Ngày về
Ông Hớn ngồi ở nhà hàng gần bờ biển Huntington Beach, một
mình với mấy chai bia trên bàn. Sóng biển vỗ dào dạt vô bờ đá, thủy triều đang
lên. Ông nhớ con sông Tiền ở quê, cuồn cuộn nước chảy, khi nước lên, tràn đến bậc
tam cấp sân sau nhà.
Nhà ông sau này dọn ra gần chợ để tiện việc đi lại, vậy mà
qua Mỹ 5 năm rồi, khi nào nằm mơ, ông chỉ mơ thấy căn nhà cũ, mặt tiền ngó ra
đường lộ, bờ sông phía sau, hừng đông có nhiều tàu ghe qua lại, tiếng người nói
lao xao, tiếng máy đuôi tôm xình xịch, ánh đèn dầu lấp lánh mặt nước. Khi không
sao chiều nay nhớ nhà da diết.
Ông vớ chai bia trước mặt, cụng vô chai trên bàn, nói với nó
như bạn nhậu đang ngồi đối mặt:
- Dzô nữa ! Mới có mấy chai, nhằm nhò gì.
Ông ngó vô trong quán, gọi:
- Thêm chai nữa, bà chủ.
Bà chủ lững thững đi ra, đem ra bàn chai bia lạnh, tự động
thêm dĩa tôm khô củ kiệu.
- Bữa nay sầu đời sao mà nhậu một mình vậy anh Tư?
Tư Hớn làm thinh. Bà mặc cái váy dài màu đen, áo cánh ngắn
cũng đen. “Màu đen làm cho người ốm đi.” Bà nói như vậy, cân nặng của bà sơ sơ
80 kg, đã trừ bì ! Màu đen dường như chẳng làm bà xuống bớt kí lô nào, vòng số
2 với vòng số 3 bằng nhau. Đàn ông đến đây gọi bà là “bông hồng nhỏ”, ghẹo chơi
để nhìn bà cười, rung rinh bộ ngực đồ sộ. Hồi trẻ, bà từng là hoa khôi ở một
trường trung học tỉnh lẻ, giờ về già chỉ còn duyên ở nụ cười. Buồn tình đời, có
lần “bông hồng nhỏ” tâm sự với ông Hớn:
- Hồi mới qua Mỹ em còn thon thả lắm, chỉ có 48 kí, (ông Hớn
tính nhẩm, chắc phải cộng thêm ít nhất 10 kí cho sự thật) hổng biết sao mà mỗi
ngày lên cân vù vù. Có lần đi xin việc, phải ngồi chờ hơi lâu. Cái ghế nhỏ có
hai tay dựa, chật chội. Đến lượt mình vào Interview, em lật đật đứng dậy, thì hỡi
ơi, cái ghế ôm chặt luôn vô mông ! Em phải vừa lắc, vừa dậm chân, ông Sếp
ra tay, kéo cái ghế ra, em thì muốn khóc mà ông ta tủm tỉm cười. Lần đó không cần
chờ kết quả, cũng biết số phận mình ra sao. Thôi đành về nhà mở quán làm ăn.
- Vậy mà hay, em làm ăn mình ên, phất lên ngon lành, có chi
mà ân hận?
- Nhờ Trời cũng đủ sống.
Ông bạn nghệ sĩ lang thang hay cùng ông đến đây, có lần say xỉn,
nắm tay bà chủ quán, thề bồi:
- Này bông hồng nhỏ của đời anh, nếu em chịu khó ốm bớt 10 kí
lô thôi anh thề yêu em trọn đời.
Đâu dễ chịu thua, bông hồng nhỏ đốp lại:
- Này ông anh ca sĩ hạng ruồi của em, nếu anh chịu khó nhuộm
tóc, trẻ lại chừng 10 tuổi thôi, em thề dẹp quán theo anh suốt đời.
Hắn ngậm câm. Tư Hớn khoái trá cười thầm“ đáng đời già dịch”,
cho hắn bỏ cái thói cợt nhã, coi thường phụ nữ. Thử một ngày trái đất này không
có đàn bà xem sao, chắc hoang tàn hết. Cái gì mất rồi mới biết là quí. No
woman no love. Không có đàn bà thì ta yêu ai, sống với ai !?
Như ông “năm năm rồi đi biệt, đường xưa chưa lối về ”
chưa một lần về thăm quê, thăm đám con, thăm vợ. Gia đình còn nguyên đó, chỉ
cách có nửa vòng trái đất, hằng tuần gọi điện thoại về nhà, sao vẫn thấy mình
bơ vơ quá.
Nhớ tới vợ con, ông Hớn thấy cay cay con mắt. Phải làm thêm
ngụm bia nữa. Trời nhá nhem tối rồi, sao không nghe tiếng bà Tư nói đám con câu
quen thuộc:
- Đứa nào ra mời cha bây vô ăn cơm.
Hồi ông sắp ra đi, bà Tư Huệ, vợ ông, nửa chơi nửa thật nói:
- Coi chừng qua bển rồi, vợ giả dám thành vợ thiệt, lửa gần
rơm mà.
Ông Hớn hỏi dò:
- Rủi ro xảy ra thiệt thì bà tính sao?
- Còn biết tính sao, ông làm sao coi cho được thì thôi. Xin
ông làm ơn nhớ sấp nhỏ, chứ tôi đành an phận.
Bà nói rồi quay đi.
Ngày ông lên xe hoa lần thứ hai với bà Kiều Mộng Ngọc, bà Việt
kiều từ Mỹ về, chính tay bà Tư Huệ, vợ ông, sắm sửa đồ trang sức, áo cưới, đến
tận Hotel bà Mộng Ngọc đang ở, trang điểm cho bà dâu mới, cưới vợ hai cho ông Hớn !
“Sao kỳ vậy ta ?” Hàng xóm thắc mắc. Bà Huệ cười:
- Ổng muốn du lịch thế giới cho biết đời, nên phen này bỏ tôi
để theo tiếng gọi con tim!
Bà con bên nội, ngoại cũng thắc mắc, ông Hớn với vợ giữ im lặng
cho êm xuôi mọi việc. Giấy tờ ly hôn được chứng nhận, Tư Hớn tách hộ khẩu ra
căn nhà thuê tạm ở chợ, nhưng vẫn cơm ăn ba bữa, tối ngủ ở nhà. Cho đến khi bà
Mộng Ngọc về quê, ký giấy hôn thú với ông. Chuyện khó êm xuôi lại ở bà Việt kiều.
Tư Hớn than thở với Hai Sự, cháu ông, người có công lớn trong
chuyện mai mối, từ xứ Cali bên Mỹ về thăm quê hương cùng với bà Mộng Ngọc:
- Tao đau đầu với bà Mỹ da vàng này quá, đám cưới giả mà bả
làm như thiệt, đòi đốt pháo dài 10 thước, đòi có năm, bẩy cái xe hơi rước dâu
chạy lòng vòng thành phố, bấm còi tin tin, trong khi tao chỉ muốn làm cái lễ ra
mắt nhỏ, chụp mấy tấm hình làm bằng chứng. Tao mà còn làm chủ tịch xã như trước
dám bả đòi bắn pháo bông chào mừng đám cưới !
Quân sư Sự an ủi cậu mình, giảng giải :
- Sá gì mấy cái lặt vặt đó, cậu ráng chiều bả đi, miễn sao
chuyện lớn thành công là được. Đời người có mấy lần lên xe hoa. Đời bả, tính sơ
sơ, mới có ba ông Mỹ đi qua đời tôi, chưa có ông Viêt nam nào, nên nay bả muốn
làm đám cưới rình rang ở quê, cho nở mày nở mặt đó mà.
- Nói thiệt với mày, tao rán nín thở qua sông, chứ thấy bả cứ
õng ẹo đòi thêm điều này, điều nọ, tao phát ớn lạnh.
- Cậu Tư lo làm chi, bả chỉ muốn hình thức rắc rối vậy thôi,
chứ tiền bạc đâu có đòi thêm, vậy là đẹp rồi. Cậu cứ nhớ mục đích tối
thượng của mình mà bỏ qua đi.
Với Tư Hớn, 20.000 dollar cho cái giấy hôn thú không phải là
mắc, ông đã đưa trước phân nửa, phần còn lại sẽ đưa hết cho bà Mộng Ngọc khi
ông đặt chân lên nước Mỹ, có được thẻ xanh. Ông phải đi qua ba nước mới biến kế
hoạch lớn của mình thành hiện thực, thôi đành nhắm mắt trao thân gửi phận cho
bà Mỹ da vàng này. Bả có lẽ cần tiền, mình cần giấy tờ, làm khó chi đời nhau.
Qua được xứ Mỹ rồi thì đường ai nấy đi.
&
Trước khi xin Visa, đặt vé máy bay, Tư Hớn coi lịch chọn ngày
cẩn thận. Ngày ông đặt chân xuống phi trường Frankfurt, đúng hôm nước Đức gặp
cơn bão tuyết. Vợ chồng Sang đi đón, chu đáo đem theo áo mantel dầy cho chú Tư.
Ở trong phi trường còn ấm, ra ngoài mới thấy rét run, tuyết bay lả tả đầy trời
như bông gòn. Tuy lạnh cóng nhưng Tư Hớn thấy xứ này vẫn đẹp, người nào cũng áo
len dầy, găng tay, khăn quàng cổ đủ màu, gương mặt ai nấy sáng, tươi vui. Xa lộ
êm ru, chạy hoài không rơi vô ổ gà lớn nhỏ nào gài bẫy trên đường, không thấy
núi rác nào lù lù án ngữ bên đường. Xe cộ chạy trật tự, bình tĩnh, không bị điếc
tai vì tiếng còi xe inh ỏi như bên nhà. Dù mùa đông, vợ chồng Sang cũng đưa ông
đi chơi phố, gặp bạn bè, thăm vài thắng cảnh: khu phố cổ, những lâu đài trên
núi dọc theo sông Rhein.
Tuần sau ông thôi không so sánh bên này với bên nhà, chuẩn bị
tư thế ra mắt bà chủ nhà hàng Kim Tiền. Sang đưa ông tới nhà hàng tối thứ hai,
lúc nghỉ bán. Dù ít chú ý bề ngoài, Tư Hớn phải kề tai Sang hỏi nhỏ:
- Bà này làm sao mà cứ lấy khăn chậm nước mắt hoài ?
- Chú Tư không biết sao, bả mới về VN đi mỹ viện sửa mắt, cắt
cao mí mắt, để mắt to hơn, ra vẻ nai vàng ngơ ngác, ai ngờ đụng hạch nước mắt,
nên chưa khóc mà lệ cứ dâng tràn.
- Hèn chi. Tao tưởng đâu bả cảm động vì có người bảnh như tao
đến xin cưới...giả.
Dáng ông Tư cao lớn, mặt chữ điền, chân mày tướng. Thời trẻ
theo ghe chài sống đời sông nước, đến nay tuy hơn sáu mươi, tóc muối tiêu,
trông ông vẫn còn phong độ. Bà Kim Tiền ưng thầm ông ngay từ bữa gặp đầu tiên,
nhưng vẫn làm cao.
- Tôi thông cảm hoàn cảnh nên muốn giúp anh thôi, tiền bạc là
chuyện phụ, tình cảm mới là chính. Anh đưa 30.000 Mark để lo giấy tờ là được rồi.
Sang nói với chú Tư Hớn khi ra xe:
- Giá đó chẳng phải tình cảm gì ráo, đúng giá thị trường. Được
cái bảo đảm, chứ nhiều người ký phải giấy hôn thú với mấy tay Đức nghiện rượu,
xì ke ma túy, phiền phức lắm. Có khi giao tiền rồi, có giấy tạm trú rồi mà đâu
yên, nó bắt trả tiền nhà, mua xe cho nó, tới lui hăm dọa đòi đưa tiền thêm,
không đưa nó tố cáo mình ra Tòa là dụ dỗ, lường gạt nó.
- Bộ rồi không biết tố ngược lại sao, tiền mất tật mang, chịu
thua sao?
- Đâu có dễ chú Tư. Nó là dân Đức có thể bị phạt vạ chút ít,
còn mình dám bị trục xuất về nước, nên phải cắn răng chi thêm, chờ đủ thời hạn
được thường trú thì mới Tschüss (chia tay) nó được. Có khi muốn ly dị phải chi
thêm tiền nữa.
Với bà chủ đồng hương này coi bộ cũng không bảo đảm. Mấy hôm
sau bà kêu điện thoại ngã giá, chịu bớt chút ít, 5.000 Mark, với điều kiện, ông
Tư phải làm việc tại nhà hàng giúp bà một thời gian vì tình cảnh bà đơn chiếc.
Tư Hớn nổi dóa:
- Bà này cứ leo lẻo cái miệng tình cảm là chính, nhưng tiền bạc
tới mười, y chang tên bả. Một thời gian là bao lâu, tiền trao cháo múc, đâu phải
cho không mà bắt tao ở rể không công? Phần nào thôi, bộ bả tính chơi trên cơ
tao sao chớ?
Vợ Sang nghiên cứu tình hình kỹ hơn, bàn thêm:
- Giả dụ bà Tiền chịu ký giấy, chú Tư có giấy tạm trú, nhưng
phải ít nhất 5 năm sau mới vô được quốc tịch, phải có việc làm, mới đón được
con sang, luật ở đây khó khăn lắm.
Tư Hớn đành tay không giã từ nước Đức, buồn lòng vì mộng lớn
chưa thành, nhưng quyết chí không chào thua số phận. Hôm tiễn ông ở phi trường,
Sang bất ngờ tiết lộ nguồn tin mới:
- Chú Tư yên chí đi, con mới bắt liên lạc được với Hai Sự,
con dì Ba Sử, đang sống bên Cali, để nó tìm mối khác cho chú.
Hai Sự - cái phao của đời ông. Ông nhớ như in: nó mặc cái quần
xanh rách gấu, cái áo có miếng vá lớn sau lưng. Nhà nghèo, cha chết sớm, lẽ ra
nên theo ghe chài với ông sinh sống, nó nói:
- Con muốn học lên nữa, cậu Tư giúp con, con đội ơn. Đời trai
mà cứ lẩn quẩn ở cái hóc bò tó bên con sông này, không ngóc đầu lên được.
Ông hỏi:
- Mày lấy gì ăn mà đòi học tiếp?
- Con lên Saigon vừa đi học, vừa làm nghề đóng giày ở nhà đứa
bạn. Người ta sống được thì mình sống được, lo gì.
“Thằng này có chí lớn”, ông thương như con, lâu lâu lại gửi
tiền cho nó. Má nó ở đây thiếu thốn có bà Tư Huệ giúp đỡ. Hôm 30 tháng 4 tự
dưng nó biến mất, bặt tin. Má nó khóc đỏ con mắt. Giờ tự dưng nó lại hiện ra cứu
nguy cho ông. Cuộc đời dâu biển khó ai ngờ.
&
Hai Sự hẹn gặp ông Tư ở Vancouver vào mùa thu! Nó gửi e-mail
cho ông, nhắn tin:
“Con chưa tìm được mối nào bên Mỹ, nhưng có người bạn giới
thiệu một mối được lắm bên Canada, rẻ thôi, 10.000 dollar. Bên đó nghe nói đời
sống dễ chịu hơn bên Mỹ. Cậu Tư ưng chịu thì xin Visa qua Vancouver. Từ Cali
con sẽ bay sang đó trước hai ngày, chờ đón cậu, bàn chuyện với cậu.”
Tư Hớn lại đóng bộ, kéo va-li lên đường, y như một
businessman đi tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm. “Cũng đúng thôi, đây là một
business, một thương vụ thiệt chứ đâu phải chuyện giỡn”.
Bữa tiệc nhỏ diễn ra ở nhà hàng Hongkong bên Vancouver. Tư Hớn
với Hai Sự ngồi một bên, bên kia là ba con trai bà giáo Nghinh. Ba đứa đều
phương phi, mặt sáng, nói năng lễ phép, rõ ra con nhà nề nếp. Bà giáo có 5 con
trai, đứa bác sĩ, đứa kỹ sư, đã lập gia đình, trừ đứa út. Vợ tụi nó đều là dân
Tây, mắt xanh tóc vàng. Vừa nhập tiệc, thằng lớn trịnh trọng nói:
- Con xin thay mặt mẹ con tiếp chuyện cậu Tư, anh Hai Sự,
mời dự bữa cơm tối nay. Mẹ con muốn tới lắm, nhưng bị mệt, xin phép vắng mặt. Cậu
Tư có điều gì hỏi thêm, con xin thưa chuyện.
Cũng phải thôi -Tư Hớn nghĩ thầm- nhà giáo mà, làm gì cũng từ
tốn, cân nhắc cẩn thận. Chắc bà giáo muốn đám con coi mặt, nhận xét về mình trước.
Được thôi, ông chỉ cần bản hợp đồng, tờ giấy hôn thú với giá cả đã định đoạt,
chứ có chính thức đâu. Vả chăng ông tuy hơi già, ít học, nhưng còn bảnh, từng
vang bóng một thời bên sông Tiền chứ đâu phải cỏ rác chi. Hơi buồn vì bữa ăn
ngon mà không có bà giáo tham gia.
Thằng thứ hai chỉ cái hồ nhỏ, tôm cua cá đang bơi lặng lờ
trong đó, nói:
- Cậu Tư thích món gì, con đặt nhà hàng làm đúng thứ đó để cậu
biết tài nghệ của đầu bếp Hongkong nơi đây.
Tư Hớn cười cười, tưởng gì, chứ ăn nhậu kiểu này, Saigon đâu
chịu thua. Mấy nhà hàng lớn ở Saigon bày đủ trò ăn chơi, ăn tươi, ăn thịt sống
còn phừng phừng trên lửa, ly kỳ rùng rợn hơn bên Hongkong, Bangkok. Hai Sự thay
ông Tư vô đề:
- Chuyện giá cả cậu Tư tôi đồng ý, nhưng muốn biết bà giáo có
đặt thêm điều kiện gì khác không? Đây là việc trao đổi, nên minh bạch từ đầu để
sau này không mất tình cảm đôi bên.
- Mẹ tôi không làm khó, đòi hỏi gì đâu, chỉ muốn là sau khi
xong việc giấy tờ thì cậu Tư ở chung nhà. Mẹ tôi có dành cho cậu Tư riêng một
phòng trên lầu. Như vậy cậu không phải lo tiền thuê nhà, khỏi lo chuyện ăn. Tụi
con giúp được hết. Căn nhà rộng, mình mẹ con ở hơi buồn. Nhà có thêm người, nhất
là đàn ông, đỡ trống trải lo sợ.
Thằng thứ ba ít nói, trầm ngâm, lúc này mới lên tiếng, giọng
thương cảm:
- Mẹ con một đời khổ lắm. Cha con chết trong tù, mẹ con phải
bỏ nghề giáo, tần tảo buôn hàng chuyến, bán chợ trời nuôi tụi con. Sống cam khổ
nhẫn nhục mẹ con quen rồi, con nói để cậu Tư hiểu hoàn cảnh mẹ con hơn.
Dường như có ai xát muối trái tim Tư Hớn. Nghe nó nói, phải
nuốt nước mắt vào lòng. Ông Tư thề với lòng sẽ coi bà giáo như người chị, hết
lòng chăm sóc giúp đỡ.
Sự đời trớ trêu, chính Tư Hớn lại là người phá bỏ lời thề.
Ông đập bàn, đi tới đi lui trong căn phòng ở Hotel, la lối:
- Sự, mày nghĩ coi như vậy có được không ? Một mẹ nuôi đủ 5
con, mà giờ tụi nó cả 5 đứa đều bỏ rơi mẹ mình. Đưa tao vô thế mạng, làm người
chăm sóc cho mẹ tụi nó, vậy là yên chí lớn, phủi tay trách nhiệm. Vậy tụi nó ăn
học làm chi. Cái thứ con như tụi nó tao đem câu sấu hết.
- Con cũng thấy đúng là không được. Nhưng bên này người ta
không sống kiểu đại gia đình như bên mình. Con cái tới 18 tuổi là thích ra
riêng. Có gia đình thì càng muốn tách riêng, không thể nào sống chung với cha mẹ
được. Chỉ tội nghiệp bà giáo, sống đơn độc, thân lại tật nguyền. Đáng trách là
mấy đứa con không cho mình biết trước, đưa mình vô thế khó xử quá.
Tư Hớn không sao quên được, khi tiếng bánh xe chầm chậm lăn
ra phòng khách, ông chưa hiểu chuyện gì, nhưng lịch sự, đứng lên chờ. Bà giáo
xuất hiện, ngồi trên xe lăn, cái chăn đỏ đắp trên chân, cái đầu lệch nghiêng
qua một bên. Cô cháu gái đẩy xe phía sau. Bà mỉm cười, miệng hơi méo, đưa tay
cho ông bắt. Tư Hớn chết đứng, Hai Sự sững người. Bà giáo cất tiếng nói, hơi
khó khăn:
- Ông mạnh giỏi ? Đừng lo, ở đây sống được lắm.
Ánh nắng ban mai từ cửa sổ rọi lên mái tóc trắng phau của bà,
đôi mắt bà hiền dịu, vẻ chịu đựng. Bà gầy gò, xanh xao, lọt thỏm trong cái xe.
Ba đứa con trai ngồi lặng im, hết nhìn mẹ mình rồi nhìn Tư Hớn. Không khí nặng
nề, ngột ngạt. Cô gái nói:
- Bà giáo bị tai biến mạch máu não, nên nửa người bị tê liệt,
tuy nhiên trí óc còn tỉnh táo. Ông không phải lo. Bà cố gắng tập luyện nên nay
đi lại được chút xíu , tự lo vệ sinh cho mình được. Cháu chỉ đến đây giúp bà
hai bữa cơm, dọn dẹp nhà. Nhưng về đêm, bà thấy đơn độc, sợ hãi trong căn nhà
tiện nghi, hoang vắng. Bà cần một người bạn già chân thực, để an ủi, giúp đỡ
nhau lúc đơn chiếc. Các con bà ra riêng hết rồi, mấy người vợ ngoại quốc không
chịu có bà mẹ chồng sống chung trong nhà.
Sự thực được phơi bày, một màn bi-hài-kịch ngắn. Tư Hớn
thương cho số phận nghiệt ngã của bà, buồn cho tình cảnh mình.
Chuyện làm bạn, giúp đỡ bà giáo, ông Tư không e ngại, nhưng sống
cảnh cá chậu chim lồng, ông ngán tới cổ. Bà muốn ông có mặt luôn trong nhà, đưa
bà ra vườn đón ánh mặt trời lúc có nắng ấm, lái xe đưa bà đi chơi đây đó khi cần.
Một đời vẫy vùng sông nước, giờ đây gần như biến thành kẻ hầu cận cho một người
đàn bà tàn tật, trong căn nhà lạnh lẽo, cầm bằng như chôn sống ông. Hai Sự cảm
khái, triết lý:
- Đời người nói quả không sai, không ai cho không ta điều gì
cả, kể cả Thượng đế. Người ta thò tay cho mình cái này, thì lại móc túi mình lấy
cái khác. Giờ ý cậu tính sao.
- Tính chi nữa. Tao đành good bye mối này thôi. Đâu phải tao
tàn nhẫn, nhưng tao muốn đám con bà giáo phải hiểu ra là không ai có thể chăm
sóc cho mẹ mình, ngoại trừ chính mình. Mà bà ở ngay gần đó, chứ có xa xôi gì. Tụi
nó có bổn phận phải chia nhau lo lắng cho mẹ, không phải chỉ vật chất mà cả
tinh thần. Cái đầu tụi nó đầy chữ nghĩa, bộ tụi nó không nghĩ xa hơn là mai sau
về già, có thể rơi vô tình cảnh giống mẹ nó bây giờ sao chớ ?
- Nói chi chuyện xa xôi đó. Nhiều người có học, khoa bảng đầy
mình mà đối xử với cha mẹ có khi còn tồi tệ hơn người ít học đó cậu Tư.
Tư Hớn nghe Hai Sự giảng giải, không sao hiểu nổi thế thái
nhân tình ở xứ người.
&
Ăn xong cái Tết năm đó, ông Hớn từ biệt gia đình, từ biệt con
sông Tiền cuồn cuộn nước chảy, lên đường qua xứ Mỹ, đoàn tụ với vợ...giả.
Đêm trước ngày ra đi, ông qua nằm chung giường với bà Tư Huệ.
Mấy năm gần đây, ông Tư với vợ vẫn ở chung phòng nhưng hai giường riêng. Lớn tuổi,
ông sinh tật hay ngáy, nên không muốn làm phiền giấc ngủ của vợ. Những lần đi
nhậu về khuya, người nồng nặc mùi rượu, ông lần về giường mình, tránh làm vợ
khó chịu. Nằm bên vợ, ông muốn nghe lại cái mùi bạch đàn với bồ kết phả nhẹ từ
mái tóc bà. Bà Tư ưa gội đầu có lá bạch đàn cho khỏi nhức đầu. Rất lạ là tóc bà
đến nay vẫn đen nhánh, chỉ có dăm sợi bạc, dù bà phải vất vả, cực khổ nhiều từ
thuở hai người còn hàn vi, ông theo ghe chài, bà chiều chiều quảy gánh chè ra
chợ.
- Mai mấy giờ ông lên máy bay?
Bà Tư Huệ hỏi, không biết bao nhiêu lần cái câu đó. Lần nào
ông Tư cũng nhẫn nại trả lời. Ông hiểu, bà hỏi chỉ là cái cớ để dịu nỗi lo âu
cho ông.
- Lúc trưa, 13 giờ 40. Bà cứ ở nhà, khi nào sắp lên máy bay
tôi điện thoại về liền. Đừng có lo nghĩ đâu đâu. Khi nào xong chuyện là tôi trở
về đây, với bà.
Bà nói, không khóc mà giọng nghe đầy nước mắt:
- Già rồi mà ông còn phải bôn ba. Làm chi cho cực một đời.
Ông không sống đời lính mà tôi với ông cứ sống xa nhau hoài, chừng nào mới được
yên đây? Tôi chẳng cần nhà cao cửa rộng, tiền bạc đầy rương. Ngày ngày ra vô
ngó thấy ông, bữa cơm có mặt ông, là đời tôi mãn nguyện.
Tư Hớn thở ra:
- Tôi đã có lời thề rồi. Mà cũng vì tương lai tụi nhỏ, bà hiểu
cho tôi.
Bà nuốt nước mắt lặng im. Ông nắm tay bà để lên ngực mình.
Lâu lắm rồi hôm nay ông mới có cớ nắm lại bàn tay bà, bàn tay nổi gân, chai sần.
Bàn tay đó từng chăm lo cho ông, cho đàn con t tám đứa. Tình già sao khác quá
xa thời trẻ, thầm lặng mà tha thiết, như nước mắt chảy ngược vào lòng.
&
Qua tới xứ Mỹ, Tư Hớn thấy mọi việc chẳng êm xuôi như mình
tính. Ông tính một, trời xui đất khiến ra đến chín, mười sự rối rắm làm ông
điên đầu.
Bà Kiều Mộng Ngọc dành cho ông căn phòng nhỏ ở lầu phía sau.
Nhưng ông phải để quần áo trong cái tủ lớn ở phòng bà. Đồ đạc của ông theo chiến
lược phải phân tán mỏng, mỗi thứ một ít rải rác trong nhà, từ phòng khách cho đến
phòng tắm, để trọn vẹn vở tuồng chồng vợ.
- Em làm như vậy là vì anh Tư thôi, để Sở di trú có đến đây
điều tra thì không nghi ngờ gì.
Bà tự cho phép mình đổi cách xưng hô “anh anh, em em” làm Tư
Hớn muốn nổi gai ốc, dần dần cũng quen. Thôi, nếu bà thích vậy thì cứ mackeno,
chẳng mất đồng vốn chi. Nhưng ông phát ớn lạnh cái giọng nhão nhẹt như mít tố nữ,
kịch cỡm của bà. Chịu hết nỗi, Tư Hớn nói bóng gió:
- Tiếc là xưa kia bà không theo đoàn kịch nói, chứ cái giọng
cảm-động-đậy của bà mà vô tuồng “Cây sầu riêng trổ bông” chắc làm thiên hạ khóc
sướt mướt, nhiều hơn kỳ nữ Kim Cương.
Tưởng Tư Hớn nói thiệt, bà hí hửng khoe:
- Anh Tư hổng biết chứ hồi em còn son trẻ mới qua đây, có đạo
diễn Mỹ mời em đóng phim rồi đó. Buồn một nỗi tên chồng Mỹ ghen quá hổng cho em
đi, nên tài nghệ em lần hồi bị thui chột.
Từ phòng khách, bà cất giọng oanh vàng nheo nhéo:
- Anh Tư ơi, chiều nay mình đi dạo bờ biển hóng gió đi anh.
- Anh Tư à, đám bạn em rủ, cuối tuần mình đến nhà họ chơi,
đánh bài phạt rượu, rồi xem phim bộ, đi với em nghe anh Tư.
Đóng kịch ở nhà chưa đủ, bà đem ông ra đóng kịch với đời. Có
mặt trên từng cây số, nơi nào có đông người Việt hội tụ, đám cưới đám ma, đám sống
đám chết, văn nghệ, chợ Tết... bà buộc ông phải đóng bộ, đeo cravate hay thắt
nơ ở cổ áo, đi bên cạnh bà. Bà lên áo dài, áo đầm dạ hội, vòng vàng hột xoàn
lóng lánh từ cổ đến hai bàn tay, cặp tay ông đi vào buổi hội y như một phu nhân
lỡ thời, còn tiếc nuối thời vàng son xa xưa. Bà huấn luyện ông Tư phải biết mở
cửa xe khi bà vừa đến xe hơi, biết kéo ghế cho bà ngồi khi vừa đến bàn ăn ở bữa
tiệc, nhà hàng. Bà nói:
- Như vậy mới chính hiệu là gentleman đó anh Tư. Ba tên chồng
Mỹ của em đều làm như vậy, em sống kiểu đó quen rồi. Đàn ông Viêtnam không biết
gallant với phụ nữ, dởm ghê nơi.
Bà Mộng Ngọc không quên mấy lớp học tiếng Anh, bắt ép nài nỉ
Tư Hớn đến trường. Như bị cực hình, ông khổ sở vì đầu đã hai thứ tóc, muối nhiều
hơn tiêu, phải ngồi giữa đám trẻ choai choai. Học trước quên sau, mấy tháng gò mình
đến trường, Tư Hớn chỉ còn nhớ lỏm bỏm: goodbye với good morning, sorry với
thank you, money với love...Đếm số với đếm tiền thì Tư Hớn học rất nhanh! Tên mấy
con đường ông tự chuyển ngữ qua tiếng Việt: Magnolia thành mắt ngó lia, Bolsa
là bỏ cha, Brookhust thành rút hớt, Moran là mò rắn...
Bà Mỹ da vàng nổi dóa thấy công uốn nắn của mình thành công cốc,
dằn cơn thịnh nộ lấy giọng ngọt ngào:
- Anh Hớn à, em nói mà anh hổng chịu nghe em, sống trên xứ Mỹ
mà không biết tiếng Mỹ thì khó xin việc làm, khó vô quốc tịch lắm đa! Đi bên em
mà anh nói tiếng Anh dở quá người ta cười em.
Gặp bữa trời mưa buồn tình, bà giở bài bản mới, ca cẩm:
- Mấy bữa nay nắng gió trở trời, sao em nhức mình, nặng đầu
quá đi. Giá ai thương tình cạo gió hay đấm bóp dùm, chắc em hết bệnh liền.
Tư Hớn giả câm giả điếc, tự cấm cung trong phòng cả ngày
không dám ló mặt. Ông cay cú thấy mình trở thành tên hề bất đắc dĩ cho vở kịch
“vợ chồng giả” do chính mình tự biên tự diễn. Lúc đầu chưa có việc làm, muốn
cho vở kịch mau đi tới happy-end, ông dằn lòng tháp tùng bà đi khắp nơi, đóng bộ
mặt từ bi, nhẫn nhục như một ông chồng gương mẫu. Ông nuôi hy vọng, nếu Sở di
trú có đòi nhân chứng thì đám bạn bà sẽ vui vẻ giúp cho. Dần dần ông phát hiện,
màn hài kịch này có nguy cơ trở thành đời thật, dám có lúc biến thành bi kịch đời
ông.
Bà Tư Huệ coi vậy mà nói như thần: “Vợ giả dám thành vợ thiệt!”
Tư Hớn phát điên, phát rầu vì tình huống mới.
Công tâm mà nói, bà Mộng Ngọc không phải người có tâm xấu. Bà
bỏ tiền ra cho ông học lái xe, mua xe cho ông. Chê bai mớ quần áo ông đem từ
Viêtnam sang là quê mùa, không à-la-mode, bà lôi ông đi qua nhiều cửa tiệm mua
sắm cho ông khá bộn, giày dép, cravate, quần áo lót, cả nước hoa, loại đắt tiền!
Đời ông chúa ghét nước hoa. Theo ông, chỉ mấy tay playboy hay “pê-đê” mới dùng
nó, ông ném thẳng tay vô thùng rác. Ném luôn mớ quần đùi, T-shirt có hình chim
cò, hoa lá sặc sỡ đủ màu.
Gặp bữa không may, bà Mộng Ngọc ra tay dọn dẹp nhà cửa, khám
phá thùng rác chứa đủ thứ thập cẩm quà tặng của bà sắm cho Tư Hớn. Giông gió,
bão táp, động đất...tức thì theo nhau ầm ầm nổi lên! Bà Mỹ nổi trận lôi đình, sỉ
vả ông Tư là thứ người “vô ơn bội nghĩa, ăn cháo đá bát” làm tan nát đời
bà, ra lệnh đòi Hai Sự đến trình diện, ba mặt một lời để “giao trả Tư Hớn về
nguyên quán”, sau cùng đi đến quyết định chết người “đưa Tư Hớn ra Toà ly dị !”
Hai Sự phải đến tận nơi dàn xếp nội vụ. Mặt hắn rầu rĩ như sắp
ra pháp trường cát, nói với ông Tư:
- Ở đời có 4 cái ngu, con lãnh đủ cái ngu thứ nhứt.
- Mày đừng than thân trách phận nữa. Tao sắp điên đây. Bà Mỹ
này muốn biến tao thành tài xế riêng, vừa là Bodyguard, vừa tên hầu cận. Mày
thưong tao, kiếm ai chịu “se” (share) phòng, tao ra riêng. Chứ sống kiểu này
tao chỉ còn từ chết đến bị thương thôi.
Hai Sự phì cười:
- Con dám cá mười ăn một, bà Mộng Ngọc mê cậu Tư đứt đuôi rồi.
Mà bả còn phây phây, béo tốt yêu đời, đâu có xấu xa gì. Có mất vốn mất lãi chi
đâu mà cậu Tư không chịu?
- Mày nói vậy mà nghe được. Tao đâu phải gỗ đá mà không biết.
Nhưng mày ngắm kỹ bả đi. Người gì toàn đồ giả, cái gì cũng cắt, vá, sửa, độn...độn
mông độn vú, bơm hơi bàn tay bàn chân, múp míp như con nít. Bóp vô dám nó xì,
nó xẹp, như bong bóng xì hơi, biết lấy chi bồi thường. Tao chịu thua. Mấy bà bạn
bả giống nhau như khuôn đúc, từ một mỹ viện mà ra. Khi chụp hình quay phim, mặt
người nào cũng cứng đơ như tượng hay người chết. Nằm cạnh bả chắc toàn thấy ác
mộng, có ngày bị nhồi máu cơ tim, chết không kịp ngáp.
- Mode đời nay vậy đó cậu Tư ơi, phải đi mỹ viện mới là dân
chơi sành điệu, để mình thành người mẫu hay movie stars.
- Mày ngẫm xem đời bây giờ cái gì cũng giả được, hàng giả, tiền
giả, bằng cấp giả, đạo đức giả, hôn thú giả, người giả...chỉ còn cái “tình” họa
may còn thiệt, mà người ta cũng “yêu giả” thì còn có gì làm tin để sống? Tao
dân quê sông Tiền chính cống, không phải tài tử xi-nê, không thể nào tiếp tục vở
kịch này được nữa. Có Green card rồi, tiền bạc tao đưa đầy đủ. Thế thì đường ai
nấy đi, đúng hiệp ước ban đầu. Kỷ vật bả mua cho tao, xin trả lại em yêu ráo.
Thôi đành thôi, giã biệt em yêu, vĩnh biệt tình em luôn. Anh tẩu đây!
Hai Sự cười nắc nẻ :
- Bả yêu quí cậu Tư, mua cho thì cứ giữ, để kỷ niệm khi chúng
mình xa nhau. Tình cho không biếu không mà, mắc chi phải trả lại.
Một ngày đẹp trời, Tư Hớn thoát cũi sổ lồng, dọn đến căn
phòng nhỏ gần xưởng sửa chữa xe hơi do Hai Sự làm giám đốc, trở thành công nhân
của Hai Sự. Ông cày hai job, ban ngày làm thợ sửa xe, tối làm ở quán rượu, có
khi đi bán phụ ở chợ trời hôm chủ nhật, thấy tủi cho thân phận. Từ giám đốc bên
nhà, qua đây hóa thành công nhân, lao động nhọc nhằn. Hai Sự nhìn thấu tim gan
cậu mình, an ủi:
- Cậu ráng học nghề thời gian đầu, sau này con mở thêm xưởng
mới, giao cậu điều hành, có biết rành nghề mới chỉ huy được. Rồi con ký giấy để
cậu làm việc lâu dài, thêm có credit tốt thì cậu mượn được tiền của Bank để mua
nhà.
Tư Hớn tin tưởng Hai Sự, chí thú làm việc. Nhưng tình riêng
thì chưa yên, bà Mộng Ngọc tìm đến xưởng, năn nỉ khóc lóc:
- Anh Tư không hiểu cho lòng em. Tiền bạc em đâu có thiếu, em
ký giấy hôn thú vì hiểu hoàn cảnh, vì...thương anh Tư thôi. Em chịu hy sinh tất
cả. Dù đã ký giấy ly dị, nhưng lâu lâu anh Tư muốn về thăm nhà, thăm vợ cũ, em
không cản. Nếu anh Tư trở về bên em, em sẽ dốc lòng lo cho sấp nhỏ con anh, qua
đây càng sớm càng tốt.
Bị đánh trúng tim đen, Tư Hớn bối rối. Ông không phải loại
người nhẫn tâm vô tình với phụ nữ, thấy bà Mộng Ngọc quá quị lụy vì mình, ông
chạnh lòng. Trên tình trường ông không có mấy kinh nghiệm đối phó với đàn bà.
Nhưng ở thương trường, kinh nghiệm chiến đấu bao nhiêu năm lăn lóc trong giới
móc ngoặc dạy ông phải biết cứng rắn khi cần, nếu không có thể bỏ mạng oan uổng.
Ông cầm tay bà Mộng Ngọc, nhẹ nhàng nói thẳng sự thật:
- Tôi rất biết ơn những gì...Ngọc giúp cho tôi. Tôi cần Green
card không phải cho tôi mà để lo cho đám con qua đây ăn học. Con đông, lo cho từng
đứa không kham nỗi, nên tôi đành chịu hy sinh đời tôi. Tôi hiểu tình cảm Ngọc
dành cho tôi, nhưng tôi không thể sống dối trá...Không khi nào tôi phụ vợ tôi.
Bà Mỹ thôi khóc, đứng phắt dậy, bỏ đi. Cuối cùng thì bà cũng
hiểu được bản chất con người Tư Hớn. Ông không sắt đá, nhưng ông chân thành và
không dễ lay chuyển. Hình như cái này trong tiểu thuyết gọi là tình yêu, từ lâu
bà chỉ nghe mà không rờ thấy nó, qua ba đời chồng mà bà chưa hề biết nó. Suy ra
từ kinh nghiệm đời mình, bà Mộng Ngọc tin như đinh đóng cột là: tình với tiền
luôn luôn đi liền với nhau, như 2 mặt của đồng xu! Giờ bà mới ngộ ra nó là cái
gì đơn sơ mộc mạc, nhưng bền chặt như đất, như nước. Lần đầu tiên, bà ngộ ra rằng,
giữa thời buổi đảo điên này, vẫn có một loại đàn ông không dễ sa ngã vì tiền
hay sắc dục, và họ chung thủy với vợ mình.
Mấy hôm sau bà gọi điện thoại cho Hai Sự, nhắn tin sẽ xúc tiến
hồ sơ đón đám con ông Tư qua sớm. Tư Hớn mừng run, hoàn thành kế hoạch “hy sinh
đời bố, củng cố đời con”.
&
Bốn đứa con Tư Hớn qua Mỹ được 3 tháng thì ông thu xếp hành
lý về nước thăm gia đình. Hai Sự, cứu tinh của đời ông, ra sức giúp ông hết
lòng. Tư Hớn mua được nhà, căn nhà nhỏ thôi, đưa đám con vô học trường college.
Chuyển được một số tiền qua Mỹ, ông góp vốn với Hai Sự mở thêm xưởng mới, rộng
lớn hơn, thăng lên chức phó giám đốc. Trước khi về VN, ông chu đáo mua quà tặng
bà Mộng Ngọc, đôi bông tai và chuỗi hột ngọc trai hồng thật đẹp, tự hứa không
quên quà cho bà khi trở qua, giữ mối quan hệ bình thường tốt đẹp. Thấy bà vui vẻ
chấp nhận, quên được chuyện cũ, Tư Hớn vui mừng thoát nạn! Vở kịch qua hồi sóng
gió có được Happy-ending!
Máy bay sà xuống thấp, Tư Hớn nhìn thấy từng ô vuông như bàn
cờ của Saigon, những cao ốc lố nhố thò ra thụt vào, không ngay hàng trật tự như
bên Âu Mỹ, những dòng xe di chuyển như dòng kiến bò...tự dưng dân dấn nước mắt,
“Saigon ơi ta đã về đây. Ta về đâu phải bàn tay không”. Sáu năm ra đi, dù chẳng
tạo được danh vọng, vinh hiển gì ở đất Mỹ, nhưng ông không phụ lòng vợ ông chờ
đợi. Kế hoạch lớn thành hiện thực, ông đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của đời
ông. Bà Tư Huệ phen này chắc sẽ ngó ông, vừa cười vừa nói:
- Ba tụi bây làm cái gì cũng đúng.
Một lời khen bâng quơ mà thắm thiết. Ông ngó vợ, thầm cảm ơn.
Tư Hớn dán mắt vào cửa kính như muốn tìm thấy người thân giữa
dòng người xe cộ li ti trên đường phố. Tuy không phải dân Saigon, ông vẫn yêu
cái thành phố ồn ào này, qua bao thăng trầm lịch sử vẫn tràn đầy sức sống. Sau
khi về thăm quê, phải trở lên đây sống mấy ngày, hít thở cái không khí đậm đặc
hơi người, xăng dầu, bụi bặm của Saigon, phải nói con ông đánh xe đưa đi một
vòng thành phố, khắp hang cùng ngõ hẻm cho đã thương đã nhớ. Đời ông, không biết
gì về thơ văn, chỉ mang máng nhớ được mấy câu thơ nghe từ bàn nhậu, nói về
Saigon của một nhà thơ nào đó, nghe sảng khoái hợp tính cách con người ông:
“ Ta truyền:
Hỡi Saigon, đêm nay mở cửa
Hãy mở rộng bốn cửa thành đông, tây, nam, bắc
để thơ ta ùa vào từ bốn phía chân trời
thân thể ta ùa vào theo lối mặt trời đi
Hỡi bóng tối hãy cất lên doanh trại
Hãy trấn đóng những nơi hiểm yếu,
những mạch máu kinh thành, những đại lộ công trường, ghế đá
công viên
Khi ta đi phải tắt hết đèn xanh đèn đỏ...”*
Phải hai giờ sau Tư Hớn mới thoát ra khỏi dòng người chờ đợi
kiểm tra giấy tờ. Hai Dũng, Ba Mạnh, hai đứa con lớn, đứng đợi ngay cửa.
- Má bây đâu, bả có lên Saigon đón tao không?
Ông hỏi, câu đầu tiên. Hai đứa lặng thinh, lui cui kéo ba cái
va-li lớn của ông, còn ông đeo cái túi nhỏ lên vai. Hành lý của ông chật cứng đồ
chơi, bánh kẹo, vải vóc, quần áo lớn nhỏ đủ cỡ. Tụi nó nói:
- Ra xe đi ba, trong đây chen chúc quá, sấp nhỏ chờ ba ở
ngoài xe.
Từ xa ông thấy đám con, dâu, rể, cháu nội cháu ngoại, sắp
hàng ngay ngắn như chuẩn bị lên truyền hình, mấy đứa nhỏ đứng trước, lớn đứng
sau.
Nhưng mà...trời ơi, không biết mắt ông có bị nắng lóa không,
sao đứa nào cũng đeo vành khăn tang trắng trên đầu, mắt mũi buồn so. Ông đứng
chựng lại, từ từ quay nhìn thẳng mặt hai đứa con lớn. Hai Dũng chạy đến ôm vai
ông, nấc lên:
- Má “đi” hơn tuần nay rồi ba ơi ! Bị nhồi máu cơ tim, tụi
con không dám cho ba biết tin, sợ ba lo buồn, suy sụp tinh thần.
Mắt ông Tư mờ đi, ông thấy khó thở, chân run run, khụy luôn
xuống đất. Miệng ông há hốc, phải hai phút sau mới bật ra thành tiếng, ông gào
lên trong nước mắt:
- Tôi đâu có phụ em đâu mà...Huệ ơi, sao em không chờ tôi...
* Trích từ bài thơ Hịch của Nguyên Sa
6/3/2008 Minh Thùy
6/3/2008
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét