Khuynh hướng thơ tượng trưng
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thơ tượng trưng ra đời ở
Pháp vào thập niên 60 (thế kỷ XIX). Ngay khi mới xuất hiện, nó đã gây nên một
cơn địa chấn làm lay động thi đàn, không ít người khen ngợi, cổ vũ, nhưng cũng
không ít người công kích, chê bai. Tuy nhiên, bằng cả lý luận lẫn thực tiễn
sáng tác, các nhà thơ tượng trưng đã chứng minh con đường thơ mà họ lựa chọn là
đúng hướng, phù hợp quy luật phát triển của văn học.
1.2. Giữa những thập niên
40 của thế kỷ XX, thơ tượng trưng chính thức nhu nhập vào Việt Nam nhưng không
hình thành chủ nghĩa, trường phái như ở phương Tây mà chỉ tồn tại với tư cách
là một khuynh hướng. Hơn nữa, khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam, trong sự vận
động của nó, đã trải qua không ít thăng trầm theo các biến cố của lịch sử dân tộc.
1.3. Gần tám mươi năm hiện tồn trong nền thi ca hiện đại Việt Nam, khuynh hướng
thơ tượng trưng không ngừng biến chuyển. Qua mỗi giai đoạn, ở mỗi nhà thơ, việc
tiêp biến các đặc trưng thẩm mỹ, thi học tượng trưng diễn ra rất linh động, tạo
nên tính đa sắc độ, không thuần chất cho khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam.
Từ những lý do trên đặt ra cho chúng tôi nhiều suy ngẫm và đi đến quyết định chọn đề tài Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại để nghiên cứu.
Từ những lý do trên đặt ra cho chúng tôi nhiều suy ngẫm và đi đến quyết định chọn đề tài Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại để nghiên cứu.
2. Nhiệm vụ
nghiên cứu
Luận án sẽ thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, luận án sẽ
xác lập một hệ thống lý thuyết cho thơ tượng trưng.
Thứ hai, luận án có nhiệm vụ
chính yếu làm sáng tỏ sự hình thành, vận động, cũng như các đặc trưng thẩm mỹ,
thi học của khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi
nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Các nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử,
Chế Lan Viên, Bích Khê, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú
Tứ, Phạm Văn Hạnh, Cung Trầm Tưởng, Đoàn Thêm, Quách Thoại, Lý Quốc Sỉnh, Hoàng
Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng, Nguyễn Quang
Thiều.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận án sẽ đi từ ngọn nguồn thơ tượng trưng
và lý giải vì sao nó có thể bén rễ trên mảnh đất văn chương của ta. Từ đó, tác
giả soi chiếu vào các gương mặt thơ Việt Nam tiêu biểu (đã nêu ở trên) nhằm làm
sáng tỏ sự tiếp biến thơ tương trưng qua các phương diện như quan niệm nghệ thuật
về thơ, thế giới, con người, lẫn việc sử dụng biểu tượng, ngôn ngữ và nhạc điệu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp sau: Phương
pháp lịch sử - logic, phương pháp so sánh - đối chiếu, phương pháp hệ thống - cấu
trúc, phương pháp phân tích - tổng hợp.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các lý thuyết như xã hội học văn học, thi pháp học, phân tâm học...
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các lý thuyết như xã hội học văn học, thi pháp học, phân tâm học...
5. Đóng góp khoa học
của luận án
Một là, luận án không chỉ cố gắng xác lập các đặc trưng thẩm mỹ,
thi học của thơ tượng trưng, mà còn nỗ lực lý giải sự tiếp biến các đặc trưng ấy
ở một số nhà thơ qua ba giai đoạn trên hành trình thơ hiện đại Việt Nam. Từ đó,
luận án đi đến khẳng định sự hiện diện của khuynh hướng tượng trưng trong nền
thi ca dân tộc; đồng thời chỉ ra những đặc trưng nổi bậc của khuynh hướng thơ
này
Hai là, luận án đã mở rộng đối tượng khảo sát, kéo dài từ phong trào Thơ mới
cho đến hôm nay; trong đó có những gương mặt từng bị lãng quên và những cây bút
đương đại đang gây tranh cãi. Vì thế, luận án ít nhiều có tính can dự vào đời sống
văn học nước nhà.
Thứ ba, với những gì mà chúng tôi sẽ trình bày, có thể khẳng
định, luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu tổng thể khuynh hướng tượng
trưng trong thơ hiện đại Việt Nam. Nó hứa hẹn cung cấp một nguồn kiến thức, tư
liệu mới mẻ, hữu ích cho những ai muốn tìm hiểu thơ tượng trưng. Hơn nữa, luận
án còn gợi mở nhiều vấn đề giúp người đi sau tiếp tục khai triển chuyên sâu.
6.
Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo; Nội dung luận
án được cấu trúc gồm bốn chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và hướng
nghiên cứu đề tài.
Chương 2. Thơ tượng trưng - Một chi lưu trong thơ Việt Nam
hiện đại.
Chương 3. Khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại nhìn từ
quan niệm nghệ thuật về thơ, thế giới và con người.
Chương 4. Khuynh hướng thơ
tượng trưng Việt Nam hiện đại nhìn từ biểu tượng, ngôn ngữ và nhạc điệu.
NỘI
DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Tổng
quan tình hình nghiên cứu đề tài
1.1.1. Giai đoạn trước năm 1945
Các bài viết,
công trình nghiên cứu: Thơ Baudelaire (Phạm Quỳnh), Hàn Mặc Tử - Thân thế và
thi văn (Trần Thanh Mại), Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh - Hoài Chân), Nhà văn
hiện đại (Vũ Ngọc Phan). Qua những công trình trên, chúng tôi nhận thấy việc
nghiên cứu sự ảnh hưởng của thơ tượng trưng đối với thơ hiện đại Việt Nam đã được
đặt ra từ những năm 40 (thế kỉ XX) song còn khái lược và đôi chỗ ý kiến chưa thống
nhất. Dẫu vậy, phải thừa nhận một số học giả, nhất là Hoài Thanh - Hoài Chân,
đã có những nhận định tinh tế, sắc sảo, mang tính phát hiện.
1.1.2. Giai đoạn từ
năm 1945 đến năn 1975
Các bài viết, công trình nghiên cứu: Những khuynh hướng
trong thi ca Việt Nam (Minh Huy), Những nhà thơ hôm nay (1954 - 1964) (Nguyễn
Đình Tuyến), Khuynh hướng thi ca tiền chiến (Nguyễn Tấn Long - Phan Canh), Đuổi
bắt ảo ảnh (Nguyễn Hiến Lê), Bàn về thơ tượng trưng (Phan Ích), Hoài cảm Đinh
Hùng (Tạ Tỵ), Nhân cái chết của Đinh Hùng: Nghĩ về thơ tượng trưng (Phan Lạc
Phúc), Đọc lại "Chơi giữa mùa trăng" của Hàn Mặc Tử (Lê Huy Oánh),
Hàn Mặc Tử, đau thương và sáng tạo (Nguyễn Kim Chương)...
Giai đoạn này nghiên cứu sự tiếp nhận thơ tượng trưng có bước phát triển đáng kể cả về lượng lẫn chất. Các học giả bấy giờ không chỉ lý giải sự ảnh hưởng của thi phái tượng trưng đối với các nhà Thơ mới mà còn mở rộng đối tượng tới các nhà thơ hậu chiến ở miền Nam; và nhờ sớm tiếp nhận các thành tựu lý luận, phê bình hiện đại phương Tây nên kết quả nghiên cứu của họ có những phát hiện mới mẻ. Nói như thế không có nghĩa, tất cả những biện giải, nhận định của họ hoàn toàn chuẩn xác, đáng tin cậy, nhiều chỗ còn chủ quan.
Giai đoạn này nghiên cứu sự tiếp nhận thơ tượng trưng có bước phát triển đáng kể cả về lượng lẫn chất. Các học giả bấy giờ không chỉ lý giải sự ảnh hưởng của thi phái tượng trưng đối với các nhà Thơ mới mà còn mở rộng đối tượng tới các nhà thơ hậu chiến ở miền Nam; và nhờ sớm tiếp nhận các thành tựu lý luận, phê bình hiện đại phương Tây nên kết quả nghiên cứu của họ có những phát hiện mới mẻ. Nói như thế không có nghĩa, tất cả những biện giải, nhận định của họ hoàn toàn chuẩn xác, đáng tin cậy, nhiều chỗ còn chủ quan.
1.1.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Các bài viết,
chuyên luận, công trình nghiên cứu: Về tư tưởng và văn học hiện đại phương Tây
(Phạm Văn Sĩ), Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca (Huy Cận và Hà Minh Đức
chủ biên), Văn học hiện đại - Văn học Việt Nam giao lưu, gặp gỡ (Trần Thị Mai
Nhi), Phác thảo quan hệ văn học pháp với văn học Việt Nam hiện đại (Hoàng
Nhân), Mắt thơ (Đỗ Lai Thúy), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam (Mã Giang Lân),
Văn học lãng mạn Việt Nam 1932 - 1945 (Phan Cự Đệ), Những thế giới nghệ thuật
thơ (Trần Đình Sử), Những biểu hiện của khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới
Việt Nam 1932 - 1945 (Nguyễn Hữu Hiếu), Ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp đối
với phong trào Thơ mới Việt Nam 1932 - 1945 (Trần Huyền Sâm), Vọng từ con chữ
(Nguyễn Đăng Điệp), Thơ mới - Những bước thăng trầm (Lê Đình Kỵ)...
Ở giai đoạn này, nhất là từ sau 1986, việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của thơ tượng trưng đối với thơ hiện đại Việt Nam, đặc biệt là phong trào Thơ mới, có bước chuyển biến tích cực, mạnh mẻ và gặt hái không ít thành tựu. Tuy nhiên, cũng như các giai đoạn trước, một số ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu có chỗ chưa nhất quán, áp đặt và suy diễn.
Ở giai đoạn này, nhất là từ sau 1986, việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của thơ tượng trưng đối với thơ hiện đại Việt Nam, đặc biệt là phong trào Thơ mới, có bước chuyển biến tích cực, mạnh mẻ và gặt hái không ít thành tựu. Tuy nhiên, cũng như các giai đoạn trước, một số ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu có chỗ chưa nhất quán, áp đặt và suy diễn.
1.2. Nhận xét tình hình nghiên cứu và hướng nghiên cứu
đề tài 1.2.1. Nhận xét tình hình nghiên cứu đề tài
Từ thực trạng nghiên cứu đã
trình bày ở trên, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, nghiên cứu sự
ảnh hưởng của thơ tượng trưng pháp đối với nền thơ hiện đại Việt Nam có lịch sử
gần tám mươi năm. Tuy nhiên, hơn bốn thập niên đầu (1941 - 1986), nó diễn ra
không liên tục và không phổ biến rộng rãi, nhất là ở miền Bắc. Ngược lại, trong
ba thập niên sau (1986 - 2015), tình hình đó hoàn toàn thay đổi theo chiều hướng
tích cực. Nó không chỉ dành được sự quan tâm của các nhà lý luận, phê bình
chuyên nghiệp mà cả người học trên mọi miền đất nước. Hơn nữa, vấn đề ấy đã được
soi rọi từ nhiều giác độ, lý thuyết khác nhau với một thái độ điềm tĩnh, đem lại
những kết quả mới mẻ và có giá trị về mặt khoa học.
Thứ hai, qua những chuyên
luận, tiểu luận, bài viết kể trên; chúng ta dễ dàng nhận ra, nghiên cứu sự ảnh
hưởng của thơ tượng trưng, các tác giả chủ yếu tập trung vào Thơ mới; nói đúng
hơn là một số gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới. Trên cơ sở đó, họ
đi đến khẳng định, từ năm 1936 về sau, thơ tượng trưng được các nhà Thơ mới
thích hơn thơ lãng mạn. Và việc tiếp nhận nó, ở mỗi nhà thơ, mang những sắc độ,
giác độ khác nhau. Tuy nhiên, trong Thơ mới, chưa hình thành chủ nghĩa tượng
trưng mà chỉ có yếu tố tượng trưng.
Thứ ba, bàn về việc tiếp nhận thơ tượng
trưng, các nhà nghiên cứu, phê bình thường xoay quanh quan niệm thẩm mỹ, tư duy
"tương hợp các giác quan" và tinh thần âm nhạc trong thơ tượng trưng.
Ngoài ra, thỉnh thoảng, họ có đề cấp đến vấn đề biểu tượng và ngôn ngữ. Tất cả
điều đó dù đã được đặt ra nhưng vẫn còn những "khoảng trắng", có chỗ
cần bàn thêm.
Thứ tư, mặc dù chúng ta đã có một vài chuyên luận, tiểu luận, bài
viết đề cập đến sự ảnh hưởng của thơ tượng trưng đối với thơ Việt Nam thời hậu
chiến (ở miền Nam) và một số nhà thơ đương đại như Hoàng Cầm, Lê Đạt, Dương Tường,
Nguyễn Quang Thiều..., song nhìn chung còn rất sơ lược.
Thứ năm, trên cơ sở những
tài liệu thu thập được, chúng tôi có thể kết luận, cho tới bây giờ, chưa có một
công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về sự ảnh hưởng của thơ tượng trưng đối với
nền thơ hiện đại Việt Nam (từ 1932 đến nay).
Vì thế, đề tài của chúng tôi hứa hẹn
sẽ có những đóng góp khoa học cho vấn đề này.
1.2.2. Hướng nghiên cứu đề tài
Trước hết, xuất phát từ yêu cầu của đề tài, luận án sẽ tập trung giải quyết những
vấn đề chung, có ý nghĩa nền tảng về thơ tượng trưng. Trên cơ sở đó, lý giải vì
sao thơ tượng trưng có thể "nhập tịch" vào nước ta và có sức sống bền
bỉ đến vậy, hơn nữa, nó đã trở thành một khuynh hướng trong nền thi ca hiện đại
Việt Nam. Đây chính là tiền đề quan trọng giúp chúng tôi đi sâu nghiên cứu đề
tài.
Từ những tiền đề đó, luận án hướng tới hai mục tiêu.
Một là khẳng định khuynh hướng thơ tượng trưng đã hiện tồn từ phong trào Thơ mới và kéo dài cho đến ngày nay.
Hai là luận giải những biểu hiện của khuynh hướng tượng trưng trong thơ hiện đại Việt Nam. Phải khẳng định rằng, đây là mục tiêu trọng yếu, sẽ khiến người viết tiêu tốn nhiều tâm sức, trí tuệ nhất, song nó hứa hẹn đem lại những đóng góp mới về mặt khoa học cho luận án.
Việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của thơ tượng trưng đối với thơ hiện đại Việt Nam đã diễn ra gần tám thập kỷ (nếu không tính bài viết của Phạm Quỳnh về Thơ Baudelaire), nhưng không liên tục mà bị gián cách cả trong thời gian lẫn không gian do tác động của hoàn cảnh lịch sử - xã hội. Vào những năm từ 1945 đến 1954 và từ 1975 đến 1986, việc nghiên cứu thơ tượng trưng gần như rơi vào quên lãng. Sau khoảng lặng ấy, nó lại phục hồi, thu hút sự quan tâm của không ít nhà lý luận, phê bình; và hiện nay, vẫn chưa khép lại dù số lượng công trình khảo cứu trực tiếp/ gián tiếp thơ tượng trưng đã lên tới cả trăm, có những công trình chúng tôi đánh giá cao vì đã soi xét vấn đề từ nhiều giác độ, lý thuyết khác nhau với một tinh thần khách quan, khoa học, mang lại những tri thức mới mẻ, bổ ích như: Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh - Hoài Chân), Những khuynh hướng thi ca Việt Nam (Minh Huy), Khuynh hướng thi ca tiền chiến (Nguyễn Tấn Long - Phan Canh), Những thế giới nghệ thuật thơ (Trần Đình Sử), Văn học lãng mạn Việt Nam 1932 - 1945 (Phan Cự Đệ), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam (Mã Giang Lân), Những biểu hiện của khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới Việt Nam 1932 - 1945 (Nguyễn Hữu Hiếu)... Phải thừa nhận, sự luận bàn đa chiều của các học giả đi trước về thơ tượng trưng đã cung cấp cho đề tài chúng tôi những gợi ý rất giá trị; nhưng bên cạnh đó, vẫn còn một số nhận định có phần thiên lệch. Một điều đáng nói nữa, khi khảo cứu khuynh hướng tượng trưng trong thơ hiện đại Việt Nam, các nhà nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào phong trào Thơ mới nên thiếu cái nhìn hệ thống, toàn diện về khuynh hướng thơ này. Chúng tôi hy vọng những hạn chế ấy sẽ được khắc phục trong luận án của mình.
Từ những tiền đề đó, luận án hướng tới hai mục tiêu.
Một là khẳng định khuynh hướng thơ tượng trưng đã hiện tồn từ phong trào Thơ mới và kéo dài cho đến ngày nay.
Hai là luận giải những biểu hiện của khuynh hướng tượng trưng trong thơ hiện đại Việt Nam. Phải khẳng định rằng, đây là mục tiêu trọng yếu, sẽ khiến người viết tiêu tốn nhiều tâm sức, trí tuệ nhất, song nó hứa hẹn đem lại những đóng góp mới về mặt khoa học cho luận án.
Việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của thơ tượng trưng đối với thơ hiện đại Việt Nam đã diễn ra gần tám thập kỷ (nếu không tính bài viết của Phạm Quỳnh về Thơ Baudelaire), nhưng không liên tục mà bị gián cách cả trong thời gian lẫn không gian do tác động của hoàn cảnh lịch sử - xã hội. Vào những năm từ 1945 đến 1954 và từ 1975 đến 1986, việc nghiên cứu thơ tượng trưng gần như rơi vào quên lãng. Sau khoảng lặng ấy, nó lại phục hồi, thu hút sự quan tâm của không ít nhà lý luận, phê bình; và hiện nay, vẫn chưa khép lại dù số lượng công trình khảo cứu trực tiếp/ gián tiếp thơ tượng trưng đã lên tới cả trăm, có những công trình chúng tôi đánh giá cao vì đã soi xét vấn đề từ nhiều giác độ, lý thuyết khác nhau với một tinh thần khách quan, khoa học, mang lại những tri thức mới mẻ, bổ ích như: Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh - Hoài Chân), Những khuynh hướng thi ca Việt Nam (Minh Huy), Khuynh hướng thi ca tiền chiến (Nguyễn Tấn Long - Phan Canh), Những thế giới nghệ thuật thơ (Trần Đình Sử), Văn học lãng mạn Việt Nam 1932 - 1945 (Phan Cự Đệ), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam (Mã Giang Lân), Những biểu hiện của khuynh hướng tượng trưng trong Thơ mới Việt Nam 1932 - 1945 (Nguyễn Hữu Hiếu)... Phải thừa nhận, sự luận bàn đa chiều của các học giả đi trước về thơ tượng trưng đã cung cấp cho đề tài chúng tôi những gợi ý rất giá trị; nhưng bên cạnh đó, vẫn còn một số nhận định có phần thiên lệch. Một điều đáng nói nữa, khi khảo cứu khuynh hướng tượng trưng trong thơ hiện đại Việt Nam, các nhà nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào phong trào Thơ mới nên thiếu cái nhìn hệ thống, toàn diện về khuynh hướng thơ này. Chúng tôi hy vọng những hạn chế ấy sẽ được khắc phục trong luận án của mình.
Chương 2
THƠ TƯỢNG TRƯNG MỘT CHI LƯU TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
2.1. Cơ
sở hình thành thơ tượng trưng
2.1.1. Cơ sở chính trị, xã hội, tư tưởng
Sau
thành công của cuộc Cách mạng 1789, nước Pháp lại chìm trong bão tố chính trị.
Đi cùng sự thay đổi liên tục các chính thể là sự hình thành và lớn mạnh của xã
hội tư sản. Một mặt, nó mang đến cho dân tộc này một sắc diện mới bởi tính trẻ
trung, năng động và hiện đại; nhưng mặt khác, đăng sau vẻ hào nhoáng ấy là một
"sự thật, sự thật chua chát", "sự thật hèn mọn" đang dần được
phơi bày, "thay cho thanh kiếm, đồng tiền đã trở thành đòn bẫy quan trọng
nhất của xã hội".
Trước thực trạng nhiễu nhương đó, một lối sống nổi loạn đã xuất hiện. Thực chất, đằng sau lối sống ấy là sự biểu hiện thái độ khước từ mọi phép tắc, kỷ cương về chính trị, xã hội, tôn giáo, nghệ thuật; đồng thời ẩn chứa tâm trạng hoang mang, vỡ mộng, bế tắc. Chọn cách ứng xử lệch chuẩn, các văn nghệ sĩ muốn gửi đi thông điệp về tình trạng "nhật thực toàn phần" của nước Pháp, từ đó, họ đặt ra yêu cầu phải đổi mới mọi mặt đời sống, trong đó có văn học nghệ thuật.
Bên cạnh các tác nhân trên, còn phải kể đến sự chuyển biến trong tư tưởng, nhận thức về thế giới, con người vốn có căn nguyên từ "sự phá sản của khoa học"/ chủ nghĩa duy lý. Từ chỗ phủ nhận quyền năng của lý trí, khoa học đã dẫn con người vào cuộc phiêu lưu tư tưởng mới; thay vì bước đi trên con đường duy lý, họ lại chọn cách dấn thân vào mê lộ phi lý trí. Nhờ đó họ nhận ra thế giới này chứa đầy hỗn độn, đằng sau thế giới thực tại còn có một thế giới khác thật hơn. Đây là một phát hiện có tính cách mạng, nó giúp người nghệ sĩ có thêm miền đất mới để gieo mầm nghệ thuật.
Trước thực trạng nhiễu nhương đó, một lối sống nổi loạn đã xuất hiện. Thực chất, đằng sau lối sống ấy là sự biểu hiện thái độ khước từ mọi phép tắc, kỷ cương về chính trị, xã hội, tôn giáo, nghệ thuật; đồng thời ẩn chứa tâm trạng hoang mang, vỡ mộng, bế tắc. Chọn cách ứng xử lệch chuẩn, các văn nghệ sĩ muốn gửi đi thông điệp về tình trạng "nhật thực toàn phần" của nước Pháp, từ đó, họ đặt ra yêu cầu phải đổi mới mọi mặt đời sống, trong đó có văn học nghệ thuật.
Bên cạnh các tác nhân trên, còn phải kể đến sự chuyển biến trong tư tưởng, nhận thức về thế giới, con người vốn có căn nguyên từ "sự phá sản của khoa học"/ chủ nghĩa duy lý. Từ chỗ phủ nhận quyền năng của lý trí, khoa học đã dẫn con người vào cuộc phiêu lưu tư tưởng mới; thay vì bước đi trên con đường duy lý, họ lại chọn cách dấn thân vào mê lộ phi lý trí. Nhờ đó họ nhận ra thế giới này chứa đầy hỗn độn, đằng sau thế giới thực tại còn có một thế giới khác thật hơn. Đây là một phát hiện có tính cách mạng, nó giúp người nghệ sĩ có thêm miền đất mới để gieo mầm nghệ thuật.
2.1.2. Cơ sở văn học
Thơ phái
tượng trưng ra đời trên cơ sở vừa kế thừa vừa phủ định chủ yếu thơ lãng mạn và
Thi sơn.
Các nhà thơ tượng trưng vốn xuất thân hoặc từng có quan hệ gắn bó với hai phái này. Sau đó, họ tách ra, chọn hướng đi riêng, nhưng vẫn tiếp thu một số yếu tố nghệ thuật của lãng mạn, Thi sơn, nhất là quan niệm "nghệ thuật vị nghệ thuật" của T. Gautier.
Tuy nhiên, các nhà thơ tượng trưng sớm nhận ra cả hai lối thơ này có những hạn chế không thể chấp nhận. Với thơ lãng mạn, họ cho rằng nó quá chú trọng phô diễn tình cảm, nhiệt hứng trữ tình; còn với Thi sơn, họ không tán đồng cách xây dựng câu thơ, mô tả sự vật quá trau chuốt, đẽo gọt, nặng tinh thần thực chứng đến độ cầu kỳ, kiểu cách, đánh mất cả cảm xúc, cá tính sáng tạo.
Ngoài ra, các nhà thơ tượng trưng còn tỏ thái độ chống đối cả chủ nghĩa hiện thực, tự nhiên, cụ thể ở đây, họ không chấp nhận việc ứng dụng phương pháp khoa học thực nghiệm vào sáng tác văn chương, biến nhà văn thành người kiểm chứng thực tế xã hội.
2.2. Thơ tượng trưng - Khởi nguồn thơ hiện đại
Các nhà thơ tượng trưng vốn xuất thân hoặc từng có quan hệ gắn bó với hai phái này. Sau đó, họ tách ra, chọn hướng đi riêng, nhưng vẫn tiếp thu một số yếu tố nghệ thuật của lãng mạn, Thi sơn, nhất là quan niệm "nghệ thuật vị nghệ thuật" của T. Gautier.
Tuy nhiên, các nhà thơ tượng trưng sớm nhận ra cả hai lối thơ này có những hạn chế không thể chấp nhận. Với thơ lãng mạn, họ cho rằng nó quá chú trọng phô diễn tình cảm, nhiệt hứng trữ tình; còn với Thi sơn, họ không tán đồng cách xây dựng câu thơ, mô tả sự vật quá trau chuốt, đẽo gọt, nặng tinh thần thực chứng đến độ cầu kỳ, kiểu cách, đánh mất cả cảm xúc, cá tính sáng tạo.
Ngoài ra, các nhà thơ tượng trưng còn tỏ thái độ chống đối cả chủ nghĩa hiện thực, tự nhiên, cụ thể ở đây, họ không chấp nhận việc ứng dụng phương pháp khoa học thực nghiệm vào sáng tác văn chương, biến nhà văn thành người kiểm chứng thực tế xã hội.
2.2. Thơ tượng trưng - Khởi nguồn thơ hiện đại
2.2.1. Thơ tượng trưng - Hành trình sáng tạo
Năm 1886, J. Moréas chính thức
tuyên bố sự ra đời của chủ nghĩa tượng trưng. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều năm
trước đó, các nhà thơ C. Baudelaire, P. Verlaine, A. Rimbaud, S. Mallarmé... đã
thể nghiệm thành công lối thơ này.
Nhắc đến thơ tượng trưng, người ta nghĩ ngay đến C. Baudelaire vì ông là người khơi nguồn thơ ấy; hơn nữa, ông đã để lại cho nhân loại một tuyệt phẩm "vô tiền khoáng hậu", in đậm phong cách tượng trưng - Những bông hoa Ác. Thi tập này đã cho thấy sức sáng tạo vô biên của một tài năng siêu việt. Ông đã can đảm vượt qua những lằn ranh nghệ thuật, định kiến thẩm mỹ để trả thơ về bản nguyên của nó và đưa thơ đạt tới "tính hiện đại".
Sau sự kiện gây chấn động của Những bông hoa Ác, thơ tượng trưng ngày càng được ưa chuộng, trở thành một trào lưu, thu hút không ít thi sĩ tham gia. Trong đó, P. Verlaine, A. Rimbaud, S. Mallarmé là ba gương mặt nổi bật và có nhiều đóng góp nhất cho thi phái này. Họ được xem là những bậc thầy ưu tú của thơ tượng trưng.
Khi những nhà thơ trên lần lượt qua đời, người ta nghĩ rằng thơ tượng trưng sẽ suy tàn. Thế nhưng, sau một thời gian im hơi lặng tiếng, nó lại hồi sinh với những gương mặt "tượng trưng chủ nghĩa mới (néo - symbolisme), hay nói như Xavier Darcos là "những ngọn lửa tượng trưng cuối cùng", tiêu biểu có P. Valéry và G. Apollinaire - ông là chiếc cầu nối giữa trường phái tượng trưng và siêu thực.
Đến đây, thơ tượng trưng đã hoàn thành sứ mệnh ở Pháp, song những hạt mầm nghệ thuật của nó đã kịp theo gió phát tán đi muôn phương và tiếp tục bén rễ, đơm hoa, kết trái trong đời sống văn chương nhân loại, trở thành "một hiện tượng văn học quốc tế".
Nhắc đến thơ tượng trưng, người ta nghĩ ngay đến C. Baudelaire vì ông là người khơi nguồn thơ ấy; hơn nữa, ông đã để lại cho nhân loại một tuyệt phẩm "vô tiền khoáng hậu", in đậm phong cách tượng trưng - Những bông hoa Ác. Thi tập này đã cho thấy sức sáng tạo vô biên của một tài năng siêu việt. Ông đã can đảm vượt qua những lằn ranh nghệ thuật, định kiến thẩm mỹ để trả thơ về bản nguyên của nó và đưa thơ đạt tới "tính hiện đại".
Sau sự kiện gây chấn động của Những bông hoa Ác, thơ tượng trưng ngày càng được ưa chuộng, trở thành một trào lưu, thu hút không ít thi sĩ tham gia. Trong đó, P. Verlaine, A. Rimbaud, S. Mallarmé là ba gương mặt nổi bật và có nhiều đóng góp nhất cho thi phái này. Họ được xem là những bậc thầy ưu tú của thơ tượng trưng.
Khi những nhà thơ trên lần lượt qua đời, người ta nghĩ rằng thơ tượng trưng sẽ suy tàn. Thế nhưng, sau một thời gian im hơi lặng tiếng, nó lại hồi sinh với những gương mặt "tượng trưng chủ nghĩa mới (néo - symbolisme), hay nói như Xavier Darcos là "những ngọn lửa tượng trưng cuối cùng", tiêu biểu có P. Valéry và G. Apollinaire - ông là chiếc cầu nối giữa trường phái tượng trưng và siêu thực.
Đến đây, thơ tượng trưng đã hoàn thành sứ mệnh ở Pháp, song những hạt mầm nghệ thuật của nó đã kịp theo gió phát tán đi muôn phương và tiếp tục bén rễ, đơm hoa, kết trái trong đời sống văn chương nhân loại, trở thành "một hiện tượng văn học quốc tế".
2.2.2. Thơ tượng trưng -
Quan niệm thẩm mỹ và thi học
Quan niệm thẩm mỹ thơ tượng trưng được xác lập
trên cơ sở tiếp nhận từ hai nguồn cơ bản: Một là, tư tưởng triết - mỹ của E.
Kant, A. Schopenhauer và thuyết thần cảm Đức; hai là, quan niệm "nghệ thuật
vị nghệ thuật" của T. Gautier và thuyết "thuần văn học" của
E.Poe.
Tiếp thu những quan niệm trên, các nhà thơ tượng trưng đã giải phóng thơ khỏi những ràng buộc của chính trị, xã hội và gạt bỏ cả chức năng giáo dục ra khỏi thơ ca. Thơ chỉ phụng sự cho cái Đẹp thuần túy.
Từ chỗ đối lập cái Đẹp với cái có ích, họ đã đi đến chỗ đối lập cái Đẹp với đạo đức, luân lý. Điều đó đã làm thay đổi căn bản nhận thức của con người về cái Đẹp.
Thi phái tượng trưng đã xác lập được một hệ thống thi học riêng. Trước hết là quan niệm tương ứng của C. Baudelaire. Nó vốn có nguồn gốc từ triết học siêu hình, tiêu biểu là thuyết thần cảm Đức - một học thuyết chủ trương nhìn thế giới trong tính nhị nguyên, hai mặt, "thế giới hữu hình là hình ảnh của thế giới vô hình... Giữa hai thế giới đó có những điều tương ứng". C. Baudelaire không chỉ tiếp nhận điều này, mà còn nhấn mạnh đến sự tương hợp giữa các giác quan. Nó trở thành nguyên tắc nghệ thuật của thi phái tượng trưng.
Đi cùng với kiểu tư duy tương hợp các giác quan là kiểu nhà thơ "tiên tri thấu thị". Họ có trực giác, liên tưởng hơn người, có thể "thấy tất cả, cảm tất cả, tiêu thụ tất cả, thám hiểm tất cả, nói tất cả" và biến "TÔI thành kẻ khác", tức là có khả năng tự phân đôi "trở thành người lạ".
Một đặc trưng khác không kém phần quan trọng của thơ tượng trưng là việc kiến tạo biểu tượng cho thơ. Họ đề cao tới mức tuyệt đối hóa vai trò của biểu tượng, xem nó là mục đích, bản chất của thơ. Và việc giải mã biểu tượng sẽ đưa ta vào chiều sâu khôn cùng của sinh khí nguyên thủy, của vũ trụ bí nhiệm, của cái tôi vô thức, tâm linh.
Thi phái tượng trưng yêu cầu thơ chỉ gợi chứ không tả và thể hiện thế giới tiên nghiệm, tiềm thức, chiêm bao. Muốn vậy, ngoài việc sử dụng tư duy tương hợp, biểu tượng thẩm mỹ, thì phải mang âm nhạc vào thơ. Tinh thần âm nhạc trong thơ tương trưng được xây dựng trên cơ sở tiếp nhận từ quan niệm mỹ học của A. Schopenhauer, âm nhạc của R. Wagner và triết lý về soạn nhạc" của A. Poe. Từ đó, họ chủ trương sáng tạo ra lối thơ - nhạc, thơ là nhạc và nhạc là thơ. Nhạc thơ tượng trưng nhuốm màu sắc triết học, nó có khả năng khải thị thế giới, lòng người. Bên cạnh đó, các nhà thơ tượng trưng còn đổi mới phương thức tạo nhạc cho thơ, phát huy triệt để các nguyên tắc của âm nhạc, đồng thời cải cách ngôn ngữ, vần điệu và đặc biệt câu thơ.
Âm nhạc thơ tượng trưng thấm đẫm trong từng câu chữ, nó chắp cánh cho nhạc lòng bay cao, hay nói như P. Valéry: "Thơ là sự dao động giữa âm thanh và ý nghĩa". Âm nhạc trong thơ khởi đi từ ngôn ngữ. Có thể nói, các thi sĩ tượng trưng đã làm nên một cuộc cách mạng cho ngôn ngữ thơ. Họ đã giải phóng ngôn ngữ khỏi sự kìm kẹp của lý trí, kinh nghiệm, thực tại; đồng thời, trao trả cho nó sức mạnh, giá trị tự thân. C. Baudelaire sáng tạo ra lớp ngôn từ biểu tượng, tương hợp; A. Rimbaud làm lạ hóa ngôn từ bằng "trực giác thị quan"; S. Mallarmé kiến tạo thơ trên cơ sở "trò chơi" ngôn ngữ, một mặt ông biến thơ thành câu đố bằng cách "xác lập sự ngự trị thuần túy của chữ", mặt khác biến độc giả thành người chơi trong cuộc "ú tìm" chữ nghĩa; còn P. Valéry tập trung khai thác phần hinh dung của chữ, phát huy triệt để vai trò của nhịp điệu, sự hòa âm. Thơ tượng trưng ra đời đã làm thay đổi diện mạo thi ca nhân loại. Bắt đầu là sự nhận thức lại cái Đẹp, thế giới, việc sáng tạo, sau đó là thi pháp. Các nhà thơ đồng nhất thơ với nhạc, ngôn ngữ, biểu tượng, khiến nàng thơ tượng trưng có một dáng vẻ tân kì, độc đáo. 2.3. Tổng quan khuynh hướng thơ tương trưng Việt Nam hiện đại
Tiếp thu những quan niệm trên, các nhà thơ tượng trưng đã giải phóng thơ khỏi những ràng buộc của chính trị, xã hội và gạt bỏ cả chức năng giáo dục ra khỏi thơ ca. Thơ chỉ phụng sự cho cái Đẹp thuần túy.
Từ chỗ đối lập cái Đẹp với cái có ích, họ đã đi đến chỗ đối lập cái Đẹp với đạo đức, luân lý. Điều đó đã làm thay đổi căn bản nhận thức của con người về cái Đẹp.
Thi phái tượng trưng đã xác lập được một hệ thống thi học riêng. Trước hết là quan niệm tương ứng của C. Baudelaire. Nó vốn có nguồn gốc từ triết học siêu hình, tiêu biểu là thuyết thần cảm Đức - một học thuyết chủ trương nhìn thế giới trong tính nhị nguyên, hai mặt, "thế giới hữu hình là hình ảnh của thế giới vô hình... Giữa hai thế giới đó có những điều tương ứng". C. Baudelaire không chỉ tiếp nhận điều này, mà còn nhấn mạnh đến sự tương hợp giữa các giác quan. Nó trở thành nguyên tắc nghệ thuật của thi phái tượng trưng.
Đi cùng với kiểu tư duy tương hợp các giác quan là kiểu nhà thơ "tiên tri thấu thị". Họ có trực giác, liên tưởng hơn người, có thể "thấy tất cả, cảm tất cả, tiêu thụ tất cả, thám hiểm tất cả, nói tất cả" và biến "TÔI thành kẻ khác", tức là có khả năng tự phân đôi "trở thành người lạ".
Một đặc trưng khác không kém phần quan trọng của thơ tượng trưng là việc kiến tạo biểu tượng cho thơ. Họ đề cao tới mức tuyệt đối hóa vai trò của biểu tượng, xem nó là mục đích, bản chất của thơ. Và việc giải mã biểu tượng sẽ đưa ta vào chiều sâu khôn cùng của sinh khí nguyên thủy, của vũ trụ bí nhiệm, của cái tôi vô thức, tâm linh.
Thi phái tượng trưng yêu cầu thơ chỉ gợi chứ không tả và thể hiện thế giới tiên nghiệm, tiềm thức, chiêm bao. Muốn vậy, ngoài việc sử dụng tư duy tương hợp, biểu tượng thẩm mỹ, thì phải mang âm nhạc vào thơ. Tinh thần âm nhạc trong thơ tương trưng được xây dựng trên cơ sở tiếp nhận từ quan niệm mỹ học của A. Schopenhauer, âm nhạc của R. Wagner và triết lý về soạn nhạc" của A. Poe. Từ đó, họ chủ trương sáng tạo ra lối thơ - nhạc, thơ là nhạc và nhạc là thơ. Nhạc thơ tượng trưng nhuốm màu sắc triết học, nó có khả năng khải thị thế giới, lòng người. Bên cạnh đó, các nhà thơ tượng trưng còn đổi mới phương thức tạo nhạc cho thơ, phát huy triệt để các nguyên tắc của âm nhạc, đồng thời cải cách ngôn ngữ, vần điệu và đặc biệt câu thơ.
Âm nhạc thơ tượng trưng thấm đẫm trong từng câu chữ, nó chắp cánh cho nhạc lòng bay cao, hay nói như P. Valéry: "Thơ là sự dao động giữa âm thanh và ý nghĩa". Âm nhạc trong thơ khởi đi từ ngôn ngữ. Có thể nói, các thi sĩ tượng trưng đã làm nên một cuộc cách mạng cho ngôn ngữ thơ. Họ đã giải phóng ngôn ngữ khỏi sự kìm kẹp của lý trí, kinh nghiệm, thực tại; đồng thời, trao trả cho nó sức mạnh, giá trị tự thân. C. Baudelaire sáng tạo ra lớp ngôn từ biểu tượng, tương hợp; A. Rimbaud làm lạ hóa ngôn từ bằng "trực giác thị quan"; S. Mallarmé kiến tạo thơ trên cơ sở "trò chơi" ngôn ngữ, một mặt ông biến thơ thành câu đố bằng cách "xác lập sự ngự trị thuần túy của chữ", mặt khác biến độc giả thành người chơi trong cuộc "ú tìm" chữ nghĩa; còn P. Valéry tập trung khai thác phần hinh dung của chữ, phát huy triệt để vai trò của nhịp điệu, sự hòa âm. Thơ tượng trưng ra đời đã làm thay đổi diện mạo thi ca nhân loại. Bắt đầu là sự nhận thức lại cái Đẹp, thế giới, việc sáng tạo, sau đó là thi pháp. Các nhà thơ đồng nhất thơ với nhạc, ngôn ngữ, biểu tượng, khiến nàng thơ tượng trưng có một dáng vẻ tân kì, độc đáo. 2.3. Tổng quan khuynh hướng thơ tương trưng Việt Nam hiện đại
2.3.1. Cơ sở hình thành khuynh hướng thơ tượng trưng Việt
Nam hiện đại
Trước hết là do những tác nhân lịch sử, xã hội. Sau khi thực hiện
xong công cuộc bình định, thực dân Pháp liền bắt tay vào khai thác thuộc địa dẫn
đến việc hình thành các đô thị kiểu mới và các tầng lớp cư dân mới, đáng chú ý
là sự xuất hiện ngày càng đông đảo tầng lớp trí thức Tây học bản địa. Họ trở
thành chủ nhân của nền văn hóa đô thị. Tầng lớp này, trong đó có các nhà văn,
nhà thơ, sớm nhận ra không thể mãi trói mình trong khuôn khổ văn chương Nho
giáo, khu vực mà cần phải hướng ra thế giới, cụ thể là Pháp.
Sau nữa là do thơ tượng trưng có những điểm tương đồng với thơ Việt Nam trong quan niệm về vũ trụ và thơ. Từ góc độ vũ trụ quan, cả thơ tượng trưng và thơ Việt xưa đều quan niệm vũ trụ là thể thống nhất, giữa nó và con người có mối liên hệ siêu việt, huyền vi. Đến góc độ quan niệm thơ, các nhà thơ tượng trưng và các nhà thơ trung đại Việt Nam đều đề cao tính nhạc trong thơ, chú trọng sự hàm xúc, khơi gợi. Ngoài ra, có thể viện dẫn thêm một lý do khác, đó là sự gần gũi trong lối tư duy tổng hợp.
Sau nữa là do thơ tượng trưng có những điểm tương đồng với thơ Việt Nam trong quan niệm về vũ trụ và thơ. Từ góc độ vũ trụ quan, cả thơ tượng trưng và thơ Việt xưa đều quan niệm vũ trụ là thể thống nhất, giữa nó và con người có mối liên hệ siêu việt, huyền vi. Đến góc độ quan niệm thơ, các nhà thơ tượng trưng và các nhà thơ trung đại Việt Nam đều đề cao tính nhạc trong thơ, chú trọng sự hàm xúc, khơi gợi. Ngoài ra, có thể viện dẫn thêm một lý do khác, đó là sự gần gũi trong lối tư duy tổng hợp.
2.3.2. Sự vận động của khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại
Thơ
tượng trưng bắt đầu bén rễ vào nền thơ Việt từ phong trào Thơ mới. Tuy nhiên,
trong chặng đầu (1932 - 1935), nó đang ở dạng "phôi thai", chưa hình
thành một trào lưu. Nhưng sang chặng thứ hai (1936 - 1939), thơ tượng trưng được
người ta ưa chuộng hơn, nhất là Baudelaire. Các nhà thơ như Xuân Diệu, Huy Cận,
Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê..., người ít người nhiều đều chịu ảnh hưởng
thi phái này. Sang chặng thứ ba (1940 - 1945), thơ tượng trưng đã chiếm trọn
tình cảm của nhiều nhà Thơ mới. Họ ra sức học tập C. Baudelaire, P. Verlaine,
A. Rimbaud, S. Mallarmé, P. Valéry; thậm chí, họ thành lập các tổ chức, ra
tuyên ngôn tượng trưng như Dạ Đài.
Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, thơ tượng trưng rơi vào tình trạng "ngủ đông", và được bừng thức từ sau hiệp định Genève. Ở miền Bắc, các nhà thơ Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Đặng Đình Hưng... đã có cuộc gặp gỡ với thi phái tượng trưng Pháp ở cấp độ "đối thoại" chuyên sâu, song vì lý do khách quan mà những tác phẩm của họ không được công bố rộng rãi. Ở miền Nam, các nhà thơ Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Đoàn Thêm, Cung Trầm Tưởng, Quách Thoại, Lý Quốc Sỉnh... đã cho ra đời nhiều thi phẩm mang màu sắc tượng trưng nhưng không thuần chất.
Từ 1975 đến đầu thập niên 90, do "áp lực của chủ âm" hiện thực xã hội chủ nghĩa, nên thơ tượng trưng bị đẩy ra ngoại vi. Phải chờ tới lúc Việt Nam tham nhập tiến trình toàn cầu hóa, thơ "bao năm hát giọng cao, giờ anh hát giọng trầm" và những thi sĩ hát "giọng trầm" ấy không ai khác ngoài những người có ý hướng cách tân thơ từ trước như Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, và các cây bút mới góp mặt như Hoàng Hưng, Nguyễn Quang Thiều... Họ đã tiếp biến thơ tượng trưng, đưa nó lên một tầm cao mới.
Thơ tượng trưng ra đời ở Pháp trong một giai đoạn lịch sử đầy tao loạn mà hiển vinh. Chưa bao giờ người ta thấy nước Pháp bị khuynh đảo, tàn phá ghê gớm bởi những cơn cuồng phong chính trị như thời đoạn này. Tuy nhiên, điều đó không thể hủy diệt được ý chí, tinh thần sáng tạo và khát vọng tự do của người dân Gô Loa; trái lại, còn làm bật nảy những trí tuệ siêu việt. Có thể nói, thế kỷ XIX ở Pháp là thế kỷ của những phát kiến khoa học vĩ đại, của những cuộc cách mạng nghệ thuật. Riêng lĩnh vực văn học, thế kỷ này đã chứng kiến sự nở rộ của các trào lưu, trường phái văn học lớn như lãng mạn, hiện thực, tượng trưng, tự nhiên..., làm thay đổi hoàn toàn diện mạo văn chương Pháp. Trong đó, trường phái tượng trưng nắm giữ sứ mệnh lịch sử lớn lao, mở ra thời kỳ hiện đại cho văn học. Có được thành quả ấy, thi phái tượng trưng từng gánh chịu bao búa rìu dư luận, thậm chí còn bị kẻ cầm quyền kết án vi phạm thuần phong mỹ tục. Mặc dù vậy, các thi sĩ tượng trưng vẫn không hề nao núng mà luôn tìm cách vượt qua mọi rào cản, nhất là rào cản tư duy nghệ thuật; cụ thể, họ muốn bứt phá khỏi hệ hình thi pháp của thơ lãng mạn, Thi sơn đang thịnh hành bấy giờ. Chính động lực này đã giúp các thi sĩ tượng trưng chinh phục thành công những đỉnh cao mới cho thơ. Họ không chỉ mang vào thơ một quan niệm thẩm mỹ độc đáo khi ngợi ca cả cái Ác, ghê rợn, phi luân; mà còn sáng tạo nên một hệ thống thi học mới lạ. Họ đi sâu khám phá những bí ẩn của thế giới bằng sự thấu thị, tương hợp các giác quan; đồng thời, gắn liền thơ với nhạc, biểu tượng, ngôn ngữ khiến cho nàng thơ của họ mang dáng vẻ rất tân kỳ. Có thể nói, thơ tượng trưng - đặc biệt là thơ C. Baudelaire, P. Verlaine, A. Rimbaud, S. Mallarmé, P. Valéry - đã tạo ra một lực hấp dẫn thu hút nhiều thế hệ thi sĩ trên khắp năm châu. Các nhà thơ Việt Nam cũng không ngoại lệ. Từ khi du nhập vào nước ta đến nay, thơ tượng trưng đã chiếm được tình cảm của không ít thi nhân, một phần là do tính chất hiện đại của nó, phần khác là do người ta nhận ra ở thơ tượng trưng có những nét gần gũi với truyền thống thi ca dân tộc/ phương Đông. Có lẽ, vì lợi thế ấy nên thơ tượng trưng được yêu thích và duy trì sức ảnh hưởng lâu bền hơn một số thi phái khác; đồng thời, nó trở thành một chi lưu trong nền thơ hiện đại Việt Nam. Trải qua tám thập kỉ, dòng thơ tượng trưng không ngừng vận động theo sự biến thiên của lịch sử nước nhà. Có những thời đoạn, nó bị đẩy ra ngoại biên rồi lại quay về trung tâm. Điều đó phần nào cho thấy sức quyến rũ của lối thơ này. Từ lớp nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh, Đoàn Phú Tứ, Hoàng Cầm, Trần Dần, đến lớp nhà thơ Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng, Đoàn Thêm, Cung Trầm Tưởng, Quách Thoại, Lý Quốc Sỉnh, và sau nữa là Hoàng Hưng, Nguyễn Quang Thiều...; người ít người nhiều đều tìm thấy ở thơ tượng trưng những gợi ý hữu ích cho việc kiến tạo thi giới nghệ thuật của mình. Họ đã cùng nhau làm nên một khuynh hướng thơ tượng trưng mang bản sắc Việt Nam.
Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, thơ tượng trưng rơi vào tình trạng "ngủ đông", và được bừng thức từ sau hiệp định Genève. Ở miền Bắc, các nhà thơ Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Đặng Đình Hưng... đã có cuộc gặp gỡ với thi phái tượng trưng Pháp ở cấp độ "đối thoại" chuyên sâu, song vì lý do khách quan mà những tác phẩm của họ không được công bố rộng rãi. Ở miền Nam, các nhà thơ Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Đoàn Thêm, Cung Trầm Tưởng, Quách Thoại, Lý Quốc Sỉnh... đã cho ra đời nhiều thi phẩm mang màu sắc tượng trưng nhưng không thuần chất.
Từ 1975 đến đầu thập niên 90, do "áp lực của chủ âm" hiện thực xã hội chủ nghĩa, nên thơ tượng trưng bị đẩy ra ngoại vi. Phải chờ tới lúc Việt Nam tham nhập tiến trình toàn cầu hóa, thơ "bao năm hát giọng cao, giờ anh hát giọng trầm" và những thi sĩ hát "giọng trầm" ấy không ai khác ngoài những người có ý hướng cách tân thơ từ trước như Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, và các cây bút mới góp mặt như Hoàng Hưng, Nguyễn Quang Thiều... Họ đã tiếp biến thơ tượng trưng, đưa nó lên một tầm cao mới.
Thơ tượng trưng ra đời ở Pháp trong một giai đoạn lịch sử đầy tao loạn mà hiển vinh. Chưa bao giờ người ta thấy nước Pháp bị khuynh đảo, tàn phá ghê gớm bởi những cơn cuồng phong chính trị như thời đoạn này. Tuy nhiên, điều đó không thể hủy diệt được ý chí, tinh thần sáng tạo và khát vọng tự do của người dân Gô Loa; trái lại, còn làm bật nảy những trí tuệ siêu việt. Có thể nói, thế kỷ XIX ở Pháp là thế kỷ của những phát kiến khoa học vĩ đại, của những cuộc cách mạng nghệ thuật. Riêng lĩnh vực văn học, thế kỷ này đã chứng kiến sự nở rộ của các trào lưu, trường phái văn học lớn như lãng mạn, hiện thực, tượng trưng, tự nhiên..., làm thay đổi hoàn toàn diện mạo văn chương Pháp. Trong đó, trường phái tượng trưng nắm giữ sứ mệnh lịch sử lớn lao, mở ra thời kỳ hiện đại cho văn học. Có được thành quả ấy, thi phái tượng trưng từng gánh chịu bao búa rìu dư luận, thậm chí còn bị kẻ cầm quyền kết án vi phạm thuần phong mỹ tục. Mặc dù vậy, các thi sĩ tượng trưng vẫn không hề nao núng mà luôn tìm cách vượt qua mọi rào cản, nhất là rào cản tư duy nghệ thuật; cụ thể, họ muốn bứt phá khỏi hệ hình thi pháp của thơ lãng mạn, Thi sơn đang thịnh hành bấy giờ. Chính động lực này đã giúp các thi sĩ tượng trưng chinh phục thành công những đỉnh cao mới cho thơ. Họ không chỉ mang vào thơ một quan niệm thẩm mỹ độc đáo khi ngợi ca cả cái Ác, ghê rợn, phi luân; mà còn sáng tạo nên một hệ thống thi học mới lạ. Họ đi sâu khám phá những bí ẩn của thế giới bằng sự thấu thị, tương hợp các giác quan; đồng thời, gắn liền thơ với nhạc, biểu tượng, ngôn ngữ khiến cho nàng thơ của họ mang dáng vẻ rất tân kỳ. Có thể nói, thơ tượng trưng - đặc biệt là thơ C. Baudelaire, P. Verlaine, A. Rimbaud, S. Mallarmé, P. Valéry - đã tạo ra một lực hấp dẫn thu hút nhiều thế hệ thi sĩ trên khắp năm châu. Các nhà thơ Việt Nam cũng không ngoại lệ. Từ khi du nhập vào nước ta đến nay, thơ tượng trưng đã chiếm được tình cảm của không ít thi nhân, một phần là do tính chất hiện đại của nó, phần khác là do người ta nhận ra ở thơ tượng trưng có những nét gần gũi với truyền thống thi ca dân tộc/ phương Đông. Có lẽ, vì lợi thế ấy nên thơ tượng trưng được yêu thích và duy trì sức ảnh hưởng lâu bền hơn một số thi phái khác; đồng thời, nó trở thành một chi lưu trong nền thơ hiện đại Việt Nam. Trải qua tám thập kỉ, dòng thơ tượng trưng không ngừng vận động theo sự biến thiên của lịch sử nước nhà. Có những thời đoạn, nó bị đẩy ra ngoại biên rồi lại quay về trung tâm. Điều đó phần nào cho thấy sức quyến rũ của lối thơ này. Từ lớp nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh, Đoàn Phú Tứ, Hoàng Cầm, Trần Dần, đến lớp nhà thơ Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng, Đoàn Thêm, Cung Trầm Tưởng, Quách Thoại, Lý Quốc Sỉnh, và sau nữa là Hoàng Hưng, Nguyễn Quang Thiều...; người ít người nhiều đều tìm thấy ở thơ tượng trưng những gợi ý hữu ích cho việc kiến tạo thi giới nghệ thuật của mình. Họ đã cùng nhau làm nên một khuynh hướng thơ tượng trưng mang bản sắc Việt Nam.
Chương 3
KHUYNH HƯỚNG THƠ
TƯỢNG TRƯNG VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ THƠ, THẾ GIỚI VÀ
CON NGƯỜI
3.1. Quan niệm nghệ thuật về thơ
3.1.1. Quan niệm về cái Đẹp và nhà
thơ
Tiếp thu quan niệm thẩm mỹ của thi phái tượng trưng, các nhà thơ thuộc nhóm
Bình Định, Xuân Thu, Dạ Đài, "dòng chữ"... đã có những phát ngôn,
thể nghiệm táo bạo về cái Đẹp, thể hiện ở hai phương diện chủ yếu: Cái Đẹp tuyệt
đối, siêu thoát và cái Đẹp kỳ dị, lạ lùng.
Các nhà thơ Việt Nam theo khuynh hướng tượng trưng chủ trương lánh xa những "phiền hà sâu bọ của cuộc đời", gạt bỏ hiện thực lẫn con người ra khỏi thi ca chỉ giữ lại "hương thơm", "mật đắng", và tìm cái Đẹp ở "một thời vang bóng", nguyên thủy. Bên cạnh đó, họ còn tìm cái Đẹp trong "đau thương", "điêu tàn", chết chóc, ma quái, đời sống trụy lạc.
Để thực hành quan niệm thẩm mỹ trên cần có một mẫu hình thi sĩ mới thay cho mẫu hình thi sĩ "chở đạo, đâm gian", "ru với gió, mơ theo trăng", đó là mẫu hình thi sĩ là kẻ xa lạ, bị nguyền rủa, người "thấu thị".
Các nhà thơ Việt Nam theo khuynh hướng tượng trưng chủ trương lánh xa những "phiền hà sâu bọ của cuộc đời", gạt bỏ hiện thực lẫn con người ra khỏi thi ca chỉ giữ lại "hương thơm", "mật đắng", và tìm cái Đẹp ở "một thời vang bóng", nguyên thủy. Bên cạnh đó, họ còn tìm cái Đẹp trong "đau thương", "điêu tàn", chết chóc, ma quái, đời sống trụy lạc.
Để thực hành quan niệm thẩm mỹ trên cần có một mẫu hình thi sĩ mới thay cho mẫu hình thi sĩ "chở đạo, đâm gian", "ru với gió, mơ theo trăng", đó là mẫu hình thi sĩ là kẻ xa lạ, bị nguyền rủa, người "thấu thị".
3.1.2. Quan niệm về thơ và việc làm thơ
Bao trùm quan niệm thơ của
những thi sĩ theo khuynh hướng tượng trưng là thơ chỉ vì thơ chứ không vì mục
đích nào khác, biểu hiện qua các phương diện:
Thứ nhất, họ cho rằng thơ là sự "rung động siêu việt", "ham muốn vô biên";
Thứ hai, thơ thuộc lãnh địa tinh thần cao siêu, huyền diệu nên không cần giải thích, không cần hiểu;
Thứ ba, vì thơ chỉ cần rung động, không cần hiểu nên phải khai thác triệt để sức mạnh của âm nhạc, "sức khêu gợi của chữ".
Quan niệm thơ và nhà thơ thay đổi, tất yếu kéo theo những thay đổi trong nhận thức về việc làm thơ. Họ coi trọng vai trò của tiềm thức, trực giác, tâm linh trong quá trình sáng tạo. Không ít người chủ trương làm thơ theo kiểu "nhập đồng", "đột hiện".
Thứ nhất, họ cho rằng thơ là sự "rung động siêu việt", "ham muốn vô biên";
Thứ hai, thơ thuộc lãnh địa tinh thần cao siêu, huyền diệu nên không cần giải thích, không cần hiểu;
Thứ ba, vì thơ chỉ cần rung động, không cần hiểu nên phải khai thác triệt để sức mạnh của âm nhạc, "sức khêu gợi của chữ".
Quan niệm thơ và nhà thơ thay đổi, tất yếu kéo theo những thay đổi trong nhận thức về việc làm thơ. Họ coi trọng vai trò của tiềm thức, trực giác, tâm linh trong quá trình sáng tạo. Không ít người chủ trương làm thơ theo kiểu "nhập đồng", "đột hiện".
3.2. Quan niệm nghệ thuật về thế giới
3.2.1. Thế giới siêu hình, bí ẩn
Quan niệm
này hình thành trên cơ sở tiếp biến, dung hợp ba nguồn tư tưởng cơ bản đó là:
quan niệm về thiên đàng, địa ngục trong tôn giáo; quan niệm về mối quan hệ giữa
thiên - địa - nhân trong triết lý phương Đông và quan niệm nhị nguyên về thế giới
trong triết học duy tâm.
Ước mơ tìm đến xứ sở khác ngoài cõi nhân gian không phải là vô cớ mà thể hiện một phản ứng kép. Một mặt nó cho thấy các nhà thơ không bằng lòng với lối thơ mô tả, phản ánh cuộc sống nông cạn, bề ngoài, họ cho rằng, thế giới ẩn chứa nhiều điều bí mật, diệu kỳ và thơ có nhiệm vụ giải mã chúng; mặt khác, nó là hệ quả của sự thất vọng trước những đổ vỡ của thực tại biểu kiến.
Với các nhà thơ tượng trưng; chốn thiên đàng, đào nguyên là biểu tượng mang ý nghĩa tượng trưng cho quê hương, nơi người thơ từng sống, muốn sống; đồng thời khơi nguồn suy tưởng về miền tự do tuyệt đối, sáng láng, vô biên, cho thi nhân cảm giác được vỗ về, an ủi.
Không chỉ tìm đến chốn thiên đàng, đào nguyên, các nhà thơ còn hướng đến địa ngục. Họ đã làm một cuộc phiêu lưu lạ lùng vào cõi chết nhằm biến nó thành những hình tượng nghệ thuật mang hồn sự sống. Nói cách khác, hành trình thám mã cõi chết của thi sĩ tượng trưng chính là hành trình tạo lập một đời sống mới. Ngoài ra, họ còn mở rộng chiều kích thế giới về phía hồng hoang, tiền sữ, cõi "ảo sinh".
Ước mơ tìm đến xứ sở khác ngoài cõi nhân gian không phải là vô cớ mà thể hiện một phản ứng kép. Một mặt nó cho thấy các nhà thơ không bằng lòng với lối thơ mô tả, phản ánh cuộc sống nông cạn, bề ngoài, họ cho rằng, thế giới ẩn chứa nhiều điều bí mật, diệu kỳ và thơ có nhiệm vụ giải mã chúng; mặt khác, nó là hệ quả của sự thất vọng trước những đổ vỡ của thực tại biểu kiến.
Với các nhà thơ tượng trưng; chốn thiên đàng, đào nguyên là biểu tượng mang ý nghĩa tượng trưng cho quê hương, nơi người thơ từng sống, muốn sống; đồng thời khơi nguồn suy tưởng về miền tự do tuyệt đối, sáng láng, vô biên, cho thi nhân cảm giác được vỗ về, an ủi.
Không chỉ tìm đến chốn thiên đàng, đào nguyên, các nhà thơ còn hướng đến địa ngục. Họ đã làm một cuộc phiêu lưu lạ lùng vào cõi chết nhằm biến nó thành những hình tượng nghệ thuật mang hồn sự sống. Nói cách khác, hành trình thám mã cõi chết của thi sĩ tượng trưng chính là hành trình tạo lập một đời sống mới. Ngoài ra, họ còn mở rộng chiều kích thế giới về phía hồng hoang, tiền sữ, cõi "ảo sinh".
3.2.2. Thế giới thống nhất, tương hợp
Trên cơ sở tiếp biến, tích hợp từ hai nguồn thi ca: Thơ tượng trưng Pháp và thơ
cổ phương Đông, các nhà thơ đã có những suy nghiệm về mối quan hệ tương thông,
tương hợp giữa con người, vũ trụ và vạn vật rất độc đáo, vừa đạt độ thẳm sâu,
huyền bí của phương Đông, vừa mang vẻ tân kỳ, hiện đại của Tây phương, được thể
hiện dưới ba dạng thức chủ yếu:
Một là, con người tìm thấy sự tương thông, tương hợp với vũ trụ, vạn vật nhờ hướng thượng, "đăng cao". Nó không đơn giản là một hành động mà là một ý niệm, ước mơ; thể hiện khát vọng về sự tự do, lý tưởng thẩm mỹ, nguồn cảm hứng khơi gợi hồn thơ.
Hai là, mối tương giao, hòa hợp giữa vũ trụ, con người, vạn vật còn tìm thấy trong sự trở về với đời sống thiên nhiên. Khác với thơ lãng mạn, thơ tượng trưng không hướng tới thứ vườn trong phố, nhân tạo, thiên nhiên trong thơ tượng trưng hoang dã, kì vĩ, mang tính hư cấu và "thấm đẫm cảm xúc, suy tư, ý tưởng của chủ thể sáng tạo". Ba là, quan niệm thế giới thống nhất, tương giao, hòa hợp còn được thể hiện trong mối liên hệ thầm kín, vi diệu giữa hữu thể và hư vô, thể xác và linh hồn, hương sắc và âm thanh...
Một là, con người tìm thấy sự tương thông, tương hợp với vũ trụ, vạn vật nhờ hướng thượng, "đăng cao". Nó không đơn giản là một hành động mà là một ý niệm, ước mơ; thể hiện khát vọng về sự tự do, lý tưởng thẩm mỹ, nguồn cảm hứng khơi gợi hồn thơ.
Hai là, mối tương giao, hòa hợp giữa vũ trụ, con người, vạn vật còn tìm thấy trong sự trở về với đời sống thiên nhiên. Khác với thơ lãng mạn, thơ tượng trưng không hướng tới thứ vườn trong phố, nhân tạo, thiên nhiên trong thơ tượng trưng hoang dã, kì vĩ, mang tính hư cấu và "thấm đẫm cảm xúc, suy tư, ý tưởng của chủ thể sáng tạo". Ba là, quan niệm thế giới thống nhất, tương giao, hòa hợp còn được thể hiện trong mối liên hệ thầm kín, vi diệu giữa hữu thể và hư vô, thể xác và linh hồn, hương sắc và âm thanh...
3.3. Quan niệm nghệ thuật về con người
3.3.1. Con người
lạc loài, suy đồi
Con người lạc loài, xa lạ là sản phẩm của thời hiện đại, tuy
nhiên, các nhà thơ tượng trưng sớm phát hiện ra điều này và diễn ngôn nó theo một
cách riêng, gắn với quan niệm về nhà thơ của họ. Họ không chỉ ý thức sâu sắc về
nỗi lạc loài của mình mà còn khái quát lên thành vận mệnh chung của con người.
Nó là căn tính cố hữu, có tính bản thể người.
Từ sự ý thức về nỗi lạc loài, xa lạ giữa cộng đồng và cả chính mình, nên họ đã tìm cách vượt thoát thực tại, tìm quên sự hiện tồn của mình. Điều này, một mặt đưa họ đến với thế giới siêu hình, nhưng mặt khác dẫn họ vào con đường sa đọa, tìm quên trong men rượu, ma túy, tình dục và lún sâu trong nỗi chán chường.
Từ sự ý thức về nỗi lạc loài, xa lạ giữa cộng đồng và cả chính mình, nên họ đã tìm cách vượt thoát thực tại, tìm quên sự hiện tồn của mình. Điều này, một mặt đưa họ đến với thế giới siêu hình, nhưng mặt khác dẫn họ vào con đường sa đọa, tìm quên trong men rượu, ma túy, tình dục và lún sâu trong nỗi chán chường.
3.3.2. Con người bản năng, trực
giác
Nếu thơ cổ điển phát hiện ra con người vũ trụ, đạo đức, duy lý, phi cá thể;
thơ lãng mạn phát hiện ra con người cá nhân, cá thể, cô đơn; thì thơ tượng
trưng phát hiện ra con người khác trong tôi - con người bản năng, trực giác.
Thám mã thi giới nghệ thuật tượng trưng, chúng ta dễ dàng nhận ra trong thơ họ, nhất là những vần thơ tinh yêu, bao giờ cũng xuất phát từ một ẩn ức nào đó. Nó đã đánh mất vẻ ngây thơ, thánh thiện; thay vào khoảng trống ấy là những đam mê cháy bỏng, khát khao dục tình.
Khám phá chiều sâu khôn cùng, vi diệu của con người luôn là thách thức, ước mơ của người nghệ sĩ và thực tế cho thấy không phải ai cũng có cơ may chạm tới được. Để đến đó, không ít người phải trả cái giá rất đắt, chấp nhận trải nghiệm tận cùng nỗi đau, "trở thành kẻ tội nhân vĩ đại, kẻ bị nguyền rủa vĩ đại".
Tiếp biến quan niệm nghệ thuật của thi phái tượng trưng, các nhà thơ hiện đại Việt Nam đã có những thay đổi căn bản trong hệ hình tư duy thơ. Họ chủ trương tách thi ca ra khỏi đời sống kinh tế, chính trị, xã hội; bởi theo họ, thơ chỉ vì thơ, chỉ phụng sự cái Đẹp. Cho nên, người ta không ngại đưa thơ đến những miền xa ngái hòng chiếm lĩnh những vùng mỹ cảm chưa từng xuất hiện trong văn chương, nhất là các tác giả thuộc nhóm thơ Loạn, Xuân Thu, Dạ Đài, "dòng chữ"... Họ không chỉ hướng tới cái Đẹp tuyệt đối, siêu thoát mà còn mỹ hóa cả sự xấu xa, ghê rợn, phi luân khiến cái Đẹp trở nên kì dị, lạ lùng. Và để làm được điều này, thi sĩ phải là nhà "tiên tri thấu thị", là "người mơ, người say, người điên", đồng thời mang bản mệnh kẻ xa lạ bị người đời nguyền rủa. Vì thế, họ luôn tìm cách rũ bỏ thực tại, vượt qua cái tầm thường, vươn tới cái phi thường, cái Đẹp Vô Cùng, Tuyệt Đối. Bên cạnh đó, các nhà thơ hiện đại Việt Nam theo khuynh hướng tượng trưng thay đổi nhận thức về bản thể thơ và việc làm thơ. Họ xem thơ thuộc địa hạt tinh thần cao diệu, kết tinh từ những "rung động siêu việt", "những ham muốn vô biên" nên thơ tránh miêu tả, giãi bày và "không cần hiểu" mà chỉ cần ám thị, rung cảm theo từng giai điệu, từng lớp sóng ngôn từ, biểu tượng của bài thơ. Quan niệm này đã chi phối lối viết của các cây bút dòng tượng trưng. Họ sáng tác chủ yếu dựa vào tiềm thức, trực giác, tâm linh làm cho thơ nhuốm màu huyền ảo, kỳ bí. Phải chăng đây là nguyên cớ để người ta quy kết thơ tượng trưng khó hiểu? Chúng tôi thiết nghĩ sự khó hiểu đó là có chủ ý, nhà thơ cố tình dấu nghĩa cho thiên hạ đi tìm nhằm kích thích khả năng đồng sáng tạo ở bạn đọc. Có thể nói, tự trong bản chất, sự đổi mới nghệ thuật/ thi ca thực thụ bao giờ cũng bắt đầu từ sự đổi mới hệ hình tư duy, sau nữa là cách thức khám phá và biểu đạt thế giới. Các nhà thơ hiện đại Việt Nam theo khuynh hướng tượng trưng có những suy tư, cảm quan rất độc đáo về thế giới. Họ tin rằng thế giới tồn tại như một chỉnh thể thống nhất sâu xa và mang tính nhị nguyên, ẩn sau thế giới hữu hình là thế giới vô hình, giữa chúng có những mối tương giao thầm kín. Niềm tin ấy một mặt dẫn lối đưa thi nhân tới cõi thiên đàng, địa ngục, tiền sử, "ảo sinh"; nơi đó, người thơ được sống đời tự do tuyệt đối, mãnh liệt, đủ đầy; mặt khác, thôi thúc thi nhân hướng thượng và trở về với thiên nhiên để được giao hòa cùng vũ trụ, vạn vạn. Khám phá thế giới siêu hình, tương hợp là mục đích của thi sĩ tượng trưng. Họ nhận ra trong nó ẩn chứa bao vẻ đẹp diệu kì khiến người thơ đắm say lạc bước. Các nhà thơ hiện đại Việt Nam theo khuynh hướng tượng trưng còn làm mới thơ bằng những suy nghiệm sâu sắc về con người. Họ nhìn con người qua lăng kính "thấu thị" và phát hiện thấy ở nó luôn mang mặc cảm lạc loài, xa lạ với tha nhân, thậm chí với chính mình; nên nó hoài nghi tất cả và cố tìm quên trong men rượu, khói thuốc, tình dục. Con người thành kẻ suy đồi, đắm chìm trong những ẩn ức dục tình, điên loạn để "đi tới cái vi tri", tới miền tâm linh chói sáng.
Thám mã thi giới nghệ thuật tượng trưng, chúng ta dễ dàng nhận ra trong thơ họ, nhất là những vần thơ tinh yêu, bao giờ cũng xuất phát từ một ẩn ức nào đó. Nó đã đánh mất vẻ ngây thơ, thánh thiện; thay vào khoảng trống ấy là những đam mê cháy bỏng, khát khao dục tình.
Khám phá chiều sâu khôn cùng, vi diệu của con người luôn là thách thức, ước mơ của người nghệ sĩ và thực tế cho thấy không phải ai cũng có cơ may chạm tới được. Để đến đó, không ít người phải trả cái giá rất đắt, chấp nhận trải nghiệm tận cùng nỗi đau, "trở thành kẻ tội nhân vĩ đại, kẻ bị nguyền rủa vĩ đại".
Tiếp biến quan niệm nghệ thuật của thi phái tượng trưng, các nhà thơ hiện đại Việt Nam đã có những thay đổi căn bản trong hệ hình tư duy thơ. Họ chủ trương tách thi ca ra khỏi đời sống kinh tế, chính trị, xã hội; bởi theo họ, thơ chỉ vì thơ, chỉ phụng sự cái Đẹp. Cho nên, người ta không ngại đưa thơ đến những miền xa ngái hòng chiếm lĩnh những vùng mỹ cảm chưa từng xuất hiện trong văn chương, nhất là các tác giả thuộc nhóm thơ Loạn, Xuân Thu, Dạ Đài, "dòng chữ"... Họ không chỉ hướng tới cái Đẹp tuyệt đối, siêu thoát mà còn mỹ hóa cả sự xấu xa, ghê rợn, phi luân khiến cái Đẹp trở nên kì dị, lạ lùng. Và để làm được điều này, thi sĩ phải là nhà "tiên tri thấu thị", là "người mơ, người say, người điên", đồng thời mang bản mệnh kẻ xa lạ bị người đời nguyền rủa. Vì thế, họ luôn tìm cách rũ bỏ thực tại, vượt qua cái tầm thường, vươn tới cái phi thường, cái Đẹp Vô Cùng, Tuyệt Đối. Bên cạnh đó, các nhà thơ hiện đại Việt Nam theo khuynh hướng tượng trưng thay đổi nhận thức về bản thể thơ và việc làm thơ. Họ xem thơ thuộc địa hạt tinh thần cao diệu, kết tinh từ những "rung động siêu việt", "những ham muốn vô biên" nên thơ tránh miêu tả, giãi bày và "không cần hiểu" mà chỉ cần ám thị, rung cảm theo từng giai điệu, từng lớp sóng ngôn từ, biểu tượng của bài thơ. Quan niệm này đã chi phối lối viết của các cây bút dòng tượng trưng. Họ sáng tác chủ yếu dựa vào tiềm thức, trực giác, tâm linh làm cho thơ nhuốm màu huyền ảo, kỳ bí. Phải chăng đây là nguyên cớ để người ta quy kết thơ tượng trưng khó hiểu? Chúng tôi thiết nghĩ sự khó hiểu đó là có chủ ý, nhà thơ cố tình dấu nghĩa cho thiên hạ đi tìm nhằm kích thích khả năng đồng sáng tạo ở bạn đọc. Có thể nói, tự trong bản chất, sự đổi mới nghệ thuật/ thi ca thực thụ bao giờ cũng bắt đầu từ sự đổi mới hệ hình tư duy, sau nữa là cách thức khám phá và biểu đạt thế giới. Các nhà thơ hiện đại Việt Nam theo khuynh hướng tượng trưng có những suy tư, cảm quan rất độc đáo về thế giới. Họ tin rằng thế giới tồn tại như một chỉnh thể thống nhất sâu xa và mang tính nhị nguyên, ẩn sau thế giới hữu hình là thế giới vô hình, giữa chúng có những mối tương giao thầm kín. Niềm tin ấy một mặt dẫn lối đưa thi nhân tới cõi thiên đàng, địa ngục, tiền sử, "ảo sinh"; nơi đó, người thơ được sống đời tự do tuyệt đối, mãnh liệt, đủ đầy; mặt khác, thôi thúc thi nhân hướng thượng và trở về với thiên nhiên để được giao hòa cùng vũ trụ, vạn vạn. Khám phá thế giới siêu hình, tương hợp là mục đích của thi sĩ tượng trưng. Họ nhận ra trong nó ẩn chứa bao vẻ đẹp diệu kì khiến người thơ đắm say lạc bước. Các nhà thơ hiện đại Việt Nam theo khuynh hướng tượng trưng còn làm mới thơ bằng những suy nghiệm sâu sắc về con người. Họ nhìn con người qua lăng kính "thấu thị" và phát hiện thấy ở nó luôn mang mặc cảm lạc loài, xa lạ với tha nhân, thậm chí với chính mình; nên nó hoài nghi tất cả và cố tìm quên trong men rượu, khói thuốc, tình dục. Con người thành kẻ suy đồi, đắm chìm trong những ẩn ức dục tình, điên loạn để "đi tới cái vi tri", tới miền tâm linh chói sáng.
Chương 4
KHUYNH HƯỚNG THƠ TƯỢNG TRƯNG
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHÌN TỪ BIỂU TƯỢNG, NGÔN NGỮ, NHẠC ĐIỆU
4.1. Biểu tượng thẩm
mỹ - Trụ cột tòa kiến trúc tượng trưng
4.1.1. Biểu tượng mang ý nghĩa khải thị
thế giới
Các nhà thơ tượng trưng đã có bước đột phá trong việc sử dụng và sáng
tạo biểu tượng. Họ xem biểu tượng là trụ cột, góp phần khẳng định sự hiện hữu của
thơ và trao truyền cho nó một sức mạnh khải thị thế giới siêu. Bởi giá trị và ý
nghĩa của biểu tượng không nằm ở chỗ "những sao chép thực dụng do tri giác
cung cấp" mà nằm ở khả năng làm "biến dạng" chúng để đánh thức
trí tưởng tượng, xúc cảm và làm hiển lộ một thực tại khác thật hơn.
Hệ thống biểu tượng của Chế Lan Viên (sọ người, xương khô, nấm mồ, hồn ma, yêu tinh...) không chỉ gợi liên tưởng đến sự hủy diệt mà còn làm sống lại một thuở vàng son của nước non Chiêm; biểu tượng vườn mây trong thơ Đoàn Thêm gợi nhắc về cái thiên đàng đã mất; hệ biểu tượng của Vũ Hoàng Chương tượng trưng cho quê hương, miền tự do tuyệt đối (Đào nguyên/ Thiên thai), gắn với thời đại hoàng kim, mang ý nghĩa cõi âm (Phương Đông/ Á châu); hệ biểu tượng của Hàn Mặc Tử (hồn, máu, trăng, hoa, nhạc, hương...) khải thị thế giới tiên nghiệm, tiềm thức, chiêm bao.
Hệ thống biểu tượng của Chế Lan Viên (sọ người, xương khô, nấm mồ, hồn ma, yêu tinh...) không chỉ gợi liên tưởng đến sự hủy diệt mà còn làm sống lại một thuở vàng son của nước non Chiêm; biểu tượng vườn mây trong thơ Đoàn Thêm gợi nhắc về cái thiên đàng đã mất; hệ biểu tượng của Vũ Hoàng Chương tượng trưng cho quê hương, miền tự do tuyệt đối (Đào nguyên/ Thiên thai), gắn với thời đại hoàng kim, mang ý nghĩa cõi âm (Phương Đông/ Á châu); hệ biểu tượng của Hàn Mặc Tử (hồn, máu, trăng, hoa, nhạc, hương...) khải thị thế giới tiên nghiệm, tiềm thức, chiêm bao.
4.1.2. Biểu
tượng in đậm dấu ấn chủ thể sáng tạo
Các nhà thơ tượng trưng rất ý thức sáng tạo
biểu tượng. Họ khẳng định "tính ưu việt bằng việc thừa nhận tính chất cá
nhân của biểu tượng". Các biểu tượng thơ họ thường được tạo ra từ chủ thể,
gắn liền với những suy nghiệm của nhà thơ đối với ngoại giới.
Đinh Hùng đã sáng tạo ra những biểu tượng đầy mê hoặc như Người gái thiên nhiên, Kỳ nữ, bướm, mặt trời máu, nấm mồ, ma nữ..., chúng là hệ quả của những chấn thương tâm lý. Thơ Hoàng Cầm ngập tràn biểu tượng như đêm, mưa, trăng, gió, quả vườn ổi, sương cầu Lim, lá Diêu bông, cây Tam cúc, cỏ Bồng thi, chiếc yếm..., chúng là sự thăng hoa của những ẩn ức dục tình, ham muốn bản năng; biểu tượng thơ Hoàng Hưng "vừa giàu cảm giác trực tiếp vừa giàu khả năng khêu gợi", nhất là biểu tượng Ngựa biển.
Hệ thống biểu tượng của các nhà thơ tượng trưng có màu sắc, tính chất độc đáo, lạ lùng, nhiều khi kinh dị, rùng rợn. Chúng là một phức thể ẩn chứa những cảm giác, ấn tượng, hồi tưởng, chiêm bao, huyễn tưởng xuất phát từ cái tôi bên trong, cái tôi tâm linh, và có chức năng gợi nghĩa, ám thị.
4.2. Ngôn ngữ - Chìa khóa tòa kiến trúc thơ tượng trưng
Đinh Hùng đã sáng tạo ra những biểu tượng đầy mê hoặc như Người gái thiên nhiên, Kỳ nữ, bướm, mặt trời máu, nấm mồ, ma nữ..., chúng là hệ quả của những chấn thương tâm lý. Thơ Hoàng Cầm ngập tràn biểu tượng như đêm, mưa, trăng, gió, quả vườn ổi, sương cầu Lim, lá Diêu bông, cây Tam cúc, cỏ Bồng thi, chiếc yếm..., chúng là sự thăng hoa của những ẩn ức dục tình, ham muốn bản năng; biểu tượng thơ Hoàng Hưng "vừa giàu cảm giác trực tiếp vừa giàu khả năng khêu gợi", nhất là biểu tượng Ngựa biển.
Hệ thống biểu tượng của các nhà thơ tượng trưng có màu sắc, tính chất độc đáo, lạ lùng, nhiều khi kinh dị, rùng rợn. Chúng là một phức thể ẩn chứa những cảm giác, ấn tượng, hồi tưởng, chiêm bao, huyễn tưởng xuất phát từ cái tôi bên trong, cái tôi tâm linh, và có chức năng gợi nghĩa, ám thị.
4.2. Ngôn ngữ - Chìa khóa tòa kiến trúc thơ tượng trưng
4.2.1 Ngôn ngữ biểu tượng,
tương hợp
Có thể nói không thi sĩ tượng trưng nào không tích lũy cho mình một
lưng vốn ngôn ngữ này. Nó không chỉ khải thị thế giới, tâm linh mà còn
"mang mục đích khám phá sự thuần khiết của thi ca xuất phát từ những gì được
cho là phi logic, tính chất bất hợp lý của bản thân ngôn ngữ". Ngôn ngữ
biểu tượng như chiếc "hộp đen" lưu giữ muôn vàn tiếng nói, hình ảnh của
thế giới tiềm thức, chiêm bao. Và khi thực hiện chức năng thẩm mỹ, ngôn ngữ biểu
tượng thường được cấu tạo lại sao cho phù hợp với các yếu tố cấu thành nên tác
phẩm nghệ thuật. Chẳng hạn như biểu tượng "mặt trời lặn" trong thơ
Nguyễn Quang Thiều, "trăng" trong thơ Hàn Mặc Tử đã có sự biến đổi về
nghĩa so với biểu tượng văn hóa gốc.
Ngôn ngữ thơ tượng trưng còn chịu sự chi phối của kiểu tư duy tương ứng giữa các giác quan tạo ra lớp ngôn từ tương hợp. Các nhà thơ đã xác lập được những mối liên hệ ngầm ẩn cho chữ. Đó là mối liên hệ giữa hương sắc và âm thanh, giữa cái hữu hình và vô hình. Nhờ đó mà nhà thơ có thể phá bỏ mọi rào cản, thâm nhập được vào thế giới bí ẩn, huyền vi.
Ngôn ngữ thơ tượng trưng còn chịu sự chi phối của kiểu tư duy tương ứng giữa các giác quan tạo ra lớp ngôn từ tương hợp. Các nhà thơ đã xác lập được những mối liên hệ ngầm ẩn cho chữ. Đó là mối liên hệ giữa hương sắc và âm thanh, giữa cái hữu hình và vô hình. Nhờ đó mà nhà thơ có thể phá bỏ mọi rào cản, thâm nhập được vào thế giới bí ẩn, huyền vi.
4.2.2.
Ngôn ngữ bí nhiệm, "chứa ngầm bao chất nổ"
Tiếp thu quan niệm
"thơ phải mãi mãi là một câu đố" của Mallarmé, ngay từ thế hế đầu
tiên, các nhà thơ thuộc nhóm thơ Loạn, Xuân Thu, Dạ Đài đã có những phát ngôn đầy
tính nổi loạn về ngôn ngữ, đồng thời sáng tạo ra những thi phẩm có "lời
thơ lóng đẹp. Hạt châu trong", đặc biệt là Bích Khê và Nguyễn Xuân Sanh.
Ngôn ngữ thơ họ mang vẻ đẹp nguyên sơ và có một giá trị, sức mạnh tự thân, bí
nhiệm.
Cuộc nổi loạn ngôn từ thơ Bích Khê, Nguyễn Xuân Sanh tuy không tạo thành một phong trào rộng lớn, nhưng nó làm tiền đề, khích lệ tinh thần cho các thi sĩ sau này tiếp tục đi vào con đường thơ - chữ, nhất là Lê Đạt, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng. Với các nhà thơ "dòng chữ", ngôn ngữ là điểm khởi đầu, đồng thời là đích đến của thi ca. Tuy nhiên, mỗi nhà thơ có một "vân chữ" riêng. Và chữ của họ "chứa ngầm bao chất nổ".
Cuộc nổi loạn ngôn từ thơ Bích Khê, Nguyễn Xuân Sanh tuy không tạo thành một phong trào rộng lớn, nhưng nó làm tiền đề, khích lệ tinh thần cho các thi sĩ sau này tiếp tục đi vào con đường thơ - chữ, nhất là Lê Đạt, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Dương Tường, Hoàng Hưng. Với các nhà thơ "dòng chữ", ngôn ngữ là điểm khởi đầu, đồng thời là đích đến của thi ca. Tuy nhiên, mỗi nhà thơ có một "vân chữ" riêng. Và chữ của họ "chứa ngầm bao chất nổ".
4.3. Nhạc điệu - Linh hồn tòa kiến trúc thơ tượng trưng
4.3.1. Tinh thần
"âm nhạc trước mọi điều"
Các nhà thơ tượng trưng đã tạo ra một thứ nhạc
thơ hàm chứa trong nó cả "ham muốn" triết học. Nói khác đi, âm nhạc
trong thơ họ có khả năng làm hiển lộ những điều ẩn dấu đằng sau thế giới thực tại,
thâm nhập tới tận cùng bản chất sự vật, hiện tượng, gắn kết con người với vũ trụ,
vạn vật và rung theo nhịp điệu đất trời.
Âm nhạc trong thơ tượng trưng không cứng nhắc, vô hồn, "trống rỗng" mà nó luôn linh động, tiềm ẩn một khả năng khơi gợi, tạo sinh nghĩa.
Trên cớ sở nối tiếp truyền thống "thi trung hữu nhạc" của phương Đông, và khai thác lợi thế của tiếng Việt - ngôn ngữ đơn tiết, giàu thanh điệu - cùng với việc tiếp biến quan niệm âm nhạc của thi phái tượng trưng Pháp, các nhà thơ Việt Nam hiện đại theo khuynh hướng tượng trưng đã thực sự tạo ra những bài thơ - nhạc vô cùng độc đáo, tinh tế, hiện đại.
Âm nhạc trong thơ tượng trưng không cứng nhắc, vô hồn, "trống rỗng" mà nó luôn linh động, tiềm ẩn một khả năng khơi gợi, tạo sinh nghĩa.
Trên cớ sở nối tiếp truyền thống "thi trung hữu nhạc" của phương Đông, và khai thác lợi thế của tiếng Việt - ngôn ngữ đơn tiết, giàu thanh điệu - cùng với việc tiếp biến quan niệm âm nhạc của thi phái tượng trưng Pháp, các nhà thơ Việt Nam hiện đại theo khuynh hướng tượng trưng đã thực sự tạo ra những bài thơ - nhạc vô cùng độc đáo, tinh tế, hiện đại.
4.3.2. Phương thức tạo nhạc tân kỳ, linh động
Sáng tạo nhạc tính cho thơ là mối
quan tâm thường trực của các nhà thơ tượng trưng. Họ đã mang vào thơ những giai
điệu mới, đôi lúc nghe "dị âm nghịch dĩ", thể hiện bằng nhiều phương
thức khác nhau:
Trước hết, các nhà thơ tượng trưng đã chế tác ra một lối thơ bình thanh, dùng thanh bằng (thanh huyền và thanh ngang) làm chủ lực, khiến cho giai điệu thơ có một âm sắc hoàn toàn mới, diễn đạt tốt những rung động tế vi của vũ trụ, lòng người.
Bên cạnh đó, họ chủ trương vay mượn những hình thức, ngôn ngữ của âm nhạc rồi đem vào thơ tạo nên những thi phẩm có thể thức như một bài hát. Và những nguồn nhạc mà họ vay mượn khá đa dạng: Một là, họ "giật tạm" cấu trúc của ca khúc phương Tây (tân nhạc); hai là, họ vay mượn mô thức của các bài ca truyền thống dân tộc, phương Đông.
Ngoài ra, nhạc tính còn xây dựng trên cơ sở ngắt nhịp, hiệp vần vô cùng phóng túng, linh động, và chúng đã kết tinh trong thể loại thơ tự do.
Từ chủ trương "âm nhạc trước mọi điều", các nhà thơ tượng trưng thực sự mang được tinh thần âm nhạc hiện đại vào thơ bằng nhiều phương thức khác. Tính nhạc thấm đẫm trong mỗi bài thơ, trong từng con chữ; nhờ đó, nó đi thẳng được vào trái tim bạn đọc mà nhiều khi "không cần hiểu".
Thám mã thế giới nghệ thuật khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại, độc giả không chỉ bất ngờ trước những quan niệm mới mẻ, táo bạo về thơ, thế giới và con người mà còn bất ngờ trước cách cấu trúc thơ của các thi sĩ dòng tượng trưng. Họ tuyệt đối hóa vai trò của biểu tượng, ngôn ngữ, nhạc điệu làm cho lầu thơ tượng trưng thêm phần lạ hóa, bí nhiệm, "rộng rinh không bờ bến". Khám phá lầu thơ ấy, độc giả sẽ bắt gặp vô vàn biểu tượng được chắt lọc từ trong đời sống, văn hóa, tôn giáo và những trải nghiệm cá nhân của nhà thơ. Chúng có chức năng như những trụ cột nâng đỡ tòa kiến trúc tượng trưng, đồng thời khải thị thế giới tâm linh, bí ẩn. Từ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng đến Hoàng Cầm, Đoàn Thêm, Hoàng Hưng..., tác giả nào cũng ý thức tạo tác cho thi giới nghệ thuật của mình một hệ thống biểu tượng đầy sức ám gợi và giàu tính thẩm mỹ. Hơn nữa, biểu tượng thơ họ in đậm dấu ấn chủ thể sáng tạo, nhờ đó, chúng ta có thể nhận ra sau lớp biểu tượng ấy những suy tư, cá tính, số phận của mối thi nhân. Các nhà thơ hiện đại Việt Nam theo khuynh hướng tượng trưng còn tạo nên một cuộc cách mạng ngôn ngữ thơ. Họ chối bỏ ngôn ngữ kinh nghiệm, diễn cảm để đến với ngôn ngữ siêu nghiệm, gợi cảm. Nói khác đi, ngôn ngữ của dòng thơ tượng trưng Việt Nam là ngôn ngữ biểu tượng, tương hợp, "chứa ngầm bao chất nổ". Thi nhân làm chữ không dựa vào những nguyên tắc cú pháp định sẵn mà tự do ghép chữ tạo hình theo biểu tượng, sự tương ứng giác quan. Đặc biệt, các nhà thơ Bích Khê, Xuân Thu, "dòng chữ" đã trả lại cho ngôn ngữ tính tự trị, thuần khiến và biến mỗi từ thành một tượng trưng, ghi dấu phút linh sáng tạo khiến thơ họ "đọc lên nghe như thần chú". Sự độc đáo của khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam còn thể hiện qua việc khai thác tính nhạc cho thơ. Các thi sĩ đã mang vào thơ một tinh thần âm nhạc hiện đại. Đó là thứ âm nhạc hàm chứa trong nó cả ham muốn triết học, có khả năng làm hiển lộ những điều ẩn dấu đằng sau thế giới thực tại, gắn kết con người với vũ trụ, cái hữu hình với cái vô hình. Âm nhạc thơ tượng trưng không chỉ hiển hiện trong cách hiệp vần, ngắt nhịp, phối thanh mà còn bật nảy trong mỗi hình ảnh, mỗi từ, mỗi câu và luôn giao hòa cùng điệu hồn thi nhân. Một giai điệu là một cung bậc cảm xúc và không ngừng tạo sinh nghĩa. Có thể nói, các nhà thơ dòng tượng trưng đã sáng tạo ra một lối thơ - nhạc vô cùng đặc sắc, mang đến cho người đọc những khoái cảm thẩm mỹ mới lạ.
Trước hết, các nhà thơ tượng trưng đã chế tác ra một lối thơ bình thanh, dùng thanh bằng (thanh huyền và thanh ngang) làm chủ lực, khiến cho giai điệu thơ có một âm sắc hoàn toàn mới, diễn đạt tốt những rung động tế vi của vũ trụ, lòng người.
Bên cạnh đó, họ chủ trương vay mượn những hình thức, ngôn ngữ của âm nhạc rồi đem vào thơ tạo nên những thi phẩm có thể thức như một bài hát. Và những nguồn nhạc mà họ vay mượn khá đa dạng: Một là, họ "giật tạm" cấu trúc của ca khúc phương Tây (tân nhạc); hai là, họ vay mượn mô thức của các bài ca truyền thống dân tộc, phương Đông.
Ngoài ra, nhạc tính còn xây dựng trên cơ sở ngắt nhịp, hiệp vần vô cùng phóng túng, linh động, và chúng đã kết tinh trong thể loại thơ tự do.
Từ chủ trương "âm nhạc trước mọi điều", các nhà thơ tượng trưng thực sự mang được tinh thần âm nhạc hiện đại vào thơ bằng nhiều phương thức khác. Tính nhạc thấm đẫm trong mỗi bài thơ, trong từng con chữ; nhờ đó, nó đi thẳng được vào trái tim bạn đọc mà nhiều khi "không cần hiểu".
Thám mã thế giới nghệ thuật khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại, độc giả không chỉ bất ngờ trước những quan niệm mới mẻ, táo bạo về thơ, thế giới và con người mà còn bất ngờ trước cách cấu trúc thơ của các thi sĩ dòng tượng trưng. Họ tuyệt đối hóa vai trò của biểu tượng, ngôn ngữ, nhạc điệu làm cho lầu thơ tượng trưng thêm phần lạ hóa, bí nhiệm, "rộng rinh không bờ bến". Khám phá lầu thơ ấy, độc giả sẽ bắt gặp vô vàn biểu tượng được chắt lọc từ trong đời sống, văn hóa, tôn giáo và những trải nghiệm cá nhân của nhà thơ. Chúng có chức năng như những trụ cột nâng đỡ tòa kiến trúc tượng trưng, đồng thời khải thị thế giới tâm linh, bí ẩn. Từ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng đến Hoàng Cầm, Đoàn Thêm, Hoàng Hưng..., tác giả nào cũng ý thức tạo tác cho thi giới nghệ thuật của mình một hệ thống biểu tượng đầy sức ám gợi và giàu tính thẩm mỹ. Hơn nữa, biểu tượng thơ họ in đậm dấu ấn chủ thể sáng tạo, nhờ đó, chúng ta có thể nhận ra sau lớp biểu tượng ấy những suy tư, cá tính, số phận của mối thi nhân. Các nhà thơ hiện đại Việt Nam theo khuynh hướng tượng trưng còn tạo nên một cuộc cách mạng ngôn ngữ thơ. Họ chối bỏ ngôn ngữ kinh nghiệm, diễn cảm để đến với ngôn ngữ siêu nghiệm, gợi cảm. Nói khác đi, ngôn ngữ của dòng thơ tượng trưng Việt Nam là ngôn ngữ biểu tượng, tương hợp, "chứa ngầm bao chất nổ". Thi nhân làm chữ không dựa vào những nguyên tắc cú pháp định sẵn mà tự do ghép chữ tạo hình theo biểu tượng, sự tương ứng giác quan. Đặc biệt, các nhà thơ Bích Khê, Xuân Thu, "dòng chữ" đã trả lại cho ngôn ngữ tính tự trị, thuần khiến và biến mỗi từ thành một tượng trưng, ghi dấu phút linh sáng tạo khiến thơ họ "đọc lên nghe như thần chú". Sự độc đáo của khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam còn thể hiện qua việc khai thác tính nhạc cho thơ. Các thi sĩ đã mang vào thơ một tinh thần âm nhạc hiện đại. Đó là thứ âm nhạc hàm chứa trong nó cả ham muốn triết học, có khả năng làm hiển lộ những điều ẩn dấu đằng sau thế giới thực tại, gắn kết con người với vũ trụ, cái hữu hình với cái vô hình. Âm nhạc thơ tượng trưng không chỉ hiển hiện trong cách hiệp vần, ngắt nhịp, phối thanh mà còn bật nảy trong mỗi hình ảnh, mỗi từ, mỗi câu và luôn giao hòa cùng điệu hồn thi nhân. Một giai điệu là một cung bậc cảm xúc và không ngừng tạo sinh nghĩa. Có thể nói, các nhà thơ dòng tượng trưng đã sáng tạo ra một lối thơ - nhạc vô cùng đặc sắc, mang đến cho người đọc những khoái cảm thẩm mỹ mới lạ.
KẾT LUẬN
1. Thơ tượng trưng ra đời
đã đánh dấu sự kết thúc "cuộc chiến đấu tự ngàn năm giữa thi ca thần diệu
và thi ca trần tục, giữa khuynh hướng biến thi ca thành cuộc khám phá vũ trụ với
khuynh hướng dùng nó làm đồ trang trí cho thế giới thông thường của xã hội loài
người" [1, tr.125]; từ đó, mở ra một thời đại mới cho văn chương nhân loại
- thời hiện đại - với những gương mặt tiêu biểu như: C. Baudelaire, P.
Verlaine, A. Rimbaud, S. Mallarmé, P. Valéry. Hơn nửa thế kỷ tồn sinh trong nền
văn học Pháp, thi phái tượng trưng đã làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, đưa
thơ Pháp lên một tầm cao mới. Tuy nhiên, đã có lúc, họ phải sống trong sự dèm
pha, ghẻ lạnh, hoài nghi. Song bằng cả lý luận lẫn thực tiễn sáng tác, họ chứng
minh được thơ tượng trưng có những ưu trội trong việc khám phá và biểu đạt thế
giới. Với tư duy "tương hợp" và cái nhìn "thấu thị", các
thi sĩ tượng trưng Pháp đã đào sâu, mở rộng biên giới thơ ra tới vô cùng. Họ chủ
trương thơ chỉ vì thơ, chứ không vì bất kỳ mục đích nào ngoài nó. Nói cách
khác, họ đã đi đến tận cùng của quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật. Các thi sĩ
không ngại đem vào thơ những quan điểm thẩm mỹ kỳ dị, lạ lùng; biến cái độc ác,
xấu xa, kinh tởm, vô luân thành cái Đẹp, tạo nên Những bông hoa Ác cho khu vườn
thi ca nhân loại. Từ sự thay đổi trong hệ hình tư duy, tất yếu kéo theo những
thay đổi trong thế giới quan lẫn hình thức diễn ngôn. Các thi sĩ tượng trưng
cho rằng vũ trụ là một thể thống nhất âm u, sâu thẳm; giữa nó và con người có
những mối liên hệ siêu việt, bí ẩn, huyền vi mà không phải ai cũng nhận ra. Để
khải thị nó, nhà thơ phải là "tiên tri thấu thị", phải cần đến
"sự tương ứng các giác quan". Bên cạnh đó, các thi sĩ tượng trưng đã
có sự bứt phá trong lối viết. Họ rất coi trọng vai trò của biểu tượng, âm nhạc
và ngôn ngữ đến mức đồng nhất nó với thơ. Biểu tượng trong thơ họ như một khối
tinh thể, khởi đi từ tiềm thức, tâm linh và có thể làm tỏ lộ thế giới vô hình.
Thêm nữa, mỗi bài thơ tượng trưng là một bản nhạc ngân nga muôn cung bậc, giai
điệu. Có thể nói, trong lịch sử thi ca nhân loại, chưa bao giờ âm nhạc lại được
đề cao như thi phái tượng trưng. Họ không chỉ xem "âm nhạc trước mọi điều"
mà còn khai thác tốt sức mạnh vi diệu của nó trong việc khám phá sự bí nhiệm của
thế giới, lòng người. Tính nhạc thơ tượng trưng hiển hiện trong từng câu thơ,
con chữ, và nhạc thơ chắp cánh cho nhạc lòng bay cao, tạo thành các bước sóng
làm rung động tâm hồn người đọc mà nhiều khi "không cần hiểu". Và nói
đến tính nhạc là nói đến "sức khêu gợi của chữ". Mọi sự thay đổi của
ngôn ngữ đều làm biến đổi giai điệu và nội dung ý nghĩa bài thơ. Vì thế, các
thi sĩ tượng trưng xem chữ là máu thịt, là thơ; và việc làm thơ là sáng tạo chữ
nghĩa. Họ đã giải phóng cho ngôn ngữ thoát khỏi xiềng xích của lý trí, kinh
nghiệm, đồng thời trao trả cho nó tính tự trị. Nhìn chung, ngôn ngữ thơ tượng
trưng "xa lạ với ngôn ngữ thông thường", thậm chí giống như thần chú.
Không ít người đã than phiền về điều này vì họ chưa hiểu mục đích sáng tạo của
thi phái tượng trưng. Việc tạo tác nên những bài thơ như câu đố, một mặt là trò
chơi trí tuệ buộc người đọc phải tham dự vào cuộc chơi với thi nhân, và mặt
khác quan trọng hơn, lối viết ấy cũng chính là sự hiện tồn của trạng thái tư
tưởng gắn với thế giới quan của họ. Phải nói rằng, thi phái tượng trưng Pháp đã
mở ra những chân trời mới cho thơ ca.
2. Với những quan niệm nghệ thuật tân kỳ,
thơ tượng trưng Pháp đã tạo ra một lực hấp dẫn đặc biệt, thu hút nhiều thế hệ
thi sĩ trên khắp năm châu. Ở Việt Nam, không ít thi sĩ đã tìm đến với nó như là
"tìm đến một nơi hội ngộ tuyệt vời giữa tư duy thơ truyền thống nghìn xưa
của phương Đông với tư duy thơ hiện đại của phương Tây" [90, tr.24]. Có lẽ
vì thế, dù xuất hiện khá muộn ở Việt Nam nhưng nó nhanh chóng được "nhập tịch",
trở thành một khuynh hướng trong nền thơ dân tộc. Và đến nay, gần tám mươi năm
tồn tại, khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam đã trải qua những bước thăng trầm.
Ở từng giai đoạn, ở mỗi nhà thơ, việc tiếp biến thơ tượng trưng diễn ra khá phức
tạp, mang nhiều sắc độ khác nhau, tùy theo "thể tạng" mỗi người. Nhìn
chung, các nhà thơ hiện đại Việt Nam, nhất là những cây bút danh tiếng, có mối
thiện cảm đặc biệt với thi phái tượng trưng Pháp. Họ chủ động tiếp nhận ở thi
phái này cả quan niệm thẩm mỹ lẫn quan niệm thơ. Họ chủ trương đưa thi ca lánh
xa những "phiền hà sâu bọ cuộc đời" và mở rộng biên độ cái Đẹp bằng
cách ngợi ca cái kì dị, lạ lùng, tuyệt đối, siêu thoát. Để thực thi chủ trương ấy,
thơ cần có một mẫu hình thi sĩ mới thay cho mẫu hình thi sĩ "chở đạo, đâm
gian", "ru với gió, mơ theo trăng". Các thi sĩ theo khuynh hướng
tượng trưng tự nhận mình là kẻ xa lạ, bị nguyền rủa, là "Người Mơ, Người
Say, Người Điên". Do đó, việc làm thơ, với họ, là nhập đồng, sống trong trạng
thái chập chờn giữa ý thức, tiềm thức và vô thức; nói khác đi, thơ là kết quả của
những "rung động siêu việt", "ham muốn vô biên", thuộc lĩnh
vực tinh thần cao siêu, huyền diệu, nên thơ "không cần hiểu". Quan niệm
nghệ thuật mang đậm màu sắc phi lý tính này dẫn dắt các nhà thơ đi vào con đường
thi ca thuần túy. Họ chối bỏ cái thực tại hiện tồn để tìm đến với thế giới siêu
hình, bí ẩn; ở đấy, họ nhận ra sự tồn tại của cõi thiêng đàng, địa ngục, "ảo
sinh". Hơn nữa, thế giới trong cái nhìn của họ là một thể thống nhất sâu
xa; giữa con người và vũ trụ, con người và vạn vật, hữu thể và hư vô, thể xác
và linh hồn..., tất cả đều tương giao, hòa hợp. Không chỉ thế, các nhà thơ Việt
Nam theo khuynh hướng tượng trưng còn đem đến cho thi ca một quan niệm nghệ thuật
mới mẻ, táo bạo về con người. Họ đào sâu vào cái tôi ẩn dấu bên trong và phát
hiện ra con người vốn mang cảm thức lạc loài, xa lạ với tha nhân, thậm chí với
chính mình. Cảm thức lạc loài, xa lạ như một căn tính cố hữu. Đây cũng là lý do
khiến thi nhân kiếm tìm một thế giới khác để nương náu và tìm quên trong men
khói, tình dục, đẩy họ lún sâu vào trụy lạc, chán chường. Điều đáng nói là họ
biết hóa giải sự xấu xa, vô đạo đức thành nghệ thuật, đưa thi ca trở về bản nguyên
của nó, "thuần túy và tượng trưng". Vì thế, cái đọng lại trong lòng bạn
đọc sau khi thám mã thi giới tượng trưng không phải là giá trị nội dung, tư tưởng
mà chính là vẻ đẹp kết tinh từ biểu tượng, nhạc điệu và ngôn ngữ. Có thể nói, lầu
thơ tượng trưng được kiến tạo trên cơ sở trụ cột biểu tượng khiến nó trở nên thẳm
sâu, mênh mông, huyền diệu. Thêm vào đó là âm nhạc. Các nhà thơ Việt Nam theo
khuynh hướng tượng trưng đã mang đến cho nền thi ca nước nhà một tinh thần âm
nhạc hiện đại. Tính nhạc trong thơ họ thể hiện cả ham muốn triết học và có khả
năng khơi gợi, tạo sinh nghĩa. Họ đã sáng tạo ra những bài thơ - nhạc vô cùng độc
đáo bằng các phương thức tân kì, linh động như: Lối thơ bình thanh, vay mượn những
hình thức, ngôn ngữ của âm nhạc, phá vỡ nguyên tắc ngắt nhịp, hiệp vần, cấu
trúc câu thơ truyền thống... Họ còn thực hiện thành công cuộc cách mạng cho
ngôn ngữ thơ. Với chủ trương thơ không mô tả, kể lể, giãi bày và khám phá sự bí
ẩn của thế giới, lòng người; các nhà thơ đã tạo ra một thứ ngôn ngữ mang tính
biểu tượng, gợi cảm, tương hợp; đồng thời, có xu hương đẩy tới chỗ bí hiểm,
"chứa ngầm bao chất nổ". Quả thực, việc tiếp biến thơ tượng trưng
Pháp đã góp phần quan trọng làm thay đổi diện mạo nền thi ca dân tộc.
3. Mặc dù
ở Việt Nam, thơ tượng trưng không tồn tại với tư cách là một trường phái, chủ
nghĩa như ở Pháp, nhưng không thể phủ nhận, nó đã trở thành một khuynh hướng
trong nền thơ hiện đại. Thậm chí có những giai đoạn, thơ tượng trưng rất được
ưa chuộng, chiếm thế thượng phong. Điều đó không có nghĩa dòng thơ tượng trưng
không có những mặt hạn chế. Nói như Trần Đình Sử: "Thơ tượng trưng dường
như đứng ở ngã ba ranh giới giữa nghệ thuật và phi nghệ thuật" [121,
tr.83]. Vì thế, việc tiếp thu nó như con dao hai lưỡi, không khéo léo, bản lĩnh
rất dễ bị đứt tay. Thực tế cho thấy, đã có lúc, có người rơi vào tình cảnh đó.
Do quá mải mê trên con đường "nghệ thuật vị nghệ thuật", nhiều thi sĩ
đã cắt đứt mối dây liên lạc giữa nhà thơ - tác phẩm - độc giả, đưa thơ tới chỗ
phi giao tiếp, phi nghệ thuật. Tuy nhiên, nếu gạt bỏ cái nhìn hẹp hòi, định kiến,
thì rõ ràng, các nhà thơ hiện đại Việt Nam theo khuynh hướng tượng trưng đã có
những tìm tòi mới mẻ, chắp cánh cho thơ bay tới những miền xa ngái, vi diệu, và
mở ra một thi giới nghệ thuật tân kỳ.
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC ĐÃ CÔNG
BỐ
1. "Dấu ấn chủ nghĩa tượng trưng trong thơ Đinh Hùng", 2011, Tạp
chí Khoa học và Giáo dục (Đại học Sư phạm Huế), số 2, tr. 65 - 74. 2. "Cảm
thức lạc loài trong Thơ say và Mây của Vũ Hoàng Chương", 2012, Kỷ yếu Hội
thảo Khoa học Văn học - Ngôn ngữ - Lý luận - Ứng dụng, tr.131 - 141, Đại học Sư
phạm Đà Nẵng.
3. "Vũ Hoàng Chương - Hành trình đời và thơ", 2013, Kỷ
yếu Hội thảo Khoa học, tr.118 - 128, Đại học Dân lập Phú Xuân - Huế.
4.
"Đinh Hùng - Chân dung và sáng tạo", 2014, Tạp chí Khoa học và Giáo dục
(Đại học Dân lập Phú Xuân - Huế), số 1, tr. 27 - 34.
5. "Dấu ấn thi học tượng
trưng trong Đau thương của Hàn Mặc Tử", 2015, Tạp chí Khoa học và Giáo dục
(Đại học Sư phạm Đà Nẵng), số 16, tr.71 - 77.
6. "Khuynh hướng tượng trưng
trong phong trào Thơ mới (1932 - 1945)", 2016, Tạp chí Khoa học và Giáo dục
(Đại học Sư phạm Huế), số 1, tr 45 - 53.
7. "Diễn ngôn về thế giới của
khuynh hướng thơ tượng trưng Việt Nam", 2016, Tạp chí Khoa học và Giáo dục
(Đại học Sư phạm Đà Nẵng), số 18, tr. 71 - 78.
8. "Tính nhạc trong khuynh
hướng thơ tượng trưng Việt Nam hiện đại", 2016, Tạp chí Khoa học (Đại học
Huế), số 1, tr. 173 - 184.
Hồ Văn Quốc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét