Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2024

Người của đất - Truyện ngắn của Lê Quang Trạng

Người của đất - Truyện ngắn
của Lê Quang Trạng

Tác phẩm của nhà văn thường phản ánh vùng đất mà họ sinh ra và lớn lên. Cội nguồn, bản sắc ấy đi vào trang viết, trở thành đặc quyền sáng tạo mang thương hiệu của mỗi nhà văn. Tất nhiên, để tạo được căn cước văn, đòi hỏi mỗi người viết ý thức cao về tính khác biệt cũng như khả năng sáng tạo trường kỳ, biết vươn lên mỗi ngày. Là người con của An Giang, ý thức sâu sắc tiếng nói miền Tây, Lê Quang Trạng đã dẫn dụ người đọc vào những câu chuyện, sinh hoạt đời thường mang đặc trưng của vùng đất sông nước hết sức dân dã, bằng giọng văn chân tình, lôi cuốn và giàu chất nhân văn của mình. Vanvn.vn giới thiệu đến bạn đọc truyện ngắn “Người của đất” của anh.
Hoàng Thụy Anh giới thiệu
Một bữa đổi gió, ba lôi từ hộc tủ ra một bọc đất sét. Len lén lúc mẹ sơ hở, ba chớp lấy cái thau inox, đổ vào chút nước rồi ngồi nghịch đất với đôi mắt sáng lung linh. Đứa con không biết tại sao nhà mình lại có bọc đất sét đó. Hỏi mẹ thì mẹ cười, “hồi ba mầy còn khỏe, ổng về quê móc cục đất sét ở bên hông nhà mang lên đây. Mỗi lúc nhớ đất quá, ổng lôi ra hít hà cho đỡ nhớ”.
Đó là hồi mà ba đang đứng sát ngạch cửa của nỗi nhớ và quên. Những chuyến về quê nhiều hơn nhưng vẫn không làm đứa con lo lắng. Nghĩ rằng ba mình tới tuổi hưu rồi, ngoài giữ nhà giữ cháu thì lâu lâu ông về quê một hai hôm có sao đâu. Nhưng đứa con đâu biết, ông về rồi lại trở lên phố ngay, mà lòng ông thì cứ hoài nặng trĩu như người mắc nợ phù sa.
Hồi còn khỏe mạnh, ba hay kể về xứ sở phù sa của ông, tổ tiên mình là những cư dân đầu tiên đi mở cõi phương Nam. Các cụ đã khai hoang, lập làng, đào kinh dẫn nước; mở mang nên một miền châu thổ phì nhiêu. Ba tự hào khoe với mấy ông bạn già trên phố rằng mình là dân gốc xứ Xẻo Bần, cái xóm nhỏ năm xưa không có một viên đạn. Chỉ mấy tổ ong rừng mà đánh tan một tiểu đoàn giặc, được phong xóm Xẻo anh hùng. Hay chuyện rằng “ở quê tui, có trái giác nấu canh chua lươn thì ngon bà lạy!”. Những món ăn dân dã và đậm chất miệt vườn của ba làm mấy ông bạn gốc người thành phố, khoái chí ao ước: “Phải chi tui cũng có một miền quê yên ả như ông”.
Đứa con thì không quan tâm nhiều đến gốc tích và những món ăn kia. Hình như phố phường huyên náo đã lấp đi ký ức của đứa trẻ sáu tuổi năm nào. Khói nhà máy từ lâu đã thay khói đồng thơm, tiếng còi xe đã thay tiếng dế. Nguyên quán Xẻo Bần ghi trong chứng minh thư với đứa con chỉ là mớ ký ức chập chờn, rằng một bữa sau cơn bão dữ, xóm làng tan tác, nhà cửa bị trốt cuốn tan hoang. Ba mẹ bò ra từ trong đống đổ nát quờ tìm đứa con trong đêm tiếng gió gào trộn lẫn tiếng khóc thét thê lương. Nương theo quán tính của tiếng khóc đứa con, ba mẹ tìm được nó bị mắc kẹt ở một nhánh cây. Vừa khóc, ba mẹ vừa bồng đứa nhỏ chạy trối chết. Thấy gió thì tìm chỗ trú, bớt chút lại đi. Tờ mờ sáng tới bến tàu đò, trong nỗi hoang mang còn vươn trên đôi mắt, ba mẹ bấm bụng bán đôi nhẫn cưới rồi lên tàu đò rời quê đi thật xa, thật xa.
Chuyến ra đi, rời mảnh đất Xẻo Bần bốn đời chôn giữ dây rốn lá nhau, ban đầu vì nỗi ám ảnh tột cùng của cơn bão dữ. Vì xóm làng đã hóa bình địa như một trận bom rơi, và cũng vì những người thân không còn nữa, sau bão. Nhưng dần dà, nỗi nhớ quê hương át đi nỗi sợ. Nỗi nhớ như cây bần cây đước bị đổ ngã, bão lặng rồi thì bám đất đâm rễ vươn lên. Hơi thở đồng quê không thôi cựa mình trong ba, làm ông có ý muốn quay về. Lúc ấy cũng là lúc đứa con vừa vào lớp một, nó đã bén rễ, hòa vào hơi thở phố phường. Ba mẹ không nỡ bứng đứa con về đất Xẻo Bần xa xôi, đường đến trường lụy mấy chuyến đò. “Mình khổ cực cách mấy cũng được, nhưng ráng không để con ngu dốt. Hy sinh nửa đời mình để con có cuộc sống đủ đầy hơn. Rồi khi nó ổn định cuộc đời, yên bề gia thất thì mình sẽ về”. Lời tâm sự cũng là lời thề nguyện của ba mẹ dúi vào lòng nhau, dúi thật sâu vào mơ ước cuối đời, như ngọn đèn nhấp nháy phía cuối đường tàu mà con tàu không biết bao giờ là đích đến.
Ba tin rằng, “thành phố không giết chết ai bao giờ, mình mến nó thì ắt nó sẽ mến mình”. Những chuyện xui rủi xảy đến ngay khi vừa bước xuống bến xe, túi ba bị rọc một đường dài lấy đi cái hộp nhỏ xinh, mặc dù đó chỉ là cái hộp đựng thuốc rê không đáng giá gì. Hay những ngày đầu bị người ta gạt đưa vào sở làm nhưng chưa đi làm thì mất tiền sạch túi. Ba mẹ không ngại phố thị vô tâm, ba an ủi rằng đời có người vầy người khác. Ý nghĩ ấy suốt nhiều năm ba mẹ vẫn giữ, dẫu bây giờ ba đã là người của phố hẳn hoi, những thói đời của phố đã quen mặt và cũng làm ông ngao ngán…
Mẹ từ thúng xôi vò đến xe chè xôi mỗi ngày chạy quanh phố bán. Ba với đôi tay dân biển mặn mòi qua làm bốc xếp, phụ hồ rồi học hỏi lên được thợ xây. Phải ép lòng bỏ đi cái tính hào sảng của người châu thổ phù sa, phải cân đo đong đếm từng đồng mới đủ xoay xở cho tiền nhà, tiền ăn học của con. Ba hay nói, “trời không phụ lòng người” – đến bây giờ với ông có lẽ là đúng nhất! Bởi những giọt mồ hôi, những ngày dậy sớm thức khuya cũng đến lúc đáp đền. Một căn chung cư nho nhỏ ba mẹ mua được sau hai mươi năm ở trọ dụm dành. Đứa con vào đại học khi tiệm xôi của mẹ định danh được gần hai chục năm khách đến lúc nào cũng đông nườm nượp. Những nỗi lo toan bắt đầu nhẹ đi, cũng là lúc ba biết mình đã yếu, không còn leo trèo giàn giáo cao vút để xây nhà được nữa. Ba ở nhà phụ mẹ, lâu lâu ông bà nhớ thì về thăm đôi ba hôm nhưng cũng không quá lâu vì bỏ tiệm xôi vài bữa, thì mối mang sẽ réo gọi: “Bà không bán, đứa nhỏ đi học thà nhịn đói chứ không chịu ăn chỗ khác”…
Rồi những chuyến đi dần ngắn lại khi đứa con ra trường, ông bà phải trải một đợt lo lắng cao điểm hơn để đủ tiền cho con cưới vợ. Nghĩ ngày xưa mình cưới nhau ông bà nội ngoại đâu phải quá lo âu, vàng cưới chỉ có cặp nhẫn và đôi bông không quá hai chỉ vàng. Vậy mà giờ đây ông bà phải lo bao việc. Cứ nghĩ thành phố thì thứ gì mà chẳng có; từ chụp ảnh, đặt thiệp đến đãi tiệc. Nhưng đến lúc rớ vào mới thấy phải so sánh đắn đo bao việc. Đứa con bày ra một loạt các thông tin, mà mỗi việc chọn lựa sao cho phù hợp cũng nhọc đầu biết bao nhiêu. Mất đi ba ký lô sau lần cưới con, ông già hy vọng mình đã xong những trách nhiệm của đời người. Mình sẽ an dạ về quê vui thú điền viên, thì mấy ký lô bù lại mấy hồi.
Nhưng mọi thứ đâu như ông nghĩ, miếng đất vườn ở quê trồng cây chưa có trái, loay hoay ông bà lại có cháu. Cháu vừa đầy tháng thì phải lên phố ở nhà thay nhau trông cho con đi làm. Cuộc mưu sinh lại diễn ra tiếp nối giữa thế hệ này với thế hệ khác. Mà ông bà nghĩ rằng, năm xưa khi con còn thơ dại, mới lên phố phường mình cũng cực khổ lo toan bao nhiêu thứ. Nhiều đêm vừa lo cho con sốt vừa phải canh nồi xôi mà lòng ứa nước mắt. Ước ao phải chi còn ông bà nội ngoại để giữ cháu giúp thì đỡ biết là bao. Ý nghĩ ấy gắn ông bà chặt hơn với con cháu, và cả với phố phường. Nghĩ mình đã trải qua, đã thấu hiểu lẽ nào mình lại bỏ con giữa lúc này để đành đoạn về quê an dưỡng cho riêng mình. Vậy là ông bà gác lại chuyến trở về quê, nhưng cái mầm của chuyến đi vẫn không thôi cựa mình mỗi đêm khi bà ú ớ trong mơ, “nấm mối mọc ở sau vườn ông ơi!”.
Đứa cháu nội vào lớp một, nó học bán trú từ sáng đến chiều tối mới về. Ông bà thấy lòng bắt đầu an dạ. Bàn bạc với con về chuyến về quê, đứa con lặng im hồi lâu rồi quyết rằng vợ chồng con còn công ăn việc làm và đời sống gắn liền với phố nên không về quê sống được. Nhưng ba mẹ về thì cứ về, con sẽ lo cho, không sao! Ông bà cũng mừng, vì dù sao ông bà về nơi ấy là được. Ông đã liệu định sẵn cho mình mọi thứ, kể cả cái việc ông sẽ cho người xây lại mồ mả ông bà và xây luôn hai “chỗ nằm”. Để khi ba mẹ cưỡi hạc quy tiên thì đứa con không phải phân vân hay quá lắng.
Mọi thứ sắp xếp gần xong cả, thì một bữa trên đường đi rước cháu nội. Trời mưa, tay yếu, ông té xe ở Ngã Bảy. Người ta đưa ông vào viện cả buổi trời mà ở nhà vẫn không hay biết, nơm nớp không biết ông có đi rước cháu thật không hay ông đang trên chuyến xe đò về quê, sau mấy ngày ú ớ trong mơ thấy mình đang ngồi bờ ao câu cá lóc. Sau đợt té đó, thần trí ba dần hóa thinh không, và trắng xóa như đứa trẻ quê không quen mùi phố.
Ba vẫn hay ra khoảng sân nhỏ ở chung cư, nơi duy nhất ánh sáng có thể trải trên nền. Nơi đó trồng mấy chậu rau, mẹ ủ trên đất mớ rơm đồng. Sáng nào ba cũng lựng khựng từng bước khó khăn ra đó. Ông không nói gì, chỉ ngồi bẹp xuống gạch như đang ngồi trên bờ đê. Tay vân vê như đang vấn điếu thuốc rê, rồi đưa lên miệng kéo mấy hơi hì hà, không thấy khói. Ba trầm ngâm nhìn về xa xăm. Nơi đó không quá xa là bến xe, nơi ông vẫn ao ước leo lên xe đò ngủ một giấc là tới quê. Nhưng giờ thì chắc ba cũng không nhớ nhiều về phía ấy. Ba ú ớ gọi tên những đứa bạn thời tuổi thơ, những người chết trong cơn bão xa xưa và những người đã đi đến một chân trời khác xa xôi, bỏ ông lại với mớ ký ức úa tàn, khô khốc vì nắng oi của phố.
Mẹ vẫn không phiền trách mỗi lần ba bày mớ đất sét ra sàn nhà, ông nặn con trâu, con vịt, cái cà ràng ông táo… Có khi đang chăm chú làm, ba quay qua hỏi mẹ, “con gà trống chiến nhà mình có mấy chân vậy bà?”. Mẹ dịu dàng trả lời, cũng như mấy mươi năm qua thủ thỉ cùng ba. Có đoạn đứa cháu hứng chí lại chơi cùng ông nội, hai ông cháu bê bết đất, ba cười tươi như đứa trẻ có thêm bạn. Vậy mà tối đó đứa cháu bị mẹ rầy vì chơi đất bùn sình, biết bao là vi khuẩn, và cấm tiệt từ nay không được chơi dơ với ông nội.
Ông già mất bạn, mỗi lúc đứa cháu đi ngang, ba len lén nhìn mà không dám gọi. Vì biết nếu gọi bạn vào cuộc thì nó sẽ bị ăn đòn (người tốt ai chơi hại bạn vậy!). Có khi bà thấy cảnh vậy, mà ứa nước mắt nói giận với thằng con: “Hay con quăng đại ba mẹ về quê cho rồi, về đó ổng chơi bao nhiêu thì chơi cho thỏa ổng”. Nhưng đứa con không chịu. Ba mẹ chỉ có mỗi một đứa con, mà giờ nó đuổi ba mẹ về quê sống cảnh nhà xa trạm xá trong khi ba nay đau mai yếu thì hóa ra đứa con bất hiếu. Phải ở phố, để có đủ đầy mọi điều kiện sống, lo cho ba mẹ sống khỏe những năm tuổi già…
Một bữa không biết từ đâu có con dế lửa đậu lại trên mảnh vườn nhà. Ba nói, “tối qua nó gáy kêu bầy nghe đã lắm”. Mẹ ra dấu không cho ba nói nữa, bởi sẽ lộ chuyện ba mẹ đêm khuya không chịu ngủ mà ra đó dầm sương đêm nghe dế kêu. Đứa con không để ý, bởi nó còn bận bịu áo quần giày dép để đi làm.
Con dế dại khờ bay vào nhà tìm bạn, rồi xà xuống đậu trên nền gạch. Đứa con đang đứng mang giày, theo bản tính của người phố sống sạch, nó đạp một cái rõ mạnh làm con dế ngưng bặt tiếng kêu, xẹp lép. Ba đang ngồi trên ghế bỗng đột ngột sà xuống chỗ chân con mình. Nhìn con dế chết toi, ba chợt ôm chân đứa con khóc như mưa, nước mắt nước mũi tèm lem, lem luốc cả quần con. Lưỡi ông đơ đớ nói mãi không tròn lời.
Đứa con không hiểu sao ba lại đau xót đến như vậy. Nó chỉ đạp chết một con côn trùng thôi chứ có phải đạp chết cả đời ba đâu, sao ba lại thảm sầu như mất cả bầu trời thơ ấu vậy?.
22/3/2023
Hoàng Thụy Anh
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát

Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát Lời hát giao duyên kể về nỗi niềm cô gái thương thầm chàng trai/ Sợ cha mẹ nên trốn tình vào câu hát/ ...