Nhạc
sĩ Lê Thương
và 70 năm Hòn vọng phu
Nhạc sĩ Lê Thương tên thật là Ngô Đình Hộ, sinh ngày 8 tháng
1 năm 1914 tại Yên Viên, Hàm Long, Hà Nội.
Ông mồ côi mẹ từ năm chín tuổi, cha tục huyền, bốn anh em gồm ba trai một gái,
được bà nội đem về nuôi. Bà nội là Trùm một họ đạo Thiên Chúa ở khu phố Hàm
Long thời ấy nên Lê Thương được bà dưỡng dục trong môi trường đạo giáo. Kiến thức
âm nhạc do năng khiếu bẩm sinh và hấp thụ trong môi trường nhà Dòng, chứ không
được học ở một trường lớp nhạc lý nào khác. Khi tu ở nhà Dòng ông có tên là
Bénilde (theo nhà thơ Huy Trâm), tu được một thời gian rồi hoàn tục, trở về dạy
học năm 1935.
Bút danh Lê Thương do ông ghép họ mẹ với tên con sông Thương, dòng sông của kỷ
niệm tuổi thơ trong những dịp nghỉ hè với gia đình một người bạn học ở một đồn
điền tại Đồng Đăng, nơi có tượng đá Tô Thị vọng phu. Hình tượng và huyền thoại
Tô Thị đã in vào lòng ông, để sau này thành một trong những tố chất làm nên trường
ca Hòn Vọng Phu bất tử.
Thời 1937, khi thuyên chuyển về dạy học ở Hải Phòng, ông đã cùng với Văn Cao,
Hoàng Quý, Hoàng Phú, Phạm Ngữ, Canh Thân... cùng với một số ca sĩ thời bấy giờ
thành lập nhóm Đồng Vọng để sáng tác và hát phụ diễn cho ban kịch của Thế Lữ tại
Hải Phòng.
Năm 1938, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên ra Hải Phòng diễn thuyết, Lê Thương đến dự
và do thính giả yêu cầu, ông có trình bày một bản tân nhạc. Theo cách phân chia
của Lê Thương trong bài viết “Nhạc Tiền Chiến - Lời thuật của Lê Thương” thì nền
Âm Nhạc Mới (Tân Nhạc) của Việt Nam bắt đầu vào thời điểm này: “Năm xuất hiện
chánh thức của phong trào Âm Nhạc Mới là tháng 3 năm 1938, khi nhạc sĩ Nguyễn
Văn Tuyên từ Sài Gòn ra hô hào (cho âm nhạc cải cách) tại đất Bắc... Từ đầu
1939, một số bài nhạc của vài nhóm đã thấy treo bán tại các hiệu sách.” (Nguồn: khanhly.net/ phoxua)
Năm 1941 Lê Thương vào Nam dạy học ở tỉnh Kiến Hòa và Sài Gòn. Ngày 23 tháng 9
năm 1945, Pháp đánh Sài Gòn, ông chạy xuống Mỹ Tho, theo kháng chiến ở các vùng
quê. Đây là lúc Lê Thương soạn một truyện ca kháng chiến nổi tiếng: “Lòng Mẹ Việt
Nam” hay “Bà Tư Bán Hàng,” và phổ nhạc nhiều bài thơ, đặt lời cho một số bản nhạc
ngoại quốc.
Khi rời bỏ vùng kháng chiến, ông từng ngồi tù tại Mỹ Tho cuối năm 1946. Cuối
1947 ông được thả và trở về Sài Gòn, thêm một lần bị Pháp bắt giam vào khám
Catinat cùng Phạm Duy và Trần Văn Trạch năm 1951.
Lê Thương là nhạc sĩ tiên phong của nhiều thể loại âm nhạc, từ những truyện ca,
nhạc hài hước, tới những bài hát thiếu nhi. Thời VNCH ông cùng nhạc sĩ Lê Cao
Phan phụ trách ban nhạc Măng Non trên đài phát thanh Sài Gòn, phát thanh các
truyện cổ tích, khúc dân ca, bài ca nhi đồng. Nổi tiếng hơn cả là bài Thằng Cuội: "Bóng trăng trắng ngà/ Có cây đa to/ Có thằng Cuội già/ Ôm một mối mơ...". Ông
cũng là tác giả bài Học Sinh Hành Khúc, rất phổ thông tại các trường học: Học
sinh là người tổ quốc mong cho mai sau...
Bên cạnh công việc sáng tác, ông dạy sử địa tại một số trường trung học, dạy nhạc
sử tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Và Kịch Nghệ Sài Gòn. Từng là một kịch sĩ trong
ban kịch của Thế Lữ từ 1930, ông cũng gia nhập ban kịch Sầm Giang của Trần Văn
Trạch ở Sài Gòn. Lê Thương đã sáng tác ca khúc cho nhiều kịch bản, viết nhạc
phim cho hãng phim Mỹ Vân. Ông còn tham gia đóng phim Đất Khổ, phim của đạo diễn
Hà Thúc Cần dựng theo tác phẩm “Giải Khăn Sô cho Huế” của nhà văn Nhã Ca.
Nhạc sĩ Lê Thương lập gia đình cùng một phụ nữ học ở Pháp về. Ông bà có 9 người
con. Ông mất vào ngày 17-9-1996 tại Sài Gòn, thọ 82 tuổi.
Hòn Vọng Phu, tác phẩm để đời
Trong sự nghiệp sáng tác của Lê Thương, vượt trên tất cả là ba bài Hòn Vọng
Phu. Đây là bản trường ca trường ca đầu tiên của âm nhạc Việt Nam, khởi viết từ
1942, hoàn tất năm 1947.
Ngôn ngữ trong Hòn Vọng Phu được thăng hoa đầy tính thẩm mỹ. Lời hát quyện chặt
với hồn nhạc ngũ cung Việt Nam. Hơn 70 năm sau, sức sống của trường ca bất từ
này vẫn vượt qua mọi giới hạn của thời thế và tiếp tục âm vang.
Sau đây là những ghi nhận về quá trình sáng tạo tác phẩm âm nhạc để đời này.
Hòn Vọng Phu 1- Đoàn Người Ra ĐiĐoàn Người Ra Đi
Trên đường vào Nam, Lê Thương đi ngang Phú Yên và bị
thu hút bởi tượng Vọng phu cùng quang cảnh non nước “mê hoặc” ở vùng này, từ
đây “Lệnh vua hành quân trống vang dồn…” ra đời. Có thể nói hình ảnh tượng đá Vọng
Phu ở Phú Yên đã ảnh hưởng mạnh nhất tới cảm xúc của Lê Thương. Ông giải thích:
“Núi Vọng phu ở Phú Yên tại một vùng địa lý hơi man rợ, thâm u là đá đẹp nhất,
xem từ biển nhìn vào làm cho tôi cảm mến. … Nhớ lại năm 1470 đầu niên hiệu Hồng
Đức tại vùng này có "thạch bi sơn" làm biên giới Việt Nam và Chiêm
Thành còn sót lại... Cảnh trí đường đèo quanh co, cây cỏ um tùm man rợ làm cho
dân gian ghi tạc mấy câu vè siêu thực đầy tính bí hiểm: “Mưa Đồng Cộ, Gió Tu
Hoa, Cọp Ổ Gà, Ma Hòn Lớn”. |
Lời sơ giải của dân gian kể là: “Trên một cao nguyên nhỏ vùng
đèo, thường có mây dày đặc chỉ cần gọi nhau trên đó là mưa rớt xuống (còn nhiều
di tích dân cổ Chiêm Thành trên đó).
Đường lên ngọn cao nơi đó, sườn núi bị soi mòn, gió biển thổi
qua các khúc quanh co, nghe như tiếng hú âm u. Đó là Mưa Đồng Cộ, gió Tu Hoa…
“Còn Hòn Lớn thì nghe như một cái đảo âm u ngang vùng Phan
Rang gì đó, có rất nhiều “ma hồi” đêm cứ lập lòe nhát các ngư phủ ghé thuyền
tránh gió đến đó qua đêm!
Quang cảnh hú vía của thiên nhiên, trộn vào ảnh cảm địa lịch
qua từng bước đường nam tiến vẫn ám ảnh tâm hồn tôi, một cậu trai giàu tưởng tượng
để lúc sống bên bờ kinh Chẹc Xậy (tỉnh Bến Tre thân mến) phải thể hiện thành
bài Hòn Vọng Phu 1.
Đó là những hình ảnh tác động trực tiếp đến ông, và phần sâu
xa nhất trong tâm thức ông là tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn/ bản dịch
Đoàn Thị Điểm. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho Lê Phương Chi, nhạc sĩ đã xác
nhận điều này: “... Xin thú thật là tôi còn chịu ảnh hưởng sâu xa trong Chinh Phụ
Ngâm, cụ thể là:
Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt. Thì trong Hòn Vọng
Phu I tôi biến thành: “Lệnh vua, hành quân, trống kêu dồn...”/ Tới Man Khê bàn
sự Phục Ba..., tôi biến nó thành: “Bến Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng/ Bến
Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng...”
Có thể nói, những câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm đã in sâu vào
tiềm thức những ngày tôi còn học ở nhà trường. Rồi với những ấn tượng thắng
tích đá Vọng Phu qua truyền thuyết thiếu phụ ôm con mòn mỏi trông chồng đến nỗi
hóa đá, đã hằn sâu trong tâm tư tôi, nay gặp ngoại cảnh núi sông hùng vĩ hiện
ra trước mắt, đó là môi trường thuận lợi tác thành những giai điệu trong nhạc
phẩm Hòn Vọng Phu 1.”
Vậy là Hòn Vọng Phu 1 được ra đời năm 1943 tại Bến Tre, nơi
ông dạy học. Ở Hòn Vọng Phu 1 có bốn câu sau đây mà tôi đồ rằng đó chính là cái “Key”
để dẫn dắt hành trình tâm lý cho cả bài trường ca: “Chiêng trống khua trăm hồi,/
ngần ngại trên núi đồi,/ rồi dậy vang khắp nơi/ thắm bao niềm chia phôi…”
Cuộc xuất binh đầy thanh thế, trống đánh chiêng khua, cờ bay
phất phới, nhưng, trước khi âm thanh ấy bừng bừng vang dội khắp nơi thì nó lại
có một khoảng thời gian “ngần ngại” như một dấu lặng. Lê Thương đã hết sức tinh
tế, khi tả cái tình huống vừa hùng tráng của phút ra quân, vừa là nỗi lòng trước
cảnh chia ly không hẹn ngày trở lại. “thắm bao niềm chia phôi” của kẻ chinh phu
và người chinh phụ. Bài hát là một hành khúc hùng tráng được viết ở cung Re thứ.
Từng cụm âm thanh xô đẩy nhau diễn tả khí thế xuất binh… đến phần kết thúc bằng
hai câu: “Người tung hoành bên núi xa xăm, Người mong chồng còn đứng muôn năm”
thì nhạc chậm lại và dứt bằng nốt chủ âm vang vọng.
Hòn Vọng Phu II - Ai Xuôi Vạn LýẢnh bìa nhạc do Tinh Hoa xuất bản. (Hương Nam
xuất bản lần đầu vào tháng 10 năm 1946)
Trong thư viết gửi bác sĩ Phương Hương, nhạc sĩ Lê Thương cho biết: “Bài Ai
Xuôi Vạn Lý (Hòn Vọng Phu 2) là cuối năm 1945 sang 46, tôi theo kháng chiến tỉnh
Mỹ Tho đi từ Cai Lậy, thuộc Nhiêu, Vĩnh Kim qua sông, đi với các em phần đông
là học sinh Petrus Ký mà tôi là trưởng đoàn Ca Nhạc với những bài thanh niên lịch
sử và riêng Hòn Vọng Phu 1 nghêu ngao qua các làng dừa từ Thành Triệu, An
Khánh, Phú An Hòa, Quới Sơn, Giao Long, Giao Hòa, cho đến Dòng Sầm, gần Bình Đại...
Bỗng Tây đem tàu tấn công ba Cù Lao, Minh, Bảo, An Hóa. Tiếng Canon 75 bắn tủa
vào các bờ sông có dừa, máy bay phun lửa “spitfire” từ trời bắn xuống. Đoàn phải
tan rã các em trong đoàn chạy hầu hết về gia đình, chỉ còn tôi và người bạn Ánh
(nay đã chết) trốn được vào vùng lá Dòng Sầm cách Bình Đại bốn cây số.
Chúng tôi được vài gia đình người Cao Đài làm đầu tộc đạo nơi đó thương xót giấu
trong bìa lá và giúp lương thực sống trong sự khủng khiếp hằng ngày vì tên Pháp
lai Leroy và bọn lính Partisans đầu đỏ xục xạo làng xóm gieo khủng khiếp. Lúc đầu
chúng tôi còn trốn vào sâu trong ruộng, đem gạo cơm đi ăn tối về nằm trong kho
lúa. Sau vì còn thấy nguy hiểm nên anh Tư - bà con với ông đầu tộc đạo dẫn
chúng tôi vào bìa lá dòng Sầm dày 4,5 trăm thước sát cửa biển Bình Đại.Từ trái sang phải: Trần Văn Khê,
Trần Văn Trạch và Lê Thương năm 1949.
Tại nơi yên tĩnh này chúng tôi được sống bên bờ rạch dày đặt lá dừa nước! May
mà còn chiếc mùng “Tuyn” (tulle) để tránh muỗi, đêm đêm nghe dế than, cá thòi
lòi đập đuôi lạch bạch dưới sình và tâm hồn lo âu vô vọng. Tôi hay nghĩ đến sự
chết thê thảm cô đơn và lẩn vẩn trong trí óc sự tiếc nuối mênh man như lòng người
chinh phụ trong giang san Đèo Cả.
“Thôi đứng đợi làm chi. Thời gian có hứa mấy khi sẽ đem đến
trả đúng kỳ. Những người mang mệnh biệt ly.”
Nhờ cây viết máy Kaolo khô mực và nước rạch nhỏ vào cho ướt lại,
tôi viết mấy ô nhịp trên.
Tâm hồn rạo rực trong mỗi buổi chiều tà làm bốc lên những tiếng
mới của bài Hòn Vọng Phu 2, tức Ai xuôi vạn lý, được ghi vội vã lộn xộn nhưng
cuồng nhiệt như tâm hồn tôi ghì lấy sự sống”.
Qua lời tỏ bày của Lê Thương, chúng ta thấy được nhờ sự gian
nan, thiếu thốn mà ông bật lên những cung nhạc tài hoa trong Hòn Vọng Phu 2. Những
lần chạy trốn hiểm nguy, cái chết cận kề, cái chết luôn lảng vảng trước mặt, bằng
sự cảm nhận thiết tha với sự sống, ông đem hòa nhập những điều này vào nỗi lòng
chinh phụ.
Phần đầu, expressivo, ông ông dành cho người hát diễn tả tự cảm
xúc. Chính vì vậy hai câu: “Khi tướng quân qua đồi, kéo quân, quân theo cờ, Đoàn
cỏ cây hãy còn trẻ thơ, cho đến bây giờ đã thành/ đoàn cổ thụ già” nhờ một dấu
nghỉ giữa hai chữ “thành” và “đoàn” làm ta cảm nhận được cái dài đằng đẵng của thời
gian. Từ lúc xuất chinh, cỏ cây chỉ là thơ trẻ mà giờ đây đã trở thành một khu
rừng cổ thụ!
Bài Vọng Phu 2 là bài đặt biệt nhất trong ba bài. Đặc biệt vì hai bài kia chỉ thuần
là kể chuyện; riêng bài này Lê Thương, trong lúc xuất thần ông thấy mình đang
là chứng nhân của cảnh người vọng phu cương quyết trơ gan cùng phong nguyệt, đứng
lặng nhìn về phía trời xa, một dạ đợi chồng. Ông không còn đóng vai kể chuyện nữa
mà nhập vào câu chuyện trong cổ tích để nói lên nỗi lòng thương cảm của mình với
nàng chinh phụ. “Có ai xuôi vạn lý nhắn đôi câu giúp nàng, Lấy cây hương thật
quý, thắp lên thương tiếc chàng. Thôi đứng đợi làm chi, thời gian có hứa mấy
khi sẽ đem đến trả đúng kỳ. Những người mang mệnh biệt ly…”
Sự thương cảm đã được đẩy lên cao độ, ông quý yêu nàng, khâm phục nàng bằng tất
cả tấm lòng nên tôn xưng nàng là “Bà”. Chữ bà được trịnh trọng viết hoa trong bản
nhạc. Bà là danh xưng tôn quý dành cho những người phụ nữ có công đức, tài ba
giúp đỡ dân lành. Được thờ tự trong am miếu.
Một chi tiết mà có lẽ ít người để ý là “Trời chuyển mưa trong tiết tháng ba, Suốt
năm nước nguồn tuôn đổ xuống "Bà", hình hài người bế con nước chảy
chan hòa”. Dân gian có câu “Tháng Ba bà già đi biển” ý nói thời tiết vào tháng
Ba ở vùng biển rất là tốt, biển êm sóng lặng, không hề có mưa giông gió bão. Thế
nhưng lòng son sắt của người đàn bà chờ chồng kia đã động đến thiên đình, dù
theo thông lệ không cho mưa vào tháng ba, trời làm mưa như thác đổ, để giúp
nàng quên đi cái nắng đổ lửa, cái gió cát xốn xang lòng mắt. Và cũng để “Thấm
vào đến tận tâm hồn đứa con”.
Nhìn tượng vọng phu trên dãy Trường Sơn, ông lãng mạn giải thích, núi non
thương tình nên kéo nhau đến kính cẩn quỳ trước mặt nàng tung hô tình yêu bất
diệt, và, từ đấy, núi non không đi nữa cùng ở lại với nàng, trở thành dãy Trường
sơn của nước Việt. “Nên núi non thương tình, kéo nhau đi thăm nàng Nằm thành
Trường Sơn vạn lý xuyên nước Nam. Nhiều đồi núi khác cũng động lòng "rủ nhau kéo thành đảo xa, ra tới tận
khơi ngàn... Xem chàng về hay chưa?”
Cũng vậy, sức liên tưởng, tưởng tượng của Lê Thương thăng hoa đến nỗi ông biến
dòng sông Cửu Long thành “Chín con long thật lớn, muốn đem tin tới nàng, Núi
ngăn không được xuống, chúng kêu ca dưới ngàn.”
Cũng trong bài 2 có 4 câu sau đây, tưởng cũng nên lạm bàn đôi chút: “Có con
chim nhỏ bé/ Dám ca câu sấm thề/ Cuối thu năm Mậu Tý/ Tướng quân đem kiếm về…”.
Tại sao “Cuối thu năm Mậu Tý” mà không là một năm Dần, Mẹo nào đó?
Lê Thương sáng tác Hòn Vòng Phu 2 vào cuối 1945 sang đến 1946, Bính Tuất. Thời
gian ngắn nhất là 2 năm nữa, là năm Mậu Tý (1948). Vậy thì chỉ có năm Mậu Tý là
năm gần nhất và khả thi trong âm nhạc để tướng quân đem kiếm về!
Hòn Vọng Phu III - Người Chinh Phu vềẢnh bìa do Tinh Hoa xuất bản.
(Dân Tộc xuất bản lần đầu vào năm 1949)
Thời điểm năm 1947 là lúc nhạc sĩ Lê Thương trở về lại Sài
Gòn, cũng là thời gian ông viết bài Hòn Vọng Phu 3 để hoàn tất một trường ca bất
hủ. Ông nói: “Người Chinh Phu Về (HVP3) với tình nghĩa vợ chồng đổi sang tình
nghĩa non sông, nhìn đứa con để trao cho nó thanh kiếm sơn hà. “Trao nó đi gây
lại cơ đồ”. Linh tính làm người Việt Nam giữa thời khói lửa vẫn đinh ninh là Hạnh
Phúc vẫn là mục tiêu không kỳ hạn mà dân tộc phải tìm lâu dài cho đến khi quân
bình được những cảm tình trái ngược mà lẽ đời sôi động của cuối thế kỷ đã lôi
cuốn bao lớp người vào lãng phí sinh mạng như vào hận tủi bi thiết của nhân sử
nòi Việt”.
Không cần phải có hòa âm, phối khí gì cả, chỉ cần khi xướng âm nó chúng ta vẫn
nghe, thấy được tiếng vó câu dồn dập, tiếng ngựa hý vang trời của đoàn quân trở
về trong niềm vui chiến thằng: Đường chiều/ mịt mù/ cát bay/ tỏa bước ngựa phi…
Sau đó là nhịp điệu chậm lại, diễn tả mối thương tâm của người chinh phụ khi phải
chứng kiến cảnh hoang tàn của mộ bia của đình làng như một sử tích:
“… Từ bóng cây ngôi mộ bên đường
Từ mái tranh bên đình trong làng
Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống
Bao mối thương vang động trong lòng…”
Đến đây, Lê Thương lại nẩy sinh một ý kiến mới, một ý kiến tích cực hơn trong
câu chuyện có nhiều phần tiêu cực là hướng đến sự thiêng liêng cao cả của truyền
thống chống ngoại xâm, khác đi huyền thoại nhân gian kể về sự tích Hòn Vọng
Phu. Trong truyện kể khi người chinh phu trở về, người vợ Tô Thị bồng con lên
núi chờ chàng và đã hóa đá. Nhưng Lê Thương vì muốn nêu cao tinh thần yêu nước,
chống ngoại xâm từ thế hệ này sang thế hệ khác của dân tộc Việt Nam. Thanh gươm
báu tượng trưng cho lòng yêu nước được kế thừa nên ông đã kể lại rằng: Nàng
chinh phụ nhắn, xin lỗi chồng phải nhờ người khác trông nom đứa con, để mình
nàng đến tận mỏm núi cao mà vời vợi trông chàng: “Hỡi người chinh phu, anh hùng
non sông/ Trao người con quý cho người trông nom/ Thiếp xin lỗi thề”.
Nên chi, khi người chồng trở về: “Cầm chiếc gươm chinh phụ di truyền/ Chàng bế
con trao lại gươm bền/ Rồi chỉ vào sơn hà biến cố /Trao nó đi gây lại cơ đồ”.
Sức sống của trường ca Hòn Vọng Phu hơn 70 năm qua, được
trình diễn từ những ca sĩ lừng danh, những ban hợp ca chuyên nghiệp cho đến
nghiệp dư, các trường học. (Người viết bài này cũng từng hân hạnh đứng trong ban
họp ca trường học của mình để tập hát Hòn Vọng Phu).
Phạm Duy đã viết trong hồi ký: “Trong số những bạn đồng nghiệp, tôi yêu nhất nhạc
sĩ Lê Thương…” và, "… Tôi cũng cho rằng trong làng tân nhạc, Lê Thương là
người trí thức nhất. Mỗi bài nhạc, mỗi giai đoạn nhạc của anh đều chứa đựng
thông điệp…”.
Không chỉ Phạm Duy mà nhiều nhạc sĩ tên tuổi khác đều tỏ lòng quý mến, khâm phục
tài năng âm nhạc của Lê Thương, nhạc sĩ Văn Cao cũng thừa nhận ông đã ảnh hưởng
Lê Thương trong việc học tập và kế thừa nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam.Thủ bút Lê Thương viết từ Saigon
cuối thập niên 80' fu73i bác sĩ Phương Hương
Một vài kỷ niệm
Tôi hân hạnh được quen biết và cảm mến nhạc sĩ Lê Thương khoảng
năm 1984 hay 1985, không nhớ rõ. Ông dáng người có vẻ phốp pháp, cặp mắt kính
dày cộm, giọng nói trầm, ấm. Ông nói năng giản dị nhưng ân cần, điểm giữa là những
tiếng cười, có khi thật hiền, có khi thật sảng khoái; ông làm người nghe cuốn
hút theo.
Hiểu biết của ông về âm nhạc, về lịch sử, về văn chương thì hẳn là mênh mông.
Đây là lần đầu tiên tôi mới biết bài Học Sinh Hành Khúc mà tác giả chính là
ông. Những học sinh trước năm 1975 hầu như ai cũng quen thuộc, từng hát bài
này, quen thuộc đến độ đã không ít người hát “chế” câu đầu thành “Học sinh là
người hũ tiếu ăn hai ba tô”. Tôi nhớ mãi câu nói thật vui, thật hóm hỉnh của
ông mục đích là dặn tôi nhớ số nhà để sau này trở lại chơi. “Thuốc ba con 5
thì dễ nhớ rồi phải không, vậy thì nhớ ông Lê Thương chỉ hút 2 con 5 thôi nhé”
(Nhà ông ở số 55 đường Bùi Viện). Những năm tháng về sau tôi thường đến nhà
ông, để được nghe những lời nói, những câu chuyện thật hóm hỉnh nhưng sâu sắc của
ông. Lúc nào ông cũng rất lịch sự lắng nghe tôi nói, đối xử với tôi như người
ngang hàng. Đây là một đức tính rất hiếm hoi ở người lớn đối với hậu sinh nhỏ
thua mình trên 30 tuổi.
Sau 1975 ông có soạn một tập sách, đặt tên là Tạp Sự, ghi lại những chuyện đời
của các ca nhạc sĩ cải lương, tân nhạc miền Nam được khoảng trên 300 trang viết
tay. Khi Lưu Hữu Phước vào Nam, ghé thăm ông, biết cuốn này, muốn xin ông đem
in, ông hẹn trả lời sau. Mấy hôm sau khi nhà thơ Huy Trâm đến chơi ông đem việc
này hỏi ý, Huy Trâm nói in nguyên văn thì cũng tốt nhưng sợ là họ thêm bớt chi
đó làm hại đến công trình tâm huyết của mình. Sau đó Lê Thương không nhắc đến
việc này nữa.
Những văn nghệ sĩ thường lui tới nhà ông giai đoạn này mà tôi thỉnh thoảng gặp
là các nhạc sĩ: Lê Cao Phan, Nguyễn Hữu Thiết, Châu Kỳ, Đức Quỳnh, Bắc Sơn… các
nhà thơ như Huy Trâm, Tô Như, Hải Phương… Ông lúc nào cũng niềm nở, ân cần và
khiêm tốn với tất cả mọi người. Ông luôn nói với những người nhỏ thua ông nhiều
tuổi, trong đó có tôi, là hãy cứ gọi ông bằng anh cho thân tình văn nghệ.
Đã ngoài 70 tuổi nhưng Lê Thương rất khỏe, ông đạp xe đạp đến tận Gò Dưa để
thăm mộ Hoàng Trúc Ly. Nhiều lần ông và tôi mỗi người một chiếc xe đạp, cót két
đạp từ Sài gòn xuống Thủ Đức, đều đi về trong ngày. Ở Thủ Đức có chị Kiêm Lang
là một người rất yêu thích văn chương, ca nhạc thường mời anh chị em văn nghệ
sĩ xuống nhà chơi, đãi đằng, văn nghệ, có cả lén nhảy đầm. Nhạc sĩ Đức Quỳnh là
người có những bước nhảy rất đẹp, thường nhảy biểu diễn, được mọi người vỗ tay
tán thưởng thật nhiều.
Khoảng năm 1988, một hôm Ông bảo tôi rằng Ông được Thông Tin Văn Hóa Sài Gòn,
qua nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu, cho phép tổ chức Đêm Nhạc Lê Thương. Tôi rất vui mừng
khi nghe tin này, và tôi thật ngạc nhiên khi ông bảo là nhờ tôi viết script cho
chương trình. Tôi hơi hoảng, xin từ chối vì không đủ khả năng. Ông cười tuềnh
toàng, nói tôi đã nghĩ rồi, anh làm được mà, gắng giúp tôi đi nhé. Sau đó ông sắp
xếp đưa tôi đi gặp một số ca sĩ như Thanh Lan, Hồng Vân… và ca đoàn nhà thờ ở
Ngả Tư Bảy Hiền. Việc chưa đi vào đâu thì ngoài Hà Nội gửi điện vô báo là cho
phép tổ chức Đêm Nhạc Lê Thương với điều kiện chỉ được trình diễn nhạc của Lê
Thương từ trước năm 1945. Ông báo tin cho tôi bằng giọng nói thật bình thường
chẳng chút buồn bã. Ông nói thêm là anh biết đấy trước 45 tôi đâu có đủ nhạc để
trình diễn một chương trình dài như vậy. Rồi ông cười khè khè. Thế là “Đêm Nhạc
Lê Thương” im lìm hủy bỏ.
Bà Lê Thương, với di ảnh và tượng Lê Thương do người bạn
thân là nhạc sĩ Lê Cao Phan điêu khắc (Ảnh 2016)
|
Năm 91 tôi đi Mỹ, khoảng ba bốn năm sau, hay tin ông bị mất
trí nhớ nặng. Ông mất vào năm 1996 trong sự bàng hoàng thương tiếc của anh chị
em trong giới văn nghệ và cả dân chúng nữa.
Lê Thương, một nhạc sĩ tài ba, một vị thầy giáo tài giỏi, đức độ, một người nặng
lòng với nước non, một nghệ sĩ lãng mạn với tâm hồn bay bổng thanh cao. Tình
yêu trong âm nhạc của ông là một loại tình yêu không đắm chìm trong thân phận,
dang dở yêu thương của đời thường, mà ông hướng về sự thanh cao, trong sáng như
trăng rằm, keo sơn son sắt như “Bà” Tô Thị. Ông phả vào tâm hồn thanh niên học
sinh những câu ca “vì dân, vì nước”. Nói về tính hài hước của Lê Thương, người
quen biết với ông đều nhận thấy. Trong đời sống thường hằng, cũng như qua những
bài nhạc như: Hòa Bình 48, Đốt Hay Không Đốt… Lê Thương đã cho chúng ta những nụ
cười mỉm nhẹ nhàng nhưng nhiều khi nôn cả ruột. Nhưng nếu tôi được chọn trong 2
từ ngữ hài hước và dí dỏm để chỉ về ông, tôi sẽ chọn dí dỏm. Vừa nhẹ nhàng vừa
sâu sắc. Vừa thâm trầm vừa trí tuệ. Vừa hóm hỉnh vừa chừng mực. Không có sự nhố
nhăng, hời hợt hay quá khích trong tinh thần hài hước của Lê Thương.
Hiện nay, căn nhà số 55 đường Bùi Viện Q. 1 Sài gòn của nhạc sĩ Lê Thương may mắn
chưa đổi chủ. Bà Lê Thương năm nay 86 tuổi, vẫn còn sống nhờ sự chăm sóc của
người con gái tên Thủy trong căn nhà giữ y như ngày xưa. Chị Thủy cho biết là
khoảng 10 năm qua, chị đại diện cho gia đình hằng quý nhận được tiền tác quyền
nhạc của ông khoảng vài triệu đồng (gần 100 Đô Mỹ) từ Hội Bảo Vệ Tác Quyền Âm
Nhạc Việt Nam tại Sài Gòn.
Thật là tình cờ, tôi viết những dòng chữ cuối cùng này vào ngày 17-9-2016, đúng
hai mươi năm ngày qua đời của nhạc sĩ Lê Thương và cũng là đêm hội tết Trung
Thu của miền Nam California. Trên TV đang trình chiếu cảnh tết Trung Thu cho
các em nhi đồng tại khu một khu thương mại. Các thiếu nhi ăn mặc quốc phục, có
em còn đội khăn đóng nữa, tay cầm lồng đèn đi tung tăng, hát ngọng nghịu: “Bóng
trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng cuội già ôm một mối mơ…” Lòng tôi không
khỏi cảm hoài nhớ người nhạc sĩ tiên phong của nền âm nhạc Việt Nam, giờ đây đã
“mờ mịt thức mây”. (Chinh Phụ Ngâm). Ảnh trước giờ quay phim Đất Khổ: Đạo diễn Hà Thúc Cần đội mũ,
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, vai chính. Tiếp theo là các diễn viên Vân Quỳnh, Bích Hợp,
Xuân Hà, Lưu Nguyễn Đạt. Người đứng giữa là nhạc sĩ Lê Thương trong vai Linh mục
Phục, quản nhiệm nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế trong cảnh bom đạn Tết Mậu Thân
1968. Phía sau là Minh Trường Sơn và nữ diễn viên Kim Cương đang bồng em bé.
Trong phim, Kim Cương diễn vai bà mẹ Huế điên loạn không ngừng hát ru khi ôm
cái bọc gói xác con thơ đã bắt đầu phân hủy.
Tài liệu tham khảo:
Nhaccodien.info, Zin.vn.co, amnhac.fm, cafevannghe.wordpress.com, motgoctroi.com, langmai.org, Wikipedia.org, lyric.tkaraoke.com, Khanhly.net, Hồi Ký Phạm Duy (NXB Trẻ - 2008).
23/8/2017
Đặng Phú Phong
Theo https://dinhquat.blogspot.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét