời nội các
Trần Trọng Kim, sau đó ông trở lại Tuy Hòa dạy học. Ông làm hiệu trưởng một
trường trung học thời kháng chiến. Năm 1954, ông vào định cư hẳn ở Nha Trang
và dạy học tại các trường trung học Lê Quý Ðôn và Bồ Ðề. Ðầu thập niên 1970,
ông được cử làm hội viên Hội đồng Văn hóa giáo dục. Ông lập gia đình với một
giáo sư Anh văn và âm nhạc nhưng bà mất sớm; từ 1957, ông "gà trống"
nuôi ba con lúc mẹ mất mới 9, 6 và 3 tuổi. Võ Hồng khởi viết truyện ngắn từ
năm 1939 trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy (Hà Nội) với bút hiệu Ngân Sơn.
Sau này viết báo ở trong Nam ông dùng tên thật làm bút hiệu.
Tác phẩm đã xuất bản gồm các tiểu thuyết:
Hoài Cố Nhân (Ban Mai, 1959), Hoa Bươm Bướm (Lá Bối, 1966), Người Về Ðầu Non (Văn, 1968), Gió Cuốn (Lá Bối, 1968), Những Giọt Ðắng (Lá Bối, 1969), Nhánh Rong Phiêu Bạc (Lá Bối, 1970), Như Cánh Chim Bay (tiếp Hoa Bươm Bướm, Lá Bối, 1971). Các tập truyện ngắn: Lá Vẫn Xanh (Thời Mới, 1962), Vết Hằn Năm Tháng (Lá Bối, 1965), Khoảng Mát (An Tiêm, 1966), Con Suối Mùa Xuân (Lá Bối, 1966), Bên Kia Ðường (Mặt Trời, 1968), Trầm Mặc Cây Rừng (Lá Bối, 1971).
Và 3 tập truyện đơn: Áo Em Cài Hoa Trắng (Lá Bối,
1969. 30 tr.), Trận Ðòn Hòa Giải (Lá Bối, 1970. 31 tr.), Xuất
Hành Năm Mới (Lá Bối, 1971. 28 tr.)
Tác phẩm
Võ Hồng là một nhà văn tinh tế nhưng nhân hậu và mực thước,
thận trọng: ông đúng là một nhà giáo viết văn. Ông viết rất đều đặn và kỹ lưỡng
như sự kiên nhẫn cần có của nghề giáo. Văn ông giản dị, tươi mát nhưng không
kém thơ mộng khi cần đến. Trong một phỏng vấn của Nguyễn Nam Anh trên tạp chí
Văn năm 1972 (1), Võ Hồng đã cho biết hoàn cảnh góa vợ phải gần con nuôi con
đã giúp ông viết đều và nhiều. Từ khi con đi học xa và có đứa đi du học, ông
thú nhận viết khó hơn vì ông vẫn thích thăm bạn bè, ngao du thắng cảnh và
quan sát sinh hoạt. Ðó là lý do ông đã khởi viết Tiếng Ca Lặng Lẽ để tiếp bộ
Hoa Bươm Bướm và Như Cánh Chim Bay mà đến nay hình như vẫn chưa xuất bản.
Nếp xưa ngày cũ
Toàn bộ sự nghiệp của Võ Hồng như một dâng hiến cho quê
hương Phú Yên của ông. Nếu Võ Phiến khởi nghiệp văn học và nổi danh với quê
hương Bình Ðịnh thì Võ Hồng là Phú Yên. Trong các truyện dài hay truyện ngắn
của ông, người đọc vẫn thấy rõ miền quê Ngân Sơn, Phú Yên trải qua nhiều thời
phế hưng, mà các nhân vật cũng là những con người quê mùa hay thuần hậu của
vùng trời đó. Ông tự cho sứ mạng viết lại quá khứ cho người trẻ: "Lịch sử
là một dây xích dài gồm nhiều mắt xích nhỏ. Cái mắt xích Dĩ Vãng đó chưa hề
được nói tới thì tôi phải ra công mô tả lại. Thế hệ của chúng tôi bị chiến
tranh tàn phá quá nhiều, một số lớn đã chết, những nếp sống cũ lần lần bị xóa
đi, thay thế bằng nếp sống mới. (...) Tôi muốn các thế hệ đàn em có dịp để
thiết tha gắn bó với quê hương hơn" (1).
Người Về Ðầu Non kể chuyện quê hương thời thơ ấu, thời học
trò và người Bác trong thực tế là cha nuôi. Từ thời thuộc Pháp qua những biến
cố kháng chiến, tổng động viên, thuế nông nghiệp. Ðời sống dân giả mộc mạc,
trong cách đặt tên, khai sinh theo "ngày tháng An-Nam". Cảnh đi coi
gặt lúa vào ngày mùa. Hình ảnh học đường ngày xưa. Bao trùm là những tiếc nuối
và đau thương về người thân. "Có những buổi chiều cô đơn vắng lặng, tôi
thả hồn về từng chặng dĩ vãng, thấy lại Bác trong những khung cảnh sinh hoạt
quen thuộc, từ gần gũi đến xa xôi, từ lần gặp Bác cuối cùng trí nhớ đi ngược
thời gian về đến hình ảnh Bác cầm tay tôi dắt đi trên những con đường âm u cây
lá trong vườn, ra cái bến nhỏ để cùng nhìn xuống dòng sông !" (tr. 136).
Lúc tác giả thành người, lập gia đình, có con và có thể đền ơn là lúc chiến
tranh vụt tới và người Bác vĩnh viễn ra đi. Tiễn đưa Bác đến nơi an nghỉ.
"Tâm hồn tôi thấy trống vắng mỏi mệt, tôi nhắm mắt lại để trông về con
đường quá khứ của mình. Có thể tin rằng Bác tôi đã mất rồi không? Ðã giã từ
tôi vĩnh viễn, bây giờ đã nằm dưới lòng đất, suốt đời tôi không còn gặp mặt?"
(tr. 119).
Hoài Cố Nhân là chuyện Lý, bạn tác giả. Anh và Xuân yêu
nhau, nhưng hai gia đình đã khiến hai tâm hồn phải xa cách nhau. Khi họ được
phép thành hôn thì sau ngắn ngủi bốn năm hạnh phúc, Lý lại sớm từ giã cõi đời:
anh là nạn nhân của thời đại. Tác giả có rất nhiều cảm tình đối với Lý.
"Mỗi lần đến thăm anh, tôi thản nhiên đi qua khoảng đất này. Vì không
lưu ý, tôi chỉ mang máng nhớ nơi đây có lá xanh có cây phượng cao hoa đỏ, có
vài con trâu gặm cỏ mơ màng...". Bạn ra đi, vợ con bạn ở lại cô đơn và
đau khổ, nhất là họ vừa trải qua nhiều thử thách của tình yêu. Chị Xuân đau
khổ hơn cả thời hai người yêu nhau mà phải đớn đau xa nhau, cái khổ hôm nay của
chị trĩu nặng vì giờ chỉ còn có chị phải gánh lấy. "Nỗi khổ khi có người
chung chịu, ta không thấy nặng nữa". Ðến thăm cháu là để sống lại ngày
xưa. "Cháu Thảo trắng mũm mĩm, giống ba ở cái miệng, giống má ở đôi mắt.
(...) Tôi hay bế cháu vào lòng, siết cháu thật chặt. Mỗi lần làm như thế, tôi
có cảm tưởng như ngày nào siết chặt tay ba cháu".
Truyện Lạnh Tuổi Thơ (VHNT) vẽ cảnh "gà trống nuôi
con", nói lên cái tình cảm tự nhiên tìm về dĩ vãng và thích sống với kỷ
niệm, ôm ấp như không muốn buông. Người đọc như nghe được tiếng thở dài của
người cha dù đã làm hết bổn phận vẫn không bù đắp trọn vẹn cho các con những
khoảng trống tầm thường như hớp nước uống, như miếng ăn mà với người mẹ là những
tự nhiên đến. Người thầy nhìn học trò viết "lưu bút ngày xanh" mà
xót xa thời đã mất và cô đơn trước cuộc đời. Trong Vết Hằn Năm Tháng, kỷ niệm
chồng chất, hiện rồi biến, có muốn ấp ủ cũng không còn có lý do. Kỷ niệm như
những phù du của cuộc đời. Truyện có khuynh hướng tùy bút này như những tâm sự
của chính tác giả.
Còn những cảnh không còn thấy nơi thị tứ như cảnh trồng cây
cúc vạn thọ quanh sân nhà trong Lá Vẫn Xanh. Thời xưa người ta trồng hoa ăn Tết
chứ không ai ra chợ mua hoa ăn Tết. Mứt thì bán theo quả mứt thay vì mứt
trong gói trong hộp. Pháo đốt thì chỉ có pháo tre ! Rồi những cảnh phụ nữ
bưng rổ đi chợ trước khi biết đến giỏ xách bằng nhựa. Những tiếng cối xay và
chày giã gạo! Những buổi lễ cúng trường ngày Tết (Lễ Cúng Trường, BKÐ) dễ gợi
nơi lòng người tiếc nuối những cảnh cửa Khổng sân Trình! Những gói thuốc tễ,
vv... Toàn là những qua mất, những xa lạ với người thị tứ hoặc thời mới!
Chuyện kháng chiến và chiến tranh
Chiến tranh đã in sâu ở nhiều trang tác phẩm Võ Hồng.
"Chiến tranh tràn lan mỗi ngày một rộng, làng tôi thành bãi chiến trường.
Ðồng bào tản cư, bỏ nhà bỏ cửa, ruộng vườn để cỏ mọc hoang. Bác gái lần mò
vào được với chúng tôi, mừng gặp con cháu nhưng mắt vẫn hướng về ngôi nhà cũ
và về ngôi mộ bơ vơ ở lại một mình..." (Người Về Ðầu Non, tr. 135). Người
chết cũng không yên. "Cụ mất vào lúc chiến dịch mở, đường xe kẹt không
vô Tuy Hòa mua sắm được. Hôm hạ huyệt tình hình lại găng, thanh niên dân vệ tập
trung về trụ sở Xã hết. Ði đưa đám mà sợ máy bay họ bắn lầm..." (tr.
125). Người Bác thân yêu của tác giả đã ra đi thời chiến tranh, mà người
bạn Lý cũng ra đi khi chiến tranh tràn đến. Người vợ bên xác chồng và đứa con
dại mang chiếc khăn tang ngơ ngác đôi mắt ngây thơ giữa hương trầm mộ chí.
Cái thương tâm không to lớn nhưng đã quá lớn dù chỉ với hai mẹ góa con côi.
Cái thương tâm mà tác giả đã thấy và sống và sẽ còn ở hoài với
ông.
Hoa Bươm Bướm - truyện dài 18 chương, khởi từ thời Pháp thuộc,
thời Nhật chiếm, đến thời kháng chiến. Võ Hồng muốn qua bộ truyện này vẽ lại
một giai đoạn hào hùng và những nếp sống đã qua đi. Cẩm Quỳ, Luân, Thức, Mai
Trang nói chung là những người trẻ hăng say nhập cuộc trong mọi hoàn cảnh,
riêng Luân nhiều lần tỏ ra lừng khừng, thiếu niềm tin. Thức bỏ học Hà Nội về
quê vì bom của đồng minh Mỹ; anh yêu Quỳ nhưng nhút nhát. Luân yêu hết Cẩm Quỳ
đến Mai Trang trong cảnh điêu tàn và tản cư. Uống rượu mừng đình chiến, chưa
kịp vui thì chiến tranh với Nhật Pháp lại đến. Vào cuối truyện, Mai Trang cao
cả để Luân đi với Quỳ, lo từng chút cho chàng mà chàng thì "khờ khạo như
mọi người đàn ông" (tr. 206VN). Nàng sẽ đốt từng tấm hình, từng kỷ niệm,
đốt dĩ vãng và trả nhà, nơi vừa qua những ngày hạnh phúc; trả cho chủ nhà để
đi Djiring!
Như Cánh Chim Bay là tiểu thuyết tiếp nối Hoa Bươm Bướm thời
kháng chiến 1946-1954. "Khi nghe lệnh kháng chiến trở lại, thành phố Tuy
Hòa náo loạn lên. Quân Pháp đóng ở Ðèo Cả có thể bất thần tấn công ra. Ðại
bác nổ ầm. (...) Chỉ thị chạy tới tấp chạy từ tỉnh về huyện, về xã, thôi thúc
việc kiểm điểm Dân quân, tập luyện Dân quân. Ðã tan rã hy vọng hòa bình bằng
thương thuyết..." (tr. 85-86VN). Với những Ủy ban kháng chiến, những
chương trình chống nạn mù chữ, chính phủ Nam kỳ tự trị. Những người làm
"cách mạng" do hoàn cảnh đưa đẩy, tay ngang hay do địa phương đề bạt,
kể cả "người cũ". Họ sẽ tuỳ nghi giải quyết chuyện thời thế mới. Những
người xưa nay chỉ biết cày sâu cuốc bẫm "viết chữ chưa thẳng hàng",
chân chất, vụng về, lại tình nguyện tham gia làm giáo viên để giải quyết nạn
mù chữ lớn rộng ở vùng quê. Những hăng say trước ý nghĩa mới của cuộc đời của
Luân, Quỳ,... thêm Phượng, Thúc,... Luân đã hăng say công tác hơn, tỏ ra chịu
đựng hơn. Anh sẽ lấy Quỳ. Còn Tịch và Thúc theo trường kỳ kháng chiến, một ngày
kia sẽ như những cánh chim sẽ bay về nhìn lại tổ cũ cành xưa.
Qua hai tập của bộ trường thiên tiểu thuyết về thời kháng
chiến ở một vùng Phú Yên, Võ Hồng đã không vượt được không gian nhỏ bé của địa
phương để có một cái nhìn rộng và toàn diện về cuộc chiến đó, khiến người đọc
cùng thời với tác giả hoặc trẻ hơn không đủ thỏa mãn. Bức tranh xã hội đã lấn
át hình ảnh cuộc chiến oai hùng chống thực dân. Chính tác giả đã hơn một lần
thú nhận không sống nhiều kinh nghiệm chiến trường và cũng không có thì giờ
thu thập tài liệu.
Tập tiểu thuyết Nhánh Rong Phiêu Bạt kể chuyện Thúy, em bé
gái nạn nhân chiến tranh, cả gia đình bị bom chết hết, phải bỏ làng Xuân Phước
lên tỉnh làm đầy tớ cho bà Ðức Lợi, rồi đi Diên Khánh ở đợ làm việc tráng
bánh, nuôi heo, đi Phan Rang giữ em, bị đánh đập, phải theo thầy bói Huyền
Linh, bị bắt vì không có tên trong sổ gia đình, bán trứng vịt lộn và cuối
cùng bán bóng cao su xanh đỏ thì may mắn gặp lại một nữ dược sĩ quen bố mẹ
ngày xưa nhận làm con nuôi cho đi học trở lại. Nhánh rong thời chiến đã may mắn
có lại mái ấm gia đình, đời có "hậu", đúng như tin tưởng bình dân
"ở hiền gặp lành"!
Trong các truyện ngắn khác chiến tranh cũng luôn có mặt:
"chiến tranh dai dẳng tạo điều kiện cho con người bình đẳng với nhau
trong niềm đau khổ. Gia đình nào cũng có những lỗ thủng lớn: hoặc là người chồng,
người cha, hay người con ra đi không về. Những người đàn bà bơ vơ trong cuộc
tranh đấu cam go với cuộc đời. Chiến tranh lan rộng, đời sống đắt đỏ, đi lại
khó khăn, an ninh không bảo đảm... đó, những chặng cam go khúc khuỷu trên đoạn
đường còn lại phải đi" (Hai Người Ðàn Ông, CSMX, tr. 30 VN). Bà Năm Xự
trong Những Giọt Ðắng tiêu biểu cho nạn nhân cuộc chiến tranh dai dẳng trước
1975. Chuyến Về Tuy Hòa (TMCR) đưa tác giả đến với những vết tích của những
trận đánh, những cuộc đời góa bụa và cái không khí chiến tranh thường trực ở
ngay thị xã.
Viết về chiến tranh, Võ Hồng đã nói lên tiếng nói phẫn nộ của
một người công dân bình thường, bất lực trước chiến tranh và thảm cảnh. Là
nhà giáo, gần gũi tuổi trẻ, ông còn phẫn nộ hơn nữa khi không có thể làm được
gì để chận đứng những tham vọng sai lầm của con người, những tàn hại văn hóa
hậu quả của cuộc chiến tranh dai dẵng đó! Qua tác phẩm, Võ Hồng thường đã vẽ
lại sự tình và nói lên phần nổi của tâm hồn các nhân vật, nhưng rất hiếm thấy
Võ Hồng lộ rõ những suy nghĩ ray rứt về số phận con người hay tâm hồn sâu thẳm
của con người. Người đọc Võ Hồng sẽ man mác buồn nhưng chắc sẽ không nổi loạn
hay đi làm cách mạng!
Về bộ truyện Hoa Bươm Bướm, chủ đề là chiến tranh nhưng tác
giả lại muốn nói lên "lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên
lòng yêu Tổ quốc": "Cuộc kháng chiến đã đẩy chàng (Luân)
phiêu lưu từ miền tùng bách sương mù đến vùng cát vàng biển mặn, qua đô thị đổ
nát, ghé lại những cánh đồng thơm ngát hoa cau, những vùng núi non hiểm trở.
Không phải chỉ đi nhiều mà có được tình yêu nước đậm đà. Phải đi, phải ở, phải
chia những ngọt bùi cay đắng, những hiểm nguy và hy vọng với miền đất, với đồng
bào nơi mình hiện diện. Không phải thờ ơ đóng vai bàng quan, nhìn cảnh với
đôi mắt nhà du lịch mà người ta có thể tận tình thương yêu đất nước. Mà phải
được ràng buộc với nó bằng những xót thương, gian khổ" (NCCB, tr.
266-267). Dù đề cao tinh thần quốc gia dân tộc, cuốn Như Cánh Chim Bay vẫn đã
bị kiểm duyệt miền Nam "ngâm lại" một thời gian không cho xuất bản,
chỉ vì nói đến cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc chiến cho đến nay vẫn cần
có một nhận chân lịch sử khách quan, nhất là cho thế hệ trưởng thành sau hai
cuộc chiến.
Tình yêu đất
Toàn bộ tác phẩm của Võ Hồng tỏa thoát một tình yêu quê
hương đất đai ruộng vườn nồng nàn. Lão Túc trong Tình Yêu Ðất (VHNT) tha thiết
với đất ruộng, nghèo xác xơ quanh năm làm thuê làm mướn và mơ được làm chủ một
mảnh đất do chính lão khai phá. Khi có thì một tai nạn trên mảnh đất đó sẽ kết
thúc cuộc đời lão. Khi hấp hối, lão đã phải gắng mấp máy trối trăn muốn con
mình nối nghiệp cha ông: "Miếng đất gò đình... thằng...".
Người Bác trong Người Về Ðầu Non dù chiến tranh và phải sống
xa con cháu cũng không thể bỏ quê nhà mà lên chốn thành thị. "Làm sao mà
bỏ cho được ngôi nhà tự mình ra công xây cất, khu vườn tự mình trông coi trồng
trọt, những miếng ruộng tự mình mua mãi lần hồi. Tâm hồn của mình, quá khứ của
mình in vết trên từng viên đá viên gạch, trên từng bụi chuối bờ tre. Con chim
áp muỗi màu lông xanh xám đó, mỗi buổi chạng vạng tối đứng trên đầu nhà thả từng
tràng tiếng hát, mình nghe từ hồi năm mười tuổi cho đến nay hơn bảy mươi tuổi
trên đầu, quen thuộc với mình quá nỡ nào sống xa nó được?..." (tr.
117).
Cuộc sống làng quê được Võ Hồng nhiều lần tả đến. Truyện cô
Ba Hường góa chồng gốc Hoa trong Dấu Chân Sa Mạc là chuyện dài của cả một
làng quê với đủ hị nộ ái ố và đủ mọi nhân vật tiêu biểu cho một xã hội Việt
Nam trước thập niên 1950. Như tiếng ê a đọc văn tự mua bán ruộng; "phu
thê đồng công tạo mãi điền nhất khoảnh, tọa lạc tại Bạc má sứ, Hòa mai
thôn... Ðông cận tiểu lộ, tây cận Nguyễn văn Phú điền, Nam cận..." (tr.
140VN). Như cô Ba Hường, nạn nhân của tính toán và giàu có, mới ngày nào đẹp
mơn mởn nay đã "năng đau yếu" và chuẩn bị về với ông bà; trước sau
tả hữu không còn ai, cơ ngơi to lớn trở thành sa mạc!
Trong Gió Cuốn, Nhàn sau khi đã chán chường đời sống ở
thành thị làm mất phẩm chất làm người, cô về thôn quê ở với mẹ với hạnh phúc
đơn sơ tìm lại. "... tôi dậy với tiếng chim sẻ ở mái hiên. Lá chuối đong
đưa chào tôi ở khung cửa sổ. Tôi theo mẹ tôi ra vườn. Mẹ tôi cầm dao yếm cắt
những tàu lá chuối khô. Bà đi giữa bóng râm. Hoa cau thơm, hoa bưởi tụ hợp về
những đàn ong bướm bay lượn vòng. Lá môn, lá khoai sọ soi bóng trên mặt nước
những con mương nhỏ..." (tr. 296 XT).
Nhân vật của Võ Hồng yêu đất đai ruộng vườn vì ông quan niệm
quê hương đất nước có được như ngày nay là nhờ những người đó. Ông nói:
"Quê hương được nuôi dưỡng, được bồi đắp, được bảo vệ bằng sức cần lao
âm thầm của đại đa số những người sống đạm bạc nghèo nàn nơi thôn quê chớ đâu
phải nhờ lớp thị dân sung sướng ở thành phố" (2).
Tình yêu
Tình yêu trong tác phẩm Võ Hồng nói chung là những chuyện
tình kín đáo, mãnh liệt, nồng cháy nhưng trong khuôn khổ đời thường và lý
trí. Ðơn giản như mối tình của anh chàng Long trong Người Thứ Ba (VHNT). Tụ,
tán, giận hờn, nồng cháy và chia ly. Tình yêu đã khiến con người dù có bản
năng thú vật vẫn giữ được nhân tính.
Trong Hoài Cố Nhân là chuyện tình không đơn thuần của
Vân Nhã Diệp. Chuyện tình cao thượng, bền lâu và đẹp, Diệp sống bên vợ nhưng
nghĩ đến tình nhân, yếu đuối nhưng không tội lỗi. Diệp và Vân gặp nhau buổi
ban sơ nhưng cả hai giữ mối tình câm, rồi đường ai nấy đi nhưng lại nhớ đến
nhau tìm đến nhau khi đâu đã vô đó. Diệp ta lại để quên lá thư của Vân để vợ
lục áo giặt tìm thấy. "Ðọc xong, anh đốt những thư em đi... Nhớ nhé! và
nhất thiết từ giờ em không gởi thư cho anh nữa. Em không gặp anh nữa đâu.
Ghét em đi. Yêu chị cho rõ nhiều. Yêu bao nhiêu cũng chưa đủ. Ghét em đi. Ðừng
nói chuyện gì về em với chị. Anh nhớ nhé? Chị tốt lắm, tốt lắm... Nhưng làm
đàn bà em hiểu...". Chị tốt cho nên anh cứ mơ tưởng suốt đời! Chuyện
tình nghĩa vợ chồng thắm thiết nhưng có người vẫn chưa dứt khoát với quá khứ,
vẫn nuôi mối tình đầu da diết lãng mạn dù chỉ là tình câm. Chuyện yếu đuối
trong khuôn mẫu, yếu đuối lẽ thường và khuôn mẫu văn hóa của xã hội Việt Nam.
Thêm một mối tình dễ dàng tay ba: "Có pha thêm một
chút đắng, vị ngọt của tình yêu mới làm cho người ta đam mê như khi đam mê
hương vị của cà phê. Từ hôm nay hai người đột nhiên rơi vào một mối tình dễ
dàng tầm thường, anh thấy người nhẹ nhõm một cách chán ngắt, khi không còn phải
vận dụng trí óc để đối phó. Trước mắt anh không còn một đối thủ xứng đáng để
cho anh phải gắng sức mà chỉ còn phảng phất một cái bóng, một cái bóng không
mất, không bao giờ mất" (Người Thứ Ba, VHNT, tr. 73?).
Tranh chấp tình yêu còn thấy trong tiểu thuyết Hoa Bươm Bướm,
giữa Cẩn, Quỳ và Thức. Quỳ được theo đuổi vì nàng vừa đẹp vừa có học thức. Cuộc
tình dài theo công cuộc chiến đấu chống Pháp. Tình của các cô các thầy giáo
dĩ nhiên được Võ Hồng khai thác. Tình thầy Phúc với cô Liên. "Tình yêu
vô vọng có một vẻ gì đau xót... có lẽ đẹp hơn, bền bĩ hơn những mối tình có kết
quả" (Mùa Hoa Soan, CSMX, tr. 86VN).
Trầm Mặc Cây Rừng đưa tác giả về thời kháng chiến với những
gặp gỡ những đứa học trò cũ nay đã trưởng thành trong số có Thịnh với
"khuôn mặt dịu dàng thùy mị", "người con gái của thôn Diêu
viên quê mùa mà giờ đây mỗi lần âm thầm nghĩ đến là tâm hồn tôi chợt thấy man
mác nhớ và buồn, như một bầu trời đang nắng rỡ ràng bỗng có một áng mây trôi
qua thành bóng rám âm u" (tr. 109VN). Tình yêu sẽ đến với người thầy, nhất
là khi cô bạo bệnh qua đời. Ông sẽ tìm và sẽ gặp lại Thịnh nhưng oái ăm thay,
Thịnh đã vừa lấy chồng, lấy Nhẫn, cũng là học trò cũ của ông chỉ với lý do
"Bởi vì em không có hi vọng... Em nghèo". Người thầy sẽ trở nên
ghét sự giàu sang của chính mình. "Tôi muốn đổi hết tất cả để lấy một
căn nhà tranh sơ sài có bức tường đất trét màu vàng, có vuông sân nơi đó mọc
một cây xoài quí, có người yêu dịu dàng là Thịnh, dòng suối mát của tôi, niềm
an ủi của tôi, bàn tay Thiên thần nơi tôi gục vầng trán nhầu nát ưu tư"
(tr. 125VN). Tình yêu mãnh liệt nhưng công thức lễ giáo, phản ứng lại nhẹ
nhàng; đáng thương thay! Ðây là một trong nhiều truyện khiến người đọc phải
nghĩ đến tâm sự của chính tác giả.
Tình yêu sẽ bớt đơn sơ. Trong Con Suối Mùa Xuân, "tôi" với Mỹ Khuê: "Tôi nuôi tình yêu không phải chỉ bằng đôi
mắt nhìn và bằng vòng tay ôm. Tôi còn yêu bằng những sự tinh nghịch dí dỏm
(...). Tâm hồn tôi không chịu được sự bằng phẳng. Tôi sợ những con đường dài
tráng nhựa chạy thẳng tắp, rộng rãi và có nhiều bóng mát ở trên đầu... Tôi
yêu sự đột ngột, bất ngờ..." (tr. 91VN). Tình chị có thể thành duyên em
nhưng anh đàn ông vẫn cứ mơ tưởng "chị"!
Và tình yêu cũng sẽ có lúc phức tạp như cuộc đời trong cuộc
chiến. Trong Hai Người Ðàn Ông, chàng và nàng đến rồi xa nhau trong lén lút,
của hai người thiếu hay không thể có dự phóng tương lai. Trong Bên Kia Ðường,
Võ Hồng lần đầu phân tích tình yêu dưới cái nhìn thể chất và vật chất. Huy
không lấy được Quỳnh vì những thua kém đó, ít ra là trong ý nghĩ của anh.
Truyện tả đời sống mới của thập niên 1960: tâm trạng người phụ nữ lên tiếng
muốn một đời theo ý, ăn chơi sành sõi chẳng hạn, muốn có ý kiến khi lấy chồng,
tính toán so sánh với bạn đồng sàng. "Hôn nhân đời nay đi mau với tốc lực
siêu thanh của phản lực cơ, khi nghe tiếng nổ thì máy bay đã vượt xa mình rồi".
Nếu chậm quá, đành với tình muộn, như Năm Nhiều, ngoài 40 vẫn cô ky nhưng
ghen và yêu khỏi chê.
Xã hội miền Nam
Thực trạng xã hội những năm chiến tranh: trật tự xã hội đảo
ngược, người dân bỏ thôn quê lên thành thị, giàu nghèo trở nên tương đối. Và
thể diện. Và sở Mỹ. Trong Khoảng Mát, Bân làm nghề thu tiền rác, khủng hoảng
vì chức nghiệp trong một xã hội đa đoan. Gặp lại Huệ, người yêu cũ nay lấy Mỹ.
"Huệ lấy chồng Hoa Kỳ! Thật khó ai ngờ được cũng như khó ai ngờ rằng hôm
nay tôi là nhân viên đi thu tiền rác. Con của một ông Thông phán, cháu nội của
một ông Lãnh binh...". Mặc cảm khiến Bân bảo con ghi nghề bố là tư chức,
còn với Huệ, Bân lẩm cẩm: "Anh làm... lăng nhăng. Chả ra chi. Mình chạy
tản cư đến chỗ lạ, may có việc
làm ăn là quý rồi". Huệ còn tính theo chồng về Mỹ, chê quê nhà
"hẹp hòi như cái đáy lò, như cái vũng nước". Nhưng Huệ thiếu tình
yêu, anh chàng Bân sẽ vượt luân lý để than thở hứa hẹn: "Huệ ơi! Chúng
ta hôm nay không còn ngây thơ nữa. Thân em giang hồ và thân anh đọa đày. Nên
anh tin chắc chắn là lần sau anh sẽ hôn em đàng hoàng hơn. Không còn để mũi
vào má em rồi hít như người ta hôn trẻ con nữa đâu?". Gái giang hồ mà
hay nhắc "chữ nghĩa" khiến trí thức xót xa chột dạ.
Gió Cuốn vẽ lại bức tranh xã hội Việt Nam thời chiến. Một
xã hội bị đồng tiền Mỹ hủy hoại mọi giá trị văn hóa. Thang giá trị được sửa đổi
cập nhật hóa theo tiền bạc. Vật giá càng leo thang thì đạo đức, lòng người
càng đi xuống. Một xã hội chiến tranh khiến những người vì sinh kế và sự sống
còn của gia đình đã phải khổ tâm cam nhục. Nhàn, Huệ, những người làm sở Mỹ.
Thuyên, chồng Nhàn, một loại trí thức tiểu tư sản, sau khi vợ ra đi đã chạy
theo vũ nữ Kiều Nga để kiếm tiền. Chàng căm thù cái nghèo do đó tìm đủ cách để
thoát khỏi cảnh đen tối, Nhàn trở thành phương tiện cho chàng. Trác là người
yêu Nhàn, tưởng nàng dễ chinh phục vì đang bỏ chồng, nhưng không ngờ Nhàn đã
căm thù đàn ông chỉ muốn lao mình vào vực thẳm, Trác buồn lái xe nhanh bị tai
nạn trở nên mất trí. Thuyên bị du đãng đâm chết, tư cách hèn hạ cũng chết
theo. Nhàn vào nghĩa địa Mạc Ðĩnh Chi Sài Gòn thăm mộ. "Bao nhiêu suy
tính mưu toan, bao nhiêu tàn nhẫn rốt cuộc đều trở về im lặng... Cầu mong anh
siêu thăng về một miền phúc đức. Trong cuộc tái sinh, hãy chọn một xã hội
bình ổn hơn..." (tr. 282). Vì chiến tranh mà thân phận con người chịu đủ
đày đọa. Anh hùng hay thần tượng. Nhàn về lại thôn quê sinh sống, một đóa hoa
sen gần bùn (sở Mỹ) mà chẳng hôi tanh mùi đô la. "Chúng tôi, Thuyên và
tôi (Nhàn) là nạn nhân của một xã hội thiếu thần tượng chói sáng" (tr.
289). Nhàn về với mẹ: "Thành phố làm con ghê sợ. Con muốn sống đơn giản
bằng gạo giã, bằng rau, bằng cá đồng, bằng tương... Thành phố thúc đẩy con
người đua đòi và con người biến thành những hình giấy chạy quanh ngọn đèn
cù..." (tr. 294). Trác tâm hồn vị tha, nay có tiền đi giúp những kẻ khốn
đốn; anh trở thành một loại người lý tưởng về tình cảm và đạo đức. Truyện kết
thúc trong hy vọng mới của một cuộc đời mới, qua hình ảnh bé Thu Hà. Gió Cuốn
có giá trị của một tiểu thuyết luận đề phong tục.
Tác giả ví von hoa "những chậu hoa thược dược chậu cúc
vào độ mồng mười hay Rằm tháng Giêng. Héo rủ xuống. Ðen điu, bẩn thỉu" với
những người vội sống: "lũ thược dược, hoàng cúc đã cảm thấu cái thân phận
đọa đày xơ xác cuối cùng của chúng nên được tươi đẹp nhởn nhơ ngày nào thì
chúng cứ tận hưởng Hạnh phúc ngày đó? (...) những người đàn bà sống cuộc đời
của những thân thược dược. Họ ở khắp các nẻo phố phường, ở những con đường có
mang tên danh nhân và những con đường mới chỉ mang chữ số (...) Măng tô hai
da, mặt đỏ mặt vàng. Mini Jupe màu tối. Khóe mắt vẽ xếch. Lông mày Audrey.
Môi bóng mướt Polly Pink. Ðùi trắng. Mười một giờ rưỡi khuya xe Honda trả về.
(...) Bởi vì trên mặt thùng rác không phải chỉ có những thân thược dược. Mà
có cả gốc cải và vỏ khoai, tàu dừa và rựa cùn, dao gãy, máy ra dô hỏng. Có những
tờ báo và những cuốn sách cũ nát nữa. Sự phân biệt bản chất dừng lại ở chỗ
nào?" (tr. 274-276).
Chiến tranh dai dẳng khiến con người đâm ra hoang mang, sợ
chết nhưng lại tò mò chuyện tận thế. Lá Vẫn Xanh là một chứng minh giản dị khởi
từ tin đồn tận thế. Và trong Con Suối Mùa Xuân (CSMX), tác giả ghi lại những
dâu biển và hoạt cảnh của thời tranh đấu Phật giáo và biến động miền Trung. Mỹ
Khuê và "tôi" yêu nhau từ những kỷ niệm tranh đấu bên nhau. Tuổi trẻ
hăng say và sẽ nhận chịu những hụt hẫng và ảo tưởng.
Thế giới học đường
Là nhà giáo do đó tác giả viết nhiều về đời sống học đường
và chuyện các thầy các cô. Những tình nghĩa thầy trò đậm đà hiếm hoi trong một
xã hội đề cao tiền bạc, chức tước. Những phút giây hạnh phúc của nghiệp
"gõ đầu trẻ". Tình học trò như Tộc trong truyện Niềm Tin Chưa Mất
(LVX) đã khiến người thầy quý mến sau khi đã vội xét thường tình :
"Trong một xã hội nhiễm độc mà dối trá đã thành điển lệ, mà thù hằn đã
thành khí giới phổ thông, quả tình nhân các của Tộc vươn lên như một chồi cây
mạnh giúp tôi tin cậy ở cuộc đời ...". Lúc học với thầy, Tộc hay bị thầy
để ý phạt và la mắng, nhưng anh không bao giờ oán trách thầy mà trái lại, anh
hay giúp thầy từ những việc như hái cau, vét giếng,... Cả sau này khi đã rời
bỏ quê hương đi xa và lập gia đình vẫn để ý giúp và thăm hỏi thầy. Thủy chung
và thành thật đã hun đúc Tộc thành người tốt cho xã hội. "Tôi tin chắc sự
làm giàu của Tộc rất trong sạch. Lòng thương yêu Thầy mà Tộc nói trong thư chắc
chắn là thành thật, chứ không phải là một lời sáo, một công thức xã giao. Những
mẫu sinh hoạt vụn vặt của Tộc khi còn đi học chắc chắn là không chịu sự chi
phối của một thành kiến nào. Tâm hồn Tộc như cái phòng rộng trống trơn, không
có xó kẹt, không có bóng tối. Tộc làm những điều mình nói và có thể nói cả những
điều mình làm. Có thể nói cả những điều mình nghĩ nữa...".
Lễ Cúng Trường trong Bên Kia Ðường kể lại những cảnh sinh
hoạt học đường ngày xa xưa: ngày hăm sáu tháng Chạp là lễ cúng trường, rồi đến
Tết thầy. Và anh học trò tên Tộc, ngây ngô và tiêu biểu cho thời nông thôn tiếp
xúc với nền học mới với chữ quốc ngữ và Pháp.
Trong Người Về Ðầu Non, tác giả hồi tưởng thời niên thiếu học
trường sơ ấu, cảnh học ôn Toán chuẩn bị đi thi. "Ngày nào cũng hai bài
toán đố. Nộp bài lên mà thấy thầy bệt cho hai gạch rồi vẽ một vòng tròn là cứ
lặng lẽ lên nằm sấp ở chân bảng đen đợi. Khi đứa chót đã nộp bài rồi thì khoảng
trống đã đầy những thân học trò nằm dài. Ðứa làm đúng hai bài phải chạy lên
núi bẻ roi..." (tr. 33). Rồi đến cảnh lên tỉnh lỵ thi. "Một cậu học
trò mười một tuổi ở từ nhà quê ra, nhút nhát rụt rè, tay cầm thẻ căn cước đi
vào phòng này đến phòng khác để qua hết kỳ thi vấn đáp, chịu sự tra trấn của
các giám khảo bệ vệ uy nghi, thật là một cực hình cho tinh thần của nó. Cái
không khí nghiêm khắc lạnh lùng đó như đe dọa nó, ngôi trường trở thành một
thứ tu viện thiêng liêng đóng kín cửa không muốn cho nó bước vào. Bao nhiêu
những kiến thức nhồi thuộc lòng trong óc cứ lẫn lộn quay cuồng, ông Mai Hắc Đế
và Bố Cái đại vương kề với sự bài tiết và phát huyết quản hồi huyết quản, nghề
ruộng muối ở Lệ Uyên Tuyết Diêm nghề trồng thuốc lá ở Sơn hòa chập chờn hư ảo
bên cạnh bài "đọc thêm" địa lý âm điệu du dương "Sông Cầu là
bà già lão luyện, Tuy Hòa là thiếu nữ xuân xanh, Sông Cầu là chốn thừa lương,
Tuy Hòa là nơi buôn bán..." (tr. 37).
Vết Hằn Năm Tháng là tập truyện gồm nhiều chuyện học đường.
Truyện mở đầu, Những Bí Mật Của Anh Ðỗ Cúc, là thế giới học trò tinh nghịch.
Những lá thư tình lâm ly và thất bại trong tình trường cắt nghĩa cuộc sống và
lối dạy học của Ðỗ Cúc. Ðến truyện Vết Hằn Năm Tháng kể chuyện chấm thi. Người
đẹp Thu Hà của phòng thi sẽ làm đẹp hơn những ngày phải vật lộn với số ký
danh và những tên học trò xa lạ nơi chấm thi.
Những Nỗi Khổ Vụn Vặt trong tập Bên Kia Ðường là chuyện hậu
trường chấm thi. Những gửi gắm, xin điểm, những lựa chọn trung tâm, những chủ
khảo, những liên hệ trong nghề.
Mùa Hoa Soan (CSMX) chuyện vui buồn dạy học của Liên, một
cô giáo tự cho yếu đuối trước học trò không hiền ngoan và yếu đuối cả với
tình yêu của đồng nghiệp. Những cô giáo ra đời sớm bối rối trước học trò, thiếu
"oai" trong khi trách nhiệm lớn. Khi lý tưởng quá hoặc thu hút bởi
nghề nghiệp, các cô giáo sẽ thiếu thời giờ và tinh tế để đón nhận tình yêu.
Trễ tràng và cô đơn. "Có những buổi tối nàng ngồi một mình ở bãi biển. Nền
trời đen sẫm, chi chít sao (...) Dù không ai để ý đến, dù không ai biết cho,
sóng biển vẫn cứ nhịp nhàng làm cái công việc của mình, không vội vàng mà
cũng không trễ nải. Bắt đầu từ bao giờ và sẽ ngừng lại lúc nào? (...) Như những
đợt sóng kế tiếp nhau mải miết chạy vào bờ, nàng và các bạn của nàng cũng kế
tiếp nhau mà dạy dỗ, uốn nắn, lớp học sinh này dạy xong thì trao qua tay người
bạn khác tiếp theo không nản, không mỏi, không ngừng" (tr.
87VN).
Ngoài các chủ đề nói trên, Nha Trang, nơi Võ Hồng sinh sống,
đã có lúc đậm nét có lúc bàng bạc trong nhiều tác phẩm của ông. Nhiều truyện
ngắn trong tập Con Suối Mùa Xuân lấy khung cảnh Nha Trang. Các truyện khác về
học đường và tình yêu cũng thường xảy ra ở đó. Những con đường tình nhân
Yersin, Ðộc Lập hay bãi biển vắng đêm về, sóng biển nhịp nhàng, những hòn đảo
thấp thoáng ngoài xa. Những hiệu sách với những cô gái hiền bên quầy thu tiền,
những buổi ci nê êm đềm, những con người ngoài phố không vội bước,...
Văn Võ Hồng dí dỏm, nhẹ nhàng. Tranh thủ tình yêu nhẹ
nhàng, thua cũng không sôi nổi, dù trong lòng chàng trai kế toán thua trận tình
với lính Hải quân. "Thôi, mất Mỹ Khuê rồi. Hải quân chiến thắng mình rồi".
Gặp lại người yêu, thì cũng chỉ tiếc nuối thụ động: "Da trắng ngà môi hồng
nhạt. Chết chửa! Khi thoát ra ngoài vòng tay của tôi, sao Mỹ Khuê lại đẹp thế?
Sao lại quí thế? Ðôi mắt đen mở to như lúc nào cũng chỉ nhìn thấy việc thiện.
Ðôi cánh tay trắng muốt mà tôi đã có lần cầm lên và Mỹ Khuê khoe :
- Tay em béo đấy anh nhỉ? Và anh xem - nàng bẻ ngược mấy
ngón tay ra đằng sau - ngón tay của em, lúc đi học đánh chuyền, chả đứa bạn
nào ăn qua nổi
Tôi lợi dụng (...), cầm bàn tay đó, đặt lên môi hôn. Rồi
nói:
- Bàn tay này sẽ thôi chơi đánh chuyền để mà lo săn sóc cho
chồng, cho con.
Nàng rút tay, tát yêu vào má tôi. Than ôi! Ðó là lần khôn
ngoan đầu tiên và cũng là cuối cùng của tôi. Hôm nay thì tôi chỉ đứng đàng xa
mà nhìn nàng, lẫn lộn giữa đám đông..." (Con Suối Mùa Xuân, tr. 97VN).
Xa là đúng, cái anh chàng "chậm chạp và nhiều khi vô ích", mẫu
"người đàn ông có lương tâm" (tr. 106).
Cái ghen cũng lạ : "Mỹ Khuê bao giờ cũng bắt tôi đợi
năm phút trước khi nàng từ phòng riêng bước ra... Mùi nước hoa thơm ngọt khiến
trông nàng ngon như một cái bánh. Ðó là ý nghĩ cộc cằn mà tôi đã lỡ có. Giờ
này thì chắc chắn là Phan đang ngồi vào cái ghế của tôi và Mỹ Khuê lại cứ
ngon như một cái bánh..." (CSMX, tr. 101).
Còn cái ghen tự ái vì giàu nghèo nơi làng quê mãnh liệt
hơn. Trong Dấu Chân Sa Mạc (CSMX), ông Học Mười góa vợ với cô Ba Hường góa,
giàu và "khôn nẻ vỏ", kín đáo để ý nhau, nhưng khi ông tình cờ nghe
người đàn bà đó cười nói về ông khi có người chê ông nghèo, thì ông quyết liệt
đến độ hấp tấp tái giá với một cô gái hai mươi.
Võ Hồng có những nhận xét tâm lý sâu sắc. Chiến tranh lấy mất
những người trai, các cô gái phải "tranh giành nhau cả những người đàn
ông xấu trai (...) Ở đô thị, đàn bà nối đuôi đi vào hiệu uốn tóc, sửa da mặt,
tẩy vết tàn nhang. Phải tranh giành những người đàn ông còn sót lại"
(Tháng Năm Sương Mù, CSMX, tr. 21 VN). Trai 31 chưa vợ cũng bắt đầu lo, phải
xem tử vi, rồi tự kỷ ám thị nhìn trước ngó sau đều thấy có người mê mình, như
thầy giáo Phong trong Trả Thù (CSMX). Ảo tưởng, vì vấn đề là chính anh, con
người không dứt khoát. Không dứt khoát nên mới áy náy, nhận tiền thối dư chần
chừ không muốn trả lại vì người chủ bẩn chật, cuối cùng đem cho người nghèo
tàn tật.
Võ Hồng có những nhận xét thâm trầm, ý nhị. Kể chuyện cô Ba
Hường trong Dấu Chân Sa Mạc (CSMX), tác giả đã xót thương cô vì "cái cuộc
đời cô đơn lạnh lẽo đó mang nhiều mâu thuẫn: cực khổ bởi vì giàu, dại khờ bởi
vì quá khôn ngoan, bị bỏ quên bởi được mến chuộng. Ngoại trừ dùng Số Mệnh để
mà giải thích và an phận còn thì, nếu dùng lý trí để mà suy xét cân nhắc thì
tôi chắc nhiều người cũng sẽ như tôi xót thương mãi cho thân phận người đàn
bà đó không biết nên xử sự như thế nào cho phải trong cái xã hội quá nhiều ác
tâm, lường gạt" (tr. 144VN)
Khi viết về những ngày thơ ấu, giọng văn Võ Hồng tha thiết,
chân chất với những chi tiết tầm thường của đời sống hơn Duyên Anh, Nguyên Hồng.
Trong Người Về Ðầu Non, khi viết về những bài học vỡ lòng, tác giả đã cho thấy
những mâu thuẫn giữa sách và đời: "Con ve cũng vậy, tôi chỉ biết con ve
chó chứ chưa thấy con ve sầu. Nhưng có hề chi? Tôi cứ đọc và trong óc tự làm
một bài dịch: NGHE con Nghê là con kỳ lân... A quả Na là trái mãng cầu... I
cây Si là cây đa... Ơ quả Mơ là trái gì tròn tròn..." (tr. 22).
Mặt khác văn chương của Võ Hồng có đặc điểm đã sử dụng tiếng
nói của người miền quê ông trong đối thoại và cả trong cách hành văn và dùng
chữ của ông. Tình yêu quê hương, "lòng yêu những vật tầm thường nhất",
khiến ông có một thái độ độc lập văn hóa, đề cao góc quê hương nhỏ bé của
ông, bên cạnh những Hà Nội, Sài Gòn và Huế đầy dẫy trong văn chương. Muốn thưởng
thức Võ Hồng, người đọc phải hiểu tấm lòng của ông đối với quê nhà.
Võ Hồng đã chứng tỏ sống nhiều, sống ở một miền Trung thân
thương nhiều hệ lụy của chiến tranh, của con người nồng nhiệt và dễ căm thù
khi phải đối đầu với những tranh chấp ý thức hệ. Một miền Trung đời sống khó
khăn nhưng phong phú tình nghĩa và ý nghĩa cuộc đời. Nếu con người Trung của
Võ Phiến cương quyết và dứt khoát ở ý thức thế nào thì con người Trung của Võ
Hồng tha thiết với nhau chừng ấy. Và nếu Võ Phiến nặng về phân tích tâm lý một
cách ý thức, tách bạch thì phân tích con người của Võ Hồng nhẹ nhàng, thâm trầm,
như một nhà giáo giương cặp mắt nhân hậu nhìn đám học trò sôi nổi mà tự nhủ
cuộc đời và con người đâu đơn giản có thế. Thời gian và chín chắn tư duy sẽ
trả lời hết đấy thôi ! Ðã vậy, Võ Hồng luôn tin "ở hiền gặp lành"
và "bỉ cực thái lai"! Ông triết lý về cuộc đời: "Cuộc đời thường
hay kết thúc đen tối bi thảm như vậy. Những ngôi nhà đổi chủ, những cửa hiệu
xóa đi, lớp người lớn ngã xuống và lớp người nhỏ phân tán ra khắp nẻo. Con
người nhẫn nại trong ý thức cam chịu, cuộc sống bắt rễ mong manh như lớp vảy
trên da thạch sùng..." (NVÐN, tr. 70).
Võ Hồng thành công về truyện ngắn hơn là tiểu thuyết dài và
ông được người đọc biết nhiều từ sau 1963 khi sách ông được nhà xuất bản Lá Bối
và các cơ sở Phật giáo phổ biến. Không thấy Võ Hồng có mặt trong các tuyển tập
truyện ngắn "hay" hoặc "tiêu biểu"của 21 năm văn học miền
Nam, dù đây không phải là tiêu chuẩn. Nói chung, sự chân thành đã làm nên nghệ
thuật văn chương Võ Hồng. Riêng các truyện dài của ông có giá trị tài liệu về
phong tục, về nếp sống, về nhân tình ở vào một thời điểm. Ông muốn là một
nhân chứng với sứ mạng giáo dục truyền kinh nghiệm cho những thế hệ đến sau.
Có những truyện mới đọc người ta nghĩ ông có ý phỉ báng hay răn đe, nhưng đọc
lại sẽ thấy tác giả chỉ muốn tỏ lộ lòng từ bi, thương hại ngay cả với những
nhân vật không đáng thương hại. Tác phẩm của ông được các sách giáo khoa giảng
văn trích dẫn từ 1963 và truyện Áo Em Cài Hoa Trắng viết cho thiếu nhi thường
được chọn làm đề tài thuyết trình tại các trường học.
Sau 1975, vì hoàn cảnh chung, ông viết ít, nhưng đã có những
bài tùy bút và truyện ngắn được người đọc thời hậu chiến tranh và "đổi mới"
yêu thích. Những tâm tình thuần thành và nhân hậu của một người cả đời đã sống
cho văn hóa giáo dục, cho quê hương và những con người chưa nhiễm "văn
minh" của cuối thế kỷ XX. Các tùy bút trong Một Bông Hồng Cho Cha
(Paris: An Tiêm, 1995) hoặc đã đăng báo như Mùa Xuân Nghe Tiếng Chim, cho thấy
một Võ Hồng lạc lõng ở thời đại hôm nay, một Võ Hồng thương người và nhớ cảnh
xưa đời cũ, thương nhớ trong bất lực, nhưng đã can đảm nói lên. Trong Lời Sám
Hối Của Cha, phải thấm nhuần văn hóa đông phương lắm mới có thể làm người cha
mà can đảm ân hận và tự trách mình trước con cái. Ngoài ra ông đã cho xuất bản
các tuyển tập Trong Vùng Rêu Im Lặng (Nha Trang: Văn Học Nghệ Thuật Nha
Trang, 1988) và Truyện Ngắn Chọn Lọc (Hà Nội: Hội Nhà Văn, 1994).
Trước thềm thiên kỷ mới, có thể nói tác phẩm của Võ Hồng là
một phần văn hóa Việt Nam cũ đã ra đi không bao giờ trở lại!.
Chú thích:
* Các trích dẫn tác phẩm theo bản in lần đầu; khi dẫn sách
tái bản ở hải ngoại, chúng tôi ghi kèm VN, Văn Nghệ hoặc XT, Xuân Thu.
"Nhà văn Võ Hồng", Nguyễn Nam Anh phỏng vấn. Văn
(SG), 209, 1-9-1972, tr. 1-8.
Phỏng vấn Nguyễn Nam Anh. Bđd, tr. 8.
21-3-1997
(Nguyễn Vy Khanh. Văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX: Một Số
Hiện Tượng Và Thể Loại.. Chương 18. Glendale CA: Ðại Nam, 2004).
2- Nghĩ và viết về Võ Hồng trong mất mát
Nguyễn Vy Khanh
Sau biến cố 30-4-1975, ở trong nước, sách báo miền Nam tự do
bị tịch thu và tiêu hủy, gần như toàn bộ các tác giả bị cấm; ngoài nước thì
các nhà xuất-bản như Sống Mới, Đại Nam, Xuân Thu đã in lại bằng cách chụp lại
các ấn bản có được hoặc chụp lại từ các thư viện Hoa Kỳ như thư viện đại học
Cornell ở Ithaca, NY và Library of Congress ở Washington D.C. Các sách in lại
này rất kém về kỹ thuật lẫn nghệ thuật và được bày bán trước hết ở các tiệm tạp hóa
bên cạnh các tờ báo rất đơn sơ lần lượt xuất hiện mà tiếng Việt phải đánh dấu
bằng tay và cạnh những chai nước mắm, gói phở khô mà phẩm chất cũng rất kém -
cùng tình trạng với món ăn tinh thần nói trên. Đa số tác phẩm của Võ Hồng đến
với người đọc hải ngoại ngay sau 1975 đều qua con đường đó! Từ những năm
1986, tác phẩm Võ Hồng được tái bản, đánh máy, lên trang lại và hình thức đẹp
hơn với các nhà xuất bản Văn Nghệ (CA), An Tiêm (Paris).
Ngay sau khi ra đến nước ngoài tỵ nạn, chúng tôi đã vội viết
những gì mình biết hoặc còn ghi nhớ, như về họ tên người Việt, về các thư viện
thời lịch triều, về tranh sơn mài, v.v... Vì nghề nghiệp thủ thư, tôi có nhiều
cơ hội thăm các thư viện ở Bắc Mỹ nhất là ở Canada và tôi đã nhìn thấy một phần
lý do miền Nam đã thua trận chiến tranh 1957-1975: sách của cộng sản Bắc Việt
đầy dẫy ở các thư viện đại học và thư viện quốc gia trong khi sách "quốc gia"
tìm mỏi mắt không có (ngoài vài pamphlet tổng quan của các tòa đại sứ), nghĩa
là gần như chỉ có sách của Mỹ, Pháp và cộng sản Hà Nội. Trong các đại học
ngay sau 1975 chúng tôi chứng kiến sách Hà Nội, được viết hoặc dịch ra tiếng
Pháp và Anh, bày bán cho sinh viên với giá rẻ mạt, 1, 2 dollars (Femme
vietnamienne, Vietnamese Studies, Anthologie de la littérature vietnamienne,
Hòn Đất roman, v.v...). "Súng đạn" tuyên truyền đã thêm thế mạnh
cho họ, dù bá đạo! Rồi sau nhiều năm sinh hoạt cộng đồng, hội nhập, tôi đã
nghĩ đến phải làm gì cho nền văn học tự do của miền Nam; mất nước thì một cá
thể khó chuyển bại thành thắng, nhưng mất nền văn học đó thì mỗi cá nhân cũng
có thể đóng góp phần của mình và nếu không phục hồi được thì ít ra cũng để lại
dấu vết, tài liệu cho các thế hệ sau. Thế là sau nhiều thập niên đọc, đã đến
lúc phải bắt đầu viết, viết về những gì đã quan sát và hiểu biết, đó là lý do
chúng tôi thật sự viết về văn học sử từ năm 1995, bài đầu tiên là bài Miền
Nam Khai Phóng gây được một số phản ứng vì trong đó lộ rõ ý muốn phục hồi và
đem lại công bằng cho một mảng văn học bị bỏ quên. Kế đó là những tác giả mà
chúng tôi đã sẵn nhận xét, quan điểm, sau nhiều năm làm độc giả và mon men
nghiên cứu văn học, cũng như đã tìm lại được các tác phẩm, như Võ Hồng, Duyên
Anh, Bình Nguyên Lộc, v.v...
Như nhiều độc giả khác, truyện Võ Hồng đã đến với tôi từ những
giờ kim văn ở trung học, rồi với thời gian, Võ Hồng đã trở thành một tác giả
được tôi trân quý. Tìm hiểu lý do thì lần dò dễ trở nên rối rắm (như những buổi
đến nhà xuất bản Lá Bối ở chung cư Vạn Hạnh để nhận sách Võ Hồng còn thơm mùi
mực in!), nhưng những truyện mà tôi còn nhớ mãi đến hôm nay thì rõ ràng có những
căn cớ: những mối tình nồng cháy nhưng nhẹ nhàng (người đẹp Thu Hà trong Vết
Hằn Năm Tháng, thầy Phúc với cô Liên trong Mùa Hoa Soan, v.v...), những hoàn cảnh
éo le nhưng thân thương muốn xảy ra mãi (chuyện thầy giáo Hà bị quá khứ đuổi
bắt khi mới điểm danh đến tên học trò Hà Vi trong truyện cùng tên, rồi chuyện
thầy khác với cô học trò cũ tên Thịnh, "người con gái của thôn Diêu viên... khuôn mặt dịu dàng thùy mị" trong Trầm Mặc Cây Rừng) - đã là những
"tham chiếu" trong quãng đời dài học đường và quãng ngắn làm thầy của
chúng tôi. Ngoài vài truyện mà không gian của tác phẩm là Tuy Hòa, phần còn lại,
nhiều chuyện đã xảy ra ở Nha Trang, là vùng đất mà chúng tôi độc giả đã có
nhiều liên hệ tình cảm và gia đình dây dưa từ nhiều năm trước khi rời hẳn vì
chiến tranh từ buổi sáng định mệnh 1 tháng 4 năm 1975 và định cư ở nước ngoài
sau đó. Bỏ nhiệm sở dạy học nơi mà tôi cứ tưởng sẽ ổn cư sau nhiều năm làm
người Sài gòn, cũng là nơi tôi cuối cùng lập gia đình và cắt đứt những mạng
nhện tình cảm của một thời!
Nha Trang, nơi Võ Hồng sinh sống, đã có lúc đậm nét có lúc bàng bạc trong nhiều tác phẩm của ông. Nhiều truyện ngắn trong tập Con Suối Mùa Xuân chẳng hạn lấy khung cảnh Nha Trang. Các truyện khác về học đường và tình yêu cũng thường xảy ra ở đó. Người đọc nào từng sinh sống nơi đó đều có thể nhận ra hình bóng trường xưa, đường phố cũ. Võ Hồng đưa tôi, một người đọc xa xứ, trở lại những con đường tình nhân Yersin, Độc Lập hay bãi biển vắng đêm về, sóng biển nhịp nhàng, những hòn đảo thấp thoáng ngoài xa. Những hiệu sách với những cô gái hiền bên quầy thu tiền, những buổi ci nê êm đềm, những con người ngoài phố không vội bước,... Những cái đã mất, và trong những mất mát ấy - lớn hơn nữa là mất quê hương, chúng tôi đã nghĩ và viết về Võ Hồng.
Trong bài tổng quan về Võ Hồng, chúng tôi đã đặt tựa đề là
"Võ Hồng, nhà giáo" vì ông là một nhà văn tinh tế nhưng nhân hậu và
mực thước, thận trọng; ông đúng là một nhà giáo viết văn hoặc nói khác đi,
ông viết văn như một nhà giáo. Ông viết rất đều đặn và kỹ lưỡng như sự kiên
nhẫn cần có của nghề giáo mà hình thức và nội dung được chăm sóc kỹ như những
bài văn dạy trong nhà trường. Chúng tôi ghi lại các đề tài lớn đã được Võ Hồng
đưa vào tác phẩm: Nếp xưa ngày cũ, Tình yêu đất, Chuyện kháng chiến và chiến
tranh, Tình yêu, Bức tranh xã hội miền Nam thời chiến và cuối cùng là Thế giới
học đường. Bài viết đã đăng trên một số tạp chí ở ngoài nước và là chương 18
trong tập biên khảo Văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX: Một Số Hiện Tượng Và Thể
Loại do nhà Đại Nam ở California xuất bản năm 2004.
Võ Hồng viết về nếp xưa ngày cũ vì ông tự cho sứ mạng viết
lại quá khứ cho người trẻ: "Lịch sử là một dây xích dài gồm nhiều mắt
xích nhỏ. Cái mắt xích Dĩ Vãng đó chưa hề được nói tới thì tôi phải ra công
mô tả lại. Thế hệ của chúng tôi bị chiến tranh tàn phá quá nhiều, một số lớn
đã chết, những nếp sống cũ lần lần bị xóa đi, thay thế bằng nếp sống mới.
(...) Tôi muốn các thế hệ đàn em có dịp để thiết tha gắn bó với quê hương
hơn" (Phỏng vấn của Nguyễn Nam Anh, tạp chí Văn SG, 209,
1-9-1972). Nhân vật của Võ Hồng yêu đất đai ruộng vườn vì ông quan niệm quê
hương đất nước có được như ngày nay là nhờ những người đó. Ông nói: "Quê
hương được nuôi dưỡng, được bồi đắp, được bảo vệ bằng sức cần lao âm thầm của
đại đa số những người sống đạm bạc nghèo nàn nơi thôn quê chớ đâu phải nhờ lớp
thị dân sung sướng ở thành phố" (Bđd). Viết về chiến tranh, Võ Hồng đã
nói lên tiếng nói phẫn nộ của một người công dân bình thường, bất lực trước
chiến tranh và thảm cảnh. Thực trạng xã hội những năm chiến tranh: trật tự xã
hội đảo ngược, người dân bỏ thôn quê lên thành thị, giàu nghèo trở nên tương
đối. Bức tranh xã hội Việt Nam thời chiến, vì chiến tranh mà thân phận con
người chịu đủ đày đọa. Là nhà giáo, gần gũi tuổi trẻ, ông còn phẫn nộ hơn nữa
khi không có thể làm được gì để chận đứng những tham vọng sai lầm của con người,
những tàn hại văn hóa hậu quả của cuộc chiến tranh dai dẵng đó! Tình yêu
trong tác phẩm Võ Hồng nói chung là những chuyện tình kín đáo, mãnh liệt, nồng
cháy nhưng trong khuôn khổ đời thường và lý trí. Là nhà giáo do đó tác giả viết
nhiều về đời sống học đường và chuyện các thầy các cô. Những tình nghĩa thầy
trò đậm đà hiếm hoi trong một xã hội đề cao vật chất, tiền bạc và chức tước,
cùng những phút giây hạnh phúc của nghiệp "gõ đầu trẻ"!
Võ Hồng đã chứng tỏ sống nhiều, sống ở một miền Trung thân
thương nhiều hệ lụy của chiến tranh, của con người nồng nhiệt và dễ căm thù
khi phải đối đầu với những tranh chấp ý thức hệ. Một miền Trung đời sống khó
khăn nhưng phong phú tình nghĩa và ý nghĩa cuộc đời. Nếu con người Trung của
Võ Phiến cương quyết và dứt khoát ở ý thức thế nào thì con người Trung của Võ
Hồng tha thiết với nhau chừng ấy. Và nếu Võ Phiến nặng về phân tích tâm lý một
cách ý thức, tách bạch, thì phân tích con người của Võ Hồng nhẹ nhàng, thâm
trầm, như một nhà giáo giương cặp mắt nhân hậu nhìn đám học trò sôi nổi mà tự
nhủ cuộc đời và con người đâu đơn giản có thế. Thời gian và chín chắn tư duy
sẽ trả lời hết đấy thôi! Đã vậy, Võ Hồng luôn tin "ở hiền gặp
lành" và "bỉ cực thái lai"! Ông triết lý về cuộc đời:
"Cuộc đời thường hay kết thúc đen tối bi thảm như vậy. Những ngôi nhà đổi
chủ, những cửa hiệu xóa đi, lớp người lớn ngã xuống và lớp người nhỏ phân tán
ra khắp nẻo. Con người nhẫn nại trong ý thức cam chịu, cuộc sống bắt rễ mong
manh như lớp vảy trên da thạch sùng..." (Người Về Đầu Non, tr. 70).
Mặt khác, văn chương của Võ Hồng có đặc điểm đã sử dụng tiếng
nói của người miền quê ông trong đối thoại và cả trong cách hành văn và dùng
chữ của ông. Tình yêu quê hương, "lòng yêu những vật tầm thường nhất",
khiến ông có một thái độ độc lập văn hóa, đề cao góc quê hương nhỏ bé của
ông, bên cạnh những Hà Nội, Sài Gòn và Huế đầy dẫy trong văn chương. Muốn thưởng
thức Võ Hồng, người đọc phải hiểu tấm lòng của ông đối với quê nhà và con người
quê mùa, mộc mạc. Nói chung, sự chân thành đã làm nên nghệ thuật văn chương
Võ Hồng. Riêng các truyện dài của ông có giá trị tài liệu về lịch sử, phong tục,
về nếp sống, về nhân tình ở vào một thời điểm. Ông muốn là một nhân chứng với
sứ mạng giáo dục truyền kinh nghiệm cho những thế hệ đến sau. Có những truyện
mới đọc người ta nghĩ ông có ý phỉ báng hay răn đe, nhưng đọc lại sẽ thấy tác
giả chỉ muốn tỏ lộ lòng từ bi, thương hại ngay cả với những nhân vật không
đáng thương hại. Tác phẩm của ông được các sách giáo khoa giảng văn trích dẫn
từ 1963 và các truyện viết cho thiếu nhi như Áo Em Cài Hoa Trắng, Trận Đòn
Hòa Giải thường được chọn làm đề tài thuyết trình tại các trường học.
Sau 1975, vì hoàn cảnh chung, ông viết ít, nhưng đã có những
bài tùy bút và truyện ngắn được người đọc thời hậu chiến tranh và "Cởi
Trói" văn nghệ yêu thích. Có lúc ông ký hai bút danh mới là Võ An Thạch
và Võ Tri Thủy. Những tâm tình thuần thành và nhân hậu của một người cả đời
đã sống cho văn hóa giáo dục, cho quê hương và những con người chưa nhiễm
"văn minh" của cuối thế kỷ XX. Các tùy bút trong Một Bông Hồng Cho
Cha hoặc đã đăng báo như Mùa Xuân Nghe Tiếng Chim, v.v... cho thấy một Võ Hồng
lạc lõng ở thời đại hôm nay, một Võ Hồng thương người và nhớ cảnh xưa đời cũ,
thương nhớ trong bất lực, mất mát, nhưng ông đã vẫn can đảm nói lên. Trong Lời
Sám Hối Của Cha, phải thấm nhuần văn hóa đông phương lắm mới có thể làm người
cha mà can đảm ân hận và tự trách mình trước con cái. Tập tiểu thuyết Thiên
Đường Ở Trên Cao bản thảo viết từ những năm 1972-1978, nhưng đến 1988 mới
được kiểm duyệt trong nước cho xuất bản.
Một quy hồi văn nghệ đã xảy ra trong nước, một trở về với
nhân bản và đời sống đa dạng. Từ năm 1987, nhiều tác giả và tác phẩm đã được
"tái sinh" trong đó có Võ Hồng. Nhiều tuyển tập cùng tựa sách của
ông đã được xuất bản và tái bản, theo thứ tự thời gian như sau:
Thiên Đường Ở Trên Cao (VH Thông Tin, 1988; NXB Trẻ
2002); Trong Vùng Rêu Im Lặng (Hội Văn Học Nghệ Thuật Nha Trang,
1988; NXB Tổng hợp Đồng Nai, 2004); Nhánh Rong Phiêu Bạt (VHNT Khánh Hòa,
1989); Vẫy Tay Ngậm Ngùi (Trẻ, 1992); Thương Mái Trường Xưa (Trẻ,
1993); Truyện Ngắn Chọn Lọc (Hà Nội: Hội Nhà Văn, 1994); Một
Bông Hồng Cho Cha (Văn-Nghệ TPHCM, 1994, tb 1997; NXB Tổng hợp TPHCM, tb
2004; An Tiêm tb ở Pháp 1995); Vùng Trời Thơ Ấu (Trẻ, 1995); Chúng
Tôi Có Mặt (NXB TPHCM, 2001); Tuổi Thơ Êm Đềm (Trẻ,
2001); Thơm Ngát Hương Cau (Trẻ, 2001) và Tuyển Tập Võ Hồng (NXB
Văn nghệ TPHCM và Trung tâm nghiên cứu Quốc học, 2003) là tập quy mô nhất
với 1231 trang.
Ngoài ra, Võ Hồng còn là tác giả tập Trầm Tư do
NXB Trẻ in năm 1995 và NXB Văn nghệ ở hải ngoại tái bản năm 2000, gồm những
suy tư tản mạn theo dòng thời gian được sưu tập, ghi lại. Trước và sau 1975,
Võ Hồng vẫn có những tập truyện nhỏ cho giới trẻ, sau 1975 có Chia Tay
Người Bạn Nhỏ (Trẻ, 1991). Đặc biệt Võ Hồng làm thơ và đã cho xuất bản
hai tập Hồn Nhiên Tuổi Ngọc (Trẻ, 1993) lời lẽ đơn sơ như tựa đề
và Thời Gian Mây Bay (Đồng Nai, 1996) gồm những bài từ nhiều thập
niên qua, từ khi ông "mười tám đôi mươi" như nói trong lời Tựa. Một
số tác phẩm của Võ Hồng hậu - 1987 đã đến với người đọc và thư viện hải ngoại
qua nhiều ngã. Hy vọng trong khung cảnh tự do văn hóa ngoài này, sẽ có những
nghiên cứu, luận án về Võ Hồng, như đã và đang xảy ra với văn học miền Nam thời
mở đầu, với Trương Vĩnh Ký, Võ Phiến hay chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam, v.v...
Trong thời chiến tranh và phân chia đất nước cũng như gần
hai thập niên gần đây, tác phẩm của Võ Hồng lúc nào cũng được trân quý, chứng
tỏ chúng thật có giá trị tinh thần và lịch sử và đã trãi qua được sàng lọc của
thời gian. Ông đã là nhà văn lớn của nửa hậu bán thế kỷ XX, bề thế văn nghiệp
của ông lớn không phải ở những triết lý, học thuyết có thể đề xướng trong các
tác phẩm mà là ở sự già dặn, phong phú và chân thật của tác giả. Nhưng dù vậy,
trước thềm thiên niên kỷ mới, ở một đất nước như Việt Nam đã nhiều truân
chuyên, đau khổ, có thể nói tác phẩm của Võ Hồng là một phần văn hóa Việt cũ
đã ra đi không bao giờ trở lại! Đây là hiện tượng trong nước in lại tác phẩm
của thời tiền phong văn học chữ quốc ngữ ở trong Nam cũng như các tác giả
khác của miền Nam tự do, họ được in lại, được tìm đọc và nghiên cứu ở các đại
học; người quan sát không thể không đặt vấn đề: phải chăng đây là đi tìm một
thời văn học bị bỏ quên, hay trân trọng tìm lại cái phong hóa - những bóng
dáng, những tấm gương, đã và đang mất dần? Phải chăng sau một thời liên lục
chiến tranh, phân ly, loạn lạc, sai lầm, con người sống sót và hậu sinh của họ
muốn vớt vát lại phần nào những đạo lý, văn hóa đã bị rẻ rúng?.
8-2005
|
Nguyễn
Vy Khanh
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét