Thứ Bảy, 19 tháng 9, 2020

Dưới mái học đường 2

Dưới mái học đường 2

36. Học Sinh “Cao Bồi” 
Ngày 23 tháng 1 
Các bạn trong lớp chẳng ai ưa anh Pha! Riêng tôi, tôi lại càng không thích lắm. Học hành đã chẳng ra gì, lại xấu nết, xấu na. Tôi không thấy ai tồi như anh. Hễ có bạn nào phải phạt là anh hí hửng như người bắt được của. Đến trường, anh hết chọc người này, lại chọc người kia, luôn luôn nghĩ ra những trò chơi tai ác, hoặc xúi ngầm cho các bạn cãi nhau, đánh nhau chơi. Trông thấy anh Tôn đâu thì cứ nen nét như rắn mồng năm, vậy mà hễ gặp anh Tư Húi là hung hung hổ hổ định bắt nạt anh, hoặc bắt anh làm mắt lác để cười. 
Người hay bị anh chòng ghẹo nhiều nhất là anh Sỹ có cánh tay bị liệt. Đến anh Côn là người được tất cả anh em vì nể, mà anh cũng không tha. Lắm khi không còn ai mà chòng ghẹo, anh lại ghẹo đến anh Ninh, úp mũ lên cái bứu của anh. Đã thế anh lại hay cáu, có đùa nhau với ai, cứ nhè vào chỗ hiểm người ta mà đánh. 
Trông dáng điệu anh thật là khả ố! Lúc đi, tay cứ khuỳnh ra, cái đầu lắc la lắc lư; dưới cái trán thấp, đôi mắt gườm gườm trông mà phát ghét. Anh thích đi coi “chớp bóng” lắm, thường la cà suốt ngày ở cửa mấy rạp thường trực. Có tiền thì vào xem, không tiền thì coi tranh ảnh. Có lẽ vì thế mà anh ăn mặc đến nực cười! Áo thì sặc sỡ, chim cò, hoa lá; quần thì ống túm, hẹp đến nỗi xỏ chân qua không lọt. Anh bảo thế mới đúng mốt “cao bồi”. 
Anh ta không được cái nết gì, bắt nạt bạn, cãi trả thầy, chẳng coi ai vào đâu! Nói dối như cuội, ăn tục như gấu, hàng quà bánh nào cũng chịu tiền. Bài học chẳng bao giờ thuộc, sách vở nhem nhuốc, thi thì nhòm hết người nầy đến người kia, đồ dùng thiếu cái gì thì giật ngay của người ta. Trong túi anh lúc nào cũng có cái súng cao su với túi sỏi để bắn chim, hoặc cao hứng, thì rình bắn trộm người đi đường. 
Tôi nghe nói, thầy anh đã nhiều lần đuổi anh đi, hoặc nhốt anh vào buồng tắm, bắt nhịn cơm. Còn mẹ anh thì sầu não héo hắt vì con, thỉnh thoảng lại đến lớp hỏi han về anh, lần nào ra về cũng sụt sùi mếu máo. 
Bị thầy mách, anh căm lắm! 
Trước kia, thầy vẫn muốn dùng lời lẽ cảm hóa anh, sau không được, ngơ đi, thì anh lại làm già. Thầy phải dùng cách sẵng, có lần dọa đuổi. Anh gục mặt xuống bàn, không phải để ăn năn tội lỗi, mà để giấu mặt cười. Lần ấy, anh bị đuổi ba hôm. Sau ba hôm, anh lại đi học, bướng bỉnh và hỗn hào hơn trước. 
Một hôm, anh Sinh nhẹ nhàng bảo anh: 
- Thầy giáo tốt khuyên răn anh để anh nên người, mà anh cứ thế mãi là nghĩa làm sao? 
Anh Pha không trả lời, lại còn đe có bữa bắn cho vỡ mặt. 
Nhưng nhất là sáng nay, thì ai cũng phải căm tức trước cái thái độ của anh. Lúc đó thầy đang lúi cúi chép bảng, anh Pha ném ngay một quả pháo ra giữa lớp, nổ đánh đùng một tiếng. Mọi người giật bắn mình lên, còn anh, mím chặt môi để khỏi cười ra tiếng. 
Thầy giận tái mặt đi, hét lên: 
- Ra ngay, Pha! 
Pha đứng lên, nhăn nhẳn cái mặt: 
- Có phải con đâu! 
- Ra ngay! Không thèm nói với anh! 
Pha ngồi xuống ghế: 
- Nhưng mà không phải con! 
Thầy giận quá, chạy xuống chỗ anh, nắm cổ anh lôi xuống cho ông Hiệu Trưởng. 
Khi thầy trở vào, mặt thầy còn tái mét, ngồi chống tay xuống bàn mà thở. Một lát, thầy rút khăn lau mồ hôi trán, thở dài nói: 
- Đã 30 năm trời nay ta dạy học, chưa từng gặp những quân ấy bao giờ! 
Chúng tôi nửa thương, nửa hãi, thin thít ngồi im, không ai nhúc nhích. Bàn tay thầy run lên, nếp nhăn trên trán hằn sâu xuống như vết dao băm. 
Tội nghiệp thầy quá! Trông thấy mà thương!
 Anh Sinh đứng lên nói: 
- Xin thầy đừng phiền lòng. Chúng con đây ai cũng mến thầy và hứa chăm chỉ ngoan ngoãn cho thầy vui lòng. 
Thầy xem chừng bớt giận, chậm rãi mở sách ra: 
- Thôi học đi các con! 
37. Ghen Tị 
Ngày 3 tháng 2 
Kỳ thi Việt văn này, lại anh Sinh được nhất. Anh Bích choáng người lên, vì anh đinh ninh đè bẹp anh Sinh chuyến này. 
Trước kia tôi vẫn có lòng mến anh Bích, dù anh có tính dỏm dáng, nhưng cứ thấy ghen lồng, ghen lộn với anh Sinh, tôi đâm ra ác cảm với anh. 
Muốn ganh đua thì phải chịu khó học, chứ có phải ghen là hơn được đâu! 
Kể ra thì anh Vân cũng ghen với anh Sinh, nhưng anh khéo che đậy, nên ai tinh ý mới nhận ra được. Còn anh Bích thì cứ hậm hà, hậm hực, về nhà lại còn phàn nàn rằng thầy không công bình, chỉ bênh anh Sinh. Khi thầy hỏi câu gì khó, anh Sinh đứng lên trả lời, thì Vân bịt tai lại, ra điều không thèm nghe, hoặc bĩu môi, ra điều khinh bỉ, có khi cố mỉm một nụ cười gượng gạo. Ai cũng nhận thấy điều đó, nên mỗi lần anh Sinh được thầy khen, thì mọi người đều ngảnh lại nhìn cái bộ mặt sưng sỉa của anh mà cười thầm, nhất là anh Tư Húi, thế nào cũng quay xuống làm mắt lác, trêu anh. 
Sáng hôm nay cũng vậy, thầy vừa giở cặp ra, vừa nói: 
- Anh Sinh lại nhất! Đội Quang Trung lại đứng đầu! 
Anh Bích ho lên một tiếng thật to. Thầy hiểu ngay, nhìn anh mà bảo: 
- Bích, con chớ để cho lòng ghen tị dày vò, đầu độc tâm hồn con! 
Trừ anh Sinh, mọi người đều nhìn anh Bích. Anh muốn nói mấy câu chống chế, nhưng lung túng chẳng biết nói làm sao, mặt cứ đỏ lên như gấc chín. Một lát sau, khi thầy mải chấm bài. Anh viết thật to lên trên mảnh giấy: “Ta đây chẳng thèm ghen với những kẻ vì tình riêng mà được nhất” 
Viết xong, anh vứt mảnh giấy ấy cho anh Sinh. 
Tôi thấy anh Sinh xem xong, buồn bã gấp lại, bỏ xuống ngăn bàn, rồi lại bình tĩnh như không. 
Anh Bích thấy thế lại càng giận lắm. Mặt anh tái đi. Mắt anh đỏ ngầu lên. Tay anh nắm chặt như cố nén cơn tức giận đang sôi lên sùng sục. Nhưng rồi chẳng có chuyện gì xảy ra cho đến lúc nổi chuông tan học. Chúng tôi xếp hàng ra về. Lúc qua mặt anh Sinh, anh Bích cau mặt lại, nhổ toẹt xuống đất. Anh Sinh cũng chẳng nói đi, nói lại một câu. 
Ra tới cổng trường, Bích chẳng chờ chúng tôi cùng về như mọi khi, cứ săm săm bước như người chạy trốn, chẳng nhớ rằng vào giờ tan học, xe pháo đông như mắc cửi. 
Môi anh mím chặt. Anh cắm đầu, cắm cổ sang đường, không nhìn thấy chiếc “vét pa” đang lao vùn vụt. 
Phút nguy hiểm xảy ra chóng quá! Chỉ còn một ly nữa là anh Bích nằm gọn dưới bánh xe. Trong lúc ấy, nhanh như chớp, không biết từ đâu, anh Sinh nhẩy sổ tới, gạt mạnh anh Bích sang một bên. 
Có tiếng phanh rít lên, ghê rợn như tiếng rú của tử-thần. Mọi người nhắm mắt lại. Lúc tôi mở mắt ra, anh Sinh đã nằm sõng soài bên chiếc xe đổ nghiêng. 
Mọi người định thần, xúm nhau đỡ anh Sinh dậy. Đầu anh xưng lên, rươm rướm máu. May không có gì nguy hiểm. Anh ôm đầu nhịn đau, hỏi: 
- Bích đâu? Không sao chứ? Lúc ấy Bích đã hoàn hồn, chen vào đám đông, khoác tay anh Sinh, nghẹn ngào nói: 
- Bích đây!... Tha tội cho Bích, Sinh ơi!... 
38. Tấm Lòng Vàng 
Ngày 10 tháng 2 
Buổi sáng hôm nay chúng tôi vào học dễ đến năm phút rồi mà chưa thấy anh Sỹ tới. Tôi sốt ruột quá vì anh còn mượn tôi quyển Vệ sinh chưa trả. Tối qua anh lại mượn tôi để về học, và hẹn sáng nay mang lên trường cho tôi. Vậy mà giờ này anh còn chưa tới. Thầy đã gọi tên xong. 
Thầy đã giở sổ điểm đặt trên bàn, đã bắt đầu viết hai chữ Vệ sinh trên bảng. Vẫn chưa thấy bóng vía anh đâu. Thầy hỏi có biết vì đâu anh nghỉ, thì chẳng một ai hay. 
Tôi lo quá. Thầy gọi lên đọc bài bây giờ mà không có sách thì nguy. Biết nói làm sao? Trống ngực tôi đập. 
Tôi hết nhìn ra cửa lớp, lại nhìn sang chỗ anh ngồi hãy còn bỏ trống. Mười phút nữa qua… Cái mười phút ấy mới dài làm sao chứ! Tôi như người ngồi trên đống lửa. Mỗi lần thấy thầy đưa bút lên quyển sổ điểm, sắp sửa gọi tên, là trống ngực tôi đập bằng trống làng. 
Nhưng thầy đã hỏi xong bài cũ. Tôi nhẹ người như vừa cất được gánh nặng. Thầy bắt đầu giảng sang bài mới, thì có tiếng chân đi lẹp sẹp, rồi một người rụt rè bước vào lớp. 
Đó là anh Sỹ, mồ hôi, mồ kê nhễ nhại, vừa nói, vừa thở: 
- Thưa thầy… xin thầy tha cho con… Con đến muộn… vì…vì… 
Nói đến đây, anh mở cặp ra, đặt lên bàn thầy một cái gói bọc giấy bóng. 
- Thưa thầy… con nhặt được… cái này ở đường… Con… con đứng chờ mãi… không… không thấy ai đến nhận… thành con đến muộn… Thầy ngạc nhiên nhìn anh, rồi mở gói giấy ra. Chao ôi! Bao nhiêu là tiền! Nhiều tiền quá, nhìn mà hoa cả mắt! Một xấp bạc dầy, có lẽ đến mấy chục ngàn chứ không ít! 
Chúng tôi trố mắt nhìn. Thầy để nguyên tập giấy bạc trên bàn, sai anh Tôn xuống mời ông Hiệu Trưởng. Trong khi ấy, anh Sỹ vẫn đứng ngơ ngác, hết nhìn chúng tôi, lại nhìn trộm thầy, băn khoăn như tội nhân, trước giờ tuyên án. Khổ thân anh! 
Chỉ một phút sau, ông Hiệu Trưởng hấp tấp bước vào. Ông hỏi qua thầy giáo rồi cho gọi anh Tôn lên kiểm bạc trước mặt tất cả chúng tôi. Chúng tôi hồi hộp nhìn xem anh Tôn đếm bạc: một ngàn, rồi mười ngàn, rồi ba mươi ngàn, rồi bảy mươi ngàn. Đúng 70 ngàn, không kém một đồng. Ông Hiệu Trưởng lấy mảnh giấy bảo anh Tôn ký nhận vào rồi ông cầm gói bạc tất tả đi xuống. 
Chừng nửa tiếng đồng hồ sau, thấy ông vui vẻ vào lớp, có một bà đứng tuổi theo sau. Ông gọi anh Sỹ lên bàn giấy, chỉ vào anh, lúc ấy đang rụt rè đứng khép nép bên giá bảng, mà nói với bà khách lạ: - Đây là em nhỏ đã tình cờ nhặt được gói tiền của bà… 
Bà khách nhìn anh Sỹ, nhìn tấm thân gày guộc ẩn trong tấm áo vá, bạc mầu. Bà ngồi thụp xuống, ôm lấy anh vào lòng mà nghẹn ngào: 
- Ta đã nhận được đủ tiền… Em đã cứu sống ta… Ta đã muốn đến tận đây để cảm ơn em, và để biếu em số bạc nhỏ này… 
Nói rồi bà dúi vào tay anh Sỹ một tập bạc. Nhưng tôi thấy anh rút tay vào, nước mắt ứa ra, thổn thức nói: 
- Con nghèo lắm… nhưng không!... nhưng không!... 
Rồi anh rảo bước, chạy ù về chỗ, giữa tiếng vỗ tay nổ ran như pháo. 
39. Khổ Vì Con 
Ngày 12 tháng 2 
Sáng nay, đang lúc mưa to, má anh Pha, vẻ mặt thiểu não, quần áo ướt sũng, cầm tay lôi anh vào trường. Chúng tôi được chứng kiến một tấn kịch não lòng! Bà cụ, đầu óc rũ rợi, hai mắt đỏ ngầu, vừa trông thấy ông Hiệu Trưởng là òa lên khóc: 
- Bẩm… bẩm cụ… xin cụ thương cháu tha cho… Con dại cái mang… chúng tôi già nua được có một mình nó… đau lòng… xót ruột vì con… Những tiếng nấc làm bà nghẹn ngào, không nói lên được. Thấy ông Hiệu Trưởng lắc đầu, bà sợ hãi, vừa khóc vừa nói: 
- Cháu dại dột… chúng tôi xin đe nẹt dạy bảo… Cụ thương cho… Pha ơi! Mày làm khổ mẹ con ơi!... 
Thế rồi bà ta cứ nắm lấy áo ông Hiệu Trưởng mà khóc như mưa, như gió. Còn anh Pha, thì cúi đầu xuống, sượng sùng, lấy chân di xuống gạch, cơ hồ muốn chui xuống đất. Từ hôm phải đuổi, phần sợ hãi, phần xấu hổ, anh bỏ nhà đi ba hôm nay. Tìm kiếm mãi, má anh mới bắt được mang về. 
Giữa lúc ấy, thầy giáo đi tới. Ông Hiệu Trưởng bèn thuật lại cho nghe, rồi hỏi: 
- Ý ông có muốn nhận tên học trò này nữa không? 
Thầy giáo yên lặng, đưa mắt nhìn hai mẹ con anh Pha một lát, rồi chép miệng thở dài: 
- Tôi xin nhận. Cũng mong cụ tha thứ cho, để nó sửa tính, đổi nết. 
Ông Hiệu Trưởng quay lại bảo má anh đang đứng tựa cửa mà sụt sịt: 
- Nhà trường cần phải loại những phần tử xấu, để khỏi làm hư hỏng những hoc sinh ngoan. Nhưng nay thầy giáo nó đã rộng lượng nhận rồi, tôi cũng vui lòng tha thứ cho nó một bận cuối cùng. Thôi bà cứ về! Bà cụ mừng quá, cảm ơn rối rít, rồi gạt nước mắt toan đi ra. Nhưng bà quay lại, mếu máo nói: 
- Thầy làm phúc cho mẹ con tôi… chúng tôi chẳng bao giờ dám quên ơn. Pha ơi! Con phải thương bố, thương mẹ mà chịu khó học hành… Còn các anh, các anh cũng tha thứ cho em, khuyên bảo nó vài lời giúp tôi. 
Bà lại xin lỗi ông Hiệu Trưởng và thầy giáo một lần nữa, rồi thất thểu đi, sau khi nhìn con mà lau nước mắt. Ra đến cổng trường, chúng tôi còn thấy bà quay cổ lại, ôm ngực ho rũ rợi dưới cơn mưa nặng hạt. Ông Hiệu Trưởng nhìn anh Pha nghiêm khắc nói: 
- Pha! Anh giết mẹ anh rồi đó! 
Chúng tôi ai cũng xúc động; còn anh, thấy quay mặt đi, tay quệt ngang mắt. 
40. Ngoài Đường Phố 
Ngày 15 tháng 2 
Thầy giáo chúng tôi còn nghỉ, nên thầy giáo lớp Nhì phải tạm thay. Bài đầu sáng nay là bài Đức Dục học về “BỔN PHẬN Ở NGOÀI ĐƯỜNG PHỐ”. Trước khi vào bài, tôi thấy thầy mở cặp lấy ra một tờ báo. Thầy nói: 
- Trước khi giảng bài mới, thầy hãy đọc cho các con nghe đây một tin vui, vừa thuộc về bài học hôm nay, mà cũng là một điều vinh hạnh lớn cho các con nữa. 
Thầy giở tờ báo ra, đọc ngay ở trang đầu: 
Tấm lòng vàng. 
Bữa vừa qua, em Hà Văn Sỹ, 14 tuổi, học sinh nghèo lớp Nhất trường tiểu học Ngô Sĩ Liên, trên đường đi học, đã nhặt được một gói tiền rơi của bà Võ Thị Mão, trong đó có một số bạc lớn là 70 ngàn đồng. Không động lòng tham, em mang vào lớp trình thầy giáo. Bà Mão nhận được số bạc, sung sướng thưởng cho em năm ngàn đồng, nhưng em không nhận. 
Bản báo đăng hình em Sỹ ở đây để nêu cao tấm gương trong sạch, đã làm vinh dự cho nhà trường, cho thầy giáo, cha mẹ, bạn bè… 
Đọc xong, thầy giơ hình anh Sỹ in trên mặt báo cho chúng tôi xem. Anh Sỹ cảm động, cứ ngồi cúi mặt, mâm mê quyển vở trong tay, trong khi chúng tôi sung sướng vỗ tay đôm đốp, và nhìn “người anh hùng trong sạch” bằng cặp mắt hân hoan, cảm phục. 
Chăm chỉ, ngoan ngoãn, lại trong sạch như anh, thật xứng với tấm lòng trời biển của thầy đã kỳ vọng vào anh. 
Gập báo vào, thầy giáo lớp nhì bắt đầu giảng cho nghe bài mới. 
- Ta thường thấy, khi ở nhà các con dè dặt cử chỉ, tỏ ra là đứa trẻ ngoan, có giáo dục, nhưng ở ngoài đường phố là chỗ đông người qua lại, thì lại không được như thế. 
Các con hát, các con chạy, các con đùa, rồi nhổ bậy, rồi vứt giấy,… coi đường phố như cái sân chơi… Các con ạ, ở gia đình, ở trường học, ta có bổn phận thế nào thì ở ngoài đường, ngoài phố, ta cũng có bổn phận như thế. 
Trông thấy người tay xách, nách mang, đánh rơi đồ vật, con chạy tới giúp họ nhặt lên. Thấy người kéo xe không vượt qua nồi đoạn đường lầy lội, con tới giúp họ đẩy đi. Thấy của rơi ngoài đường, phải mang đi trình, chờ người đến nhận… 
Chúng tôi quay lại nhìn anh Sỹ tủm tỉm cười. Thầy cũng âu yếm nhìn anh, rồi nói tiếp: 
- Mỗi lần gặp người già cả, kẻ nghèo khó, người mẹ bồng con, người què chống nạng, người khuân vác nặng nề, gia đình đám tang, các con phải nhường bước; nhất là khi vẳng tiếng quốc ca, hay nhác thấy bóng quốc kỳ, thì bất cứ ở đâu, cũng phải dừng chân, nghiêm mình một cách kính cẩn. 
Thấy em nhỏ lơ đễnh qua đường, sắp gặp tai nạn, con cố tìm cách cứu nó. Nếu gặp em đứng khóc bên đường, phải lại hỏi han, dỗ dành, rồi đưa về nhà, nếu em bị lạc. 
Gặp lũ trẻ đánh chửi nhau, phải đem lời hơn lẽ thiệt mà can ngăn, đừng đứng nhe răng cười, như xem trò xiếc. Nếu người lớn thì phải nhắm mắt tránh xa, chớ có dừng lại mục kích những cảnh hung bạo giữa người với người, nó làm cho trái tim ta trở nên sắt đá. 
Gặp người già lão qua đường, con đưa các người sang. Nếu các cụ nhỡ tay rơi gậy, con nhặt lên, lễ phép trao trả vào tận tay người. Nếu có gặp kẻ bị trói tay, xấu hổ, cúi đầu đi giữa hai người cảnh binh, con đừng bắt chước những kẻ hiếu kỳ lẽo đẽo theo sau. Biết đâu người có tội chẳng bị ngờ oan, hoặc đang ăn năn tội lỗi? Mà kẻ hối lỗi đáng được ta tha thứ rồi. 
Gặp đám tang chớ nên cười đùa, trước những điệu kèn não ruột, tiếng khóc bi ai. Ta phải nghiêm chỉnh ngả mũ chào, để chia buồn với tang gia, để vĩnh biệt một linh hồn đã rời xa cõi thế mà còn để lại đau thương cho bao người còn sống. 
Gặp những trẻ mồ côi trong Cô Nhi Viện xếp hàng đi trên hè phố, các con đừng khinh bỉ. Hãy nhìn những em đó bằng con mắt thương tình vì đó là hình ảnh của sự đau khổ của loài người. 
Gặp đồng bào miền Bắc di cư hỏi thăm đường, các con phải lễ phép chỉ bảo đến nơi đến chốn. Nhất là đồng bào ăn mặc lôi thôi, lếch thếch thì các con lại càng phải kính trọng hơn nữa, vì dưới những bộ nâu sồng lam lũ ấy chứa đựng cái tinh thần bất khuất bên trong; vì những bộ quần áo ấy không phải là sự nghèo hèn, vả lại sự nghèo hèn cũng không đáng bỉ bao giờ mà nó đã tượng trưng cho lòng ham chuộng tự do của đồng bào miền Bắc. 
Các con nên nhớ, ở ngoài đường phố các con cứ vui vẻ, nhưng phải nghiêm trang. Có thế người ngoại quốc trông vào, mới phải kính nề dân Việt chúng ta. Đừng làm hổ lây cho cả dântộc bằng những cứ chỉ ngông nghênh, hỗn xược của mình. 
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có hàng ngàn năm văn hiến. Vậy các con phải tỏ ra là con nhà giáo dục, cho xứng đáng với cái danh ấy. 
Giờ tan học, tôi xem ra anh nào anh ấy đi đứng nghiêm trang lắm, không thấy nô đùa, chạy nhảy như mọi khi. 
Tôi nghĩ thầm: ”Giá tất cả bảo nhau được mãi mãi như thế này nhỉ!...” 
41. Tấm Huy Chương Xứng Đáng 
Ngày 20 tháng 2 
Hôm nay ông Thanh Tra đến thăm trường. Ông vào lớp tôi cùng với ông Hiệu Trưởng, đúng vào lúc thầy sắp phát huy chương và cờ danh dự cho các đội. 
Nhân dịp ấy, thầy giáo nhường cái vinh dự ấy cho ông Thanh Tra để cuộc phát thưởng thêm phần long trọng. 
Sau khi trao “huy chương học giỏi” cho anh Sinh, mọi người hồi hộp chờ người thứ nhì. Ai cũng tưởng như sắp gọi đến tên mình. Thấy thầy và ông Hiệu Trưởng cùng ông Thanh Tra trao đổi khẽ với nhau những câu gì không rõ, chúng tôi thì thầm hỏi nhau, không biết phần thưởng nhì về ai chuyến này? 
Bỗng ông Thanh Tra dõng dạc cất tiếng: 
- Trò Nguyễn Đình Côn! Chăm chỉ làm việc ở trường cũng như ở gia đình; bài thuộc, chữ tốt. Nguyễn Đình Côn! huy chương cố gắng! 
Thầy đọc đến tên anh, chúng tôi ai cũng vui vẻ, mừng thay cho anh mà quay về phía ấy. Anh Côn hồi hộp đứng lên, mặt đỏ ửng vì sung sướng. Ông Thanh Tra nói: 
- Lên đây con! 
Rồi ông chăm chú nhìn anh, nhìn bộ mặt xanh xao, đôi mắt buồn rầu, tiều tụy trong bộ quần áo cũ có những miếng vá to bằng bàn tay… 
Rồi ông âu yếm cúi xuống gài huy chương vào ngực anh, ngọt ngào nói: 
- Ta thưởng cho con, vì không ai xứng đáng hơn con. Ta thưởng cho con, không những vì con ngoan ngoãn, chăm chỉ, mà vì con đã tỏ ra có lòng hiếu thảo với cha. Rồi ông quay về phía chúng tôi: 
- Có phải Côn là người có hiếu không các con? 
Cả lớp đồng thanh nói lên: 
- Thưa vâng, vâng ạ… 
Anh Côn chẳng biết nói gì, rơm rớm nước mắt nhìn chúng tôi, như muốn cám ơn. 
- Thôi cho con về chỗ… 
Năm phút sau thì tan học. Chúng tôi vừa ra đến cổng trường, thấy thầy anh Côn đứng chực đó, mắt đỏ ngầu, quần áo xốc xếch, hai chân loạng choạng cơ hồ sắp ngã. Thầy giáo trông thấy, vội ghé tai nói thầm với ông Thanh Tra. 
Ông Thanh Tra gật đầu, rồi cầm tay anh Côn, dắt lại với thầy anh. Anh Côn sợ run lên bần bật. Một lũ hoc trò hiếu kỳ láu nháu theo sau. Đến trước mặt cha anh, ông Thanh Tra tươi cười nói: 
- Tôi có lời mừng ông! Cháu học hành ngoan lắm! Trong lớp 54 học sinh, tháng này cháu được thưởng “huy chương cố gắng”. Bài thi nào cháu cũng khá đều. Cháu thông minh và chịu khó lắm, được thầy giáo và các bạn mến yêu. Ngày mai cháu có thể khá được… Tôi rất lấy làm hài lòng, và riêng ông hẳn cũng hãnh diện!... 
Cha anh nghe nói, mồm há hốc ra, hết nhìn ông Thanh Tra lại nhìn thầy giáo, rồi cúi xuống nhìn con đang cắm mặt xuống đất, run lên sợ hãi. Có lẽ là lần đầu, ông vụt hiểu ra rằng đã bấy lâu ông đang tâm hành hạ con ông, đứa con huyết mạch của ông, đã bao năm cắn răng chịu đựng những nỗi dày vò tủi nhục rồi. 
Ông bỗng cảm thấy lòng đau xót, rồi trong một giây bàng hoàng, ông cúi xuống, ẵm bổng con lên. Chúng tôi đi qua, người nắm tay anh, người sờ cái huy chương trước ngực… Tôi rủ anh thứ Năm đến chơi cùng anh Tôn, anh Sỹ. 
Ai ai qua cũng ngỏ với anh vài lời âu yếm trước con mắt sửng sốt của cha anh. Người cha ấy khẽ thở dài, kéo vạt áo, lau nước mắt cho con… 
42. Tự Hứa 
Ngày 24 tháng 2 
Tấm huy chương cùa anh Côn cứ ám ảnh tôi hoài! Tại sao tôi lại không bằng anh nhỉ? Tôi há lại chịu kém anh sao? 
Từ ít lâu nay, tôi không chịu học, và lúc nào cũng như giận dỗi điều gì. Thầy giáo, rồi Ba tôi, mẹ tôi, xem ý ai cũng phật lòng. Tôi không cảm thấy cái vui sau giờ làm việc. Tôi chán nản hết sức. Sách vở, tôi quẳng vào một chỗ để đi chơi. Lúc ăn cơm, tôi cũng không thấy cái thú hội họp gia đình. 
Tôi suốt ngày bần thần khó chịu, một tư tưởng đen tối lẩn quẩn trong đầu, hành hạ tôi, vá có tiếng từ đâu vẳng tới: 
- Dũng ơi! Hèn thế à! 
Buổi chiều, tôi đứng tựa cửa nhìn bầy em nhỏ đi học về, lẫn vào giữa đám thợ thuyền lũ lượt. Một vài người dáng mệt mỏi, nhưng tất cả đều vô tư, hớn hở. Người còn thơ thẩn ngắm phố, người hấp tấp bước nhanh, mong chóng về nhà. Họ cười to, nói lớn, bàn tay còn dính than đen, hay giây vôi trắng, khoa lên. 
Tôi nghĩ rằng họ đã làm việc từ sáng sớm để về muộn giờ này. Trong số đó có những trẻ nhỏ như tôi, suốt ngày chênh vênh trên mái nhà cao, hay chơi vơi trên mặt nước, hỳ hục trong xưởng máy, hay cặm cụi dưới hầm sâu với một nắm cơm khô, một ngụm nước lã thay bữa cơm trưa. 
Nhìn vào trang giấy trắng mà tôi vừa bôi bác ra cho xong chuyện, rồi nghĩ tới những trẻ đó, bỗng nhiên tôi cảm thấy mặt nóng bừng vì xấu hổ. 
Tôi giận tôi. Tôi giận tôi quá. Tôi như thấy Ba tôi đang nhìn tôi với cặp mắt buồn rầu, muốn đánh mắng tôi mà còn chưa nỡ! 
Ba yêu quý của con ơi! Con biết Ba đã làm việc khó nhọc để nuôi cho con khôn lớn, để cho con được đi học. 
Đã bao đêm rồi, con thức giấc mà thấy Ba vẫn còn mải mê bên chồng sách, nét mặt tư lự đăm chiêu. 
Đã bao lần, Ba dấu con để đi khám phổi, sau những cơn ho tưởng đến vỡ ngực. Ba làm việc cho chúng con! Ba đau ốm vì chúng con! Ba chịu đựng bao nhiêu cay đắng, mệt nhọc cũng vì chúng con! 
Vậy mà con chẳng chịu học hành, để phiền, để tủi cho Ba. Ba ơi! Con viết giòng này không muốn khóc, mà nước mắt cứ đầm đìa trên má! Bắt đầu từ nay, con tự hứa sẽ đem hết cả tâm hồn nghị lực để làm việc như anh Tác. Tối con sẽ thức khuya, sáng con sẽ dậy sớm, cố thắng cho được sự lười biếng đang chinh phục, đang cám dỗ con! 
Nào can đảm lên! Ta sẽ nhẫn nại, cố gắng học hành để đem lại cho linh hồn một chút vui tươi, cho cha mẹ ta nụ cười hớn hở!... 
43. Quý Bạn 
Ngày 4 tháng 3 
Hôm qua, anh Côn và anh Tôn, cả hai anh cùng đến tôi chơi. Đây là lần đầu tiên mà anh Tôn đến chơi nhà bạn. Anh không đến nhà ai, ngượng vì to đầu mà còn học lớp Nhất. Anh Sỹ thì không tới được, vì cha anh mới ở Tân Thế Giới về, sau sáu năm cách biệt. 
Thấy anh Tôn, mẹ tôi trỏ vào anh mà nói với cha tôi: 
- Cậu bé này học khá mà bụng dạ tốt đáo để! Thằng Dũng nhà ta chơi với anh ấy thực là tốt số! 
Rồi mẹ quay sang anh: 
- Anh trông nom, bảo ban em mấy nhé! 
Anh Tôn khẽ “dạ” rồi cúi mặt xuống, liếc tôi mà mủm mỉm cười. Còn anh Côn, từ hôm được thưởng “huy chương cố gắng” thì vui thú lắm! Thầy anh cũng biết hối, tuyên bố bỏ rượu chè, nên được bà con thương tình giúp vốn cho để mở lại cửa hàng, nhờ trời cũng khá. Trông thầy anh bây giờ, đố ai dám bảo là xưa kia nát rượu, phũ phàng với con! Ông cười nói vui vẻ, luôn luôn hỏi han, săn sóc con, hàng xóm láng giềng thấy vậy, ai cũng mừng thay. 
Ngồi chơi một lát, anh Tôn đứng lên xin phép để chúng tôi lại nhà anh Bích chơi, như chúng tôi đã hẹn nhau từ bữa trước. Anh Bích, từ ngày biết sửa đổi đến nay, đâm ra khác hẳn, nhu mì ngoan ngoãn, ai cũng phải quý, ai cũng phải thương. Nhất là cái thói kiêu ngạo, xa hoa thì không còn nữa. Thế mới biết, con người ta không phải hoàn toàn xấu mãi! 
Đến đầu phố, đã thấy anh thập thò đứng đợi ngoài cổng, rồi tay bắt, mặt mừng làm như lâu ngày không gặp. 
Anh đưa chúng tôi vào chào Ba, Má anh, rồi dắt lên phòng học của anh ở trên gác. Phòng anh sạch sẽ, quần áo, sách vở gọn gàng, ngăn nắp, chúng tôi trông thấy, ai cũng thích. Có hoàn cảnh như anh mà không chịu học thật là uổng quá! 
Thấy bạn đến, anh tíu tít lăng săng đến bật cười. Một lát, má anh đem lên một cái hộp lớn: 
- Con mang chiếc xe hỏa này để các anh cùng chơi mấy! 
Rồi bà quay lại chúng tôi, ngọt ngào nói: 
- Các cậu cứ tự nhiên như ở nhà nhé! Em nó còn dại lắm, các cậu đừng chấp… 
Rồi bà xuống dưới nhà, mặc cho chúng tôi chơi. Bích mở hộp, lấy xe hỏa ra. Anh Côn xem ý lấy làm lạ lắm. Anh say sưa ngồi ngắm chiếc xe nhỏ xíu chạy sầm sập trên đường sắt, dừng lại ở các ga, qua cầu, chui núi, chẳng khác gì xe hỏa thật. 
Bích đưa chìa khóa cho anh Côn lên giây cót. Anh trịnh trọng quay nhẹ từng vòng, chỉ lo nó đứt, rồi mới quì xuống mà xem xe chạy. 
Trông anh nâng niu nó trên tay, tưởng như anh đang cầm một vật bằng thủy tinh mong manh, mà chỉ mạnh tay là vỡ nát. 
Anh nghiêng nghiêng cái đầu, nhòm ngó từng bộ phận một, dường như lấy làm lạ lắm! Chỗ nào có bụi, anh kéo vạt áo lau đi, lau lại. Tôi nhìn anh, cái cổ nghẹo xuống, cái cổ mà có hôm tôi trông thấy nó tím bầm, cái tay áo sơ-mi quấn lên, để lộ ra đôi cánh tay khẳng khiu, hẳn xưa kia thường đưa lên đỡ roi đòn, roi vọt của cha. 
Tôi bất giác thầm thương anh quá! Lúc ấy, tôi muốn có gì đem cho anh hết, sẵn sàng nhường cả miếng cơm, sẻ cả manh áo cho anh. 
Tôi nghĩ thầm: 
- Giá mình có cái xe hỏa này, thì nình cho phứt anh ấy ngay… 
Còn anh Bích, thấy anh Côn thích đề chơi của mình thì cứ hỏi đe, hỏi lại: 
- Côn trông có đẹp không? Côn xem có hay không? Côn có thích không? 
Tôi bụng bảo dạ: 
- Anh chàng nầy vẫn không hết được cái tật khoe của… Thôi được, để mai ta cho anh ấy con gấu đánh trống của ta vậy. Cũng đẹp chán!... Chơi một lúc, chúng tôi xuống chào Ba Má anh để ra về. Má anh bỏ vào túi chúng tôi, mỗi người một gói kẹo, rồi dặn đi, dặn lại đi đường cẩn thận kẻo xe pháo. 
Buổi tối, lúc ăn cơm, tôi ngỏ ý với cha tôi muốn tặng anh Côn món đồ chơi ấy, thì cha tôi vui lòng ngay. Mẹ tôi cũng bảo: 
- Phải đấy, ăn xong con đem sang biếu anh ấy, mà phải nói cho khéo, kẻo anh phật lòng. 
Ăn xong, tôi âu yếm nhìn con gấu một lần cuối cùng, trong lòng chẳng tiếc đồ chơi đẹp mà lại vui thích như người được của. Tôi trịnh trọng gói vào giấy bóng, rồi hí hửng cầm sang. 
Đến nơi, tôi đang thấy hai anh em đang hý hoáy chắp cái đồ chơi quý báu ấy, anh biết ý, mỉm cười giơ cái thư cho tôi đọc: 
Côn thân mến, 
Bích thành thật tặng Côn cái xe hỏa này để làm kỷ niệm, Ba Má Bích cũng đã bằng lòng. Mong Côn nhận cho để Bích khỏi tủi. Lúc chiều vì đông các bạn, Bích không tiện nói ra, mong Côn hiểu cho và chớ nói với ai nhé! 
Cám ơn Côn nhiều lắm vả thân ái bắt tay Côn. Bích 
Đọc xong thư tôi ngẩn người ra, đặt gói giấy xuống bàn, rồi hấp tấp về nhà như người chạy trốn… 
44. Cái Nghiên Mực 
Ngày 9 tháng 3 
Hôm nay tôi cùng cha tôi lại thăm ông giáo Hòa, bạn cũ của cha tôi. Lâu ngày không gặp nhau, hai cụ chuyện trò hỉ hả lắm. Bỗng cha tôi nhác thấy trên bàn một bộ nghiên mực bằng gỗ, chạm trổ rất kỳ cục. Thấy cha tôi chú ý nhìn, ông giáo nói: 
- Bác trông có hay không? Có người vừa tặng tôi đấy! Ly kỳ đáo để! Để tôi kể chuyện Bác nghe. 
Bác có nhớ cái ngày tôi xin tình nguyện đổi đi Côn đảo hai năm không nhỉ? Tôi được cử vào dạy học đám tù nhân tại trại H, toàn những quân giết người cướp của… mặt mũi anh nào trông cũng như tướng cướp… - Thì chính họ là tướng cướp còn gì nữa! 
Ông giáo cười, nói tiếp: 
- Trong số tù nhân, hoc trò của tôi, tôi đặc biệt chú ý đến tên “Vanh Cát” (24) chúng tôi gọi tù bằng số, chứ không bằng tên. Hắn ngồi yên, chăm chú nghe với cặp mắt nhìn tôi kính cẩn. Tôi hỏi ra mới biết Bác ta là thợ mộc, trong lúc nóng giận, lỡ tay đánh chết người bạn và bị đày ra đây. 
Vì chịu khó ăn học, nên chỉ 3 tháng sau là gã đã biết đọc, biết viết. Xem ra gã mê mải sự học lắm, và hình như tự đó ăn năn tội lỗi, nên người ta thường bắt gặp gã thợ thơ thẩn một mình, tay cầm quyển sách, tư lự buồn rầu. 
Thế rồi, một buổi sớm kia, nước mắt vòng quanh. Gã lên chào tôi, vì có lệnh đổi gã đi trại khác. Còn tôi, ít lâu sau, hết hạn lại trở về đây. Trong 5,6 năm, tôi chẳng được tin tức gì của gã, mà cũng quên đi, chẳng để ý đến nữa. Thế rồi buổi sáng hôm qua, tôi thấy có một người đàn ông lạ mặt, áo quần lam lũ, đến xin gặp tôi. Thì ra đó chính là tên tù “Vanh Cát”, vì biết hối lỗi, nên vừa được chính phủ khoan hồng, cho giảm hạn tù. 
Trông thấy tôi, gã nghẹn ngào nói: 
- Thưa thầy, con hỏi thăm mấy hôm nay mới biết được chỗ ở của thầy gã vẫn xưng “con” với tôi như một tên trò nhỏ Nhờ ơn thầy dạy bảo, con vẫn chẳng quên, nay được tha về, thôi thì thầy cũng mừng cho. Trong 6 năm trời đổi sang trại B, con làm được vật mọn này đem về kính biếu thầy, gọi là tạ ơn thầy đã mở lòng, mở mắt cho con, đã cứu sống con được về với gia đình, con cái… 
Thấy tôi chưa kịp nói, gã tưởng tôi từ chối, cặp mắt nhìn rồi não nùng như muốn nói: ”Sáu năm trời đau khổ, con chưa chuộc được lỗi sao?” Tôi vội an ủi và khuyên giải gã, rồi nhận lấy bày trên bàn giấy để làm kỷ niệm. 
Nói rồi, ông giáo cầm nghiên mực đưa cho cha tôi xem. Suốt 6 năm trời, chỉ có một mũi đinh để gọt cả một khúc gỗ dắn, làm nổi vật đó, thật là cả một kỳ công! 
Nhìn kỹ phía dưới, thấy khắc một hàng chữ, nét khá rắn rỏi: 
BIẾT ƠN THẦY CŨ 
Tù 24 
Ba tôi tấm tắc khen mãi, rồi nói: 
- Cái nghề của chúng mình lắm lúc cũng hay! Ai dám bảo dạy học là nghề bạc bẽo! Mà hắn nói rằng bác “cứu sống” hắn, tôi cho cũng không phải là quá! 
Lúc trở về, chuyện người tù với bộ nghiên mực cứ lẩn quẩn mãi trong óc tôi. Rồi tôi ngẫm nghĩ đến cái kết quả huyền diệu của học vấn, đã cải hóa được một người tội lỗi, và còn biết bao nhiêu người đắm đuối, u mê khác nữa… 
Sáng hôm sau, lúc giờ chơi, tôi đem chuyện ấy thuật với anh Sinh Anh kéo tôi ra một chỗ chỉ vào anh Sỹ, con bà bán đậu phọng đang vui vẻ đánh bi ở gần đó rồi nói khẽ vào tai tôi: 
- Thôi đích thầy anh Sỹ rồi! Hôm qua Sỹ bảo tôi thầy Sỹ mới về, có cái nghiên mực bằng gỗ đẹp lắm. Thì ra thầy anh Sỹ bị đày ở Côn Đảo chứ không phải đi làm ăn ở Tân thế Giới đâu! Nhưng thôi Dũng ạ. Chúng ra biết để bụng thôi nhé! Đừng nói với ai nhé! Cấm đấy! 
Tôi đã nhận lời rồi, mà anh còn dặn đi, dặn lại không được kể với ai, sợ người ta chế anh Sỹ. 
Lúc tan học, hai chúng tôi khoác tay anh Sỹ đi về. Ra đến đầu phố, thấy cha anh Sỹ đang thập thò đứng đón. Anh Sỹ, trông thấy cha, reo lên: 
- A! Thầy tôi! Các anh ạ! 
Lúc lại gần, Sinh bấm tôi, rồi lắp bắp chào. Bắt chước anh, tôi cũng ngả mũ chào theo. 
Sỹ sung sướng, nhìn chúng tôi bằng cặp mắt cám ơn. 
45. Công Mẹ 
Ngày 14 tháng 3 
Buổi sáng, chỉ vì đòi đi xem chiếu bóng không được, tôi đã hờn rỗi với mẹ tôi. Ai ngờ cha tôi biết chuyện, nên để lại mấy dòng chữ này, khiến tôi đọc rồi mà thút thít khóc mãi không thôi: 
Sáng nay, con đã tỏ ra hỗn hào với mẹ. Ba mong rằng đó chỉ là vô tình, và từ sau không bao giờ thế nữa. Con có biết rằng Ba đau lòng lắm không, nó nhói vào tim ruột của Ba chẳng khác gì mũi dao đâm không? Mẹ không cho con đi, vì phim ấy trẻ không xem được, nên mẹ muốn tránh cho con cái hạisau này. Cho con giải trí như thế là làm khổ con đấy, con có biết không? 
Con hãy nhớ lại, mới năm trước đây, hồi con còn đau ốm, mẹ con suốt đêm bơ phờ, thiểu não ngồi đầu giường con mà cầu cho con khỏi bệnh. Trải bao đêm không ngủ, mẹ con tiều tụy, đôi mắt thâm quầng. Lắm khi nhìn con thiêm thiếp trên giường bệnh, nước mắt mẹ chan hòa ướt má. 
Con đau, lòng mẹ cũng đau; con rên lên một tiếng thì mẹ tưởng đến đứt ruột, đứt gan. Giả thử có phải chết đi để cho con được sống, hẳn mẹ cũng vui lòng. 
Con có biết mẹ héo hon, phiền muộn đã nhiều vì con không? Con có biết mẹ con đã lắm gian nan, nhiều cay đắng mới nuôi con được đến ngày nay không? 
Những năm lưu lạc hậu phương, đã đói rách lầm than, lại còn phải chạy hòn tên mũi đạn, nếu không có mẹ, hỏi con có còn đến ngày nay không? 
Vậy, Dũng con ơi! Sao con lại dám hỗn hào với mẹ? Rồi đây trên bước đường đời, con sẽ nếm nhiều đau khổ, nhưng không có cái đau khổ nào thấm với cái đau khổ của người con mất mẹ. 
Khi con đã lớn lên, thành người khá giả, sẽ có một ngày kia con nhớ đến mẹ, muốn ôn lại bao kỷ niệm trước sau của thời thơ ấu, muốn nghe giọng nói ngọt ngào, muốn nhìn khuôn mặt hiền từ của Người cũng không được nữa: mẹ con đã nằm sâu dưới ba tấc đất, nhưng hồn vẫn vọng về phù hộ cho con. 
Dù con có giàu sang phú quý đến mực nào, thiếu mẹ là thiếu cả cuộc đời. Con sẽ chua xót nhớ lại những phút lỗi lầm, những lúc làm mẹ con đau lòng, bật ra tiếng khóc. Con ơi! Con ơi! Lúc ấy hối hận sẽ dày vò lòng con, và làm cho con phải khổ sở xót xa. 
Hãy nhớ đến bao nhiêu trẻ mồ côi, không mẹ, lang thang đầu đường, xó chợ, chịu âm thần tủi phận vì thiếu tình mẫu tử thiêng liêng! Còn con, con có mẹ, con đã thờ ơ, đôi khi làm mẹ phiền lòng. Những kẻ như thế, dù có làm nên danh phận thế nào cũng không đáng kể, đời sẽ phỉ nhổ vào mặt, ghê tởm chẳng khác gì kẻ sát nhân. Mà kẻ sát nhân, nếu còn lòng thương mẹ, cũng còn hơn nhiều những đứa con bất hiếu! Ba không bắt con phải như người xưa, gặp ngày đói kém, cắt thịt đùi, nấu cháo mẹ sơi, hoặc đêm đêm cởi trần nằm ngủ, đễ muỗi đốt mình, mà không đốt mẹ… 
Không! Ba không muốn con phải hy-sinh nhiều như thế, mà chỉ muốn con lúc nhỏ phải nghe lời mẹ, khi lớn lên, lúc mẹ già tuổi yếu, con hầu hạ chăm nom Người, đừng để mẹ phải tủi lòng vì nỗi có con mà cũng như không! 
Dũng ơi! Hãy thương mến mẹ con, dù chỉ bằng một phần nhỏ của lòng mẹ yêu con! Hãy yêu mẹ con, không phải vìsợ đòn, sợ vọt, mà do tấm lòng hiếu thảo, phát tự trong đáy tim ra. 
Hãy cầu xin mẹ tha thứ đi con, và xin Người ban cho chiếc hôn trên trán, để xóa sạch những tư tưởng vô ơn trong đầu óc non dại của con. Con là niềm hy vọng của Ba, nguồn sống của Ba. Ba sống vì con, nhưng nếu con tỏ ra bất hiếu với mẹ, Ba sẵn lòng nghiến răng nhìn con như hạt máu rơi!. 
Âu yếm hôn con. 
46. Giờ Thể Thao 
Ngày 16 tháng 3 
Giờ thể thao hôm nay vui thật là vui! Một, vì nhà trường vừa cho dựng xong một cây xà ngang để tập thể thao như ở bên trường trunghọc, điều mà tất cả hoc sinh chúng tôi ao ướ c từ lâu. Hai, vì kỳ này chúng tôi đông đủ cả, không thiếu mặt ai. Mọi lần, thế nào cũng có anh viện lẽ này, lẽ khác để trốn thể thao. Nhất là anh Bùi, coi thể thao như kẻ thù. Anh học hành rất khá, phải cái thân hình ẻo lả, nay ốm mai đau. Rồi vì nghỉ luôn, từ thứ năm, thứ sáu trong lớp, anh cứ tháng tháng tụt dần, cho mãi đến gần đội sổ. 
Giờ chơi, anh cứ đứng một chỗ khuất, tay cầm quyển sách, chẳng nghĩ gì đến chuyện vậnđộng tay chân. Thầy có giục anh chạy nhẩy cho khỏe người, thì anh vâng vâng, dạ dạ, rồi lẩn tránh. Cho nên, tuy anh ham học, mà vì đau yếu nghỉ luôn, nên sức học cứ đuối dần. 
Nhưng vừa hôm trước, thấy bảo mãi không được, thầy phải triệu tất cả mấy anh lười thể thao lên mắng cho một trận nên thân: nào là thanh niên nhu nhược, chỉ để cho người đè đầu cưỡi cổ, nào là nước yếu, dân hèn chỉ vì những con người ốm yếu, nhút nhát… 
Mấy anh bấy giờ mới nghe ra, mặt đỏ lên, hết lời xin lỗi thầy. Bởi thế, giờ thể thao hôm nay đủ mặt cả. Cả anh Ninh gù nữa, lần thứ nhất cùng ra tập với chúng tôi, điều mà anh Tôn lấy làm thú lắm. 
Vì anh tàn tật, nên bà mẹ anh xin cho anh được miễn thể thao. Tuy vậy anh vẫn ấm ức trong lòng. Đến mãi hôm qua, nghe thầy trách mắng, thì anh không chịu được nữa, nhất định năn nỉ với má anh để xin cho cũng được tập như chúng tôi. 
Má anh không nghe, nhưng thấy anh rơm rớm nước mắt vì nhục nhã thua anh kém em, bà đành phải hứa cho anh vui lòng. Thực tâm bà lo con yếu đuối thì ít, mà sợ chúng bạn trêu ghẹo thì nhiều. Nhưng anh hiểu ý, nói với mẹ: 
- Mẹ đừng sợ, đã có anh Tôn con bênh vực cơ mà! 
Thấy nói đến anh Tôn, bấy giờ bà mới yên lòng, chờ buổi học chiều đến nói lại với thầy. Thấy bà vẫn còn tỏ vẻ lo ngại, thầy phải an ủi: 
- Xin bà cứ yên lòng, cháu đã muốn, thì cứ để cháu tập thử xem sao. Vả lại tôi sẽ trông nom cho cháu tập, bắt đầu từ những môn nhẹ cho quen dần… 
Rồi thầy xoa đầu anh, bảo chúng tôi: 
- Các con còn thua anh Ninh nhiều lắm… 
Sau khi vận động chân tay, tập thở, tập nhảy… thầy dẫn chúng tôi tới bên cột. Lần lượt chúng tôi mỗi người phải leo lên thang, rồi đứng thẳng người trên xà ngang, một thân cây gỗ vuông, khá rộng. 
Anh Phi và anh Tý thì khỏi phải nói, leo nhanh như vượn. Đến lượt anh Côn, anh sợ tái cả mặt, lập cập trèo lên thang, nhưng trước sự khuyến khích của anh em, anh cũng làm được đến nơi, đến chốn. 
Rồi đến anh Vân, anh Cảnh, ai cũng được cả. Anh Pha thì khi đến nơi, anh đứng thẳng người, giơ tay chào theo kiểu nhà binh, khiến ai cũng phải tủm tỉm cười. Tài nhất là anh Tôn. Cái thang dài thế mà anh chỉ leo lên bằng tay, chẳng cần dùng đến hai chân mà vẫn cứ nhanh thoăn thoắt. Rồi đến lượt anh Ninh. Thầy toan cho miễn, nhưng anh nhất định xin thử, khiến thầy cứ luôn mồm căn dặn anh rằng phải cẩn thận. Vừa trông thấy anh bám vào bực thang, mấy anh đứng đàng sau đã cười khúc khích. Nhưng anh Tôn khoanh tay trước ngực, quắc mắt lên nhìn, làm mọi tiếng sì sào thốt nhiên im bặt. Trong khi ấy, không chút sợ hãi, anh Ninh cứ từng bực, từng bực, chậm chạp leo lên. Mặt anh đỏ gay, mồ hôi trên trán bắt đầu nhỏ giọt. Có lẽ anh đã mệt lắm. Thầy bèn vội vàng ra lệnh cho anh tụt xuống, nhưng anh không nghe. Hai cánh tay khẳng khiu của anh cứ bám chặt lấy bực thang. Anh vẫn leo đều. Còn năm bực nữa, rồi ba bực… 
Anh Sinh, anh Tôn đứng dưới, luôn mồm cổ võ: 
- Cố lên Ninh! Cố lên! Cẩn thận đấy, Ninh ơi!... 
Chỉ còn một bực nữa là anh Ninh lên đến xà ngang. Mọi người reo lên: 
- Hoan hô Ninh! Hoan hô Ninh! 
Thầy giáo vội kêu lên: 
- Thôi được rồi, xuống đi con! 
Nhưng anh không xuống. Đời nào anh chịu kém anh em! Rồi chỉ một chút cố gắng nữa, anh đã bám lấy xà gỗ, lập cập trèo lên, rồi đứng thẳng người, sung sướng nhìn chúng tôi… rồi lại đưa mắt ra phía cổng trường. Tôi nhìn theo thấy má anh vẫn đứng đấy, hai tay bưng lấy mắt, sợ chẳng dám nhìn. 
Ở dưới, thầy cũng thở đánh phào. Lúc anh leo xuống thì chúng bạn xúm lại, vây lấy anh mà khen ngợi. Anh sung sướng đỏ cả mặt lên, chạy ra nắm lấy tay anh Tôn… 
Sắp đến lượt anh Bùi. Tôi thấy anh đứng im, cắn chặt lấy môi như suy nghĩ điều gì lung lắm. Rồi anh săm săm bước tới chân thang, nín thở leo lên một mạch. 
Chúng tôi lại có dịp hoan hô anh rầm rĩ. Lúc anh trèo xuống, thầy lại bên anh, vỗ vai bảo: 
- Đấy, con nghe thầy, có sao đâu! Anh cúi đầu mỉm cười, sung sướng.
47. Con Mắt Quý 
Ngày 18 tháng 3 
Thầy giáo tôi dạo này ốm quá, phải xin nghỉ chữa bệnh. Thầy giáo lớp Nhì tạm thay ít bữa. 
Vừa vào đến lớp, thấy một anh có con mắt bên trái đỏ ngầu, thầy lại gần bảo: 
- Mắt con đau rồi đó! Phải cẩn thận đấy nhé! Chớ dụi tay bẩn lên mắt mà khốn đấy! 
Anh Sinh đứng lên hỏi: 
- Thưa, có phải trước thầy đã dạy ở trường Mù phải không ạ? 
- Phải, thầy đã dạy ở đấy, mà dậy lâu năm nữa là đàng khác! 
Thế là cả lớp ồn ồn lên: 
- Thầy kể chuyện trường Mù chúng con nghe đi! 
Anh Tý nói to lên: 
- Thưa, có phải trước kia ở Hà-Nội cũng có trường Mù không ạ? 
Thầy ngồi vào chỗ, nghiêm mặt nói: 
- Các con nói tiếng “mù” dửng dưng như khi nói đến tiếng “ốm”, tiếng “đau”… Các con có biết thế nào là mù không? 
Mù là không thấy gì cả; không biết thế nào là ngày, thế nào là đêm; là không thấy ánh sáng rực rỡ, hay mầu hoa lá xanh tươi; là không trông thấy cha mẹ họ hàng, cùng với những vật thân yêu; là suốt đời chìm trong bóng tối, ngập dưới đất đen… 
Các con thử nhắm mắt lại một lúc xem nào, và tưởng tượng rằng suốt đời sẽ ở trong cảnh tối tăm như vậy, chẳng khác gì trong tù ngục, các con sẽ thấy khổ sở, bực bội thế nào! 
Các con sẽ thấy nghẹn ngào, đau đớn, rồi căm hờn đến nỗi muốn đấm ngực mà hét lên những tiếng kêu tuyệt vọng! 
Đến thăm trường mù ta sẽ thấy có những trẻ trông khỏe mạnh, coi bộ thản nhiên, nhưng nếu nhìn thấy những nét buồn rầu in trên khuôn mặt, ta phải phục chúng đã nhiều can đảm để chịu đựng bao nỗi khồ đau. 
Có những trẻ khác, trên khuôn mặt xanh xao, hiền hậu còn in những nét sầu vô hạn, tỏ ra chúng đã nhiều lần khóc vụng, khóc thầm. 
Các con ơi! Đứng quên rằng có đứa đã mất mắt trong có vài ngày, có đứa sau nhiều năm bệnh não, hay sau những lần mổ sẻ đớn đau. Lại có những đứa mù ngay thủa lọt lòng, tuy được ra đời, mà chẳng khác gì lại chui vào nấm mộ sâu, chẳng được biết ánh sáng mặt trời, màu sắc của hoa lá. So với những kẻ có diễm phúc mở mắt trông đời thì chúng thiệt thòi, đau khổ biết chừng nào! Mà chúng làm gì nên tội? Ông trời thật chẳng công bằng! 
Ở lâu năm bên những trẻ mù, hàng ngày trông thấy đôi mắt nhắm nghiền, chẳng bao giờ mở cả, giờ lại trông thấy các con với đôi mắt long lanh trong sáng, thầy không khỏi ngậm ngùi thương xót cho cái số kiếp hẩm hiu của chúng, mà bảo rằng: ”Các con là những người sung sướng”. 
Thế mà ở nước ta nay có tới một phần ba dân số bị bệnh đau mắt, và có đến hàng vạn người mù. Hàng vạn người mù! Các con có ai dám ngờ như vậy không? 
Thầy giáo ngừng lại. Cả lớp im phăng phắc. Thầy lại nói tiếp: 
- Chúng học rất chăm. Sách của chúng viết bằng chữ nổi. Chúng lấy tay sờ lên, rồi đọc rất nhanh. Nhầm một chữ là chúng thẹn đỏ mặt. Chúng biết cả viết nữa. Trên mảnh giấy dầy, chúng lấy dùi đục thủng từng lỗ nhỏ, rồi lật tờ giấy lại, sờ lên chỗ gợn đằng sau, đọc những điều đã viết. Bằng cách ấy, chúng làm bài, làm tính, viết cả thư cho nhau nữa. 
Nhân tiện đây (Theo Hiếu học), thầy cũng cho các con biết gốc tích chữ “Bờ Ray” (Braille), thứ chữ của người mù, cùng sự kiên nhẫn vô bờ của người phát minh ra thứ chữ ấy, khiến cho những con người xấu số cũng học được, viết được như những người có mắt. 
Năm 1912, cậu Bờ Ray, con một người thợ đóng giày ở một làng nhỏ nước Pháp, một hôm mang dùi của cha ra nghịch, chẳng may ngã, thủng mất một mắt. Còn mắt kia sau cũng hỏng nốt, cậu thành mù tịt. Năm mười tuổi, cậu vào trường mù ở Ba Lê. Ông Hiệu Trưởng lấy những cuống rơm, xếp thành 25 chữ cái để cậu sờ tay vào mà nhận mặt chữ. Sau đó, cậu đọc vào cuốn sách, có chữ bằng vải dán lên giấy. Mỗi chữ cao 7 phân và rộng 5 phân, to gần bằng một gói thuốc lá. Sau ông Hiệu Trưởng làm thứ chữ nhỏ hơn, cao chừng hai phân một, nhưng cũng vẫn còn lớn quá. Chương trình người thường học trong ba tháng, người mù phải học đến 5 năm. 
Một hôm cậu Bờ Ray nghe thấy người ta kể rằng có một viên đại úy đã nghĩ ra cách dùng những dấu chấm và vạch nổi, có thể viết, và lấy tay sờ để đọc trong đêm tối. Cậu bèn theo cách ấy. 
Sau 5 năm nghiên cứu, năm 1936, lúc 27 tuổi, cậu đã có thể dùng dấu nổi đọc nhanh như nói, lại có thể đem ra áp dụng vào toán học, và âm nhạc nữa. 
Nhưng sáng kiến ấy bị bao kẻ dèm pha, đố kỵ. Cho đến một buổi hòa nhạc, một nữ nhạc sĩ mù, sau một bản đàn tuyệt diệu, được thính giả nhiệt liệt hoan nghênh. Nữ nhạc sĩ chống gậy bước ra khỏi chiếc dương cầm, rồi quá cảm động nức nở lên không ra tiếng. Một lát sau, nàng mới nghẹn ngào nói trong nước mắt: 
- Thưa các ngài, những lời khen ngợi ấy, tôi xin nhường lại cho giáo sư Bờ Ray, người đã dùng thứ chữ nổi để phổ vào đàn cho tôi học tập. 
Từ đó báo chí và dân chúng hết lời ca tụng sáng chế của ông. Hay tin sự thành công của mình, ông cảm động đến ứa nước mắt: 
- Đời tôi chỉ mới khóc có ba lần. Lần thứ nhất khi tôi bị mù. Lần thứ hai, khi tôi tìm ra được lối viết trong bóng tối, và lần thứ ba, khi tôi được biết công cuộc làm của tôi không đến nỗi uổng. 
Nghỉ một lát, thầy kể tiếp: 
- Vì không có mắt nên chúng có một trí nhớ phi thường, nhiều đứa có bộ óc thông minh kỳ dị. Trong lớp, chúng ngồi học rất ngoan, chăm chú nghe, ai trông thấy cũng phải ngợi khen. 
Anh Tý khẽ nói vào tai tôi: 
- Chả bù với cánh ta nhỉ? 
Thầy suỵt một tiếng, bảo im, rồi nói tiếp: 
- Chúng yêu kính thầy giáo lắm. Chỉ nghe bước chân đi là chúng biết rõ thầy giáo nào rồi. Nghe giọng nói, chúng biết được thầy vui hay buồn, khỏe hay đau. Được các thầy xoa má, vỗ vai thì chúng sung sướng khôn cùng, sờ soạng nắm lấy áo thầy để tỏ dấu biết ơn. 
Chúng chơi với nhau rất thân, chẳng thấy chúng cãi nhau, giận nhau bao giờ. Cùng trong cảnh đui mù, tàn tật, chúng thương yêu nhau hơn hết, tưởng anh em ruột cũng không bằng. Chúng vỗ về săn sóc nhau, thương xót, âu yếm nhau, khiến ai trông thấy cũng phải mủi lòng. 
Còn âm nhạc thì đó là nguồn an ủi độc nhất của chúng. Có nhìn chúng chơi nhạc với bộ mặt tươi sáng, nụ cười hớn hở, mới biết chúng say mê nhạc là chừng nào! Nếu bảo chúng chậm tiến, hay không có khiếu, thì chúng vô cùng thất vọng, và cố gắng học tập cho đến được khen mới thôi. 
Với chúng, người giỏi nhạc nhất được chúng kính mến như người anh trưởng. Âm nhạc đối với chúng là tất cả một cái gì quý báu, thiêng liêng chẳng khác gì ánh sáng với con mắt của ta. Cho nên các thầy giáo chưa ai nỡ phạt không cho chúng chơi nhạc bao giờ, cả đến đọc sách cũng vậy. 
Vào lớp học của chúng mà nhìn những bộ mặt héo hắt, mất hết tinh thần, yên lặng trông thẳng… mà chẳng nhìn thấy gì, thì thật là một cảnh tượng não lòng, làm rung động những con tim sắt đá nhất. Những trẻ mù từ thuở lọt lòng chẳng nói làm gì, nhưng còn những trẻ sau này mới bị mất mắt thì ôi thôi! Cuộc đời chúng đến đây là hết, là vì chúng hiểu rằng những hình ảnh thân yêu rồi đây sẽ bị mờ dần trong trí nhớ, để chìm sâu vào trong bóng đêm mờ mịt. 
Có đứa đã từng nức nở nói với ta rằng: ”Con chỉ cầu mong được mở mắt trong giây phút để được nhìn lại bộ mặt hiền hậu của mẹ con, mà đến nay con không còn nhớ nữa” 
Hỡi ơi! Chỉ nghe có một câu nói ấy mà ta không ngăn được giọt lệ thương tâm. Còn các con, nhờ trời còn đủ cả hai con mắt, các con hãy thương giùm cho số phận hẩm hiu của những con người có mặt trời mà không biết ánh sáng, có mẹ hiền, mà chẳng biết dung nhan! 
Có mắt, con phải biết mắt là quý để thận trọng giử gìn cho trong, cho sáng. Có mắt, các con phải chăm chỉ học hành; có mắt, các con phải biết phân biệt cái đẹp, cái xấu! biết nhìn thấy cái đau khổ của đồng bào, cái nhục của người dân mất nước, để giúp đỡ người đồng-loại, để vùng lên đánh đuổi ngoại xâm. 
Con mắt đó mới là con mắt có ích, và người có mắt ấy mới xứng đáng là người! 
48. Thăm Thầy Giáo Ốm 
Ngày 25 tháng 3 
Chiều hôm qua, lúc tan học về, tôi lại thăm thầy giáo bị ốm, chỉ vì thầy chăm việc quá. 
Thầy mệt đã lâu, nhưng không chịu nghỉ. Thầy bảo lớp đi thi phải làm việc nhiều hơn các lớp khác. Trong khi ấy thầy cứ sút dần, sút dần, cho đến lúc Bác Sĩ phải đe không chữa cho nữa, bấy giờ thầy mới chịu làm đơn xin nghỉ. 
Thầy lo cho hai lá phổi, đôi phổi đã khô héo đi, sau những năm tận tụy với nghề. 
Lúc tôi vào thì gặp thầy giáo lớp Nhì ra. Tôi chắp tay chào. Thầy chẳng nói, chẳng rằng, béo má tôi, rồi nhẩy lên xe đạp, đi thẳng. Trong căn buồng tranh tối, tranh sáng, thầy giáo tôi nằm dài trên giường, chiếc chăn trắng phủ lên đến tận cầm. 
Thấy tôi vào, thầy quay mặt ra, khẽ nói: 
- Dũng đấy ư? Vào đây con! Hôm qua ba con cũng có lại đây thăm ta. Tôi dón dén, bước lại gần giường. Thầy giơ bàn tay gầy nóng hổi nắm lấy tay tôi: 
- Mấy hôm nọ, thầy ốm nhiều; đã tưởng nguy, nhưng hôm nay đã khá. Các con vẫn chịu khó học đấy chứ? Còn mấy tháng nữa thi rồi đấy! Phải cố mới được! 
Nói đến đây, thầy ngưng lại, bảo tôi rót cho ngụm nước. Uống xong, thầy lại nói: 
- Thầy biết nghỉ lâu, thiệt cho các con lắm. Nhưng đã có thầy khác.
Rồi thầy gượng một nụ cười: 
- Còn cái thầy giáo già này, gần kề miệng lỗ, thì “cho về vườn”, phải không con nhỉ? 
Trông nụ cười chua chát trên khuôn mặt héo khô ấy mà lòng tôi thấy buốt như có kim châm. Tôi toan nói “không”, thì thầy đã chỉ tay lên tường nói tiếp: 
- Thầy nói đùa vậy thôi, chứ các con chả đời nào quên thầy, phải không con? Con nhìn kia mà xem! Đó toàn là ảnh những học trò cũ của thầy cả đấy. Có anh đã làm đến bác sĩ, trạng sư; có anh xoay ngang học nghề, nhưng dù làm thầy hay làm thợ, tất cả đều giữ được nhân phẩm, không phụ ơn ta dạy bảo. 
Con xem đấy! Nhiều tấm đã ngả màu vàng vì đã quá lâu. Trên hai mươi năm trời rồi còn gì! Đó là kỷ niệm duy nhất của thầy. Thầy chỉ còn có nó để nhìn trước khi nhắm mắt. Cuối năm nay, các con cũng mỗi anh cho thầy một chiếc nhé! 
Nói nhiều, thầy như bị mệt, ôm ngực hổn hển. Tôi nhân dịp khẽ đặt hai hộp sữa trên mặt bàn, rồi chẳng biết nói thế nào, mặt cứ đỏ bừng lên. 
Nhưng không để ý, thầy nói tiếp: 
- Con kém toán lắm đấy! Phải chịu khó thêm mới được! Cứ làm cho thật nhiều tính là giỏi… Thầy còn ốm nằm đây, biết bao giờ mới đứng lên được? Nghĩ đến việc học của các con mà thầy sốt ruột! 
Thầy vừa nói, vừa thở hổn hển, mặt co rúm lại, coi như đau đớn lắm:
- Thầy đã lên cơn sốt rồi đây!... Thôi con về nhé kẻo Ba Mẹ con mong. Cảm ơn con… Không biết thầy còn sức nữa đây không?... Kìa sao con khóc?... Thầy đã chết đâu!... Anh em bảo nhau cố gắng mà học… 
Thế là nước mắt tôi cứ từng dòng chẩy trên gò má.
49. Lớp Học Bình Dân 
Ngày 3 tháng 4 
Tối hôm nay có trăng, chúng tôi rủ nhau ra xem lớp học BÌNH DÂN dậy nhờ ngay ở trường tôi. Đèn các lớp đã bật sáng trưng và học viên từ mọi ngả lục tục kéo đến. 
Ông Hiệu Trưởng đang tức giận vì một viên đá bí mật vừa ném vỡ một ô kính lớn ngay cửa lớp Ba. Bác gác trường chạy đuổi theo. Nắm được một đứa trẻ dẫn về. Nó rẫy rụa, vừa la, vừa chối. 
May có em gái anh Tác trông thấy người ném đá, bèn minh oan cho nó. Thủ phạm chính là anh Canh, học sinh lớp Nhất B, đã ném, lại còn đe em không được mách. Nhưng cô bé sợ, cứ sự thực mà nói kẻo lại có kẻ bị oan. 
Ông Hiệu Trưởng bèn tha cho đứa nhỏ và dọa sẽ đuổi cổ thủ phạm thẳng tay. Tôi chẳng ưa gì anh Canh vốn tay ngỗ ngược, xưa kia cùng đảng “cao bồi” với chàng Pha lớp tôi, nhưng thấy nói đuổi anh, lòng tôi cũng thấy thương thương. 
Tám giờ vừa điểm. Lớp học bắt đầu. Có tới bẩy tám chục hoc-viên, từ đứa trẻ lên mười, đến cụ già râu bạc, cả đàn ông, đàn bà, người làm thợ, người bán hàng… Tôi trông thấy cả thằng bán kem ở cửa trường và bác đưa báo tháng cho cha tôi nữa… 
Trông thấy những mái đầu xanh chen lẫn với mái đầu bạc, ngồi cặm cụi học hành, lòng tôi bỗng thấy xúc động lạ thường. 
Lớp học yên lặng quá. Ai nấy chăm chú viết, chẳng trò chuyện nghịch ngợm như chúng tôi. Đúng chỗ tôi ngồi, có một người thợ thì phải, tay trái quấn băng, có vẻ đau đớn lắm, nhưng vẫn thấy ông ta say sưa ngồi nắn nót từng dòng, từng chữ. 
Nhìn vào chỗ anh Tư Húi thì thấy ông phó Cạo, cha anh. Người ông cao lớn, lom khom trước cái bàn thấp, trông đến tức cười. Ông không chịu xuống bàn cao cuối lớp, cứ nhất định ngồi chỗ con ông, ai tranh cũng không được. Được ngồi chỗ ấy, ông thú lắm! cứ thấy vừa viết, vừa rung đùi. 
Trông thấy lớp người bình dân học hành chăm chỉ mà tôi phát ngượng, cảm thấy mình hèn không bằng họ. 
Lúc tan học, ngoài cổng trường, một vài bà ra đón chồng, tay bế con. Thấy bố về, đứa nhỏ bập bẹ: “Ba, Ba”, rồi quài tay ra đòi bế. 
Thế là ông bố bồng con đi trước, bà mẹ đỡ lấy sách, lững thững đi sau, vừa đi vừa giục: 
- Bố nó có nhanh chân một tí không nào? Các con nó đói cả rồi đấy! Chồng cười khì, cắn má con nựng: 
- Con bố đói rồi phải không? Cho bố cái má này nhắm rượu nhé! 
Mọi người đã về cả, mỗi người một ngả. Ngôi trường trở nên vắng ngắt. Tôi còn trông thấy bóng ông Hiệu Trưởng với cái lưng gầy, chậm rãi đi các lớp, soát lại một lượt… Thì ra, là người đến sớm nhất, bao giờ ông vẫn là người về muộn nhất! 
Chao ôi! Trước những gương cố gắng ấy, lòng tôi hổ thẹn biết bao! Tôi phải học hành thế nào cho xứng đáng đây? 
50. Bênh Em 
Ngày 9 tháng 4 
Thấy anh chàng Canh phải đuổi, chúng tôi đoán trước thế nào cũng có chuyện xẩy ra. 
Quả nhiên sáng nay, quần túm, tóc tém, hắn đứng chực ở đầu phố, chờ gây sự. Lúc anh em Tác đi học về qua, hắn túm lấy đuôi tóc cô bé, nghiến răng giật một cái thật mạnh. Em bé đau quá khóc thét lên, ngã vật xuống hè. 
Hắn tưởng yếu ớt và bé bỏng như anh Tác thì co vòi lại chứ dám làm gì! Nhưng hắn lầm. Chỉ trong nháy mắt, Tác đã nhẩy sổ vào, vật hắn ngã xuống và thụi lấy thụi để. Nhưng anh địch làm sao nổi, nên chỉ một phút sau, mặt anh đã tím bầm lên, có chỗ rướm máu. 
Ngoài đường lúc ấy chỉ có một vài nữ sinh nhỏ, nên hai anh mặc sức đấm đá. Bé thì bé, nhưng Tác đâu có chịu lùi! Anh lồng lên, lăn xả vào mà chống cự. Môi anh mím chặt, da anh tái ngắt, ngã rồi lại đứng lên, lùi rồi lại xông vào, cứ đấm, cứ đá, hăng đến nỗi anh chàng Canh phải lùi vào tận chân tường. 
Hắn bị thua đến nơi! Say máu, hắn rút ngay bút sắt trong túi, nhằm vào mặt Tác mà đâm. 
Giữa phút nguy hiểm ấy, một bàn tay nắm chặt lấy tay vặn mạnh, làm hắn văng mất bút, ngã chúi xuống một bên, lóp ngóp dậy, ôm đầu chạy mất. 
Có tiếng reo: 
- Hay quá! Hay lắm! 
- Ê! Đồ “cao bồi”! Đồ khốn nạn! bắt nạt, ê…ê… 
Một bà đứng trên cửa sổ nói: 
- Bé người mà anh hùng, biết bênh em… 
Người bạn vừa cứu anh Tác chẳng phải ai xa lạ: đó là anh Pha, anh đang cúi xuống nhặt đống sách rơi vãi tung tóe dưới đất. Trong khi ấy mọi người đổ sô lại, bàn tán ồn ào. Mỗi người một câu: 
- Cái thằng hèn mạt kia đâu rồi? Sao không bắt ngay lấy nó mà đem lên quận? 
- Con cái nhà ai mà du côn, du kề thế vậy? 
- Không có cậu kia thì thủng mặt với nó chứ không chơi!... 
- Ừ, can đảm bênh em như thế mới là phải… Có đau lắm không em? Anh Tác mặt mũi sưng vêu, không nghĩ đến sự đắc thắng, lẳng lặng cầm lấy sách mà anh Pha đưa cho, xem từng quyển một, phải từng quyển một, chỉ sợ mất, sợ rách. 
Anh cảm ơn anh Pha, rồi lau nước mắt cho em, anh bảo: 
- Về đi em, chẳng mẹ chờ cơm! Không sợ! Đã có anh!... Về nhà thuật chuyện lại với mẹ, mẹ tôi bảo: 
- Còn con, con chỉ được cái chòng em là không ai bằng. Em nó còn bé dại, em không biết thì phải bảo em, thương em, chiều em mới phải. Xem anh Tác đấy! 
Cô ả Huyền đứng gần đấy được thể: 
- Hễ anh Dũng bắt nạt con, mẹ cứ đánh thật đau, mẹ nhé! 
51. Phí Của 
Ngày 10 tháng 4 
Ai trông thấy anh Đỉnh phí của cũng phải tiếc hộ của trời! 
Quyển vở mua về mới nguyên, thế nào anh cũng xé vài tờ để gấp thuyền hay làm tàu bay chơi. Cái ngòi bút hãy còn tốt, giá vào tay tôi còn dùng được tuần lễ, thế mà anh đã mang vứt vào sọt. Thậm chí cái cặp da vừa mua hôm trước, hôm sau anh đã đặt xuống thềm rồi ngồi lên. 
Vì biết tính anh hay giận cái nết thường có của con nhà giàu nên anh Tôn chưa dám ngỏ lời khuyên can. Nhưng anh có nói với tôi, thế nào cũng có phen phải làm anh đến sửa đổi mới nghe! 
Dịp đã đến hôm qua, khi anh Đỉnh bóc cái bánh dò, bửa ra ăn mỗi tí nhân thịt bên trong, rồi vứt toẹt xuống đất. Anh Tôn điềm nhiên, làm như không biết, từ từ đi lại, dắt anh ra phía sau trường. Vốn quí anh Tôn, nên anh Đỉnh thấy rủ bèn đi ngay. 
Lúc ấy tôi đang ngồi dưới gốc cây xem lại bài Địa lý. Tôi ngồi im nghe hai anh nói chuyện với nhau. 
Tôi thấy anh Tôn vỗ vai anh Đỉnh mà bảo: 
- Tôn nghèo lắm, chẳng mấy khi có tiền. Nhân hôm qua có bà cô ở Gia Định lên chơi cho vài đồng. Tôn định rủ Đỉnh ăn quà cho vui thì đã thấy Đỉnh ăn no mất rồi. 
Đỉnh vui vẻ nói: 
- Cảm ơn Tôn! Sao Tôn biết Đỉnh no? 
Tôn nghiêm nét mặt: 
- Vừa rồi Đỉnh chả vứt cái bánh dò xuống đất là gì? Không no sao lại thế? 
Đỉnh bĩu môi: 
- Thế không phải là một cớ để bảo Đỉnh no! Cái bánh nhạt phèo ăn vào chỉ tổ đầy bụng chứ báu gì! 
Tôn cười lạt: 
- Đỉnh đã biết thế còn mua làm gì! Vật nhỏ thế mà quý đấy! 
Đỉnh nhún vai, nói mỉa: 
- Phải rồi, nó quý vì nó đáng những 10 cắc chứ gì? 
- Đỉnh không nghĩ sâu xa nên mới nói thế. Này nhé! Cái bánh ấy làm bằng gì, Đỉnh có biết không? 
Đỉnh phá lên cười: 
- Thưa “giáo sư Canh Nông”! Làm bằng bột gạo ạ! 
Giá phải tôi thì tôi tức lắm rồi, nhưng thấy Tôn vẫn cứ điềm nhiên như không mà bảo: 
- Thế làm thế nào để có được bột gạo? 
- Cấy lúa chứ còn gì nữa! Sao hôm nay “Ngài” lẩn thẩn thế? 
- Vậy thế Đỉnh quên cái công phu của người dân quê rồi sao? Trong khi Đỉnh ngồi dưới quạt điện, hưởng gió mát thì họ phải phơi đầu dưới nắng, manh áo rách chẳng đủ che thân, sới từng luống cày trong khu ruộng bùn lầy, ngập đến tận đầu gối. Sáng ra Đỉnh còn nằm trong chăn chưa thèm trở dậy, ngại gió lạnh sương gieo, thì họ đã đứng lên từ trống canh năm. Ai tưới mảnh đất cày bằng mồ hôi, xương máu, để có được cây lúa ta ăn, Đỉnh có biết không? 
Thế đã xong đâu! Còn phải ngày đêm lo bão, lo sâu, lo lụt. Rồi khi lúa chín còn phải gặt về đập, phơi, xay, giã, trăm nghìn tội nữa mới thành thứ bột nấu bánh mà Đỉnh quăng đi mới rồi chứ! 
Anh Đỉnh khẽ thở dài, nắm chặt tay Tôn: 
- Thế ra Đỉnh phí của quá, Tôn nhỉ! Tôn đừng khinh Đỉnh nhé! 
- Sao Đỉnh nói thế? Vì Đỉnh sống trong cảnh phú quý đã quen, nên không nghĩ đến những con người lao động, đã vì mình mà chân lấm tay bùn, vì mình mà hai sương, một nắng… 
Rồi Tôn bỗng rầu rầu nét mặt, nói thêm: 
- Trong khi Đỉnh phí của thế này, Đỉnh có biết đồng bào miền Bắc bây giờ ra sao không? Dưới chính thể hà khắc, các đồng bào ấy không còn đủ áo mặc, cơm ăn, sống quằn quại trong đói rét, bệnh tật… Nơi ấy, hiện nay còn bao nhiêu thân quyến của Tôn, cùng cả hàng triệu người khác, đang ngã gục và sắp sửa ngã gục, hèn mọn chẳng khác gì kiếp con giun, con kiến… Chao ôi! Nói ra mà đau lòng xót ruột! 
Xem chừng anh xúc động quá, không nói được nữa. Nước mắt anh ràn ra. Anh lấy tay áo quệt ngang. Anh Đỉnh xem ra cũng hối hận băn khoăn, cứ cầm tay anh Tôn lay mạnh: 
- Thôi Tôn! Thôi Tôn! Đỉnh biết lỗi rồi! Đỉnh quyết chẳng bao giờ để Tôn phiền lòng nữa. 
- Nếu Đỉnh nghĩ thế thì còn nói gì nữa! 
Anh Tôn chỉ có nói thế, rồi anh hấp tấp quay đi, như tránh không muốn khóc trước mặt bạn. 
Cũng tự đấy, tôi thấy anh Đỉnh không phí của nữa, căn cơ từ giọt mực trở đi. 
52. Thư Viện Của Anh Tác 
Ngày 12 tháng 4 
Nhớ lời mời của anh Tác, tôi xin phép Ba tôi lại thăm “thư viện” của anh. Anh mời tôi đã lâu mà vì bận nên chưa đến được. Nay thấy anh mời lần nữa, có vẻ chí tình, nên tôi cố xin phép đến thăm anh nhân thể. 
Sách của anh chẳng được là bao, nhưng quyển nào cũng giữ gìn như mới. Vì anh ham học, lại nghèo nên đành chịu nhịn quà để thêm tiền mua sách, gom góp được thành một tủ sách nhỏ, mà anh gọi đùa là “thư viện” cho sang. 
Anh cẩn thận trong việc chọn sách lắm. Quyển nào trước khi mua, anh cũng hỏi ý kiến thầy, không xem mà cũng không mua những loại sách trinh thám, võ hiệp, hay tiểu thuyết nhảm nhí bao giờ. 
Thầy anh làm cai thợ nề, không dư dật lắm, nhưng thấy anh có chí, nên mua mấy cái thùng gỗ về đóng cho anh một cái tủ nhỏ, bốn ngăn. Anh mua thêm hộp sơn xanh quét ra ngoài một lượt, trông cũng ra vẻ lắm. 
Quyển nào mua về, anh cũng trân trọng lấy giấy bóng bọc sạch sẽ. Anh chia thành từng loại, mỗi loại xếp vào một ô riêng: loại Toán, loại Việt văn, loại Giải trí, loại nào vào chỗ ấy, rất thứ tự, muốn xem quyển nào tìm đến thấy ngay. 
Mỗi quyển sách anh dán cho một con số vào gáy sách, lúc tìm, đến là dễ. Anh lại còn cẩn thận chép tất cả vào quyển sổ riêng, mua ngày nào, ở đâu, bao nhiêu tiền, có ghi cả. Bên cạnh có chỗ biên tên người mượn, mượn ngày nào, trả ngày nào, nhất nhất ghi chép rõ ràng. 
Luôn luôn anh lau chùi tủ sách, tỉ mỉ khâu từng túi nhỏ, nhét đầy băng-phiến treo vào trong tủ để tránh gián, tránh nhậy. Những hôm nắng ráo, anh mang sách ra phơi và ngồi canh hàng giờ không chán. 
Có thấy anh giở quyển sách mới biết anh quý sách đến bực nào! Anh chùi tay vào quần, rồi trịnh trọng lật từng tờ, say sưa ngắm như người mẹ hiền ngắm đứa con thơ. Có quyển, tôi thấy anh mua đã lâu mà còn mới nguyên, chưa sờn góc. Tôi ngỏ ý phục, thì anh mỉm cười bảo: 
- Nhà Tác nghèo! Đánh rách, lấy gì mà mua! 
Thỉnh thoảng thầy anh đang làm việc, lại ngừng ngắm con. Có lần ông lại gần, vỗ vào đầu con mà bảo: 
- Cái óc bùn tăm tối này đã sáng ra nhiều rồi phải không cậu? 
Thấy tôi có vẻ thích cái tủ sách của anh, ông ngậm ngùi bảo: 
- Chúng tôi con nhà lao động, không có tiền dư thóc mục để lại cho con, thôi đành cố gắng cho em chút chữ nghĩa, làm vốn liếng sau này vậy… 
Tôi đang ấp úng chưa biết nói gì, thì anh trỏ tay vào tủ sách, vỗ vai tôi: 
- Gia tài của Tác đấy! có to không hở Dũng? 
53. Lòng Yêu Nước 
Ngày 26 tháng 4 
Sáng nay, giở sách Công Dân, con học đến bài Tổ Quốc với một giọng thờ ơ, chán nản. Có lẽ vì con chưa hiểu YÊU NƯỚC là thế nào! Yêu nước để làm gì? 
Con ơi! Yêu nước vì cha mẹ, ông bà ta sinh trưởng ở đó; vì dưới lớp đất dày đã chôn vùi bao hình hài của các đấng tổ tiên; vì đường ta đi, nhà ta ở, giọng ta nói, quyển sách ta học; các anh chị em, các đồng bào, bạn hữu đang cùng ta chung sống; cánh đồng xanh, ruộng lúa chín, núi cao, rừng rậm, sông dài ở chung quanh ta; những cái gì ta trông thấy, ta mến yêu, ta cảm phục… đều là xứ sở của ta, là máu thịt của ta. 
Con sẽ cảm thấy yêu nước một ngày kia, khi con lớn lên, phải xa xứ sở. Rồi có những buổi hoàng hôn hiu hắt, hay những buổi chiều tà ủ dột, ở chốn quê người đất khách, ngửa mặt lên trời ngắm cánh mây lưu lạc, con sẽ ngậm ngùi nhớ đến quê hương. 
Thế rồi khi trở về quê cũ, trên con đường dài ngoằn ngoèo, trông thấy cây đa, quán nước, đình làng… chốn xưa, cảnh cũ sẽ lảm cho con phải thổn thức trong lòng mà trào ra nước mắt. 
Con sẽ thấy lòng yêu nước dâng lên, khi ở chốn tha hương, trên bước đường lữ thứ, con vô tình gặp được người đồng bang, đang nói cùng một thứ tiếng với con. Con sẽ đến làm quen với họ, ân cần mời họ về nhà để hỏi thăm tin tức từng người, từng chốn, để được nghe giọng nói quê hương, để được ngắm bộ y phục của xứ sở, tất cả gợi lên cho con những nỗi nhớ nước, thương nhà. 
Con sẽ biết thế nào là lòng yêu nước khi có kẻ ngoại bang nói phạm đến nước Việt thân yêu của con, làm cho con phải đỏ mặt, nghẹn ngào vì tức giận. 
Chính sự căm hờn ấy đã thúc đẩy đám thanh niên học sinh yêu nước, tổ chức cuộc biểu tình vĩ đại vứa qua, đập tan mưu mô xâm lược của bọn thực, cộng. 
Lòng yêu nước ấy đã được hun đúc từ bốn ngàn năm trước, khi hai bà Trưng bắt đầu khởi nghĩa, đuổi quân Đông Hán xâm lăng. Rồi thì liên tiếp trong những năm dòng, từ Lê Lợi dấy binh ở đất Lam Sơn, đến Nguyễn Huệ kéo binh ra Bắc, biết bao thanh niên Việt Nam đã nối nhau đổ máu để giữ gìn đất nước của ông cha. 
Không phải chỉ có thế. Trong suốt thế kỷ qua, để chống lại chế độ giết chóc tù đầy dưới ách thực dân, biết bao nhà cách mạng oanh liệt bỏ mình vì nước, và đã có ngay những mầm non ưutú đứng lên, tiếp tục sự nghiệp đấu tranh. 
Con ơi! Để bảo vệ giang sơn của tổ tiên, người Việt chúng ta đã chiến đấu từ lâu, khi âm thầm, khi quật khởi, và vẫn còn kế tiếp nhau chiến đấu đến cùng, chiến đấu mãi mãi, cho nền tự do của dân tộc. 
Lòng yêu nước sẽ cảm thấy sâu sắc hơn (trong?) các ngày vừa qua, mà khắp nơi làn sóng căm hờn cuồn cuộn dâng lên để phá tan xiềng xích thực dân. 
Con sẽ thấy lòng hồi hộp lúc đứng trước đoàn quân tiễu giặc trở về, mệt nhọc tang thương, nhưng trong khóe mắt lóe ra những tia đắc thắng. Con sẽ cảm thấy xót xa yêu nước khi thấy lá quốc kỳ tả tơi vết đạn, kéo theo sau hàng đoàn người trai anh dũng, đầu ngửng cao còn ghi dấu thương đau, đi hùng mạnh giữa tiếng reo mừng của toàn dân. Con muốn nhẩy xổ ra, bá lấy cổ từng người. Con muốn quỳ xuống chân họ, ngẹn ngào bảo: 
- Các anh là ân nhân cùa dân tộc… Các anh là những người đáng sống… 
Lúc đó, Dũng ơi! Con sẽ hiểu thế nào là lòng yêu nước. Đó là điều hết sức cao quý và thiêng liêng đến nỗi, nếu một ngày kia, để chống lại kẻ thù, con hèn nhát tránh cho con cái chết ở ngoài mặt trận, thì con sẽ đem lại cho cha đây cái chết nhục nhã, tủi hờn. 
54. Trọng Quốc Kỳ 
Ngày 29 tháng 4 
Từ hôm cha tôi nói về lòng yêu nước, lại được thầy giảng bài Công Dân về “Bổn phận đối với Quốc Kỳ”, tôi định bụng thế nào cũng cho anh Vân một bài học. Là vì từ bữa tôi lên xếp hàng bên anh, thường thấy anh nô đùa trong những buổi lễ chào cờ. 
Trước khi thấy các bạn nói, tôi vẫn chưa tin. Nay đứng gần anh, tôi mới nhận rõ những lời phê bình ấy chẳng oan tí nào. Thật thế, lúc thầy đi qua thì anh đứng ngay ngắn, ra dáng nghiêm chỉnh lắm. Nhưng thầy đi khỏi rồi, anh cấu anh nọ, véo anh kia, cười khúc kha, khúc khích. Dịp hay đã đến. Sáng nay lúc tan học, trên đường về, chỉ có anh và tôi, tôi thân mật vỗ vai anh mà bảo: 
- Vân này, nghe Dũng bảo cái này nhé! Chỗ anh em có điều gì không phải, ta có nên sửa chữa cho nhau không? 
Anh sửng sốt quay lại: 
- Có chứ! Thế nào là anh em? Cứ thực mà nói mới phải chứ! 
Được lời anh nói, tôi nghiêm nét mặt, nắm lấy tay anh: 
- Trong những buổi chào cờ, thực tình Dũng không bằng lòng Vân tí nào cả… 
Tôi chưa nói hết câu, Vân đã cướp lời: 
- Chà! Chà! Dũng lại sắp sửa giở bầu đạo đức khuyên Vân đừng nghịch chứ gì? 
- Thế là Vân biết lỗi rồi đấy nhé! Vân đã biết thế sao còn cứ nghịch! Thế Vân có hiểu ý nghĩa lễ chào cờ là thế nào không nhỉ? 
Vân cười nhạt: 
- Vân chỉ biết rằng ngày nào cũng như ngày nào, phơi đầu trần dưới nắng như lũ tượng gỗ thì khổ thân lắm lắm và vân vân… 
Tôi tuy trong bụng tức quám nhưng cũng phải điềm nhiên mà nói: 
- Như vậy là Vân nhầm rồi! Học bài Công Dân chúng ta đều biết Cờ không phải là mảnh vải vô hồn, mà Cờ tượng trưng cho ý chí độc lập, quật cường của cả dân tộc Việt Nam chúng ta. 
Vân rún vai, cau mặt: 
- Sao Vân lại chẳng biết thế! Nhưng cứ treo lên đỉnh cột cao, hàng ngày ra vào trông thấy, can chi phải chào chiếc lôi thôi. Chúng ta không nên máy móc quá… 
Tôi cười gằn: 
- Nếu thế thì Vân lại càng chưa hiểu rõ lắm! Vân ơi! Chào cờ là để tỏ lòng nhớ ơn Tổ Quốc, là để tưởng niệm đến công lao của các bậc tiền nhân; chào cờ là để nhớ bổn phận giữ gìn đất nước, bổn phận làm cho giang sơn ngày ngày rực rỡ, dân tộc ngày ngày hùng cường… 
Từ Lê Lợi, Quốc Tuấn ngày xưa cho đến các chiến sĩ Cộng Hòa ngày nay, và còn biết bao nhiêu anh hùng vô danh khác nữa, đã nhỏ đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ Tự do, tô thắm màu cờ. Bởi vậy, trông thấy cờ cũng như ta trông thấy Tổ Quốc Việt Nam yêu dấu. Cái phút chào cờ thiêng liêng là như thế mà Vân dám coi như một trò chơi giải trí thì thật càn rỡ quá lắm! Giả sử, người ngoại quốc trông vào, họ sẽ khinh bỉ, chê cười dân tộc ta đến thế nào! Giả sử linh hồn Tổ tiên có lảng vảng đâu đây, hẳn cũng phải căm hờn, tủi hổ. 
Dưới chính thể Cộng Hòa ngày nay, dân-tộc ta phải là một dân-tộc hùng mạnh, để người thế giới trông vào, thấy Quốc Kỳ nước Việt là phải đem lòng bái phục… 
Tôi còn đang say sưa đem những lời thầy giảng trong lớp để nhắc lại anh nghe, tôi định nói thêm nhiều nữa, thì anh Vân bỗng đứng lại, nắm chặt tay tôi ngậm ngùi nói: 
- Thôi Dũng! Vân biết là người có tội rồi. Vân hối hận quá! Dũng thật là bạn tốt của Vân. Dũng ơi! Hẳn các bạn chê cười Vân lắm đấy nhỉ? 
Tôi vội vàng ngọt ngào, an ủi anh: 
- Đừng buồn Vân ạ! Biết hối lỗi như Vân thì còn ai dám trách nữa. Mong rằng, sau này lớn lên, Vân và Dũng sẽ cùng chiến đấu dưới một lá cờ, trong hàng ngũ chống địch… 
Vân hớn hở bảo tôi: 
- Vân mong thế lắm! Chúng ta sẽ chiến đấu đến cùng để làm sáng tỏ chính nghĩa Quốc Gia, Dũng nhé! Và từ nay, Vân xin hết sức nghiêm chỉnh trong những buổi lễ chào cờ, và cũng nhờ Dũng xin lỗi các bạn hộ. 
Nói đến đây đã đến con đường rẽ. Chúng tôi chia tay, mỗi người một ngả. Tôi thủng thỉnh bước một về nhà. Trước mặt tôi, trên nóc dinh Độc Lập, lá Quốc Kỳ đang tung bay trước gió, rực rỡ trong muôn ánh hào quang. 
Lòng tôi bỗng hồi hộp như chưa từng thấy bao giờ… 
55. Đại Lượng 
Ngày 14 tháng 4 
Chiều nay, đang hí hoáy chép bài thì anh Tý chạm ngay phải tay tôi, làm hỏng cả chữ. Thế có giận không chứ! Thôi văng tục ngay với anh. Anh cười bảo tôi: 
- Tớ nhỡ tí mà! Nóng thế! Thôi để tớ tẩy đền! 
Tôi biết anh ấy không chí bụng, nhưng trông cái cười ấy mà phát ghét. Tôi thầm nghĩ: 
- Chà! Tháng này hắn cậy ngồi trên mình nên làm bộ đây! Được rồi! Đến giờ viết tập, thừa lúc anh đang viết, tôi huých cho anh một cái khuỷu tay: một giọt mực rơi xuống đen ngòm. Anh giận đỏ mặt lên: 
- À! Cậu sỏ tôi phải không? 
Rồi anh giơ tay lên. Nhưng thầy đã trông thấy cả. Thầy gọi tôi lên. Nhưng tôi không nhận lỗi, mặt sưng, mày xỉa rồi vùng vằng về chỗ. Anh Tý khẽ bảo tôi: 
- Được, chốc nữa ra cổng trường… 
Tôi cau mặt lại, ra bộ bất cần, nhưng thực ra tôi đang hối hận. Anh Tý vẫn là bạn thân của tôi, cuộc chơi nào chẳng có nhau? Còn nhớ hôm nào tôi lại nhà, thấy anh vừa học bài vừa trông nom mẹ ốm, làm tôi mến anh, phục anh là đằng khác! Hôm anh đến tôi, chúng tôi chơi vui vẻ lắm; cả Ba tôi cũng tỏ vẻ quý anh. Anh em chơi với nhau thân thiết, nào có điều tiếng gì đâu! Thế mà trong cơn nóng giận không đâu, đâm ra càn rỡ. Tôi nhớ lại câu cha tôi thường dặn: 
- Nếu con có lỗi, thì con cứ thẳng thắn xin lỗi! 
Xin lỗi anh Tý! Tôi muốn lắm! Nhưng nếu thế thì chịu lép quá nhỉ? Đời nào! Tôi lấm lét nhìn anh Tý! Chỉ thấy anh ngồi cắm cúi viết, cái lưng nhô lên, cái lưng hàng ngày ghé xuống vác củi cho cha. Lòng tôi se lại. Tôi tự nhủ: 
- Sau giờ này, ta xin lỗi cũng được! 
Nhưng sau giờ ấy, tôi vẫn không giám hé môi. Chỉ thấy thỉnh thoảng anh Tý đưa mắt liếc tôi, coi bộ buồn rầu hơn là oán giận. Còn tôi, tôi cũng trừng trừng nhìn lại, làm ra vẻ đây không hãi. Anh lại nhắc: 
- Chốc nữa ra cổng đấy! 
Tôi chợt nhớ đến lời Ba tôi dậy: “Nếu ai đánh con, phải tự vệ, nhưng chớ đánh lại!” 
Rồi tôi tự bảo: “Phải, ta sẽ chống cự, ta không đánh lại thì thôi chứ gì!” Lòng tôi rạo rực bối rối. Ngồi trên ghế mà như có kim châm. Tôi bực bội trong người, tai ù lên chẳng nghe thấy gì cả. 
Thế rồi chuông tan học nổi lên, chúng tôi xếp hàng về. Đến đầu phố, tôi liếc mắt lại: anh Tý đang theo tôi… 
Anh đã gần tới… Tôi rút thước ra đứng thủ thế. Anh tiến lại. Tôi giơ thước lên. Anh mỉm cười, lắc đầu nói: Ồ! Cùng bọn cả mà!... 
Tôi còn đang sửng sốt, thì anh đã nắm lấy tay tôi: 
- Thôi hòa cả làng, Dũng nhé! 
Lúc về nhà, tôi đem chuyện thuật lại với cha tôi, tưởng cha tôi vui lòng, nào ngờ người nghiêm nét mặt mà bảo: 
- Con có lỗi, con phải xin lỗi bạn trước mới phải chứ! Chỉ những kẻ hèn nhát mới dám giơ thước lên đánh người bạn hơn mình! 
Rồi giật lấy thước ở tay tôi, cha tôi bẻ ra làm đôi, vứt mạnh xuống đất. 
56. Hối Hận 
Ngày 16 tháng 4 
Giờ mới biết là tôi đã điên cuồng, dại dột. Câu chuyện vừa qua ở trường vẫn quay cuồng trong óc tôi, làm tôi bận chí. Đành rằng tôi đã xin lỗi anh Tý rồi, và chúng tôi đã hết giận nhau rồi, nhưng còn thầy nữa, không biết thầy có tha tội cho tôi không? 
Tội tôi đối với thầy nặng biết bao nhiêu! 
Bữa cơm chiều, tôi thấy đói mà ăn không ngon miệng. Tôi cáo ốm, lên gác nằm sõng sượt trên giường. Lương tâm tôi cắn rứt tôi, hành hạ tôi. Tôi muốn quên đi, không nghĩ tới, nhưng càng quên lại cứ càng nhớ đến. 
Đêm xuống đã lâu mà tôi vẫn còn thao thức. Ừ mà sao tôi lại có thái độ hỗn hào thế nhỉ? Anh Tý chót lỡ chạm tay tôi, anh đã biết lỗi xin tẩy đền rồi! Thì anh ấy lỡ chứ có chí bụng đâu! Giá như người ta, thì dù có bực mình đến thế nào chăng nữa, cũng cứ cười như không mới phải! Đàng này tôi cố tình trả thù anh cho bõ ghét, định làm anh phải thiệt hại mới nghe. Đến lúc thầy gọi lên hỏi, tôi còn mặt sưng, mày xỉa, vùng vằng về chỗ. Thầy không nói gì, chỉ nhìn tôi khẽ thở dài. 
Thầy ơi! Con biết thầy buồn vì con lắm! Xưa kia thầy vẫn thương con, vẫn quý con, vì thấy con ngoan ngoãn, chăm chỉ, nên cả những khi mệt mỏi, thầy vẫn ân cần nhẫn nại giảng dậy cho con. 
Thế mà, sáng nay con đã hỗn xược với thầy! Cái ơn dậy dỗ, con chưa báo được chút nào, thì con đã trả nghĩa thầy như thế đấy. Giờ đây, hối hận đang dầy vò lòng con. Một thứ hình phạt đang ngấm ngầm hành hạ, làm cho con băn khoăn khổ sở, đứng ngồi không yên. 
Cứ thế, tôi hết tự trách tôi, lại tự mắng tôi. Tôi muốn chạy đến nhà thầy, đập cửa xin vào mà tạ tội. Nhưng tôi không đủ can đảm. Tôi đành cúi đầu ngồi bên quyển sách mở trên bàn như một tội nhân. 
Trước mặt tôi, còn trông rõ cặp mắt não nùng của thầy nhìn tôi mà không nói. Tai tôi còn nghe tiếng thở dài não nuột, phát ra tự tấm lòng thương rộng như bể cả của thầy. 
Tôi biết làm thế nào bây giờ? Thôi chỉ còn có cách là hết sức ngoan ngoãn cho thầy vui lòng, sẽ hết sức chăm chỉ cho thầy hả dạ. 
Chỉ có cách ấy, may ra tôi mới đáp đền được tội lỗi trong muôn một mà thôi. 
57. Kẻ Có Lòng 
Ngày 23 tháng 4 
Buổi chiều hôm nay tôi hơi bực mình vì thấy anh Tôn cứ lầm lầm lỳ lỳ, hỏi chẳng buồn nói, gọi chẳng buồn thưa. Sau hỏi ra mới biết là em anh ấy mấy ngày nay bị bệnh đậu, nhiều lúc mê man bất tỉnh. Anh thương em lắm, đã tính xin nghỉ học nhiều lần để trông em đỡ mẹ. Nhưng cha anh gạt đi, sợ gần kỳ thi nghỉ học, mất bài. 
Lúc gần về, bỗng thấy thầy bảo: 
- Buổi trưa người nhà anh Cảnh có đến xin phép cho anh nghỉ thêm vài bữa. Anh còn mệt lắm các con ạ! Anh nào rỗi, hãy đến thăm anh một chút, và nhớ nói hộ thầy chúc anh chóng khỏi. 
Ra đến cổng trưởng, tôi thấy anh Tôn lưỡng lự một lát, rồi quay lại bào tôi: 
- Thế nào? Các anh nghĩ sao? Ta đi thăm anh Cảnh chứ? 
Anh Sinh bàn: 
- Anh không nói ra, chúng tôi cũng đã nhất định đi rồi. Còn anh nên về nhà thăm em… Đã có chúng tôi thay mặt… 
Anh cứ khăng khăng một mực: 
- Chúng ta đã biết anh mệt nặng mà không đi thăm anh thì sao cho đành lòng! Vả lại tôi đến qua một lát, rồi về ngay cũng được. 
Chợt thấy anh Pha le te chạy đến: 
- Các anh đi thăm Tư-Húi đấy ư? Cho tôi đi mấy nhé! 
Chúng tôi chưa kịp trả lời, đã thấy anh sịu mặt ra. Nhưng anh Tôn đã vui vẻ nói: 
- Có chứ, chúng tôi cũng đang định đi tìm anh, để mời anh nhập bọn đấy mà! 
Thấy được đi với chúng tôi, mặt anh tươi hẳn lên. Khốn nạn, từ ngày anh bị đuổi, anh chỉ lo chúng tôi «tẩy chay». Nhưng thực ra, thấy tính nết anh đổi khác nhiều, ngoan ngoãn, chăm chỉ, chúng tôi ai cũng có bụng mến. Ngay đến thầy cũng vẫn thường đem anh ra để răn chúng tôi. 
Thế là bốn đứa chúng tôi cùng đi. Lúc đi đường xem ra anh Tôn vẫn còn rầu rĩ, không vui, ít cười, ít nói. Khốn nạn, lo cho em mà anh sút hẳn đi. 
Được một quãng, anh Sinh bảo: 
- Này! Anh ấy mệt, chả lẽ chúng ta đến chơi suông! Hay chúng ta chung nhau mua cái gì đi!... 
Chúng tôi vui vẻ đồng ý ngay. Anh Pha có năm đồng, định mua cái ngòi bút máy, anh bỏ cả ra. Thế rồi chúng tôi dốc túi, góp nhau vào được 12 đồng. Anh Tôn mặc cả mua được bốn quả cam. Anh Pha tranh lấy cầm, rồi gói vào mùi xoa xách lon ton đi trước; chúng tôi nhìn anh, bấm nhau cười. 
Đến cửa nhà anh Tư Húi, anh Sinh tháo «huy chương Học Giỏi» mà bỏ túi. Tôi hỏi, thì anh thủng thẳng đáp: 
- Vào thăm anh ấy, ta không đeo cái này thì hơn. 
Thầy anh Tư Húi ra mở cửa cho chúng tôi, nét mặt đầy vẻ lo âu: 
- Các anh hỏi gì đấy? 
Anh Tôn lễ phép ngả mũ nói: 
- Thưa ông, chúng cháu là bạn anh Cảnh. Thấy nói anh mệt, thầy giáo cho lại thăm anh. 
Thầy anh lắc đầu, chán nản: 
- Vào đây các anh! Thầy giáo thương em lắm, nhưng không biết em có sống để được học thầy nữa không? Em còn mệt lắm các anh ạ! 
Ông vừa nói, vừa rơm rớm nước mắt. Chúng tôi buồn rầu theo ông vào trong nhà. Anh Tư Húi đang nằm thiêm thiếp trên giường, mặt trắng nhột. Má anh ủ rũ ngồi bên cạnh. 
Anh nằm đờ, hai mắt nhắm nghiền, trông chẳng khác gì cái xác chết. Khốn nạn thân anh! Vừa mới hôm nào vui vẻ đánh cờ "ca rô“ với chúng tôi, đã thua lại còn làm "mắt lác“ để pha trò, thế mà hôm nay đã đau ốm nằm kia! 
Chúng tôi đứng sững nhìn anh, ngực như có gì đè nặng. Anh Tôn mở gói cam, sẽ đặt bên gối. Thấy động, anh Tư Húi lờ dờ mở mắt ra, cầm lấy quả cam, nhưng không nhắc nổi, quả cam lăn xuống chân giường. Mắt anh cứ mở trừng trừng nhìn thẳng. 
Anh Tôn cúi xuống cầm tay anh, hỏi sẽ: 
- Tôn đây mà! Cả Dũng, Sinh, Pha nữa… Cảnh có nhận được anh em tôi không? 
Cảnh không nói gì, chỉ khẽ nhếch mép, rồi nhắm nghiền ngay mắt lại: 
- Cảnh ơi! Chịu khó uống thuốc Cảnh nhé! Thầy giáo hỏi thăm đấy! Cảnh không nói gì, thoi thóp thở xem chừng mệt nhọc lắm. Má anh khóc lên rưng rức: 
- Con ơi! Con cứ ở với mẹ nhé, đừng bỏ mẹ, con ơi! 
Ông phó cạo sồng sộc chạy vào: 
- Má nó có im ngay không nào? Đã nẫu cả ruột cả gan, lại còn gở mồm, gở miệng… 
Rồi ông quay lại bảo chúng tôi: 
- Các anh có lòng với em như thế, là quý hóa lắm. Thôi các anh về. Hôm nào em khỏi, em sẽ đến cảm ơn thầy giáo với các anh. 
Chúng tôi buồn rầu chào hai ông bà, rồi rón rén đi ra. Được mươi bước, thấy có tiếng gọi đằng sau: 
- Tôn, anh Tôn! 
Không hiểu chuyện gì, chúng tôi hốt hoảng quay cả lại. Ông phó, vẻ mặt hớn hở: 
- Em vừa gọi đến tên anh Tôn xong. Hai hôm nay, em mê man chẳng biết gì. Giờ em mới tỉnh, bác mừng quá… 
Anh Tôn nhìn chúng tôi: 
- Thôi thế các anh về trước vậy! Để Tôn ở lại đây với anh Cảnh. Sinh nhớ tạt qua nhà, xin phép hộ Tôn mấy nhé! 
Rồi anh thì thầm như nói một mình: "Còn em mình nữa, không biết đã đỡ chưa đây?“ Trên đường về, còn tôi với anh Sinh. Thấy mắt anh long lanh ướt lệ, tôi an ủi anh: 
- Anh Cảnh sắp khỏi rồi mà… Đừng buồn nữa Sinh! 
- Anh Cảnh thì thế nào cũng khỏi rồi… Nhưng tôi nghĩ đến anh Tôn. Đó mới thật là một kẻ có lòng phải không hở Dũng? 
58. Một Đời Tận Tụy 
Ngày 3 tháng 5 
Bữa cơm trưa vừa xong, Ba tôi đang đọc báo, bỗng reo lên: 
- Này! Cụ giáo Tám hãy còn sống đây này! Báo đăng cụ được thưởng Học Chính Bội Tinh đây này… 
Mẹ tôi đang ngồi khâu ngửng lên: 
- Vậy ư! Có lẽ năm nay cụ nhiều tuổi lắm rồi nhỉ! Cụ được thưởng xứng đáng quá! Thật là một nhà đạo đức, suốt đời tận tụy với chức nghiệp. Thế giờ cụ ở đâu? 
Cha tôi nhìn vào tờ báo để kiếm địa chỉ của cụ: 
- Cụ về hưu ở làng Phúc Hải. Có lẽ đó là quê cụ… Mai nhớ đánh thức cha con tôi dậy sớm. Nhân ngày chủ nhật, ta đi thăm cụ, và mừng cụ nhân thể… Thầy giáo cũ của Ba đấy, Dũng ạ! Mai Ba cho con cùng đi. Rồi suốt buổi hôm ấy, cha tôi luôn nhắc tới cụ. 
Chín giờ sáng hôm sau, chúng tôi đã tới quê cụ. Trên xe lửa, cha tôi nói: 
- Đã gần 30 năm nay, ba chưa gặp lại thầy cũ. Đó là thầy giáo đầu tiên của Ba ở lớp Năm, trường Hàng Than. Trước kia cụ yêu Ba lắm, mà Ba quý cụ cũng chẳng khác gì bố đẻ. Ba còn nhớ những lời cụ khuyên, cả những lời cụ mắng nữa, cùng là những thói quen, tính nết, dáng điệu của cụ. 
Ba còn nhớ có lần chí chóe đánh nhau với bạn ở trong lớp. Lúc gần về, cụ sai Ba cầm giấy lên gác cho ông nội con hồi đó dạy lớp Nhì ở trên gác Ba hý hửng cầm giấy lên, thì ra đó là một bản cáo trạng với những chữ: «THỌ vừa đánh nhau với bạn. Tôi đã véo tai hai cái rồi» 
Ba tôi tủm tỉm cười một mình trước kỷ niệm đã qua, rồi bùi ngùi nói tiếp:
 - Ba chưa từng thấy ai yêu nghề như cụ, đến nỗi suốt một niên học, dù đau ốm, bận việc thế nào, cũng không nghỉ một ngày. Thật là một nhà mô phạm đã đào tạo biết bao hoc sinh nên người, đáng để cho chúng ta tôn thờ, kính mến. 
Chúng tôi không phải hỏi thăm nhiều. Nhà cụ cũng dễ tìm, ở ngay phía sau đình. Qua một cái ngõ gạch quanh co thì đến nhà. Một ông cụ râu tóc bạc phơ, chống gậy trúc đứng tựa cổng, nhìn xuống ao bèo. 
Cha tôi khẽ reo lên: 
- A! cụ kia rồi! 
Thế là cha tôi ngả mũ cầm tay, săm săm tiến đến, ôm chầm lấy cụ: 
- Lạy thầy ạ! Thầy còn nhớ con không? 
Cụ giáo ngạc nhiên, trố mắt nhìn: 
- Tôi không giám, chào ngài. 
Cha tôi nắm lấy tay cụ, nghẹn ngào: 
- Thầy không nhận ra con ư? Con là Thọ đây mà! Học trò cũ của thầy ở trường Hàng Than đây mà! 
- Thế à!... quý hóa quá… thế mà tôi quên mất đấy!... Chết chưa, mời ngài… mời ông quá bộ vào chơi. Các ông không chê thầy nghèo, quá bộ đến thăm thế này, thật là quý hóa quá! 
Nhà cụ là một ngôi nhà ngói nhỏ, ba gian, hai chái, có ao trước, vườn sau, mát mẻ, yên tĩnh. Chúng tôi theo cụ vào gian giữa; đồ đạc sơ sài, nhưng ngăn nắp sạch sẽ, tỏ ra cụ sống một cuộc đời đạm bạc. 
Thấy khách lạ, một đứa cháu nhỏ đứng lên đi đun nước. 
Cụ giáo bỗng vỗ vai Ba tôi cười: 
- Tôi nhớ ra rồi! ông là con trai cụ giáo Phú phải không? Lâu quá nhỉ!... Cụ giáo nhà, bây giờ ở đâu?... Cụ có mạnh không? 
Rồi cụ lẩm nhẩm tính: 
- 1927 đến giờ… Ngót 30 năm rồi còn gì! Thế nào? Anh trông thầy có già nhiều không? Tính ra vừa 30 năm dạy học. Từ ngày được về hưu, thầy về nghỉ quê nhà, theo tiền nhân: 
Một mai, một cuốc, một cần câu 
Tiêu dao tháng ngày, hà, hà… chờ ngày xuống lỗ, anh ạ! 
Nước đã mang lên, Ba tôi rót vào ấm xong hỏi thăm sức khỏe cùng gia sự của cụ. Cụ vừa thông điếu, vừa nói: 
- Hiện giờ tôi ở đây có một mình, với vài đứa cháu ngoại nhỏ. Hai anh lớn thì hiện giờ ở trong quân đội cả, lâu lâu mới về thăm nhà. Con gái thì đi lấy chồng xa. Tôi giữ lại thằng cháu để làm vui cảnh già. Sinh sống đã có vài ba mẫu ruộng, mấy luống rau vườn với số lương hưu, thanh bạch lắm, anh ạ! Được cái một đời chưa từng làm gì trái lý, về già lương tâm yên ổn, thôi thế cũng đủ… Quãng đời đã đi gần hết, ngảnh mặt nhìn lại, được cái không có điều gì đáng tiếc… 
Sau một tuần nước, cụ tiếp: 
- Tôi còn nhớ hồi nhỏ, anh nói ngọng líu, ngọng lìu. Dạy cho anh nói được L với N thật là khó nhọc. Anh ngồi đầu bàn, ngay bên cửa sổ, mắt lúc nào cũng nhìn ra ngoài, ngắm hoa tơi, bướm lượn, phải phạt đến chết mà vẫn không chừa… 
Cụ thở dài nói tiếp: 
- Chốc đã 28, 29 năm trời! Chóng thật! Tôi về đây đã được hơn sáu năm rồi. Thỉnh thoảng cũng được vài các anh nhớ đến thầy cũ đến thăm. Anh nào cũng làm nên cả, thật đáng mừng. Thế giờ anh làm gì rồi? 
Cha tôi nói làm nghề dạy học, rồi hai tay cầm bọc sách đưa ra biếu cụ. Cụ đón lấy, giở từng quyển ra xem, rồi vuốt râu cười: 
- Hay lắm! Hay lắm! anh chọn nghề đó thật là hay. Tôi lấy làm mừng thấy anh theo nghề của ông cha, rồi lại có công viết những loại sách giáo khoa này! 
Cụ rung đùi, rót nước ra chén: 
- Cái nghề dạy học, tưởng là tầm thường, mà thật cao quý lắm anh ạ! Chỉ những kẻ bất nhân mới dám mở mồm khinh nghề dạy học. Thế mà hơn cả luật sư, bác sĩ đấy!... Song anh phải giữ gìn sức khỏe lắm mới được, vì cái nghề “bán phổi” ấy tiêu mòn sức khỏe của ta một cách tai hại. Trông anh cũng yếu lắm đấy, không được như người ta đâu. 
Cha tôi tuy vâng dạ, nhưng hiểu rằng cụ khuyên như thế, mà chính cụ, cụ đã hy sinh đến quên cả thân mình. 
Một lát, cụ đưa Ba tôi ra ngồi trước hè, dưới giàn thiên lý: 
- Anh ạ, hôm nhận được giấy báo về hưu mà tôi lặng người đi, tưởng như đời mình đã tắt, chẳng khác cảnh trời chiều đang xuống, chờ bóng đêm trùm lấy mang đi. Nếu bây giờ tôi trẻ lại, ai hỏi tôi muốn làm gì? Tôi xin mạnh bạo trả lời: MUỐN NGHỀ DẠY HỌC. Giờ tôi chỉ còn mấy chồng sách cũ làm vui; vài quyển vở học sinh, dăm tập HỌC BÁO, tất cả đều cất kỹ trong tủ kia, thỉnh thoảng lấy ra xem, nhớ lại những ngày vui bên đàn trò nhỏ. Cũng có anh chăm chỉ, nết na, cũng có anh nghịch ngợm, hỗn hào, nhưng anh nào thầy cũng thương, cũng nhớ. Cụ bước vào trong nhà lục lọi một lúc, đưa cho cha tôi một quyển vở cũ, bìa đã phai màu: 
- Anh có biết quyển vở này của ai không? 
Cha tôi đỡ lấy, giở ra xem, rồi nước mắt cứ ràn ra: 
- Này Dũng! Đây là tập vở cũ của Ba hồi học lớp cụ. Đây là dòng chữ đỏ của cụ phê. Đây là bài tính khó bị “zô”, vì tội đi “cóp”. Nhìn đến nó, Ba lại chạnh lòng nhớ đến mẹ già, đêm đêm dạy Ba làm tính, nhẫn nại giảng đi, giảng lại cho Ba thế nào là tiền lỗ, thế nào là tiền lãi, mà Ba quên vẫn hoàn quên… 
Cụ giáo rót thêm nước vào ấm, bảo cha tôi: 
- Cứ giở chồng sách cũ là bao nhiêu kỷ niệm xưa, bao nhiêu hình ảnh cũ lại hiện ra. Lớp này qua, lớp khác đến, hàng nghìn, hàng vạn học-sinh kế tiếp nhau ngồi trên một chiếc ghế, học cùng một bài, trong cùng một căn buồng, qua năm này sang năm khác… Ôi chao! Cả một đời lăn lộn trong nghề, chỉ còn lại bấy nhiêu! 
Cha tôi đứng lên, nghẹn ngào nắm lấy tay thầy cũ: 
- Thưa thầy không… Cuộc đời thầy tuy thanh bạch, nhưng nói lên nhiều những sự hy sinh. Sự nghiệp thầy tuy âm thầm, nhưng vẫn còn sống mãi trong lòng chúng con. Cũng chỉ vì thế mà sau 30 năm trời xa cách, hôm nay chúng con mới lặn lội tìm tới thăm thầy với cả một tấm lòng biết ơn tha thiết, và để thưa với thầy rằng: “Chính nhờ ơn thầy, chúng con mới được có ngày nay” 
Cụ giáo nghe nói, cúi mặt xuống; nhưng sau đôi kính trắng, tôi trông rõ hai giọt nước mắt long lanh. Khuôn mặt khô héo già nua, như tươi lại sau trận mưa xuân. 
59. Qua Trận Ốm 
Ngày 15 tháng 5 
Thế ra tôi ốm đã 10 ngày rồi! Luôn trong mười ngày, tôi mê man bất tỉnh, chẳng còn biết trời đất là gì. 
Tôi mang máng như có nghe thấy tiếng mẹ tôi nức nở nhiều lấn, và trông thấy nét mặt sầu thảm của cha tôi. Tôi nghiệp mẹ tôi! Thấy tôi ốm đau thế này, hẳn đau lòng xót ruột lắm đây! 
Hình như tôi thấy cả cô giáo cũ đứng bên tôi thì phải. Quyết chẳng phải là giấc mộng! Rõ ràng cô cầm tay tôi, còn tay đưa mùi-xoa lên miệng, cố nén cơn ho. Cả thầy giáo tôi nữa, mà tiếng nói ồ ồ làm tôi giật mình, mở mắt… 
Còn ai đến thăm tôi nữa nhỉ?... À, còn nhiều… Anh Sỹ, cái đầu húi trọc này; anh Tư Húi, cái mũi tẹt dí này!... Anh Tôn mang cho quả quýt còn cả lá này… Tất cả những hình ảnh thân yêu ấy hiện ra trước mắt, hỗn độn như ẩn, như hiện trong đám sương mù. Thì ra tôi vừa thoát chết, và trận ốm ấy đã làm bao nhiêu người rầu rĩ vì tôi. Giờ tôi đã thoát hiểm, đem lại nụ cười cho cha mẹ, giọng hát véo von cho em. 
Thì ra tôi đã đi bên tử thần mà không biết, chỉ còn nhớ đã trải qua giấc mộng kinh hoàng. Tôi đã bình phục dần dần. 
Hôm anh Tư Húi đến thăm tôi, người tôi hãy còn mệt, mà trông thấy anh làm mắt lác, cũng phải bật cười. Từ hôm anh ốm khỏi, chưa lại sức, cái mặt dài ngoẵng, đôi mắt trố ra, lác sệch sang một bên, trông lại càng thêm ngộ. 
Cả anh Phi cũng đến, mang tặng tôi một cái gọt bút chì kiểu tàu bay, trông cũng hay hay. Hôm qua anh Pha đến thì tôi đang ngủ, anh dón dén ngồi xuống bên tôi mà ngắm. Mẹ tôi bảo anh cứ ngồi nguyên thế, lâu lắm mới về. Tôi cứ phàn nàn mãi. Chẳng ai đánh thức tôi dậy chơi với anh. Ấy, từ ngày anh đổi tính, đổi nết, thì chúng tôi đâm ra thân nhau. 
Tôi lấy làm lạ không thấy anh Tý đến chơi. Tôi hỏi em Huyền, thì em mới nhớ ra bữa trước anh Tý ở trường có đưa cho em cái thư, bảo đem về cho tôi, nhưng em quên mất, còn bỏ hộp. 
Tôi sung sướng mở thư của anh ra đọc: 
Dũng thân mến, 
Trước hết phải xin lỗi Dũng đã, xin lỗi rất nhiều. Mấy hôm trước Dũng nghỉ, cứ vô tình tưởng thời tiết thay đổi, mệt nhọc qua loa, mấy hôm khỏi, lại đi học cho vui. 
Nào ngờ Dũng vắng mặt họm nay đã gần một tuần, có sốt ruột không chứ! Tý luôn luôn hỏi thăm, còn thầy cũng luôn luôn nhắc đến. Thế mà Tý không đến được, là vì Dũng ơi! Mẹ Tý hiện đang đau nặng chưa biết sống chết thế nào! 
Thôi Dũng ơi! Cố uống thuốc cho chóng khỏi nhé! Đừng sốt ruột về kỳ thi nhé! Tý sẽ chép đỡ bài cho Dũng, và nếu cần, sẽ nhắc lại Dũng nghe những lời thầy giảng. Vả lại, với sự chăm chỉ, với sức học của Dũng, không lo thua anh kém em đâu! Cứ chịu khó thuốc thang, tĩnh dưỡng cho mau khỏe, kẻo Ba, Mợ Dũng buồn, và riêng Tý đây cũng chẳng vui nào. 
Từ ngày Dũng nghĩ, trong lớp chẳng có chuyện gì lạ. Bài thi Toán mới rồi, anh Sinh được nhất, và bét vẫn anh Long. Vừa lười, vừa dốt như anh ấy, thì bao giờ chẳng đội sổ! Cũng vì Dũng nghỉ mà đội ta tháng này kém đội Quốc Toản mất. Dũng cố chóng khỏi mà đi học, kẻo thiệt lây cho toàn đội. Mong lắm đấy! 
Thôi xin phép Dũng ngừng bút. Mẹ Tý đã đến giờ uống thuốc. Còn Tý đã bắt đầu phải nghỉ nhà từ hôm qua rồi. Mẹ Tý có mệnh hệ nào, thì Tý cũng chết mất thôi, Dũng ạ! 
Thôi Dũng nằm nghỉ. Chúc Dũng chóng khỏi. Tý muốn viết thêm, mà không sao cầm nổi bút nữa… 
Thân ái chào Dũng 
Đọc xong thư anh mà tôi buồn quá! Thì ra ai cũng nghĩ đến tôi. Cả anh Tý, mẹ ốm như thế, việc bận như thế, mà cũng cố viết cho tôi bức thư nồng nàn thế ấy! 
Tôi thẫn thờ nhìn qua cửa sổ. Nghe tiếng guốc rộn ràng trên hè phố, tôi muốn chạy ù ra cửa để nhìn các bạn tung tăng cắp sách đến trường… Tôi thèm đi học quá… thèm gặp bạn… thèm gặp thầy… Hẳn ai cũng mừng rỡ tôi đã mạnh. 
Nhưng thôi, chỉ vài hôm nữa là tôi đi học được rồi. Mẹ tôi bảo thế. Nhưng thời khắc mới chậm chạp làm sao! Tôi nóng lòng trở lại trường, muốn nghe bạn thuật lại những chuyện vừa qua, muốn ngồi trong lớp, giữa thầy, giữa bạn thân yêu… 
Nhìn mẹ tôi ngồi đan bên cửa sổ, đôi mắt quầng thâm, sau những đêm không ngủ, lòng tôi quặn đau. Cha tôi hẳn cũng trải qua những phút lo sợ hãi hùng vì tôi. Lại còn các bạn, ai cũng đến thăm tôi với một lòng thương xót… 
Tưởng tượng đến một kia, anh em phải xa nhau, thì chịu sao nổi? Tôi sẽ theo học đến cùng với anh Sinh, anh Bích,… Nhưng còn anh Tôn, anh Tý, anh Sỹ… chắc chắn phải thôi vì cảnh nhà eo hẹp. 
Thế là chúng tôi sẽ chia tay để biệt nhau mãi mãi. Giá có ốm đau, chắc cũng chẳng bạn nào biết đến mà thăm! 
Các bạn ơi! Biệt ly chưa đến, sao lòng tôi đã nhiều chua xót thế này? 
60. Tình Bạn 
Ngày 17 tháng 5 
Nói làm cho vội hai chữ “BIỆT LY” hả con? Hết hè, con lên trường Trung Học. Các bạn con, vì hoàn cảnh, đành phải phá ngang, rồi tùy theo năng lực mà chọn một nghề, hoặc đi kiếm việc. 
Còn học hành ở tỉnh này, con còn nhiều phen gặp bạn, chứ đâu đã phải biệt nhau mãi mãi! Mà xa cách hay không, cũng là tùy ở như con. 
Muốn gần các bạn thì có khó gì? Những khi đi học, con sẽ có dịp tạt thăm các bạn con ở các tiệm buôn, hay trong xưởng thợ, nơi mà các bạn đồng học nay đã ra đời làm việc kiếm kế sinhnhai. 
Con hãy dừng chân lại vài ba phút, chuyện trò thăm hỏi các bạn. Con có dịp quan sát đời là thế nào, có dịp học hỏi cuộc sống bên ngoài xã hội, và vô số điều bổ ích khác nữa, mà con chưa từng, hay không thể biết, ở dưới mái gia đình hay trong lớp học. 
Nếu con không có tình thân ái với chúng bạn lúc còn trên ghế nhà trường, thì sau này ra đời, con khó tìm được những bạn tâm giao. Con sẽ sống khô khan, không tình cảm, và tuy đứng giữa lòng đời tấp nập mà vẫn thấy mình trơ trọi, lẻ loi. 
Hãy thân thiết chơi bời với các bạn con nhất là đối với những bạn con nhà lao động để sau này đi lại chơi bời, giúp đỡ lẫn nhau như người trong thân quyến. 
Trong xã hội, những người thuộc giai cấp thượng lưu, chẳng khác gì những sĩ quan, mà thợ thuyền thì là binh sĩ. Người lính cũng cao quý, chẳng kém gì vị sĩ quan, vì giá trị con người là ở trong công việc, chứ không phải ở đồng lương; ở trong phẩm cách chứ không phải là ở cấp bậc. 
Mà giai cấp cần lao kia mới đáng được ta tôn sùng, là bởi đã hàng bao thế kỷ nay, cái lâu đài văn hóa sở dĩ được đồ sộ như ta có ngày nay là bởi đã có hàng triệu bàn tay gân guốc từng mất bao nhiêu mồ hôi xương máu để xây nền, đắp móng. 
Cho nên con ơi! Con phải hết lòng yêu mến và kính trọng các bạn con nhà lao động hơn cả, để tỏ lòng biết ơn những nỗi vất vả hy sinh của cha mẹ họ. 
Hãy yêu anh Tôn, anh Tý, anh Sỹ… vì ở trong những con người thợ thuyền ấy, có chứa đựng những tấm lòng vàng vô giá. 
Vậy hãy thề rằng, dù sau này có may mắn được giàu sang, phú quý đến thế nào, thì tâm tình bằng hữu của tuổi ấu thơ cũng không hề phai lạt. 
Và rồi đây, ba bốn mươi năm về sau, trên đường đời rong ruổi, nếu vô tình gặp anh Tôn trong bộ áo xanh thợ máy lấm dầu, Ba mong rằng con sẽ sung sướng, thổn thức ôm chầm lấy bạn, dù khi ấy con có là một đại phú thương hay một nhân vật quan trọng trong chính quyền. 
61. Người Con Mất Mẹ 
Ngày 23 tháng 5 
Hôm nay, tôi đã bình phục hẳn. Tôi hớn hở cắp sách đến trường, vui sướng được gặp thầy, gặp bạn, thì lại được tin má anh Tý mất. Vắng anh, tôi ngơ ngẩn cả người, mà anh buồn, thì tôi vui sao được? 
Lúc vào lớp, thầy rầu rầu nét mặt bảo chúng tôi: 
- Không có gì đau đớn bằng cảnh người con mất mẹ, mà cuộc đời tàn nhẫn đã cướp lấy mang đi. Vậy ngày mai, khi anh Tý đi học, thầy mong rằng các con phải kính trọng sự đau đớn của anh, phải rất thân mật, dịu dàng với anh. Chớ có cười cợt bông đùa trước mặt anh. Có thế, anh mới đỡ tủi thân vì nỗi từ nay trơ trọi. Các con đã hiểu thầy nói gì chưa? 
Nghe thầy nói, tôi buồn quá, tự trách mình rằng có mẹ, mà không biết là sướng. Tôi cũng phàn nàn không được đi tiễn má anh ra đến mộ, như các anh em khác. 
Hôm sau, khi chúng tôi vào lớp, ngồi yên chỗ, đâu đấy cả rồi, mới thấy anh vào. Trông thấy anh ủ rũ trong bộ áo đại-tang mà tôi giật mình. Mới có mấy hôm, mà trông anh sút đi chóng quá! Hai con mắt ngơ ngác, quầng thâm như đã khóc nhiều. Mọi người yên lặng nhìn anh, riêng tôi cảm thấy trong lòng một niềm thương xót dâng lên rào rạt.
Trông thấy chúng tôi, bỗng anh tủi thân, khóc nấc lên. Thầy giáo âu yếm cầm tay anh dắt vào chỗ ngồi: 
- Thầy biết con buồn lắm, nhưng phải can đảm lên mới được! Từ nay con sống bơ vơ, thiếu tình mẫu tử, nhưng thầy đây, các bạn con đây, ai cũng xót xa thương mến con. Hãy cố gắng, tỏ ra xứng đáng với lòng mẹ con hằng tha thiết mong mỏi. Có thế, mẹ con ở dưới kia, hay có lẩn quất trên đây, cũng được ngậm cười… 
Nước mắt anh ràn rụa trên má, coi bộ sầu thảm quá, khiến tôi không dám nhìn anh nữa. Anh thơ thẩn giở quyển sách Tập Đọc ra, và trước tấm tranh “Gia Đình” vẽ trên trang sách, anh lại gục đầu xuống cánh tay mà đầm đìa nước mắt. 
Thầy ra hiệu cho chúng tôi mặc anh, rồi tiếp tục giảng bài. Tôi muốn vỗ về anh, muốn an ủi anh một đôi câu, mà chẳng biết nói gì, đành cứ lấm lét nhìn anh. Sau tôi lấy mảnh giấy viết mấy chữ: “Đừng khóc nữa, Tý ơi!”, rồi đưa sang cho anh. Anh không nói gì, mà cũng chẳng ngẩng đầu lên, chỉ nắm tay tôi xiết chặt. 
Lúc tan học, ai cũng nhìn anh bằng cặp mắt thương đau, nhưng không ai dám hỏi anh câu nào. Tôi còn đang phân vân, không biết nói gì với anh, thì thấy mẹ tôi đến đón. Tôi chạy lại, nhưng mẹ tôi đã ra hiệu chỉ vào anh Tý, rồi quay ngoắt đi. 
Tôi đã hiểu mẹ tôi chẳng muốn Tý tủi lòng vì cảnh côi cút của mình, nên để cho mẹ đi trước, tôi yên lặng lùi lũi theo sau… 
62. Lòng Con 
Ngày 30 tháng 5 
Tôi đang ngồi chép bài. thì thấy em Huyền gión-gién lại gần, vẻ mặt nghiêm trọng. Em thì thầm vào tai tôi: 
- Anh Dũng, em bảo cái này! Tôi giật mình, ngẩng đầu lên. Em nói tiếp: - Có lẽ Ba chúng mình mất việc rồi, anh ạ! 
Tôi trợn mắt lên, hỏi: 
- Sao? Em nói sao? 
- Hôm qua em thấy Ba bàn nhỏ với Mợ rằng có lẽ Ba phải nghỉ nhà vì kém sức khỏe… Ba, Mợ có vẻ lo buồn lắm… Làm thế nào bây giờ hả anh?... Anh em chúng ta chết đói mất, anh ơi! 
Nói rồi, em rơm rớm nhìn tôi. Tôi cũng cầm lấy tay em, mà chẳng biết nói gì! 
- Anh ạ! Em không mua xe đạp ba bánh nữa đâu! Anh cũng đừng đòi Mợ mua đồng hồ nữa nhé! Anh nhé! Anh ừ đi! Chúng ta vào nói với Mợ đi! 
Thế rồi em lôi tay tôi vào buồng trong. Mẹ tôi đang lặng lẽ ngồi khâu bên cửa sổ, cái lưng gầy khom xuống, mấy sợi tóc dài vương trên trán hẹp, dường như chứa đầy sóng gió. Tôi bất giác thương mẹ vô cùng, nước mắt cứ chực trào ra. 
Huyền níu áo tôi ngồi xuống, rồi nói: 
- Mẹ ơi! Mẹ nghe chúng con nói cái này, mẹ nhé! 
Mẹ tôi ngạc nhiên, buông kim xuống, trố mắt nhìn: 
- Gì vậy con? 
- Có phải Ba sắp không được đi làm nữa không ạ? 
Mẹ tôi hỏi dồn: 
- Ai bảo con thế? Sao con biết? Ai nói? 
- Con biết rồi, mẹ đừng dấu con nữa. Ba đi khám sức khỏe, bác sĩ bảo yếu phổi… Ba không được đi làm… Anh em con ai nuôi, hả mẹ? 
Nói rồi em khóc lên rưng rức. Tôi nói: 
- Thưa Mợ, chúng con bàn nhau không mua xe đạp, đồng hồ nữa, Mợ ạ! Cho khỏi tốn tiền… 
- Chúng con cũng không ăn quà sáng nữa đâu! Đi học, chúng con cứ đi bộ cho khỏe chân, không đi xe nữa! Mẹ nhé! Mẹ bằng lòng không? Mẹ ừ đi!... 
Mẹ tôi cất tiếng cười, mà nghe như tiếng khóc, bế Huyền lên lòng mà bảo: 
- Ba con có sao đâu hả con! Bác sĩ bảo tiêm thuốc ít ngày sẽ khỏi mà! Không sao! Đấy các con xem, Ba con khó nhọc vì các con đấy! Nhưng các con ngoan ngoãn, biết thương mẹ, thương cha, thì Ba Mợ cũng vui lòng. 
Rồi hôn Huyền vào hai bên má, mẹ tôi nựng: 
- Chưa chi các con mẹ đã sợ chết đói rồi! Hễ đói thì mẹ đi bán rau, bán cháo nuôi các con chứ sao! 
Đến trưa. Mẹ tôi đem chuyện thuật lại với cha tôi. Ba tôi chẳng nói, chẳng rằng. Chiều đi học về, tôi mở ô kéo ra, thì lạ chưa, một cái đồng hồ đeo tay mới nguyên, không biết ai đã để vào đó tự bao giờ. 
Tôi còn đang cầm lên tay ngắm nghía, thì có tiếng em Huyền ở ngoài sân reo lên: 
- Anh Dũng ơi! Anh Dũng ơi! Ra đây mà xem xe đạp mới của em này! 63. Mùa Nắng Mới 
Mùng 3 tháng 6 
Tấm lịch trên tường cứ vơi dần trong khi tiếng ve đã bắt đầu kêu rộn rã. Dưới nắng hè, hoa phượng đỏ rực trên cành, lốm đốm rải xuống mặt đường như những vết lửa. Nắng từ trên xuống dưới, từ dưới hắt lên, từ sáng đến chiều. Nắng khô cổ, nắng cháy da. Giếng không còn một giọt nước! Chó nằm dài dưới đất, lưỡi lè ra, hồng hộc thở. Người và vật đều uể oải, mệt mỏi. 
Trong lớp, anh nào cũng nhoài người vì nóng! Nhất là anh Tôn, chưa quen với cái nóng miền Nam, lúc nào cũng kêu khát cháy cổ, lắm lúc ngồi thừ dưới bóng cây mà thở hổn hển. Lại còn anh Ninh! Tàn tật ốm yếu như anh, chịu sao nổi cái nóng hè như thiêu, như đốt, có khi ngủ gục ngay trên bàn, đầu kê lên sách. Anh Sỹ thì khôn ngoan đặt dựng quyển sách trên bàn để dấu cặp mắt lờ đờ thèm ngủ. Anh nào cũng thẫn thờ dưới nắng mới, kém vẻ nhanh nhẹn mọi ngày. 
Gần đến kỳ thi lại nóng bức thế này, chúng tôi học làm sao? Tôi nhìn qua cừa sổ: bóng lá xanh rờn, vài cánh mây bay lờ lững trên trời cao, gợi cho tôi bao cảnh vui thú trong kỳ nghỉ hè sắp đến. Tôi đâm ra chán nản thẫn thờ. 
Mẹ tôi biết ý, luôn hỏi tôi: 
- Con có mệt lắm không? Cố lên con ạ! Đỗ rồi tha hồ mà chơi! Còn có một tháng nữa thôi mà! 
Để khỏi nản chí, tôi luôn luôn nhớ đến lời cha khuyên, mẹ dạy để quyết chống chọi với cái nhọc mệt của mùa nắng mới vừa sang. 
Phải rồi, nghe mẹ nói, tôi mới nghĩ ra rằng tôi còn sung sướng hơn chán vạn kẻ khác. Trong lúc tôi được ngồi trong nhà cao, cửa rộng mà học, thì có bao nhiêu trẻ đang cặm cụi ngoài đồng, dưới mặt trời nắng cháy, trong xưởng thợ chật hẹp ồn ào, hay trên mặt đường nóng bỏng. Những trẻ ấy làm việc từ sáng sớm tinh sương cho đến khi trời đổ tối, làm gì được no đủ như tôi, làm gì có nghỉ hè như tôi! 
Ta phải can đảm lên, lấy anh Sinh làm gương mới được. Anh vẫn như cái máy, chẳng chịu lùi một bước. Anh Tác cũng chẳng chịu kém. Để khỏi ngủ gật trong lớp, anh đã có cách thần tình: tay thì véo đùi thật mạnh, còn răng thì nghiến chặt, mở mắt trừng trừng như dán lên bảng đen. Anh Phi cũng chẳng chịu nhịn bỏ lỡ cơ hội. Anh cứ chờ lúc rỗi làm quạt giấy, không phải để bán như mọi khi, mà để tặng các bạn làm kỷ niệm. 
Người đáng phục nhất là anh Tý. Tội nghiệp anh! Từ ngày mất mẹ, anh lại càng vất vả. Anh dậy từ tờ mờ sáng, khuân vác củi đỡ cha. Đến lớp mắt cứ đờ ra, đầu nặng chĩu, như muốn gập xuống ngực. Những lúc ấy, anh phải xin phép ra nhúng đầu vào nước lạnh, hoặc nhờ bạn cấu mạnh vào đùi. Sáng nay, sau một hồi gắng gượng, anh gục đầu xuống bàn, đánh một giấc say sưa. Chúng tôi bấm thế nào, anh cũng không tỉnh. 
Thầy trông thấy, gọi to lên: 
- Tý! 
Một anh bạn ở gần nhà anh đứng lên thưa: 
- Thưa thầy, sáng nào anh ấy cũng dậy vác củi cho cha từ 5 giờ đấy ạ! Mọi người chờ thầy mắng Tý. Nhưng chỉ thấy thầy khẽ thở dài, quay mặt đi, tiếp tục giảng bài, mặc cho anh ngủ. 
Nửa giờ sau, dạy hết bài, thầy đi xuống khẽ lay anh dậy. Mở mắt ra, trông thấy thầy, anh giật bắn mình, khép nép đứng lên, nhưng thầy âu yếm nhìn anh, ngọt ngào nói: 
- Không! Thầy không nỡ mắng con! Thầy biết con đã làm việc nhiều trước khi đến lớp. Giấc ngủ của con không phải là giấc ngủ của kẻ lười biếng. Thầy tha cho. 
64. Một Ngày Vui
Ngày 7 tháng 8 
Hôm qua được thưởng “huy chương cố gắng” lần đầu mà tôi được hân hạnh ấy lại được thầy tổ chức cuộc đi cắm trại cuối năm, thật là vui quá! 
Trời đã sáng rõ. Chúng tôi, đội nào vào đội ấy, đã tập họp đông đủ ở trường. Mọi người đều mặc đồng phục, quần cộc xanh, áo sơ mi trắng. Trên tay mỗi người một chiếc gậy quấn thừng. Vai thì đeo “ba lô” hoặc túi vải, lủng củng những thức ăn, sổ sách, bát đũa… 
Đặc biệt nhất là anh tý với cái “binh đoong” đầy nước vối, kỷ niệm của cha anh đi lính ngày xưa. Anh Sỹ thì cha anh cũng nhường cho cái mũ “cát két” để đội cho khỏi nắng. Anh Côn thì vai khoác thêm cái ruột xe bơm căng để phòng sẵn có suối thì tập bơi. Còn cái lều nặng thì anh Pha cứ nhất định đòi mang, khiến anh cứ phải gò người đi mà bước. Sau khi tập họp để hát bài ca của đoàn, anh Tôn, đoàn trưởng huýt còi ra lệnh khởi hành. Dẫn đầu là lá cờ đoàn, nền xanh, chữ đỏ, tua vàng. Đi sau là các đội, xếp hàng đôi, có lá cờ đỏ thêu tên đội, và có đội trưởng dẫn đầu. Trên đường dài, chúng tôi lần lượt mỗi đội hát một bản hùng ca cho thêm phấn khởi. 
Ra khỏi thành phố, ánh nắng êm dịu buổi sớm bắt đầu rải rộng trên cánh đồng bát ngát. Từng làn gió phần phật trên ngọn lúa chín, làm gợn những đợt sóng vàng. Chúng tôi thấy khoan khoái, nhẹ nhàng trong bầu không khí khoáng đãng và quang cảnh bao la của thiên nhiên. Thỉnh thoảng gặp một cây gì lạ mắt, con sâu, chiếc lá, thầy lại giảng cho chúng tôi nghe đến tận nơi tận chốn, để bổ khuyết thêm vào những bài học trong lớp. Chúng tôi thấy rạng ra, hiểu nhiều, biết rộng hơn lên. Thế mới biết, những bài học ở ngoài trời lại còn có phần hơn cả những bài học giữa bốn bức tường chật hẹp ở nhà trường. 
Anh Sỹ xem chừng khoái lắm! Cứ thấy anh huýt sáo miệng luôn. Anh Tác câm như hến là thế, đã phải nói đùa: 
- Trời đi vắng đấy, anh em ạ! 
Anh Tý thì miệng nhai kẹo cao su mà mặt vẫn rầu rầu. Từ hôm mẹ mất, chưa thấy anh cười bao giờ. Tội nghiệp quá! 
Anh Tôn thì nhanh như con vượn, con dao trên tay, luôn gọt đủ thứ bằng cành cây nhặt bên đường. 
Anh Sinh thì trầm ngâm như nhà hiền triết. Thấy cái gì lạ mắt cũng hỏi thầy, rồi rút sổ tay biên vội, biên vàng. Đối với anh, đây không những là cuộc đi chơi giải trí mà còn là buổi đi để học thực hành. Anh Phi thì trái lại, gặp cái gì hay hay cũng nhặt lấy, bỏ bị, tưởng chừng như sắp đem bán được đến nơi. 
Sau hơn một tiếng đồng hồ đi chân, chúng tôi đã tới nơi. Đó là một ngọn đồi nhỏ, có thông reo, suối chẩy, có phong cảnh hữu tình. Chúng tôi vui sướng, thoăn thoắt trèo lên đỉnh đồi. Anh đoàn trưởng rít lên một hồi còi dài, báo hiệu nghỉ chân, cắm trại. 
Sau 10 phút nghỉ ngơi, chúng tôi bắt tay vào việc. Người nào việc ấy, cứ tăm tắp. Vừa làm vừa hát, chỉ một loáng, lều đã dựng xong. Chúng tôi chia nhau, người đi kiếm củi, kẻ khoét đất làm lò, hay đào hố rác. Riêng anh Ninh, yếu đuối tàn tật, thầy cho miễn những công việc khó nhọc, nhưng anh cứ ấm ức, nhất định đòi làm chung. 
Đội tôi nhận công tác đi kiếm củi, do anh Tôn hướng dẫn. Qua rãnh, qua cầu. Anh giơ tay đỡ từng người. Thực chưa thấy ai chu đáo và săn sóc bạn như anh! Anh Tý, tuy kém vui, nhưng cũng làm hết phận sự và khi có mang vác, nhất định nhận phần hơn. Chỉ buồn cười cho anh Sỹ! lanh chanh trèo cây, kiếm cành thế nào mà xoạc ngay ra một mảnh quần tướng. May anh Phi đã sẵn ghim băng trong túi, cài cho, khéo quá, trông xa đố ai biết rách! 
Lúc trở về lều, bỗng anh Tý hoảng hốt kêu lên; một chú bò, sừng nhọn hoắt, đang đứng sừng sững giữa đường như thách chúng tôi đi qua. Chúng tôi sợ hết vía, nhưng anh Pha và anh Tôn đã xấp lên trước, sua nó đi chỗ khác, rồi dắt tay anh Tý đi lên. Đối với bạn được như anh Tôn, anh Pha, thật là hiếm có! Nhất là anh Pha, xưa kia như thế, mà bây giờ khác hẳn; có đánh bạn với anh cũng chẳng phải lầm! 
Về đến lều thì đồng hồ chỉ 9 giờ. Thầy giáo bắt đầu tập họp cho chép chương trình và kể cho nghe một vài mẩu chuyện lich sử trong vùng rất lý thú, cả chuyện Lưu Bình, Dương Lễ mà chúng tôi nghe ai cũng lấy làm cảm động. Sau đến anh Tôn, đoàn trưởng, dậy nút rồi cùng nhau ôn lại những bài hát mới. Sau đấy, chúng tôi bắt đầu sửa soạn bữa cơm trưa, Anh thì đi múc nước, anh vo gạo, người nhặt rau, kẻ nhóm bếp, cứ tíu tít lên. Anh Ninh cũng lăng xăng đi lại giúp chúng tôi những việc nhẹ. Thế rồi chẳng mấy chốc, dưới những bóng cây râm mát, hay trên ô đất phẳng, từng làn khói cuồn cuộn bốc cao. 
Mười một giờ đúng, chúng tôi bắt đầu dọn cơm. Thầy cũng ngồi vào cùng ăn với chúng tôi. Sau vài bài hát vui nữa, chúng tôi cầm đũa. Bữa cơm tập đoàn ăn mới ngon miệng làm sao! Tuy chỉ có muối vừng rang chưa kỹ, trứng tráng hơi cháy, rau muống luộc chưa nhừ. Anh Bích xem chừng quen thói ăn ngon, nên thấy mở hộp ruốc ra, vui vẻ mời chúng tôi. Thấy anh thành thực, chẳng ai làm khách, vét cho đến tận đáy. Được cái cơm dẻo, bụng đói, thầy trò vui vẻ chuyện ran, nên chỉ một loáng, nồi nào cũng hết veo. 
Ăn cơm, rửa bát xong, chúng tôi được tự do, mỗi người một nơi để nói chuyện, đánh cờ, lội suối hay nằm nghỉ. Một số người xúm quanh anh Pha để nghe chuyện cổ tích. Anh thuộc nhiều chuyện hay đáo để, lại kể chuyện có duyên, nghe mãi không chán, chả bù với trước kia, đi đâu cũng như chó cụp tai, chẳng ai thèm chơi với. 
Đến hai giờ, theo hiệu còi của anh đoàn trưởng, chúng tôi hội họp, rồi đứng thành vòng tròn, trên một bãi cỏ rộng và phẳng. Các trò chơi bắt đầu. Thoạt tiên là trò vui luyện trí khôn, rồi đến các trò chơi thể thao, luyện mắt cho tinh, tay bắt cho khéo, chân chạy cho nhanh. Sau cùng là một trò chơi lớn, có tính cách hoạt động, mạo hiểm, để áp dụng những điều thực hành về dấu hiệu đi đường, dấu “móoc”, đã được học trong những buổi họp đoàn. 
Đến bốn giờ rưỡi, chúng tôi hội họp nhau lại để kiểm điểm công tác. Thầy giáo lấy làm hài lòng và chúng tôi ai cũng vui vẻ. Ngồi gần tôi, thầy bảo: 
- Nghỉ hè sắp tới, các con sắp phải chia tay. Giờ còn được anh anh, em em, sum họp vui chơi thế này. Mai đây, mỗi người một ngả, các con phải nhớ lấy những kỷ niệm này mới được! Như anh Sinh, anh Dũng… sau này, nhờ ơn cha mẹ được học đến nơi, đền chốn, rồi ra đời làm nên ông nọ, ông kia, trông thấy các bạn cũ buôn bán lầm than, hay thợ thuyền lam lũ, chẳng biết có thân yêu nhau như bây giờ không, hay lại xem nhẹ tình bằng hữu? 
Anh Sinh vội thưa: 
- Thưa thầy! Thầy cứ dạy thế làm con tủi thẹn. Nghề nào cũng quý, cứ có ích là đáng quý, đáng trọng, như lời thầy dạy trong lớp, mà chúng con chẳng bao giờ quên. Vả lại, đối với con, anh Tôn bao giờ cũng là anh Tôn, anh Tý cũng vẫn là anh Tý. Cả các anh khác cũng vậy, dù sau này có làm nên đến gì chăng nữa, thì con cũng xin thề để tình bạn hữu lên trên! Chúng con đã hiểu ý thầy răn dạy khi đem chuyện Lưu, Dương mà kể cho nghe. Thưa thầy, có tiền, thì cái gì cũng có, nhưng còn tình bạn, thì mua được làm sao? 
Chúng tôi vỗ tay đôm đốp. Thầy nói: 
- Các anh nghe anh Sinh nói đấy! Hoan hô hoc đường! (chúng tôi lại hoan hô rầm lên). Chỉ có HỌC ĐƯỜNG mới gây cho ta được cái tình thân ái cao đẹp, thắm thiết như thế. Vậy các con cứ nhớ đến hôm nay mà đừng quên nhau nhé! Mà cũng nên nhớ đến lời anh Sinh, đừng có nghĩ rằng đi học là chỉ mong đỗ cao, để sau này vợ đẹp, con khôn, chẳng nghĩ đến việc giúp nước, ích dân. 
Thầy đứng dậy, rút đồng-hồ ra xem: 5 giờ đúng! Mặt trời xế bóng, nhuộm đỏ cả dãy núi đàng xa. Chúng tôi sửa soạn ra về, để lại trên ngọn đồi những lỗ hố sâu, những đám cỏ bị dẫm nát nhừ, những mẩu củi cháy đen… 
Về đến trường, anh em chia tay, cùng cảm thấy bùi ngùi luyến tiếc những phút vui đẹp trong buổi chung sống vừa qua. 
65. Những Tấm Gương Nhẫn Nại 
Ngày 11 tháng 6 
Hôm nay chủ nhật, Ba tôi dẫn tôi cùng với anh Sinh tới tòa Đô Sảnh để dự lễ phát thưởng cho toàn thể những lớp Bình dân trong quận III vừa mãn khóa. 
Vì đây là khóa Trung Cấp, nên được tổ chức rất là long trọng. Gian phòng rộng lớn như thế mà đông nghịt những người. Dãy bên trái dành riêng cho quan khách và người đến xem. Dãy bên phải là chỗ của các học viên được thưởng, già có, trẻ có. 
Gian phòng khánh tiết hôm nay được trang hoàng lộng lẫy. Ảnh Tổng Thống treo cao trên tường, giữa hai lá quốc kỳ, rải từ trần xuống đến đất. Trên bàn thờ Tổ Quốc, lư trầm đang tỏa khói xanh làm cho phiên họp đượm màu cổ kính. 
Trong đám quan khách, tôi nhận thấy có ông Hiệu Trưởng trường tôi ông không vắng mặt những buổi như thế này bao giờ cả thầy giáo lớp Nhì và cô giáo lớp Năm. Góc bên kia có anh Tư Húi đang ngồi nép vào với bà mẹ. Trông thấy tôi, anh mỉm cười, làm “mắt lác” chào tôi. 
Sau bài quốc ca là một bài diễn văn khai mạc ngắn, trong đó nhắc lại công cuộc chống nạn thất học của chính phủ và ca ngợi lòng hiếu học của giới cần lao… Rồi cuộc gọi tên bắt đầu. Người được phần thưởng DANH DỰ của khóa này không phải là một thanh niên, hay một người trọng tuổi. Cũng không phải là một cụ già như kỳ trước. Lúc nghe gọi: ”Cậu Võ văn Bát, 14 tuổi, đỗ đầu, phần thưởng danh dự của Tổng Thống”, thì tất cả mọi người đều ngạc nhiên, vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Rồi thấy một cậu bé, người loắt choắt, mặt xạm đen vì cháy nắng, bước lên. 
Trông gương mặt quen quen, thì anh Sinh bỗng nhớ ra là thằng bé đánh giày dạo nọ, khiến tôi phải phục là anh tài nhớ. Trông cu cậu hôm nay bảnh quá, hèn nào chúng tôi không nhận được ra! Cái áo sơ-mi tuy điểm miếng vá ở vai mà được giặt, là, sạch sẽ, thêm đôi giày da bóng nhoáng dưới chân, mà có lẽ nó đã mang hết công phu nghệ-thuật và kinh nghiệm của nghề ra để chải. Tôi nghĩ thầm: 
- Có lẽ nó bôi hết một hộp kem chứ không chơi! 
Nhưng ông trưởng ban đã đứng ra trước máy vi-âm: 
- Thưa quý vị, giới thiệu tên của em này chưa đủ. Các ngài cũng nên biết em nhiều thêm một chút, vì đó là một gương nhẫn nại hiếm có, đã được Tổng Thống ban khen, và đáng cho chúng ta khuyến khích. Em Bát đây mồ côi cha từ thuở lên ba. Sống trong gia đình cùng túng, em cũng như bao trẻ khác đồng hoàn cảnh, không được đi học, và bắt đầu từ năm 11, làm nghề đánh giầy sinh nhai. 
Có chí muốn học, em thường say sưa ngắm những trẻ nhỏ trạc tuổi em, hàng ngày tung tăng cắp sách đến trường. Nhưng vì tuổi còn non, lại sớm phải lầm than vất vả, nên suốt hai năm trời nay ốm mai đau. Mãi đến năm 13, nghề của em đã thạo, sức lực cũng thêm cứng cáp, em quyết bắt đầu học chữ. Trong khi các bạn đồng-nghiệp của em chơi đùa hư hỏng, thì em vừa làm, vừa học, mặc cho chúng chế riễu, có khi đánh đập em nữa. Bút của em là cái long gà vót nhọn, mà sách của em là những mảnh giấy trắng góp nhặt ở bên đường. Chữ nào không biết thì đã có những ông thầy riêng, họ là những ông khách chải giày. Bảng đen của em đã có cái nắp hộp gỗ, đựng đồ dùng. Em mê mải với việc học, bất cứ chỗ nào cũng là lớp học của em: dưới gốc cây, ngoài đầu hè, trong xó chợ… Những ngày mưa, em lần đến các trường, đứng nhòm bên cửa lớp để nghe. Cứ thế rồi em biết đọc, biết viết, biết cả làm tính nữa. Đến khi bà mẹ thấy con ham học, bèn cho em theo lớp Bình Dân, khóa trung cấp, cao hơn. Ở đây, các giảng viên đều phải công nhận em là xuất sắc, nên hết lòng để tâm giảng dạy thêm cho. 
Thế rồi, với một lòng ham học hiếm có, một chí nhẫn nại phi thường, em luôn luôn đứng đầu trong các kỳ thi, để đến hôm nay được hân hạnh ra mắt quý ngài, và lĩnh tặng phẩm của Tổng Thống ban cho… Thưa quý Ngài! Chúng tôi xin giới thiệu lần nữa: Đây, em bé Võ văn Bát! 
Ông chưa nói dứt câu, tiếng vỗ tay đã nổi lên như sấm. Cậu Bát sướng tê cả người, cứ đứng đờ ra. Ông Giám Đốc Dân học vụ tự tay gắn huy chương Tổng Thống vào ngực cho nó, trong khi một vị khách trao gói phần thưởng, có bọc giấy bóng, và buộc băng kim tuyến bên ngoài. Một bà ngồi hàng đầu bỗng đứng lên, cúi xuống hôn nó, rồi ngảnh mặt về phía khán giả, bà nói: 
- Tôi xin phép các Ngài tặng thêm cho em một ngàn đồng để may mặc, và từ nay tuyên bố nhận đỡ đầu cho em đi học đến nơi, đến chốn… Tiếng vỗ tay nổi lên như sấm. Lúc nó ôm chồng sách bước xuống, mắt nó đã nhòa lệ. Để mừng nó, tôi vỗ tay đến rát bỏng lên. 
Rồi tiếp đến những người khác. Đây là những người thợ ngượng nghịu trong bộ quần áo mới thẳng nếp, nọ là các bà bán hàng, tươi cười mà vẫn không dấu được vẻ e lệ sượng sùng. Mỗi người được lĩnh một tập sách tự tay các vị tân khách trao cho. Tiếng vỗ tay từng hồi nổi lên rầm rập. 
Trong số những người được thưởng có cả ông Phó cạo, tay ôm chồng sách, cái đầu hói cúi thấp xuống để cảm ơn. Tôi quay lại thấy anh Tư Húi đang chăm chú nhìn thầy anh bằng con mắt cảm động, pha nỗi hân hoan. 
Tôi còn đang mải trông ông, thì tiếng vỗ tay lại ran lên. Đó là bác gác trường tôi, được phần thưởng khuyến khích. Bác sung sướng, hướng về phía ông Hiệu Trưởng, khẽ ngả đầu như muốn nói cám ơn. Rồi lúc bước xuống bục, nhìn chúng tôi, bác nháy một cái làm chúng tôi lại phải vỗ thêm một tràng pháo tay nữa để hoan nghênh bác. 
Lúc ra về, ai cũng cảm thấy lòng vui vẻ. Ba tôi bảo: 
- Con được nuôi cho ăn học mà không bằng một em bé đánh giày nghèo khổ, mồ côi, không bằng những người công nhân lầm than sớm tối, chẳng đáng thẹn lắm sao? 
Tôi cúi đầu không nói, nhưng lòng tự hứa quyết chẳng chịu hèn. 
66. Ghi Ơn 
Ngày 16 tháng 6 
Còn có ít ngày nữa là hết niên học. So với năm ngoái, sức học tôi đã tiến rất nhiều. Nhớ lại hồi mới tựu trường, chỉ ngay ngáy lo bài học khó mà xấu hổ, ngượng thầm. Thế mà nay được xếp thứ sáu trong lớp, lại được thầy khen học khá. Thì ra ở đời, chẳng có gì là khó cả! Chỉ sợ không có chí mà thôi. 
Hôm nay tôi dành riêng trang này để ghi ơn tất cả những người đã cùng tôi qua một niên học vui vẻ. Trước hết tôi phải trân trọng ghi lời cảm ơn thầy giáo tôi, người đã hy sinh rất nhiều để dạy dỗ tôi, không quản ốm đau mệt nhọc. Nếu sau này, tôi được nên người, công thầy rất lớn vậy. 
Tôi cảm ơn anh Sinh đã cất công giảng lại bài vở cho tôi rất chu đáo, đến nỗi tôi đã coi anh như ông thầy thứ hai của tôi. Chả trách Ba Mợ tôi vẫn bảo: “Học thầy, không tày học bạn”. 
Tôi cảm ơn anh Tác, mà cái gương cần cù nhẫn nại đã cho tôi rõ ý nghĩa câu cách ngôn: ”Có công mài sắt, có ngày nên kim”. 
Tôi không quên cảm ơn anh Tôn, anh bạn di cư. Với tấm lòng vàng ẩn trong tình bạn, anh dìu dắt, khuyên nhủ tôi, chẳng khác gì người anh cả. Gần anh, ai cũng phải tốt, ai cũng phải hay, thật đúng như câu: ”Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. 
Tôi cũng không quên cảm ơn anh Sỹ, anh Tý, đối với tôi là cả một tấm gương hiếu thảo, cần cù, trong gia đình cũng như trong học đường. Nhưng người mà tôi phải chịu ơn nhiều nhất phải là cha tôi, người đã dạy tôi được biết bao nhiêu điều hay lẽ phải, để cho tôi ra đời sau này không đến nỗi phải hổ thẹn, người đã quên mình đi, để chỉ nghĩ đến tương lai hạnh phúc của con. Còn mẹ tôi, mẹ hiền của tôi, cũng đã góp vào công cuộc dạy dỗ tôi một phần quá lớn. Người đã vui khi tôi vui, buồn khi tôi buồn, đã bao lần rồi, và còn mãi mãi, khó nhọc lo ốm vì tôi. Tôi muốn lăn vào lòng mẹ, bá lấy cổ cha, như hồi thơ ấu, dâng lên các Người cả tấm lòng thành kính, yêu thương để tạ cái ơn dưỡng dục trong suốt 12 năm trời đằng đẵng… 
67. Lời Mẹ 
Ngày 21 tháng 6 
Thế là niên học đã qua, Dũng nhỉ? Con sắp phải cách thầy, xa bạn, và con ơi! Không phải chỉ có hai tháng trời hè, mà biệt nhau mãi mãi. 
Là vì cha con đã xin được đổi đi Đà Lạt. Nơi đó khí hậu mát mẻ, có lợi cho sức khỏe của cha con đang suy yếu. Con sẽ lên Trung Học, có thầy mới, bạn mới và cả trường mới nữa. Con buồn lắm nhỉ? 
Ai mà chẳng buồn lòng khi tưởng tượng đến rằng, không bao giờ được trông thấy ngôi trường cũ thân yêu, mà suốt năm năm trường dòng dã, đã để lại biết bao nhiêu kỷ niệm êm đềm, nơi đã rèn luyện cho con nên người học trò giỏi giang, người con hiếu hạnh, người bạn trung thành. Đó là nơi đã khai sáng bộ óc còn tăm tối của con, nơi đã ghi lại bao nhiêu hình ảnh của thời thơ ấu, giữa bạn yêu, thầy mến. 
Trong số các bạn con, cũng có người được hưởng sung sướng trong cuộc đời nhàn nhã. Nhưng sẽ còn bao nhiêu bạn khác phải nếm nhiều đau khổ, hoặc vì côi cút bơ vơ, hoặc vì lưu lạc lầm than, hoặc đã hy sinh để bảo vệ tự-do cho Tổ Quốc. 
Nhưng hầu hết sẽ là những công nhân đáng kính, những người cha gương mẫu, và biết đâu lại không có một vài anh, rồi đây làm rạng rỡ cho nhà, cho nước, ghi lại tên tuổi trong sử sách về sau? 
Hãy từ biệt các bạn con với một lòng luyến ái thiết tha, và gởi lại một chút linh hồn trong cái đại gia đình học đường, mà lúc con bước chân vào hãy còn ngu tối, đến khi rời bước chân đi, thì đã trưởng thành. 
Sau này khi con lớn lên, con sẽ có dịp đi du lịch phương xa, dừng chân trên những đô thành mỹ lệ. Nhưng những nơi ấy dù có to đẹp thế nào, con cũng không thể quên được tòa nhà nhỏ bé kia, có cửa xanh, có cây mát, nơi đã ương giống, nảy mầm bông hoa trí tuệ của con. Con sẽ mang cái hình ảnh ấy mãi cho đến phút cuối cùng của đời con, cũng như mẹ đây, mẹ còn nhớ mãi căn nhà nhỏ, mà mẹ đã nghe tiếng con bập bẹ lần đầu… 
68. Tin Vui 
Sài Gòn, ngày 28 tháng 6/p> 
Chú Thành kính mến, 
Thưa chú, cháu mừng rỡ báo tin chú biết rằng cháu đã trúng tuyển kỳ thi Tiểu học vừa qua để chú mừng cho cháu. Hẳn chú đang mong tin cháu của chú đấy nhỉ? 
Sau đây, cháu xin thuật ngày vào thi cho chú nghe: 
Chẳng nói chú cũng rõ, trước ngày thi, cháu hồi hộp thế nào? Tuy vẫn cười, vẫn nói, mà trong óc cháu ngổn ngang vì những chuyện thi cử. Lần đầu tiên ra thi tài đọ sức với người, chú bảo cháu của chú không lo làm sao được? 
Thế rồi cái ngày “ghê gớm” ấy cũng tới. Cháu đã lo xếp đặt đồ dùng từ trước, vậy mà cứ có cảm tưởng như còn thiếu sót cái gì. Chú thím Phúc ở Mỹ Tho, rồi vợ chồng chú Khang ở Biên Hòa, các cô, các chú, đến chơi, người khuyên cái nọ, người chúc điều kia, làm như cháu thi cửnhân, hay thi Tiến sĩ ấy, chú ạ. 
Đến hôm thi, vào trong lớp ngồi rồi, bao nhiêu nỗi lo sợ bỗng biến đâu mất cả, chú ạ. Là vì cháu thấy cũng buồng học, bàn ghế, bảng đen như ở trường nhà, có gì là khác đâu! Trong phòng cháu, cũng được một vài anh cùng lớp, lác đác mỗi người một chỗ. Còn những thí sinh khác, thì cũng như chúng cháu, ngây thơ, hồn nhiên lắm. Chúng cháu thân nhau ngay. 
Nhìn những vị giám khảo, cháu càng yên dạ. Các vị ấy cũng chẳng khác gì thầy giáo cháu, cũng cái nhìn dịu dàng, giọng nói hiền từ, không dữ dội như chúng cháu đã tưởng. 
Bài đầu là Chính Tả, viết bài “Đoàn kết”, đại ý hô hào toàn dân phải xiết chặt hàng ngũ, trên dưới một lòng để diệt giặc trong, thù ngoài. Có một vài chữ khó không đáng kể, còn 4 câu hỏi, cháu làm được cả. 
Bài luận là một câu tục ngữ: "LÁ LÀNH ĐÙM LÁ RÁCH". Nghĩa đen và nghĩa bóng chẳng có gì là khó, chỉ còn lo tìm thí dụ cho sát. Cháu lấy chuyện giúp đỡ đồng bào di cư để chứng minh. Chả biết cháu làm có hay hay không, chỉ thấy giám khảo dừng lại, gật gù đọc, xem chừng thích lắm. 
Cháu chỉ còn lo bài tính buổi chiều. Cũng may, mấy câu hỏi trên dễ, cháu làm được ngay, xem lại kỹ càng, rồi chép vào giấy. Bài tính dưới về phân số, cháu mới tìm thấy một đáp số trên thì đã đến giờ thu bài. Cháu lo quá, trống ngực đánh bằng trống làng, suýt phát khóc chú ạ. Nhưng cháu không kịp lo nữa, vì đầu bài câu hỏi Thường Thức đã ra. Thấy toàn những bài trong chương trình đã học, cháu mừng quá. Trong lúc chép đầu bài, bỗng cháu có cảm tưởng như là quên hết cả, óc rỗng tuếch như không còn một chữ. Nhưng đến lúc viết đến đâu lại nhớ đến đấy, thế có lạ không, thưa chú? 
Lúc vào vấn đáp, đọc xong bài Tập đọc “Trưng cầu dân ý”, giám khảo hỏi có một câu: ”Nước ta theo chính thể nào?” Cháu trả lời: “Nước Việt Nam sau ngày Trưng cầu dân ý, theo chính thể Cộng Hòa”, Giám khảo gật đầu. Đến khi hát thì khỏi phải nói. Bài “Việt Nam thống nhất”, cháu vẫn hát theo máy truyền thanh ở nhà, nên cất tiếng lên, thầy nào cũng khen. 
Bốn hôm sau, có kết quả. Chao ôi! Cháu tưởng mọc cánh lên được, khi thấy tên: "CAO NGUYÊN DŨNG" trên bảng. Cháu cố giữ vẻ nghiêm trang mà chân tay cứ múa lên. Cháu muốn vồ lấy mọi người, hét vào tai họ: “Tôi đỗ đây, tôi đỗ đây!”. 
Các bạn thân của cháu, như anh Sinh, anh Tôn, anh Tý, anh Phi, anh Sỷ cũng đỗ cả. Thưa chú, chú có nhớ anh Pha không ạ? Anh bạn ngỗ ngược ngày xưa, mà đã có lần cháu thưa chuyện cùng chú. Anh ta cũng đỗ kỳ này, mà đỗ hạng bình cơ chú ạ! Lúc má anh ta ra đón cứ ôm lấy anh mà khóc rưng rức… 
Nhưng thú nhất phải là anh Sỹ. Má anh hy sinh nghỉ hẳn một buổi hàng để chầu chực xem bảng. Lúc thấy anh có tên rồi, hai mẹ con tất tả kéo nhau đến nhà thầy giáo cám ơn. 
Lớp cháu trượt có bốn anh, toàn những anh thường ngày lười biếng. Thôi chẳng còn phàn nàn “học tài thi phận” vào đâu nữa. Được kết quả rực rỡ như thế, thầy giáo cháu hẳn cũng hài lòng, bõ công dạy dỗ bấy lâu. 
Lúc đi về, cháu ưỡn ngực nhìn ngang nhìn ngửa, tưởng chừng như khách đi đường sẽ nhìn cháu mà thán phục, ngợi khen. Nhưng không, họ đều lặng lẽ bước nhanh, hoặc nhìn cháu bằng con mắt thản nhiên, có tức không hả chú? 
Chú ơi! Chú ơi! Hôm nay thuật lại mấy giòng này, một niềm vui chan chứa lại dào dạt dâng lên, khiến cháu xúc-động vô cùng. Chú khen cháu của chú đi! Chú mừng cháu của chú đi! 
Nhưng thưa chú, kỳ thi này qua rồi, cháu lại lo kỳ thi đệ Thất sắp tới, làm sao được vào trường Trung Học mới thỏa lòng mong ước của Ba Mợ cháu. 
Kính chúc chú vui mạnh luôn, và cháu mong được lên thăm chú kỳ hè năm nay ở Ban Mê Thuột. 
Cháu yêu của chú vẫn cố gắng học hành 
DŨNG 
69. Chào Vĩnh Biệt 
Ngày 30 tháng 6 
Trưa hôm nay, chúng tôi tụ tập tất cả ở nhà trường lần cuối cùng trước khi chia tay vĩnh biệt. 
Một lát thầy vào lớp. Lần đầu tiên thấy thầy vận y phục như đi dự ngày đại hội. Thầy đưa mắt nhìn chúng tôi suốt lượt, rồi rầu rầu nét mặt mà bảo: 
- Các con ơi! Thầy ăn mặc thế này, các con chớ lấy làm lạ, vì thầy muốn cho buổi mặt cuối cùng của thầy trò ta được long trọng. Chúng ta đã cùng nhau chung sống một niên học. Giờ đây sắp phải chia tay, ta hãy xa nhau cho vui vẻ. Riêng thầy, thầy rất buồn lòng không được gần các con nữa. 
Thầy ngừng lại giây lát, như để nén cơn cảm xúc đang rào rạt trong lòng, rồi nói tiếp: 
- Còn như kỳ thi năm nay đỗ được nhiều như vậy, thật là điều đáng mừng cho các con, mà cũng là cái phần thưởng quý báu cho ta. Nhất là anh Pha, anh Sỹ, anh Bích biết sửa đổi, lại đỗ được cao, thì trong đời ta, thật chẳng còn điều gì ân hận. Trong năm vừa qua, nếu một đôi khi thầy quá nóng đến nỗi phải mắng, phải phạt, các con, các con cũng đừng để tâm giận thầy mà tội nghiệp. 
Tất cả chúng tôi nhao nhao lên: 
- Thưa không ạ! Thưa không đời nào ạ!... Thầy muốn cho chúng con hay, đâu chúng con dám giận? 
- Cám ơn các con… để thầy nói… Vậy nếu quên đi cho thầy thì tốt lắm. Sang niên học mới, các con mỗi người, mỗi ngả, chẳng còn được cùng nhau ngồi đây nữa, nhưng lúc nào lòng thầy cũng tưởng nhớ đến các con. Các con hãy về nghỉ hè cho vui vẻ. Những anh đỗ, thầy có lời mừng. Một vài anh chẳng may trượt, thầy khuyên cố gắng, nhưng dù đỗ, dù trượt, dù làm thầy hay làm thợ, các con cũng nên ăn ở làm sao cho phải đạo làm người, phải cố gắng thế nào cho thành người hữu ích, xứng đáng với lòng kỳ-vọng của các bậc tiền nhân. Thầy chỉ muốn nói có thế thôi, các con nên ghi nhớ lấy, và có về, cho thầy gửi nhời chào thầy mẹ ở nhà. 
- Nói rồi thầy đi thẳng xuống dưới lớp như còn lưu luyến chưa nỡ rời đám trò yêu. Chúng tôi nhìn thầy cảm động. Có anh thò tay ra vuốt áo thầy; có anh giở sách xin thầy chữ ký. 
Anh Tôn đứng lên, hai tay dâng biếu thầy tập ảnh của chúng tôi, rồi xin phép cho mỗi đội hát một bài để chào thầy. Thầy gật đầu ưng thuận. Thế là trong lớp vang lên những lời ca nhịp nhàng, thắm thiết… Hát xong, thấy thầy sắp sửa bước ra cửa, chúng tôi đứng cả lên, đồng thanh nói: ”Lạy thầy ạ, chúc thầy mạnh luôn ạ!” 
Xem chừng thầy cảm động lắm, vì thấy tay thầy cầm mũ run run. Thầy đưa mắt nhìn khắp lượt chúng tôi một lần nữa, ngưng lại một giây về phía chúng tôi mà mỉm cười. Lần đầu tiên, tôi thấy thầy cười. Mà nụ cười ấy mới chua xót làm sao! 
Đợi thầy ra khỏi, chúng tôi mới kéo nhau xuống. Dưới sân cũng đông nghịt những phụ huynh hoc sinh đang đón con, đợi cháu. Mấy cô giáo bị lũ trò nhỏ vây quanh, gỡ tay đứa nọ, thì đến đứa kia lại níu lấy; rồi cứ bi ba bi bô “Chào cô ạ, chào cô ạ…” ầm ỹ cả lên. 
Tôi hồi hộp tiến lại gần cô giáo Ngọc Hồng. Từ buổi gần cô, cô đã đem lại cho tôi một nguồn sinh lực mới, khiến tôi có đủ sức chống chọi với những nỗi chán nản hàng ngày. Tôi muốn chúc cô được luôn luôn vui mạnh, và hứa không bao giờ quên cô, nhưng trước mặt cô, tôi bỗng cảm động không nói được nên lời. 
Khắp sân vang lên lời chào vĩnh biệt. Chỗ này “Anh về nhé! Sang năm nhé!”, chỗ kia “viết thư cho tớ nhé!” 
Mọi người bịn rịn, quyến luyến, chẳng muốn rời nhau, hầu như quên mọi sự giận hờn, thù ghét trong năm. Vân mọi khi vẫn ghen với anh Sinh, vậy mà cứ quấn lấy anh, dặn đi, dặn lại, có rỗi về quê anh chơi. Tôi thờ thẫn giơ tay chào tất cả mọi người. Tôi bắt tay anh Tư Húi để nhìn anh làm “mắt lác” lần cuối cùng, rồi tôi đến chào anh Phi, anh Tý. Phi tặng tôi một cái quạt kiểu Nhật do chính anh vẽ, có một cái tem Nhật Bản dán ở giữa, với hai chữ “MẾN DŨNG” kẻ bằng màu lơ. 
Tội nghiệp anh Ninh! Cứ níu lấy anh Tôn mà rơm rớm nước mắt, trong khi các bạn khác cũng vây chặt lấy anh, mà săn đón hỏi han. 
Tôi chờ anh Tôn ra đến đầu phố, lúc anh chỉ còn một mình, mới lại gần anh để biếu anh tấm hình mới chụp của tôi. Hai chúng tôi cứ nắm lấy tay nhau, bịn rịn, nước mắt chảy vòng quanh. 
Một lát sau, anh cố gượng cười bảo tôi: ”Thôi Dũng về cho mạnh khỏe nhé! Nhớ Tôn luôn nhé!” 
Rồi anh lùi lũi bước đi. Tôi còn đứng lại nhìn anh đi khuất, rồi lại nhìn ngôi trường vắng tanh mà tưởng như đời tôi từ nay chẳng còn sinh thú, bởi đã mất đi biết bao hình bóng thân yêu. 
Nước mắt tôi lúc nãy đọng ở trên mi, giờ chảy đầm đìa trên má.  
Sài Gòn 1955-1956 
Edmondo De Amicis
Cao Văn Thái
Theo https://downloadsachmienphi.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái chi còn lại họa còn văn chương

"Cái chi còn lại họa còn văn chương" Những ranh giới giữa đạo và đời đã không còn nữa, mà quấn quyện vào nhau trong một dòng chả...