Thứ Tư, 11 tháng 5, 2022
Bùi Hữu Nghĩa - Rồng vàng Đồng Nai
Bùi Hữu Nghĩa
Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872), hay Thủ khoa Nghĩa, hiệu Nghi Chi, người Bình Thủy, tỉnh Cần Thơ. Ông trước làm quan nhà Nguyễn, là nhà thơ, soạn tuồng và là bạn cùng chí hướng với một số sĩ phu và nhà thơ yêu nước như: Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), Phan Văn Trị (1830-1910), Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1882)… và có chân trong nhóm Bạch Mai thi xã của danh sĩ Tôn Thọ Tường (1825-1887) ở Gia Định. Ngoài vở tuồng Kim Thạch kỳ duyên, Thủ khoa Nghĩa còn để lại vài chục bài thơ làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật về đề tài tức cảnh, vịnh vật và ba bài văn tế: vợ, Nguyễn Thị Tồn, con gái cùng một số câu đối qua các giai thoại. Sau ngày thống nhất đất nước, mộ của Thủ khoa Nghĩa, được chỉnh trang nhiều lần và Bộ Văn hóa Thông tin công nhận mộ Thủ khoa hiện nay là một di tích lưu niệm danh nhân vào ngày 25 tháng 1 năm 1994.
1. Tại Trà Vinh, cũng với bản tính thẳng thắn, cương trực, tri huyện Bùi Hữu Nghĩa từng cho đánh đòn trị tội xấc láo người em vợ của bố chánh Truyện, cho nên cấp trên đã có sẵn thành kiến, tư thù với họ Bùi. Nhân vụ Láng Thé, Bùi Hữu Nghĩa bị họ khép ông vào tội chết.
2. Nguyễn Thị Tồn vào yết kiến mẹ vua và trình tâu hết mọi việc. Hoàng Thái hậu Từ Dũ (1810-1901) cảm động, ban tặng cho Nguyễn Thị Tồn một tấm biển đề bốn chữ vàng: “Liệt phụ khả gia” (người phụ nữ tiết liệt trong gia đình). Tuy cứu được chồng, nhưng khi trở về đến quê nhà ở Biên Hòa, bà Nguyễn Thị Tồn lâm bệnh và mất. Bà được an táng tại nơi đó. Nghe tin vợ mất, lúc bấy giờ Bùi Hữu Nghĩa đang ở nơi biên trấn xa xôi, một địa điềm giáp ranh biên giới với Kampuchia nơi ông nhận lệnh đi trấn đồn Vĩnh Thông sau khi bị kỷ luật. Về đến Biên Hòa thì việc an táng vợ đã xong. Bùi Hữu Nghĩa rất đau lòng và ngậm ngùi làm hai cặp câu đối (một chữ Hán, một chữ Nôm) và một bài văn tế vợ mất để tỏ lòng tiếc thương người vợ hiền phụ quá cố . Sau đây là hai câu đối chữ Hán: “Ngã bần, khanh năng trợ, ngã oan, khanh năng minh, triều dã giai xuân khanh thị phụ/ Khanh bệnh, ngã bất dược, khanh tử, ngã bất tán, giang sơn ưng tiếu ngã phi phu”. Nghĩa: Ta nghèo, mình hay giúp đỡ, ta tội, mình biết kêu oan; trong triều, ngoài quận đều khen mình mới thật là vợ/ Mình bệnh, ta không thuốc thang, mình chết, ta không chôn cất; non sông cười ta chẳng xứng gọi là chồng. Bài văn tế vợ có lời kể lể thiết tha: “Phụng lìa đôi chếch mác, đừng nói sửa sang giềng mối, khi túng thiếu manh quần tấm áo, biết lấy ai mà cậy nhờ. Gà mất mẹ chít chiu, đừng nói nhắc biểu học hành, khi lạt thèm miếng bánh đồng gàng, biết theo ai mà thỏ thẻ…”. Trong một lần ra thăm mộ người vợ can trường đã khuất bóng ba năm, Thủ khoa đã xúc động, ngậm ngùi làm bài thơ Khóc vợ, với lời lẽ thống thiết nao lòng: Đã chẵn ba năm mới đặng thăm/ Màn loan đâu vắng bặt hơi tăm/ Gió đưa đâu thấy hình dương liễu/ Đêm vắng ai hoài tiếng sắt cầm/ Chồng nhớ vợ, lòng tơ bối rối/ Con thương mẹ lụy ngọc tuôn dầm/ Có linh chín suối, đừng xao lãng/ Thỉnh thoảng về thăm lúc tối tăm.
5. Hai bên
tiếp tục: TRẮC - BÌNH, VÃNG - LAI, NAM - BẮC, CÔ - CỤ. Ông lão đan rỗ,
người xướng tán thành nhiệt liệt người đáp đã đối trong hai câu ngũ ngôn rất
hay và đúng theo cung cách xướng họa, đối đáp. Ráp lại đầy đủ hai câu xướng và
đối là: + VÕ TRẮC VÃNG NAM CÔ và + VĂN BÌNH LAI BẮC CỤ. * Cuộc trò chuyện
đối đáp văn chương vừa xong, cùng lúc với mấy tuần trà cũng đã hết. Bên ngoài,
cơn nắng sáng già sang buổi trưa, Văn Bình tỏ ra sốt ruột, muốn được gặp mặt
nhà thơ Bùi Hữu Nghĩa mà công chúng khắp nơi đã ngưỡng mộ tài năng và kính trọng
về nhân cách. Nhưng Văn Bình được người nhà của ông lão nhà quê đan rỗ, đi hỏi
thăm về báo lại là hôm ấy cụ Thủ khoa vắng nhà. Văn Bình cùng đoàn tùy tùng ra
về và mấy hôm sau cũng đã hiểu ra được ý nghĩa sâu sắc của câu đối mình làm, để
đáp lại câu xướng và ông lão nhà quê đan rỗ kia cũng chính là nhà thơ - thủ
khoa Bùi Hữu Nghĩa - con rồng vàng của đất Tây Đô.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Cành phong hương
Cành phong hương Tôi lên vùng núi lần này không phải vì ham vui. Thực sự trong lòng tôi không còn chỗ cho những buồn vui của cuộc sống thư...
-
Nguyễn Du Từ một ai đó đến không ai cả Bạn phải là một ai đó trước khi có thể là không ai cả Engler Jack Sau thời đại...
-
Hoàng Thụy Anh và những không gian mơ tưởng “ta chấp nhận mọi trả giá - kể cả cái chết - để hiện sinh - như một bài ...
-
Ánh trăng trong thơ Dương Quân (Trong Ba tập thơ Chập Chờn Cơn Mê, Điểm Hẹn Sau Cùng, Trên Đỉnh Nhớ) Vào một ...

.jpg)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét