Hoài Thanh, một sự nghiệp
rộng lớn và sâu sắc
1. Nhắc đến Hoài Thanh, người ta nhắc đến một nhà văn hóa,
nhà phê bình văn học có thẩm quyền. Sinh trưởng trong một gia đình nho học giàu
truyền thống cách mạng, có kiến văn rộng rãi cả Đông và Tây, 19 tuổi Hoài Thanh
tham gia Tân Việt đảng, một lần bị đuổi học, hai lần bị bắt vì các hoạt động
yêu nước. Là một cây bút sắc sảo trên hầu hết các báo chí đương thời với các
bài viết về hàng loạt các lĩnh vực văn chương, xã hội, lịch sử, ngôn ngữ, văn
hóa... Hoài Thanh có đủ tư cách để tuyên bố: "Tìm cái đẹp trong tự nhiên
là nghệ thuật; Tìm cái đẹp trong nghệ thuật là phê bình". Nói theo cách
nói của Lỗ Tấn "đi mãi sẽ thành đường" thì với thiên tư ấy, với loạt
bài kia đã đủ hình thành một con đường riêng trong đoạn đầu đời của Hoài Thanh.
Không lâu lắm, con đường ấy đã được cắm mốc với Văn chương và hành động, một
tác phẩm có tính cách tuyên ngôn cho một văn phái do Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều
và Lưu Trọng Lư là đồng tác giả. Trong Văn chương và hành động, các tác giả
triển khai hàng loạt các vấn đề về văn chương, về nội dung và hình thức, thành
thực và tự do, và đặc biệt là thiên chức nhà văn. Thật đáng kính trọng giữa một
xã hội ngột ngạt và oi bức sau các cuộc đàn áp đẫm máu, các tác giả đã công
khai lên tiếng tố cáo xã hội thực dân phong kiến với những cảnh khốn cùng của
dân mình quyết liệt đến thế, để đi đến một kết luận: "Trước tình thế như vậy,
vòng tay đứng nhìn là một tội ác". Cuốn sách đã bị bọn thống trị thực dân
cấm lưu hành vì tính chất phản kháng và tiến bộ của nó. Hoài Thanh cũng còn nổi
danh trong cuộc tranh luận nghệ thuật đầy ấn tượng những năm 1935-1936. Khi
tuyên bố "Văn chương trước hết là văn chương", Hoài Thanh đâu có thể
ngờ 50 năm sau, Tố Hữu khẳng định "trong văn học cuối cùng là một chữ
Hay"; khi quyết đoán "ở đời đáng quý nhất: Cái tài",
Hoài Thanh cũng không thể nghĩ đến ngày 16/3/2003, nghị quyết 23 của Bộ Chính
trị khẳng định: "Tài năng là vốn quý của dân tộc. Chăm sóc tài năng là
trách nhiệm của Đảng và của toàn xã hội". Hai cách tiếp cận không hoàn
toàn giống nhau về nội hàm nhưng rất gần nhau về quan niệm. Cuộc đời Hoài Thanh
là một hành trình tư tưởng. Mà tư tưởng thì luôn có những miền sâu thẳm, ngổn
ngang, tất bật và tươi sống sự đời. Và tư tưởng dẫu cao diệu và phức tạp đến
đâu cũng không thoát khỏi cái quy luật bổ sung, đào thải, phát triển vô cùng
bình thản và nghiêm trang. Chúng ta đã từng biết có những cuộc tranh
luận nảy lửa, nhưng bình tĩnh lại, ngẫm ra lại là cuộc: "chạm trán giữa
quân ta với quân mình". Cuộc tranh luận "Nghệ thuật vị nghệ thuật,
nghệ thuật vị nhân sinh" diễn ra rất sôi nổi, có lúc quyết liệt, nhưng lại
có một hồi kết có hậu. Các chủ soái của hai bên đều gặp nhau trên đại lộ của
Cách mạng tháng Tám.
2. Nếu lịch sử luôn luôn đúng thì mối duyên Hoài Thanh và Thơ
mới là một chứng minh. Thơ mới cần Hoài Thanh và Hoài Thanh cần Thơ mới. Và Trời
đã thuận cho cả hai. Có biết bao nhiêu là đồng điệu và say đắm. Có giống nhau
và khác nhau. Giống nhau là cả hai đều chịu ảnh hưởng các trào lưu tư tưởng và
nghệ thuật từ bên ngoài. Khác nhau là Thơ mới chịu ảnh hưởng của trào lưu nghệ
thuật đang bị thay thế, còn Hoài Thanh thì chịu ảnh hưởng của những trào lưu tư
tưởng và nghệ thuật đang khai mở. Hoài Thanh đi vào cánh rừng Thơ mới ngây ngất
mà rõ ràng, tinh tế mà vu quát, đến mức có thể nghe được tiếng động cựa của hồn
chữ. Với sự tinh thông và chuẩn xác, ông kiểm kê toàn bộ khu rừng Thơ mới rồi
chỉ rõ đây là lim, kia là táu, là vàng tâm và kia nữa là dổi là chò, sau đó ông
độc hành lên một đỉnh núi cao hơn, dõng dạc tuyên bố: "có một thời đại
trong thi ca". Tôn vinh Thơ mới, xếp hạng Thơ mới, không ai bằng Hoài
Thanh. Nhưng ông không đánh cược với Thơ mới. Do đó khi Thơ mới đã bị vượt qua
thì Hoài Thanh tiếp tục tiến về phía trước. Có một thời đại trong thi ca đã đi
vào quá khứ, và một thời đại thi ca mới đang sinh thành, một thời đại thi ca mà
trong đó Hoài Thanh là một trong những kiến trúc sư.
3. Ngòi bút Hoài Thanh thật sự xuất thần và vô cùng hào sảng
khi bàn về ca dao và Truyện Kiều, một thiên tài vô danh và một thiên tài hữu
danh. Trước và sau Hoài Thanh nhiều người bàn về ca dao. Cái đặc sắc của Hoài
Thanh là mở rộng không gian tham chiếu với sự tiếp xúc văn hoá giữa Đông và Tây
mà bản thân ông là một tiêu biểu đáng kính. Biết mình biết người, từ cái hay của
người mà soi rọi để thấy cái đặc sắc của ta. Thí dụ sau đây là một trường hợp
điển hình. Để khẳng định giá trị của câu hát phường vải:
Đôi ta xa nhau thiên hạ cũng đều buồn
Bốn phía trời đều chuyển động, tám ngọn nguồn rung rinh,
Hoài Thanh dẫn một câu của Lamartine "chỉ thiếu một người
mà cả cõi đời trở nên trống rỗng" (Di bút).
Đối chiếu hai văn bản, chúng ta cảm thấy sự tương đồng kỳ lạ.
Sự uyên bác của Hoài Thanh đem đến sức gợi mở to lớn cho người đọc về sự gặp gỡ
giữa dân tộc và nhân loại.
Một ví dụ nhỏ để nói đến một xác tín lớn. Bài học và tấm
gương Hoài Thanh ứng xử với văn hoá dân tộc. Với một nhân cách văn hoá như Hoài
Thanh tưởng không có ai xứng đáng hơn ông để đảm nhiệm cương vị Chủ tịch đầu
tiên của Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam.
4. Cũng một tình yêu như ca dao, suốt đời Hoài Thanh say mê với Truyện
Kiều, bất cứ ở đâu khi có dịp là ông trở lại với Truyện Kiều.
Trong đời đã có biết bao nhiêu người bàn về Truyện Kiều.
Mỗi người mỗi cách, mỗi người có cái hay riêng. Nhưng ấn tượng nhất đối với tôi
là Hoài Thanh, Vũ Hạnh và Lê Đình Kỵ, trong đó Hoài Thanh chiếm bảng đầu cả về
độ lớn, chiều sâu và sự tinh tế. Trong Bản tự thuật, ông viết "Trên đà những
chuyển biến sâu sắc trong Đông- Xuân 1947-1948 tôi tiếp tục đi vào bộ đội, đi
theo một chiến dịch trên sông Đà. Nhờ vậy tôi đã viết được một số
tác phẩm tốt nhất là quyển Quyền sống con người trong Truyện Kiều của Nguyễn
Du (1949) và quyển Nói chuyện thơ kháng chiến (1951). Và ông còn
cho biết thêm: "Năm 1948 sau khi viết xong quyển sách nhỏ về Truyện
Kiều, tôi có đưa anh Tố Hữu xem. Lúc bấy giờ chúng tôi cùng sống trong một xóm
nhỏ trên bờ sông Thao. Xem xong, anh Tố Hữu chỉ nói vắn tắt:"Hay!".
Do đó tôi đã mạnh dạn đưa in. Sách in ra liền được báo Đảng - tờ Sự thật -
giới thiệu và khen. Giá tôi không được gặp anh Tố Hữu mà lại gặp một cán bộ
lãnh đạo có ý kiến khác hẳn về Truyện Kiều thì bước đường đi theo Đảng của tôi
chắc đã gặp thêm khó khăn không ít".
Đi kháng chiến để viết về kháng chiến là chuyện dễ hiểu. Đi
kháng chiến để viết về Truyện Kiều là một ngạc nhiên. Lý lẽ là ở đâu?
Suy nghĩ mãi, tôi tự giải thích cho mình như sau: Hoá ra để trở về quá khứ cũng
cần có hơi ấm của hiện tại. Và cần hơn là tiên phong về tư tưởng và đứng vững
trong lòng dân tộc. Đọc Hoài Thanh ta cảm thấy ngoài năng lượng của sách vở,
còn có năng lượng của sự trải nghiệm khắc nghiệt mới đạt đến sự giản dị và sâu
sắc như thế.
5. Đời sống văn học hơn nửa thế kỷ qua là một bức tranh rộng
lớn phong phú và sôi động. Tác động có tính quyết định vào dòng chảy đó là tứ
trụ cơ quan:
- Vụ Văn nghệ Ban Tuyên giáo Trung ương
- Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam
- Hội Nhà văn Việt Nam
- Viện Văn học
Hoài Thanh lần lượt tham gia lãnh đạo cả bốn cơ quan đó, và
là chuyên gia hàng đầu cho Đảng và Nhà nước về văn học, nghệ thuật. Đảm trách
những vinh dự đó, Hoài Thanh gặp một khó khăn. Đó là việc sắm vai. Vấn đề đặt
ra là ông sẽ làm một cán bộ chỉ đạo văn nghệ thuần tuý hay là một nghệ sĩ làm
cán bộ. Hoài Thanh chọn phương án hai. Kết quả, ông vẫn giữ được cái tươi tốt của
ngòi bút cho đến lúc cuối đời. Ở Hội Nhà văn với tư cách là uỷ viên thường vụ,
ông được trao trách nhiệm làm chủ nhiệm Tuần báo Văn nghệ trong nhiều
năm. Ở Viện Văn học, ông là Phó Viện trưởng kiêm Thư ký toà soạn Tạp chí Văn
học còn nhiều năm hơn. Nhà văn Nguyễn Đình Thi nhiều lần nói rằng, quyền lực
thực tế trong văn học là các ông Tổng biên tập báo chí và các ông Giám đốc nhà
xuất bản. Quyền lớn nhất của họ là ấn nút thông tin. Thực tế đã kiểm nghiệm, thời
gian Hoài Thanh cầm quyền ấn nút thông tin hai cơ quan báo chí nói trên đều là
một trong những thời hoàng kim của hai cơ quan ấy. Chúng ta lại được biết thêm
một khía cạnh nữa của tài năng đa dạng Hoài Thanh.
Trước lúc mất ít lâu, Hoài Thanh tâm sự với con trai
"Cha viết văn đã 20 năm nhưng công việc cha thích nhất là dạy học và bình
thơ "bình thơ hay, vô luận của ai". Với tầm nhìn xa rộng và với phẩm
chất một nhà giáo và một nhà văn, Hoài Thanh dành rất nhiều tâm huyết và gửi gắm
cho việc đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ trong các công việc ở trường Đại học, ở
Trường Viết văn Quảng Bá, ở Viện Văn học và Tuần báo Văn nghệ. Những bài
viết của ông dành cho Lê Anh Xuân, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Duy, Cảnh Trà... những
bài phát biểu nhân tổng kết các cuộc thi thơ trong thời kỳ chống Mỹ liền mạch với
những bài về thơ bộ đội trong kháng chiến chống Pháp vẫn theo một lối hành xử với
tài năng từ dạo Thi nhân Việt Nam. Tôi thích cái tư thế đồng hành của ông,
cái tư thế dám hạ bút khi một tên tuổi còn rất lạ lẫm, đang phát triển. Phê
bình ở đây là năm ăn năm thua, có thể xem như một mạo hiểm, nếu không có biệt
nhãn không thể làm được. Thi nhân Việt Nam có rất nhiều tiên đoán, cuộc
thi thơ 1969 của báo Văn nghệ ông cũng có những tiên đoán tuyệt vời. Ảnh
hưởng của nhà phê bình là như thế. Hậu thế thắp hương ông.
Gánh vác một khối công việc bề bộn, với nhiều thiên chức
trong một con người, Hoài Thanh bao quát sự vận động của gần một thế kỷ văn học,
một thế kỷ với những thay đổi phi thường, một thế kỷ trùng điệp những tên tuổi
sáng giá, trong đó ông đã sống và viết một cách trung thực. Viết và đi bình về
thơ Bác, tác phẩm của Phạm Văn Đồng, thơ Tố Hữu, Thanh Hải, văn của Nguyễn Thi,
Anh Đức, về những bức thư Từ tuyến đầu Tổ quốc, về nhiều nhà văn nước
ngoài, đồng thời trở lại với Chinh phụ ngâm, Phan Trần, Hoa tiên... ngòi
bút Hoài Thanh như một dòng suối bất tận, nêu một tấm gương hoạt động xã hội và
văn chương không mệt mỏi. Ai muốn tìm mẫu mực về những bài phê bình vừa đúng vừa
hay, xin hãy đọc Hoài Thanh. Ai muốn chứng minh Phê bình vừa là khoa học, vừa
là nghệ thuật xin hãy đọc Hoài Thanh.
Hoài Thanh sống trọn vẹn với thời đại của ông và trọn vẹn với
chính mình, theo nguyên tắc "thành thực và tự do" được xác định ngay
từ những buổi đầu. Trong cuộc sống bình thường để "thành thực và tự
do" đã khó, huống hồ với một thế kỷ nhiều giông bão và ngặt nghèo như thế
kỷ XX, để thành thực được và tự do được là muôn vàn thử thách. Hoài Thanh đã
chia sẻ với thời đại của mình và bây giờ đến lượt chúng ta chia sẻ với ông. Bởi
lẽ, dẫu là một thiên tài thì việc phóng xa những tiên cảm về phía trước là có
thể, nhưng đứng ra ngoài thời đại của mình là không thể. Di sản của Hoài Thanh
là một khối đồ sộ những ký thác và tin tưởng, thật đáng tự hào. Tài sản của
Hoài Thanh đã đi vào lịch sử. Một tài sản lấp lánh biết bao vẻ đẹp của một nhà
văn hóa và nhà phê bình văn học tiêu biểu. Một trăm năm rồi nhiều trăm năm,
Hoài Thanh tiếp tục so bước với tương lai1.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét