Thứ Tư, 20 tháng 11, 2024

Đi viện - Hồi ký của Thái Chí Thanh

Đi viện - Hồi ký
của Thái Chí Thanh

“Hồi ấy, tình hình chiến trường rất nản, Hiệp định Paris cứ hoãn đi hoãn lại, 30.10 rồi 31.12 cũng chưa được ký kết… Hà Nội lại bị B52… Tâm tư lắm. Đêm, tôi hay lên chỗ ban chỉ huy bệnh viện, có bệnh viện trưởng là đồng hương Diễn Châu để nghe đài BBC, rồi về thông báo cho anh em. Một lần, tôi lần mò dọc chiến hào, đếm các cửa hầm để về hầm mình. Không ngờ, tôi rẽ sai ngách hào, nên nhào vào một cửa hầm, vừa oang oang: “Có tin mới… Có tin mới đây…” rồi sờ soạng thấy mấy đôi chân trên sạp rồi ào vào. Bỗng tiếng phụ nữ cùng cười ré lên làm tôi hoảng hồn. Nhầm vào hầm phụ nữ”.
Những năm tháng chiến tranh đầy cam go nhưng cũng tràn ngập niềm vui, hi vọng trong hồi ký “Đi viện” của nhà văn Thái Chí Thanh, Vanvn trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
ĐI VIỆN
Những tháng cuối năm 1972 mặt trận Trị Thiên vô cùng ác liệt. Tiểu đoàn 19 sư đoàn 304 của tôi liên tục bổ sung quân mà lúc nào cũng thiếu. Hồi ấy, tôi rất nản, thậm chí có lúc hoang mang đến cực độ. Nhất là sau những lúc bạn bè, đồng đội vừa hy sinh, địch lại nống ra, chiếm hết chỗ này đến chỗ khác, lính tráng chúng tôi cứ nẫu hết cả người, chỉ mong sao thoát khỏi chiến trận. Ấy nên ai bị thương, cho dù cụt tay, cụt chân hay bị vào đâu đó đều được mọi người khen “thơm thịt” vì được ra tuyến ngoài điều trị, hy vọng còn sống sót sau chiến tranh.
Tôi trụ mãi từ đầu chiến dịch, không mảy may dính bị thương hay sốt rét, rồi một lần vừa bị dính vết thương, cũng xoàng thôi, nhưng được bồi cú đúp là trận sốt rét ác tính kinh hồn làm tôi vật vã suốt đêm, đến nỗi chuột gặm cả móng chân cái mà mãi sau mới biết. Sau trận sốt đó, tôi như người khác, ngửi mùi cơm, mùi thịt hộp là chực nôn, mùi thuốc lá, thuốc lào ai hút cứ như mùi phân bò. Mà tôi không đi viện thì đơn vị cũng khổ phải chăm lo, nhất di chuyển hay bị địch đuổi phải bao nhiêu người vừa cáng, vừa mang ba lô, súng đạn của tôi theo cùng…
Anh em khiêng tôi giao cho trạm y tế tiền phương của sư đoàn. Họ chữa qua loa rồi cho tôi nhập vào đoàn thương bệnh binh ra tuyến ngoài điều trị. Lúc tập trung để điểm danh, tôi rùng mình vì mới tháng trước khiêng anh em bị thương lên đấy, thấy bao nhiêu là huyệt đào sẵn quanh viện, nay đã lấp kín, người ta phải đào sang mấy đồi xung quanh. Thế mới biết những người lính “thơm thịt” được may mắn đi viện thoát chiến trận mà vẫn chết cũng không phải là ít.
Thấy tôi bị băng quấn đầy bụng, người lẩy bẩy nên được giao cho hai cô thanh niên hỏa tuyến khiêng. Lúc đầu tôi mê mệt trên võng, mặc cho người lắc lư nghiêng ngả, nhưng khi qua một con suối sâu, nước tràn vào võng, tôi bị sặc, suýt làm hai cô bị ngã. Hai cô sợ hãi nhìn máu thấm đỏ ra băng quanh bụng tôi. Tôi chỉ nói, không sao đâu, rồi lẳng lặng lên võng, tiếp tục cuộc hành trình. Nước ngấm vào người, vào vết thương làm cho tôi tỉnh táo, thấy dễ chịu hơn, nằm nhìn trời, nhìn những cánh rừng xơ xác ven đường. Bỗng có hương thoang thoảng làm cho tôi có cảm giác khoan khoái mà mãi tôi mới nhận ra đó là mùi hương bồ kết. Mái tóc đen mượt của cô gái khiêng tôi phía trước đã bị xõa ra, có những sợi còn lất phất lên mặt tôi tỏa ra mùi thơm quen thuộc. Tôi lại nhìn cô gái khiêng phía sau, cũng còn rất trẻ, không xinh lắm nhưng sao thấy dễ thương đến thế. Hình như hai cô đã thấm mệt, ai cũng đầm đìa mô hôi, phảng phất mùi ngầy ngậy của phụ nữ mà tôi chưa một lần được tận hưởng. Thấy hai cô gái ngày một thở dốc, và liên tục đổi vai, tôi thấy ngại quá.
– Hay là… hai o để tui đi một đoạn cho đỡ mệt chứ…
– Can chi mô – cô gái khiêng sau cắt ngang lời tôi  – Tụi tui quen rồi.
Cô khiêng trước cũng lên tiếng, vẫn cái giọng Quảng Bình như bạn cô:
– Khiêng … chú là sướng nhứt đó, đây là lần tải thương hên nhứt của tụi ni.
Cô khiêng sau, lấy tay vén mớ tóc bết vào mặt rồi vừa thở vừa nói:
– Khiêng chú vừa nhẹ, lại không có mùi thúi của vết thương, lại không bị kêu gào, chứ những lần trước, sợ lắm…
Rồi hai cô vừa khiêng, vừa kể những chuyến tải thương của họ làm cho tôi cũng phải rùng mình. .
Chuyến tải thương đầu tiên của họ là chuyển các tử sỹ đã hy sinh trong loạt tấn công đầu chiến dịch. Các tử sỹ đều bó kín trong lớp tăng võng, chỉ có mỗi cái phiếu ghi tên tuổi, đơn vị gắn kèm. Họ phải chuyển đi ban đêm, theo những con đường mòn giữa rừng núi rất khó đi. Khiêng đường rừng không quen, hai cô bị tụt dần lại nên hãi lắm, hãi bom đạn thì ít, hãi ma thì nhiều. Kinh dị nhất là một lần, trong lúc đổi vai, làm cáng lắc mạnh, hai người nghe tiếng lào thào, như là tiếng người ợ, rồi liên tiếp phù phù như thở dài trong bao xác phát ra. Một cô sợ chết đứng, nhưng không dám thả cáng chạy. Cô kia lại reo lên, hình như còn sống. May mà vừa lúc đó, có anh đại đội trưởng quay lại đôn đốc, giải thích, đó là do hơi khí của liệt sỹ khi bị di chuyển phát ra … chứ không phải là ma, cũng không phải còn sống mô… Các cô khiêng vài chuyến là quen thôi.
– Nhưng thương nhất là chuyến hai đứa tụi tui khiêng một anh bị thương cột sống anh ạ.
Một cô nói rồi hai người thay nhau lại kể chuyến tải thương đau lòng đó. Lúc đầu, hai cô rất mừng vì khiêng anh thương binh vừa đẹp trai, trắng trẻo lại có một chiếc đài bán dẫn thu được của địch, nói hát oang oang, vui lắm. Nhưng được nửa đường thì anh ấy bị liệt, bắt đầu là chân, rồi tay cứ thõng xuống. Biết là sắp chết, nên anh ấy nghẹn ngào kể là thương vợ con, bố mẹ. Anh bảo, tưởng là chuyến ni điều trị ra ngoài Bắc, về thăm nhà, tặng cả nhà cái đài ai dè lại phải chết giữa đường… Hai cô thương lắm, nhưng còn biết làm chi hơn là động viên an ủi, đến khi giao cho viện thì anh ấy tắt thở. Hai cô ghi rõ theo lời trăng trối và địa chỉ quê nhà của người thương binh xấu số để nhờ bệnh viện chuyển thư, di vật về cho người thân.
Trở lại chuyến đi viện của tôi, khi đến bờ nam sông Mỹ Chánh, tuy không sâu nhưng nước chảy xiết, rất mạnh, tôi quyết không chịu nằm võng.
Một cô cười, trêu:
– Răng rứa, chú lại sợ tụi ni cho đi tàu lặn như khi sáng hỉ?
Tôi gật đầu:
–  Đúng thế! Thôi, để ba chúng ta cùng bám vào đòn khiêng rồi dìu nhau qua, chứ không chủ quan được đâu.
Mỹ Chánh là con sông ranh giới giữa Quảng Trị và Thừa Thiên, tôi cùng đơn vị qua khá nhiều lần. Bình thường, sông Mỹ Chánh có thể lội bộ, nhưng vào mùa mưa nước dâng cao, cuồn cuộn rất hung dữ. Thì mới tháng trước, khi tôi cùng anh em trong đơn vị ra Quảng Trị lấy đạn và lương thực, chứng kiến một cảnh rất đau lòng trên khúc sông này. Khi ấy, toàn bộ anh em thương bệnh binh chuyển ra tuyến ngoài đều nằm ứ lại bờ nam sông. Công binh họ nối các sợi dây song lại vắt qua sông để thương bệnh binh bám mà sang. Dẫu sợi dây song được căng khá cao, nhưng vẫn bị kéo chìm xuống vì sức nước mạnh và người quá đông. Thương nhất là những cáng thương binh bị ngập vùng vẫy trong võng, làm trôi cả bông băng, loang cả máu đỏ ra sông. Nguy hiểm nhất là lúc đấy pháo địch lại bắn cấp tập làm đoàn thương bệnh binh trở nên hỗn loạn. Rồi không hiểu bị tuột múi nối hay pháo địch làm đứt dây, mà trong chớp mắt, cả đoàn thương bệnh binh bị cuốn phăng đi trong dòng lũ. Lúc đó, chúng tôi đang đứng bờ nam, cùng mấy người lính công binh, giao liên, vội cuống cuồng, không quản đạn pháo nhào ra vớt nhưng chăng được bao nhiêu vì nước cuốn mạnh, chỉ phút chốc đã mất hút, bao nhiều là thương binh, bệnh binh, cả những cô gái thanh niên hỏa tuyến tải thương mất hút trong dòng nước đục ngầu. Họ sẽ ra sao, khi dưới vài km là địa phận mà quân địch đã tái chiếm lại…
– Chú mần chi mà ngẩn người đi rứa?
Một cô hỏi tôi khi cả ba đã vượt sang bờ bắc con sông.
Tôi không dám nói chuyện buồn mình đang nhớ lại, e các cô lại lo khi qua đây, bèn nói sang chuyện khác:
– Dứt khoát tôi không nằm võng nữa. Đoạn này hay có pháo địch, các o lại vứt võng chạy thì tôi có mà gãy xương.
Cả hai cô đều cười, đồng ý dìu tôi bước theo đoàn thương bệnh binh, tuy vết thương ở bụng có nhức nhưng thoải mái và nhất là được vừa bá vai, lúc ôm lưng hai cô thanh niên, điều chỉ mới hôm qua, tôi có nằm mơ cũng không dám. Nhiều người trong đoàn còn đùa, bảo tôi tham, một lúc ôm vai hai cô đẹp nhất đoàn, mà chẳng nhường cho họ…
Lúc nghỉ để ăn lương khô, một cô nhìn tôi mãi rồi bật cười, hỏi:
– Chú đi bộ đội lâu lâu rồi hỉ?
Đoán là hai cô đang hỏi dò tuổi vì họ nghĩ tôi già lắm, bèn hỏi:
–  Các cô đoán coi?
Một cô nhìn kỹ lại rồi bảo:
– Có khi chú chưa đến… bốn mươi…
Trời đất ơi, thảo nào nhiều người gọi là chú. Đến khi tôi tự thú cũng trạc tuổi hai cô, mười chín đôi mươi, làm họ cười ngất, dấm lưng nhau thùm thụp. Thú thực, lúc ấy tôi cũng chẳng quan tâm, gọi gì chẳng được, miễn là có cơ may sống sót, nhưng khi đến viện, họ kiểm tra “đầu vào”, 38 cân và 2 triệu bảy hồng cầu làm tôi kinh hoàng, đến soi mặt dưới suối thì đến mình cũng không nhận ra mình nữa, mặt vêu vao, nhầu nhĩ, xám ngoét như trái táo khô, chẳng ai ngờ được khi sắp vào mặt trận mình cường tráng với sáu chục cân có lẻ. Tất nhiên là hai cô bạn đổi cách xưng hô, dù thỉnh thoảng nhìn trộm tôi, cười rinh rích…
Vì tôi đi quá chậm, bị tụt lại sau cùng đoàn, nhưng ì ạch mãi cũng thoát ra khỏi cửa rừng. Nhìn từ đồi cao, thấy khói lam, cảnh đồng quê, tôi ngây ngất, òa khóc. Hai cô sợ, họ không biết là tôi xúc động vì lâu không được nhìn cảnh đó.
Trạm đón tiếp của viện 301 (thực ra là một bộ phận của bệnh viện 103, nhưng đổi tên để giữ bí mật), tôi thấy mủi lòng vì thương bệnh binh nằm la liệt trong những ngôi nhà dân ở làng Bảng Sơn (xã Cam Chính, huyện Cam Lộ). Nhiều người băng kín, khóc gào vì đau đớn, mùi hôi thối của vết thương lẫn mùi cồn, mùi e te xông nồng nặc. Họ đều là những thương binh rất nặng, đang được cấp cứu, sơ chữa và chờ xe chở ra ngoài Bắc điều trị.
Trong lúc chờ vào điều trị chính thức, tôi được bố trí ở trong nhà bà Hoạt làng Mai Lộc mấy hôm, chờ bệnh viện có chỗ mới được vào điều trị. Đây là một làng được giải phóng từ đầu chiến dịch, rất trù phú và đông vui, mà cánh lính chúng tôi hay gọi là thủ đô của lính.
Ai có là người lính chiến trận hồi ấy mới thấy hạnh phúc vô cùng khi được sưởi ấm trong lòng dân. Gia đình bà Hoạt tốt vô cùng, chăm sóc tôi như con, nhưng cũng tếu lắm. Buổi tối tôi cùng cả nhà thường ngồi bên bếp lửa, bà bảo tôi tập hát “bài miền Bắc” cho cả nhà. Khi tôi tập đoạn “Người Vân Kiều có tấm lòng trong trắng”, mọi người thuộc rồi, bà bắt đầu xuyên tạc, “có tấm lòng trong trắng” thì hát: “có cái l… to lắm”, tôi cười rũ, làm viết thương bụng thấm máu ra cả băng…
Viện 301 nằm ở Khe Gió, gần căn cứ Tân Lâm, nơi đầu chiến dịch ta bắt sống cả lữ đoàn trưởng cùng trung đoàn pháo 175 ly vua chiến trường.
Tôi cùng hai người nữa nằm chung một hầm, đều không phải thương binh nặng nên rất vui. Lính tráng là thế, chỉ cần đỡ đỡ một tý là nghịch, là phá quấy chứ loanh quanh trong hầm bức bối lắm. Một lần, ba chúng tôi rủ nhau sang một trại quân mình vừa chuyển đi. Lính chuyển đi bỏ lại rất nhiều đạn, lựu đạn. Bọn tôi tò mò rồi “học du kích miền Nam” rút chốt lựu đạn, bỏ vào ống nứa, vút đi xem ai xa nhất. Tôi và một người vút được rất xa, nhưng còn một cậu lính trẻ, bị thương trên đường vào, lớ quớ thế nào mà lựu đạn vung lên trời, rơi xuống phía trên dốc, lăn xuống. May mà 3 đứa nhào xuống cái hố gần đó, nên không sao. Chính người ném đó nhào sau cùng, vừa lúc lựu đạn nổ, mông nó bị miểng xượt qua, máu đầm đìa, về nói dối bác sỹ là đi bắt cá bị đỉa cắn.Hồi ấy, tình hình chiến trường rất nản, Hiệp định Pari cứ hoãn đi hoãn lại, 30 /10 rồi 31/12 cũng chưa được ký kết… Hà Nội lại bị B52… Tâm tư lắm. Đêm, tôi hay lên chỗ Ban Chỉ huy bệnh viện, có bệnh viện trưởng là đồng hương Diễn Châu để nghe đài BBC, rồi về thông báo cho anh em. Một lần, tôi lần mò dọc chiến hào, đếm các cửa hầm để về hầm mình. Không ngờ, tôi rẽ sai ngách hào, nên nhào vào một cửa hầm, vừa oang oang: “Có tin mới… Có tin mới đây…” rồi sờ soạng thấy mấy đôi chân trên sạp rồi ào vào. Bỗng tiếng phụ nữ cùng cười ré lên làm tôi hoảng hồn. Nhầm vào hầm phụ nữ. Diêm bật lên soi rõ ba cô thanh niên xung phong đang ôm chầm lấy nhau đề phòng tôi. Tôi xin lỗi nhưng họ cũng không cho tôi về, bắt nói tin đài BBC vừa nghe. Tôi nói xong, cũng không được về, vì trước đó lỡ miệng bảo, căn hầm các cô ở có một thương binh mới bị chết. Các cô thanh niên hỏa tuyến là chúa hay sợ ma. Đã thế tôi bèn kể cho toàn chuyện ma, làm cả toán cứ rú lên, đến nỗi các hầm khác phải chạy sang. Thế là cả đêm hôm ấy, hầm các cô chật ních lính và dân công hỏa tuyến cười vui, chuyện trò rất hay. Và cũng từ đó, căn hầm của mấy chị em trở thành “câu lạc bộ” của chúng tôi, hết đánh bài “tiến lên”, lại cải thiện rau cỏ, kể chuyện, hát hò… Phải công nhận, 3 cô gái người Quảng Trạch, Quảng Bình, dân công hỏa tuyến cực kỳ vui tính, lại xinh nữa. Trong đó, có cô tên Hoa rất hay pha trò, cười chết thôi, còn một cô tên rất không đẹp, nhưng nhan sắc hiếm thấy ai bằng, là Vẫn. Từ đó, cánh đàn ông chúng tôi hay tụ lại trên miệng hầm các cô gái hỏa tuyến để tán gẫu, đánh bài…
Cho đến một hôm, trời đã về chiều, bọn chúng tôi đang đánh bài trên ngoài hầm thùng (dù ở viện nhưng đi lại sinh hoạt vẫn trong các hầm hào) thì một tốp máy bay ào đến, sau khi tọa độ đánh tan nát một đơn vị bộ đội đóng quân gần viện còn thả mấy quả bom bi nổ chậm. “Bom bi mẹ” nổ trên không, đúng địa bàn bệnh viện nên tất cả đều không được ra ngoài. Bom bi nổ chậm rơi khắp nơi và phát nổ bất kỳ lúc nào, nguy hiểm vô cùng. Buồn nhất là một cô đang đi hái rau rừng, không về kịp. Mãi đêm ấy, các y bác sỹ tìm thấy cô ấy đã hy sinh vì bị bom bi trong khi đang lấy măng…
Hai cô Vẫn và Hoa cùng xuất viện với tôi dịp sát tết. Chia tay thật bùi ngùi. Chúng tôi ghi địa chỉ, hẹn ngày chiến thắng gặp nhau dù ai mà biết được ai còn, ai mất.
Sau ngày toàn thắng, tôi theo đoàn quân hồ hởi trút áo lính, ra quân. Khi đoàn xe chở chúng tôi về quê, dừng nghỉ đêm cách Phà Ròn hai chục km, tôi cùng một người bạn quyết định chạy bộ đến Quảng Trạch, mong gặp hai cô gái hỏa tuyến năm nào, tặng mỗi người một chiếc khăn “voan” để kỷ niệm tình bạn thời khói lửa. Nhưng đến bờ sông Gianh, hỏi ra còn gần chục km nữa, sợ quay lại không kịp giờ, nên đành nhờ một người tình cờ gặp quê gần xã của hai o cầm hộ quà và lá thư viết vội…
Không hiểu món quà đó có đến được hai cô gái hỏa tuyến đó không, nhưng dẫu sao, tôi cũng đỡ áy náy…
12/2/2019
Thái Chí Thanh
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Những chuyến đò mưa

Những chuyến đò mưa Đò chở những bà mẹ nghèo sang chợ Than bên kia sông bán những thứ của nhà làm ra hoặc buôn thúng bán mẹt. Năm ngày 2 p...