Thứ Hai, 21 tháng 9, 2020

Trở lại chốn núi rừng xưa

Trở lại chốn núi rừng xưa


Khu du lịch Cửu thác Tú Sơn (Kim Bôi) thu hút 

đông đảo khách du lịch trong và ngoài tỉnh 

đến tham quan, nghỉ dưỡng. (ảnh Hồng Trung).

Cách đây gần 60 năm, khi ấy nước ta còn trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đoàn học sinh khu bốn chúng tôi được Bác Hồ cho sang Trung Quốc học tập, đi bộ qua tỉnh Hoà Bình theo con đường số 6 vào một đêm trời mờ sao. Điều làm chúng tôi nhớ mãi cái đêm ấy chính là sự xuất hiện xác những chiếc xe tăng khổng lồ của giặc Pháp bị quân ta bắn cháy nằm ngổn ngang, trơ trọi hai bên con đường kháng chiến.

Đến địa điểm dừng chân dốc Cun, chúng tôi phải nghỉ lại chừng hai, ba ngày vì trời mưa tầm tã và máy bay địch nhòm ngó suốt ngày. Sống giữa chốn “đất đỏ, sàn cao” chờ xe của Trung ương đến đón, chúng tôi làm quen với âm hưởng buồn buồn, thương thương của giai điệu núi rừng Hòa Bình với những lời ca” “Quế bù rinh ơi, quế bù reo nhớ về chợ chiều”, “Bếp ai tàn có tay tập đoàn che đôi mái xiêu”; “có một chiều giặc lên Tây Bắc”, “chúng chẳng từ nhành khoai, bó thóc”; “chúng bắt vợ, chặt tay con”; “bao căm hờn dồn lên đầu súng”… âm hưởng giai điệu lời ca núi rừng Hòa Bình khi đó cứ vang vọng mãi trong tâm trí tôi đi suốt năm tháng ra nước ngoài, về chốn thị thành đô hội, như tiếng cồng, tiếng chiêng rền vọng  hoài niệm xa xôi.

Sáng nay, được trở lại chốn núi rừng Hòa Bình năm xưa trên chiếc xe buýt đời mới kiểu “Boing” Hàn Quốc hiện đại, tôi nhận thấy mọi thứ xung quanh đều đã thay đổi.

Quốc lộ 6 khi xưa, nay rộng thênh thang, trải nhựa phẳng lỳ, xe bon bon tốc độ 50 - 60km/h. Các dãy quán nghèo ven đường khi xưa, nay thành phố đẹp. Thị trấn Lương Sơn trở thành đô thị nhộn nhịp, đông vui. Phố núi Hòa Bình lầm lũi năm xưa, nay không còn cảnh “quán gió lều tranh” hắt hiu buồn tẻ đã trở  thành thành phố tỉnh lỵ sầm uất đúng kiểu thị thành. Các đường phố mới đều có vỉa hè, cây xanh, dải phân cách, đèn đường chiếu sáng. Các dãy nhà mặt tiền cao thấp san sát hai bên đường phố, phô diễn dáng vẻ thanh lịch, kiêu sa. Các ô cửa mở rộng nhìn trời, nhìn đời muôn hồng, ngàn tía. Khu vực công sở, siêu thị, khách sạn, nhà hàng, nhà văn hóa, trung tâm du lịch với những tòa nhà mới xây kiểu dáng kiến trúc bề thế, hiện đại đượm hương sắc núi rừng.

Thành phố Hòa Bình nay nằm cả hai bên bờ sông Đà được nối liền bởi cây cầu bê tông cốt thép trắng đục vắt ngang qua sông, tạo thành chiếc “cổng trời” án ngữ mặt tiền Nhà máy thủy điện Hòa Bình, một trong những công trình năng lượng lớn nhất quốc gia, lớn nhất Đông Nam á.

Đứng trên Tượng đài Bác Hồ nhìn toàn cảnh đập nước thủy điện Hòa Bình, nhìn thác nước trắng xóa đổ từ trên cao xuống tạo nên những cuộn sóng hùng vĩ, những âm thanh ngày đêm, làm ta liên tưởng đến câu chuyện tình “Sơn Tinh, Thủy Tinh” cùng với sự tích voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao trong câu chuyện cổ tích dân gian thần thoại.

Công trình thủy điện Hòa Bình nằm tại chỗ mà người ta nghĩ rằng, chốn ấy là nơi phát tích dân tộc, đem dòng điện của CNXH, của vóc dáng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh thắp sáng cho vùng trời lịch sử nước Việt bốn ngàn năm.

Chiếc ca nô 130 mã lực đưa chúng tôi tham quan du lịch lòng hồ thủy điện Hòa Bình như đưa chúng tôi vào “cõi bồng lai, tiên cảnh”. Mặt nước hồ mênh mang xanh biếc, rừng núi bao quanh thăm thẳm sắc chàm, bầu trời thanh cao, lộng gió, nắng vàng trải khắp. Nếu không thấy những bóng nhà sàn của bà con dân tộc lấp ló trên các triền núi xa xa thì ai cũng cho rằng nơi đây là vịnh Hạ Long, kỳ quan thiên nhiên nhân loại. Cảnh quan trên bờ, dưới nước lòng hồ thủy điện Hòa Bình thật hùng vĩ, tráng lệ nhưng vẫn giữ vẻ hoang sơ, tự nhiên. Nếu là ở một quốc gia có kinh tế phát triển, chốn này chắc chắn là “cục vàng du lịch”. Người ta sẽ không tính toán tiền của để tạo dựng nên những công trình nghỉ ngơi kỳ thú ở khắp các triền núi ven hồ, trên các đảo thấp thoáng giữa hồ. Người ta sẽ đầu tư xây dựng hiện đại các bến đỗ, đền, miếu, chim muông, thú rừng thỏa lòng du khách bốn phương. Người ta sẽ tạo nên các làng du lịch dã ngoại, khách sạn tiện nghi núi rừng, nhà an dưỡng e ấp, yên tịnh làm chỗ nghỉ ngơi, dưỡng sức cho người lao động, cho du khách bốn phương. Người ta sẽ lập nên những đội tàu du lịch với những con tàu tiện nghi, lịch thiệp đón đưa khách tham quan rong ruổi khắp mặt hồ thơ mộng và dừng chân tại các bến đợi, bến chờ để tỏ lòng trắc ẩn, tri ân trời đất, tiên, phật, vạn vật thiên nhiên. Nếu có thêm bàn tay vàng ngọc của những con người tâm huyết kiến tạo nên cái tiên cảnh ấy thì lợi lộc đem về cho quê hương nhiều biết bao nhiêu, làm sao kể xiết!

Cũng chính nơi lòng hồ thơ mộng với hơn 200 km2 này, trước đây vốn dĩ là vùng đất cư trú bao đời của nhiều dân tộc: Mường, Dao, Thái, Tày, Kinh... Mỗi dân tộc đều tạo dựng cho mình một nền văn hóa với bản sắc riêng; có phong tục, tập quán phong phú, những áng văn chương truyền miệng bất hủ nói về lịch sử, triết lý cha ông, truyền tụng từ đời này qua đời khác; với những điệu múa uyển chuyển, tình tứ; những bài dân ca thâm thúy, trữ tình thể hiện tâm hồn, sức sống các dân tộc anh em, như bản trường ca “Đẻ đất, đẻ nước”, “lễ hội cồng chiêng”, văn hóa ẩm thực “xôi týp, rượu cần”...

Kỳ vọng chiêm ngưỡng khung cảnh hồ thủy điện Hòa Bình lung linh huyền ảo khi màn đêm buông xuống với những vầng ánh sáng tỏa ra từ Nhà máy thủy điện, từ thành phố, từ các con tàu du lịch chạy như đan trong đêm, từ các làng bản được thắp sáng bằng ánh điện quê hương vùng lòng hồ Hòa Bình. Đó là vòng hào quang các dân tộc anh em quàng lên mảnh đất thần tích của cha ông ta!.

 27/5/2012

Trần Công Thanh
Theo http://www.baohoabinh.com.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  "Cái chi còn lại họa còn văn chương" Những ranh giới giữa đạo và đời đã không còn nữa, mà quấn quyện vào nhau trong một dòng c...