Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2024

Giá trị cốt lõi và trường tồn của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943

Giá trị cốt lõi và trường tồn của
Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943

Đề cương về văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo và được thông qua tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên) vào tháng 2.1943. Đây là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại, xác định chiến lược xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhìn lại 80 năm xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc, những giá trị cơ bản và cốt lõi của Đề cương về văn hóa Việt Nam vẫn luôn là những định hướng có ý nghĩa chiến lược, được kế thừa, phát huy và phát triển trong hoạt động thực tiễn, là cội nguồn và động lực để khơi dậy các giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh hiện nay, nhìn lại những giá trị cơ bản và cốt lõi của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 sẽ giúp chúng ta nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn về ý nghĩa, vai trò của Đề cương, rút ra những bài học kinh nghiệm để tiếp tục giữ gìn, phát huy giá trị của Đề cương trong xây dựng văn hóa, phát triển con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.
1. Giá trị lý luận của Đề cương về văn hóa Việt Nam
1.1 Lựa chọn đúng và trúng những vấn đề cơ bản và bức thiết nhất trên lĩnh vực văn hóa để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo. Trong bối cảnh đất nước đang chịu sự đàn áp, bóc lột của thực dân Pháp, phát xít Nhật và nhà nước phong kiến lệ thuộc, đời sống văn hóa xã hội rơi vào khủng hoảng, bế tắc, nhiễu loạn, phức tạp với nhiều trường phái, triết thuyết khác nhau, Đảng ta đã xác định văn hóa là vấn đề hết sức quan trọng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, gắn liền với ba lĩnh vực: tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. Đây là ba lĩnh vực cơ bản và then chốt nhất của văn hóa.
Tư tưởng là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến cuộc đấu tranh chính trị, xác định lý tưởng, mục tiêu, nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân mà Đảng ta đã và đang tiến hành tuyên truyền, phổ biến, giác ngộ cách mạng cho các tầng lớp nhân dân. Tư tưởng có tác động sâu sắc và toàn diện đối với các hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật, giáo dục, báo chí… Sự thống nhất về tư tưởng sẽ tạo nên sự thống nhất về tổ chức, thống nhất về ý chí và hành động, khơi dậy khát vọng giải phóng dân tộc của các tầng lớp nhân dân. Việc lựa chọn lĩnh vực tư tưởng để lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn xây dựng văn hóa là Đảng ta đã xác định đúng và trúng vấn đề cơ bản và cấp bách đặt ra trong bối cảnh lịch sử – xã hội lúc đó.
Lĩnh vực thứ hai mà Đảng ta xác định là lĩnh vực học thuật (hay rộng hơn là khoa học). Trong bối cảnh đất nước bị chìm đắm trong cuộc tranh giành ảnh hưởng của các thế lực ngoại xâm với các trào lưu, triết thuyết gây hoang mang, dao động trong xã hội, nhất là đối với tầng lớp trí thức đương thời, việc đấu tranh để tuyên truyền, phổ biến, khẳng định vai trò của triết học mác-xít, khẳng định giá trị khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đấu tranh phê phán, phản bác lại các trào lưu tư tưởng, học thuật phản khoa học của chủ nghĩa duy tâm và tâm lý mê tín dị đoan trong xã hội, đưa các giá trị khoa học, các thành tựu khoa học chân chính vào trong đời sống xã hội để thức tỉnh nhân dân là một yêu cầu vừa cơ bản, vừa cấp thiết.
Lĩnh vực thứ ba mà Đảng ta lựa chọn là lĩnh vực nghệ thuật. Văn học, nghệ thuật đóng một vai trò quan trọng đặc biệt trong việc tuyên truyền chính trị, quảng bá đường lối, chính sách của Đảng tới các tầng lớp quần chúng nhân dân, khơi dậy truyền thống đoàn kết, yêu nước, chống xâm lược, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước.
Trong hoàn cảnh lịch sử của những năm 40 TK XX, đời sống văn học, nghệ thuật dân tộc bị bế tắc, trong bối cảnh hỗn loạn về tranh chấp ảnh hưởng của các thế lực ngoại xâm. Việc Đảng ta lựa chọn lĩnh vực văn học, nghệ thuật để lãnh đạo, chỉ đạo là rất cần thiết, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn và tạo điều kiện để văn học, nghệ thuật và đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ phát huy vai trò tích cực trong việc định hướng, tuyên truyền, vận động cách mạng, cổ vũ, động viên nhân dân tham gia tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Như vậy, sự lựa chọn ba lĩnh vực cơ bản của văn hóa là tư tưởng, học thuật và nghệ thuật để lãnh đạo và chỉ đạo là sự lựa chọn rất đúng và rất trúng những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp thiết được đặt ra.
Các lĩnh vực này không phải là những thành tố biệt lập và có mối quan hệ biện chứng với nhau, hỗ trợ, thúc đẩy nhau để nâng cao trình độ văn hóa chung của xã hội, gắn kết văn hóa với mục tiêu chính trị nhằm khơi dậy và phát huy vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại giải phóng dân tộc và đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển chế độ xã hội mới, chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa.
1.2. Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã xác định đúng đắn mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế và chính trị. Xuất phát từ lý thuyết hình thái kinh tế, xã hội của chủ nghĩa Mác, Đề cương đã khẳng định nền tảng kinh tế của một chế độ xã hội quy định sự phát triển văn hóa của chế độ xã hội đó. Từ đó, Đề cương nêu lên ba quan điểm của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với vấn đề văn hóa: “a) Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động; b) Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa; c) Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”(1).
Đề cương văn hóa đã khẳng định một tư tưởng chiến lược quan trọng: Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận ở đó người cộng sản phải hoạt động để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận này. Ba mặt trận đó có mối quan hệ biện chứng, gắn bó chặt chẽ với nhau. Cách mạng văn hóa không thể tách rời cách mạng chính trị và kinh tế. Trong thời điểm nước sôi, lửa bỏng của hoàn cảnh lịch sử lúc đó, cách mạng chính trị phải được ưu tiên giành thắng lợi trước, nhằm mục tiêu đánh đổ phát xít Nhật, thực dân Pháp và nhà nước phong kiến, thành lập nhà nước dân chủ nhân dân, từ đó tạo điều kiện cho kinh tế và văn hóa phát triển. Tuy nhiên, không thể chờ cách mạng chính trị thắng lợi hoàn toàn mới phát triển văn hóa mà văn hóa phải tham gia trực tiếp vào việc cổ vũ, tuyên truyền, động viên nhân dân tham gia tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại chính quyền về tay nhân dân. Văn hóa phải trở thành một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của toàn thể dân tộc. Giá trị lý luận về việc xử lý hài hòa và đúng mức về mối quan hệ giữa văn hóa, kinh tế và chính trị luôn luôn là những bài học kinh nghiệm vô giá để Đảng ta vận dụng trong quá trình lãnh đạo cách mạng 80 năm qua.
1.3. Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đã xác định rõ quan điểm của Đảng về cách mạng văn hóa Việt Nam: “a) Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội; b) Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo; c) Cách mạng văn hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công (cách mạng văn hóa phải đi sau cách mạng chính trị. Những phương pháp cải cách văn hóa đề ra bấy giờ chỉ là dọn đường cho cuộc cách mạng văn hóa triệt để mai sau)” (2).
Cách mạng văn hóa là một bộ phận quan trọng của cuộc cách mạng xã hội, gắn liền với cuộc cách mạng chính trị. Cách mạng chính trị thành công là tiền đề để thực hiện thành công cách mạng văn hóa. Vì vậy, cách mạng văn hóa phải gắn liền với cách mạng chính trị, đấu tranh đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc và quyền làm chủ về tay nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Dân tộc bị nô lệ thì văn hóa cũng mất tự do. Văn hóa muốn tự do thì phải tham gia vào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Vì vậy, Đề cương đã nhấn mạnh đến tính tất yếu của cách mạng văn hóa và vai trò của cách mạng văn hóa đối với nhiệm vụ đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Đồng thời, Đề cương đã khẳng định một nguyên tắc cơ bản là cách mạng văn hóa muốn thành công thì phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đảng lãnh đạo văn hóa vừa là điều kiện tiên quyết, vừa là động lực để phát huy sức mạnh con người và giá trị văn hóa Việt Nam trong cuộc kháng chiến kiến quốc. Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa đã được vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam thông qua bản Đề cương này. Đảng lãnh đạo văn hóa nhằm bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và tổ chức, khơi dậy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng đất nước. Vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa được khẳng định trong Đề cương này cũng đồng nghĩa với việc xác định trách nhiệm và sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với vấn đề xây dựng đường lối, phương hướng, nhiệm vụ phát triển văn hóa dân tộc trong mỗi giai đoạn cách mạng cụ thể.
Vì tính chất của nền văn hóa cách mạng, Đề cương đã xác định là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Nền văn hóa này dựa trên cơ sở tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, phấn đấu vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đây là những mục tiêu lớn cần phấn đấu liên tục và bền bỉ để hiện thực hóa mục tiêu này trong thực tiễn cách mạng.
Giá trị lý luận nổi bật của Đề cương là Đảng ta đã nêu lên ba nguyên tắc của vận động xây dựng văn hóa Việt Nam trong giai đoạn này. Đó là: Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập); Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng); Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ). Ba nguyên tắc, hay ba phương châm vận động văn hóa này, đã đáp ứng đúng nhu cầu bức thiết của thực tiễn làm cơ sở để Đảng lãnh đạo, tổ chức và huy động các lực lượng văn hóa, đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ và các tầng lớp nhân dân, khơi dậy khát vọng giải phóng dân tộc, đập tan chế độ phát xít, thực dân, phong kiến, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Theo đồng chí Trường Chinh: “Ba nguyên tắc trên đây là ba cái khâu của một sợi dây chuyền. Nó có tính cách liên hoàn. Không thể hoàn thành nhiệm vụ vận động văn hóa mới Việt Nam mà bỏ sót một nguyên tắc nào trong ba nguyên tắc ấy. Cũng không thể chỉ theo một nguyên tắc nọ mà đồng thời chống lại những nguyên tắc kia. Không nhận thức rõ điều đó thì nhất định không làm tròn được nhiệm vụ xây dựng văn hóa mới cho dân tộc, mà có khi mắc bẫy văn hóa của đế quốc hoặc bị chúng lợi dụng”.
Trong bài phát biểu tại Lễ kỷ niệm 40 năm Đề cương văn hóa, đồng chí Trường Chinh đã giải thích cụ thể về lý do và mục đích của việc đề ra các nguyên tắc này. Vì sao phải dân tộc hóa? Theo đồng chí Trường Chinh, gần 100 năm thống trị, thực dân Pháp đã du nhập vào Việt Nam những nhân tố tiêu cực, phản động của văn hóa tư sản và đế quốc. Chúng đề cao sự giàu mạnh của thực dân, ca tụng chính sách thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, gieo rắc vào đầu óc người Việt Nam tinh thần nô lệ, lệ thuộc, sùng bái văn hóa Pháp, chạy theo cuộc sống hưởng lạc, đồi trụy, xa rời và miệt thị truyền thống văn hóa dân tộc, nảy sinh tâm lý tự ti dân tộc, giảm sút tinh thần yêu nước và ý chí đấu tranh giành độc lập dân tộc. Mục đích của nguyên tắc “dân tộc hóa là làm cho văn hóa trực tiếp phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, làm cho trí thức có đầy lòng tự hào, dũng cảm đứng lên tiếp nhận trách nhiệm của mình trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng Tổ quốc, xây dựng và phát triển nền văn hóa mới Việt Nam”(3).
Về vấn đề đại chúng hóa, đồng chí Trường Chinh nêu rõ: Hoàn cảnh nước ta lúc đó là một nước thuộc địa còn nhiều tàn tích phong kiến, hầu hết nhân dân mù chữ. Văn học, âm nhạc, hội họa và nhiều thể loại văn hóa khác không phục vụ nhân dân lao động, mà chủ yếu phục vụ cho giai cấp thống trị. Đa số nhân dân lao động bị gạt ra khỏi đời sống văn hóa. Vì vậy, nền văn hóa mới phải là nền văn hóa của nhân dân, phục vụ nhân dân, phải làm cho mọi người dân biết đọc, biết viết, hiểu biết về văn hóa dân tộc của mình và tham gia vào sáng tạo, chiếm lĩnh và thụ hưởng các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại tạo ra. Đây chính là sự vận dụng sáng tạo nguyên lý về tính nhân dân của nền văn hóa cách mạng mà V.I. Lênin đã nêu ra. V.I. Lênin đã khẳng định văn hóa là thành tựu sáng tạo của nhân dân. Nhân dân có quyền được hưởng các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại tạo ra. Nhiệm vụ của cuộc cách mạng văn hóa là nâng cao trình độ của nhân dân, giải phóng nhân dân khỏi sự dốt nát, thất học, mê tín dị đoan, tạo điều kiện để quảng đại quần chúng nhân dân có thể tiếp nhận, thụ hưởng và sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới đáp ứng với yêu cầu phát triển của thời đại.
Tư tưởng nhân văn và cách mạng của Đề cương để đáp ứng nhu cầu thực tiễn của lịch sử, tạo động lực để thức tỉnh dân trí và phát huy vai trò của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa mới, khắc phục sự ngưng trệ, rối loạn và mất định hướng hiện thời.
Về nguyên tắc khoa học, theo đồng chí Trường Chinh, nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, trì trệ lâu ngày dưới chế độ phong kiến, chịu ảnh hưởng nặng nề của hệ tư tưởng phong kiến, thực dân. Những quan điểm duy tâm, thần bí, siêu hình của văn hóa phong kiến, thực dân tồn tại dai dẳng, chi phối tâm lý và hành động của nhân dân. Tính chất bảo thủ, lạc hậu in đậm trong nhiều phong tục, tập quán. Thực dân Pháp không những không xóa bỏ tàn tích văn hóa phong kiến mà còn lợi dụng nó để thực hành chính sách ngu dân. Vì vậy, “khoa học hóa là tạo điều kiện cho nền văn hóa dân chủ mới nhanh chóng thoát khỏi sự kiềm hãm ấy, nhằm phát triển mọi mặt trên cơ sở khoa học. Nó lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm kim chỉ nam hướng dẫn mọi suy nghĩ và hành động. Nó gạt ra khỏi đầu óc mọi người các loại thành kiến, hủ bại, mê tín dị đoan” (4)
Như vậy, ba nguyên tắc dân tộc, đại chúng và khoa học chính là cội nguồn để khơi dậy truyền thống yêu nước, tinh thần tự tôn, khát vọng độc lập dân tộc của đội ngũ trí thức và quảng đại quần chúng nhân dân, đưa những tư tưởng khoa học, tiến bộ vào trong đời sống văn hóa xã hội, tạo động lực tinh thần mạnh mẽ hướng vào mục tiêu giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn.
2. Giá trị thực tiễn của Đề cương về văn hóa Việt Nam
Đánh giá về bản Đề cương, GS Nguyễn Đức Bình, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng đã nhận xét rất xác đáng là: “Đó là đỉnh cao trí tuệ đương thời, là nhận thức sắc bén về tình hình, là dự báo khoa học về tương lai, là sức mạnh tinh thần to lớn mà đất nước đang cần”(5).
Có thể nói: Đề cương về văn hóa Việt Nam là sự tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng qua 12 năm (1930-1943) của Đảng, đồng thời đây là Tuyên ngôn có ý nghĩa chiến lược của Đảng về xây dựng nền văn hóa cách mạng, vừa có ý nghĩa lịch sử, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam đương thời, vừa có ý nghĩa vượt thời đại, làm kim chỉ nam cho quá trình lãnh đạo văn hóa của Đảng không chỉ trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ mà cả trong thời kỳ xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay. Đề cương ra đời đánh dấu một bước đột phá chiến lược trong sự lãnh đạo văn hóa của Đảng, khẳng định vai trò và tính tất yếu khách quan của sự lãnh đạo văn hóa của Đảng, trọng tâm trước hết tập trung ở ba lĩnh vực cơ bản, có tác động sâu sắc tới toàn xã hội là lĩnh vực tư tưởng, học thuật và khoa học. Trên cơ sở đó, Đảng đã đẩy mạnh công tác tổ chức về cán bộ, từng bước có kế hoạch triển khai các hoạt động văn hóa sâu rộng trong đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ và các tầng lớp nhân dân, phát huy vai trò của các hoạt động văn hóa, văn nghệ, giáo dục trong việc tuyên truyền, giáo dục và vận động phong trào cách mạng. Đề cương ra đời năm 1943 không chỉ là “chim báo bão” mà là ngọn cờ để tập hợp đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ, các lực lượng, các “binh chủng” văn hóa và các tầng lớp nhân dân, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, tình cảm, làm cơ sở cho sự thống nhất về tổ chức và hành động, chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, mở ra một kỷ nguyên mới cho toàn thể dân tộc, giành lại chính quyền về tay nhân dân và khai sinh ra nhà nước kiểu mới, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam đã được khơi dậy, trở thành động lực tinh thần to lớn của toàn dân tộc để “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, thống nhất đất nước, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Kế thừa và phát triển những giá trị lý luận và thực tiễn của Đề cương, trong thời kỳ đổi mới vừa qua, Đảng ta không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo trên lĩnh vực văn hóa, đề cao vai trò, vị trí của văn hóa trong phát triển bền vững đất nước, khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần, là mục tiêu, là động lực, nguồn lực nội sinh quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những quan điểm chỉ đạo quá trình xây dựng văn hóa, con người ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn. Mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế ngày càng được nhận thức đầy đủ và cụ thể hơn. Văn hóa không chỉ có chức năng bảo vệ, giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân tộc, “Văn hóa còn thì dân tộc còn”, mà văn hóa còn là động lực, nguồn lực để làm giàu, phát triển kinh tế, xã hội, trở thành “sức mạnh mềm” trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những nguyên tắc cơ bản mà Đề cương nêu ra từ 80 năm trước đây tiếp tục được Đảng ta kế thừa, bổ sung và phát triển trong quá trình khẳng định đặc trưng cơ bản của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 9 khóa XI (2014) đã xác định quan điểm xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, trong đó khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”(6).
Phải chăng các đặc trưng này chính là sự phát triển nguyên tắc dân tộc, đại chúng và khoa học mà Đề cương đã nêu ra? Nguyên tắc đại chúng của nền văn hóa được cụ thể hóa, gắn liền với đặc trưng nhân văn và dân chủ, đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển, mở rộng cơ hội bình đẳng, dân chủ cho mọi người tiếp cận các cơ hội của sự phát triển.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn luôn chú trọng xử lý linh hoạt và hài hòa mối quan hệ giữa chính trị, kinh tế và văn hóa. Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, Đảng ta đã ưu tiên cho mục tiêu chính trị, tất cả vì sự nghiệp giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Mọi hoạt động kinh tế và văn hóa đều nhằm phục vụ cho mục tiêu này. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và phát triển kinh tế trở thành nhiệm vụ trọng tâm để nâng cao mức sống của nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, tạo tiền đề để củng cố hệ thống chính trị và phát triển văn hóa. Khi đất nước đã vượt qua ngưỡng thu nhập thấp để bước vào giai đoạn phát triển mới, Đảng ta nhấn mạnh đến vấn đề xử lý hài hòa, đồng bộ ba lĩnh vực này: “Phải đặt văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế và xã hội”. Khắc phục quan điểm “duy kinh tế”, chạy theo tăng trưởng mà coi nhẹ vai trò của văn hóa. Trong lĩnh vực xây dựng văn hóa, cần đặt trọng tâm là xây dựng con người, xây dựng nhân cách, phẩm chất đạo đức, trí tuệ, tài năng và thể lực con người. Xây dựng cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam. Phát huy tối đa nhân tố con người, con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển. Kiên quyết đấu tranh chống tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển bền vững đất nước.
Đảng ta đã xác định bốn trụ cột để bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước là kinh tế, xã hội, môi trường và văn hóa. Đồng thời, Đảng ta đã đúc kết phương châm hành động để phát triển đất nước bền vững hiện nay là: Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định mục tiêu cụ thể không chỉ trong nhiệm kỳ khóa XIII mà hướng tới những dấu mốc phát triển quan trọng của đất nước trong những thập niên sắp tới, phấn đấu đến năm 2045 trở thành nước phát triển thu nhập cao. Để thực hiện những mục tiêu to lớn này, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh một trong những trọng tâm cần thực hiện thật tốt là: “Khơi dậy tinh thần và ý chí, quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (7).
Như vậy, có thể nhận thấy tinh thần của Đề cương luôn luôn đồng hành và phát triển, là cội nguồn, động lực để phát triển sự nghiệp văn hóa của dân tộc, phát huy vai trò to lớn, không thể thay thế của văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, vấn đề tiếp tục khẳng định nguyên tắc dân tộc, đại chúng và khoa học của nền văn hóa Việt Nam vẫn là những vấn đề cốt lõi, trọng tâm để phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tiếp cận những nguyên tắc cơ bản của Đề cương trên tinh thần của thời kỳ đổi mới, chúng ta cần bổ sung, phát triển những nội dung mới về những nguyên tắc (hay đặc trưng) này phù hợp với thực tiễn đổi mới đất nước. Trong đó, đặc biệt tập trung vào triển khai có hiệu quả Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và bài phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, Kết luận của Ban Tuyên giáo Trung ương về nghiên cứu xây dựng và thực hiện các hệ giá trị quốc gia tại Hội thảo quốc gia Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới và Kết luận của Chủ tịch Quốc hội tại Hội thảo Văn hóa 2022 về hoàn thiện thể chế, chính sách và nguồn lực cho sự nghiệp văn hóa năm 2022 vừa qua. Đây là những hoạt động thiết thực để tiếp nối tinh thần đột phá về văn hóa mà Đề cương đã truyền lửa cho sự phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
Chú thích:
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.12-13.
(2,5) Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, 50 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr.14-15, 30.
(3) Trường Chinh, Về văn hóa và nghệ thuật, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội, 1985, tr.30.
(4) Trường Chinh, Về văn học và nghệ thuật, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội, 1986, tr.360.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần hứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.48.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.36.
19/3/2023
Phạm Duy Đức
Nguồn: Tạp chí VHNT số 527, 3.2023
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát

Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát Lời hát giao duyên kể về nỗi niềm cô gái thương thầm chàng trai/ Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát/ ...