Thứ Tư, 1 tháng 2, 2023

Ở lại cùng sông

 Ở lại cùng sông

“Trong đời tui hạnh phúc nhứt là khi sanh thằng Phúc, thằng Hậu và cái lúc tui té sông bị chân vịt chém xém đứt mấy ngón tay”. Dì cười héo hắt, nhỏ mấy giọt nước mắt đặc quánh, bên bết như sình non. Tôi bâng quơ nghĩ: nước mắt chi mà lạ… Hay là thứ nước mắt của những khổ đau dồn nén? Hay là tôi lóa mắt nhìn lầm?.
Dưới ánh sáng của cây đèn Hoa Kỳ để góc ghe đủ để tôi nhìn rõ gương mặt dì. Đó là gương mặt cam chịu đến ám ảnh, những nếp nhăn xô lệch rơi vãi khắp nơi, đôi mắt to, sâu hun hút như không có đáy, mớ tóc dày quấn cao càng khiến các góc cạnh của khuôn mặt phô ra hết.
– Sao dì lại thấy mình hạnh phúc vào những lúc đó?
– Cô là dân bàn giấy đâu có hiểu được dân mạt hạng tụi tui. Tối ngày lo mần không đủ ăn, đâu có ngó nhiều tới nhau. Lúc người đờn bà ở cái miệt này sanh con là lúc được người đờn ông chăm sóc nhiều nhứt. Tui có phước té sông bị chân vịt chém vài đường thịt chớ nhiều người chết luôn. Cữ đó, ổng ở nhà chăm sóc tui y như cái hồi tui sanh tụi nhỏ…
Tôi dựa vào mạn ghe, kế bếp lửa dì đốt hun tay chân cho tôi khi vớt tôi từ dưới sông lên. Lúc tôi trầm mình xuống dòng này chỉ muốn chết cho nhẹ nợ trần gian không nghĩ mình được vớt lên rồi ngồi đây nghe một người đàn bà sống kiếp thương hồ kể chuyện. Dì nấu cháo hàu biểu tôi ăn cho lại sức. Dì nói không có thứ nào ngon hơn hàu, chỉ đưa thìa cháo vào miệng, răng khẽ chạm vào thân hàu và cảm nhận một tiếng vỡ bục thật khẽ, vị thơm ngậy cứ lẩn quất mãi trong vòm miệng, để rồi khi đã trót ăn một lần thì cứ vấn vương mãi không dứt. Còn tôi trong cơn đê mê hụt chết chỉ thấy miệng đắng ngắt, ứ đầy một cảm giác mệt mỏi, đôi mắt trĩu nặng muốn ngủ như khi tôi gieo mình xuống đáy sông.
Nhà văn Nguyễn Thị Việt Hà
Giọng dì vẫn nhàn nhạt, buồn buồn, trầm trầm lẫn vào tiếng sóng vỗ vào bờ dứt ra từng tảng đất đổ oàm xuống sông, sóng liếm vào chiếc ghe chùng chình lay lắt…
“Hồi đó ổng đem có cặp vịt qua nhà dắt tui về làm vợ chớ có đám đình chi đâu. Ổng nghèo, tui cũng nghèo, phận nghèo với nhau hiểu dạ nhau mà sống chớ tui không đòi hỏi gì nhiều. Tài sản ổng có là chiếc ghe cũ chở khách, bán đồ tươi, đồ khô, vớt phế liệu… Ổng nói ổng rải tro cốt ba má xuống sông Gành Hào này nên mơi mốt dù có đất ở trên bờ ổng cũng không ở trển. Biết hoàn cảnh ổng vậy nên tui thương ổng nhiều hơn. Tình thiệt mỗi ngày lặn lội ở khúc sông dơ dáy tui cũng tủi cái thân tui. Những ngày trời nóng nước sông hôi thúi kinh hoàng. Người ta quăng tất cả những gì rác rưởi xuống dòng sông này. Nhưng cũng có lúc khúc sông này cũng xôm tụ chớ không hiu quạnh như giờ. Dân thương hồ tụi tui hay cạp vách xuồng xin mồi lửa, trao đổi cho nhau nắm gạo lức, tấm vải bố tời, trái bầu, trái bí. Bà con dân tình ghé mua, thấy buôn bán được nên tụi tui neo chỗ này luôn thành cái chợ nổi bán đủ thứ từ bàn ghế, giường tủ… đến mắm muối rau quả. Có bầu thằng Phúc tui nghỉ vớt phế liệu, tui bán đồ tươi, bán café còn ổng đục hàu, sống cũng được. Tui nhớ đất liền, chiều chiều nấu cơm, khói bay lên mui, tui muốn về thăm má hết sức. Ổng biết dạ tui, nói trỏng:
– Để đục hết hàu ở bờ kè này tui với em về thăm má nghen.
Tui mừng rân, muốn khóc, ngó ổng. Ổng quấn điếu thuốc xếp gối ngồi trên ghe phì phà nhả khói lên trời, tui biết ổng buồn. Ổng buồn vì thương tui lênh đênh theo ổng hết khúc sông này tới khúc sông khác”.
Dì dừng kể lom khom khêu ngọn đèn dầu, dáng dì nhỏ thó, héo quắt như nhánh lục bình quẳng lên bờ phơi nắng. Trên trang thờ di ảnh một người đàn ông rất trẻ, đôi mắt to lanh lợi, thông minh như đang nhìn thẳng vào tôi. Thoáng giật mình, luống cuống tôi hỏi:
– Bức ảnh trên bàn thờ là… là….
– Thằng con lớn của tui đó cô. Thằng Phúc anh thằng Hậu .
– Sao…lại….?
– Ờ, nó đục hàu bị vọp bẻ chết đuối. Tội lắm, chết hơn ngày tui mới biết. Cũng hên chưa trôi mất xác. Khi vớt nó lên bụng nó còn cột cọng dây nối với cái thau đục hàu cho khỏi trôi. Nó chết mấy năm rồi, mới 24 tuổi, chưa có người yêu…
Tôi giật mình, khi Phúc mất năm 24 tuổi nghĩa là bằng tuổi tôi hiện giờ… Dì quệt nước mắt, thứ nước mắt sình non dưới ngọn đèn Hoa Kỳ lại lóe lên. Dì đốt cây nhang thắp cho con, lẩm bẩm:
– “Họ đường 3 tháng, láng giềng 3 ngày”, tui thờ con tui cho nó đỡ tủi, đỡ lạnh chớ không như người ta nói con chết trước cha mẹ là nghịch cảnh, bất hiếu. Trời bắt nó đi thay tui thì nó phải đi. Tui biết nó thương ba má nó lắm…
Đôi mắt trên di ảnh nhìn tôi như soi thấu. Một cơn lạnh chạy dọc sống lưng…
– Tui hỏi thiệt, sao cô ngán sống nhẩy sông tự tử?
– Sắp đến ngày cưới, người yêu con lại đi ngủ với bạn thân của con… Con khổ quá dì ơi… Con muốn chết cho xong…
Nói được đến đó tôi bật khóc nức nở. Dì lấy cái mềm cũ phủ lên người tôi:
– Coi vậy chớ trước sau gì cũng xẩy ra cái chuyện đó thà biết trước còn hơn, đờn ông mà. Đó là cô chưa có chứng kiến những chuyện đời sông nước tụi tui còn khổ hơn nhiều. Như tui còn có chồng, có con để chia sẻ. Chớ có người cả đời không biết mùi đờn ông là gì, quanh năm chỉ vò võ một mình, một mái chèo với sông nước.
Dì lui cui dọn dẹp tới lui trong ghe. Tôi vẫn không hiểu nổi bao năm qua bằng cách nào gia đình dì có thể xoay xở trên chiếc ghe xác xơ, chắp vá ấy. Tôi tỉnh hẳn, đôi mắt người con trai lớn của dì trong di ảnh vẫn bám riết lấy tôi, dù ngọn đèn dầu dì đã dịch chuyển ra giữa ghe ánh sáng không đủ để nhìn rõ bức ảnh. Không hiểu sao tôi luôn ám ảnh những bến sông. Có bến sông gần, có bến sông xa, có bến sông buồn, có bến sông vui. Cuộc đời mỗi người đàn bà cũng vậy, như cái bến sông Gành Hào này có lẽ dành cho những người bị phụ bạc như mẹ, như tôi. Mùa thu, miền Tây không dấu chân người. Những đồng nước cứ riên riết chảy mênh mang khắp sông rạch, ruộng đồng. Đâu đâu cũng một màu phù sa ngầu đục. Năm nào, nhìn dòng nước đổ về, tôi cũng khóc. Năm xưa khi bước xuống tàu, nhìn lên bờ thấy cha đi với một người đàn bà trẻ đẹp, mẹ tôi không khóc chỉ có tôi oà khóc nức nở. Mẹ ôm lấy tôi, gương mặt đầy vẻ xót thương, chịu đựng. Khi ấy trời mưa, tôi không phân biệt được đâu là nước mắt của mẹ đâu là nước mắt của trời. Để từ khi đó với tôi, mỗi bến sông đều mang bóng dáng gương mặt mẹ tôi.
– Sao cô hổng ăn? Trời đất, nguội hết rồi nè !
– Con ăn đủ rồi. Cháo hàu ngon nhưng chắc lúc nãy húp mấy ngụm nước sông nên giờ ngang dạ.
– Ờ, chén nước gừng hồi nãy cô chưa uống hết đâu nghen.
– Dạ, con uống nè dì. Con chưa biết tên dì?
– Tư Rum, cô gọi tui là dì Tư hay Tư Rum đều được. Cô ngủ đi cho khỏe, sớm mai tìm đường về nhà cho mọi người đỡ lo. Coi như cô với tui có duyên.
– Con không biết lấy cái chi trả ơn dì…
– Cô này ngộ héng? Cứu mạng người hơn xây bảy tòa tháp. Với lại tui làm phước cho thằng Phúc sớm đầu thai.
Giọng dì Tư chùng lại, ngân ngấn. Trong đôi mắt của người đàn bà, tôi cảm thấy những đớn đau òa vỡ, cuồn cuộn.
– Cô nghe chuyện tui đi, rồi cô thấy chuyện của cô có thấm thía gì đâu?
– Dạ, con cũng đang muốn nghe mà dì…
– Cô chắc mệt dữ lắm, may phước lúc cô nhẩy sông cũng là lúc tui đứng ngoài mũi ghe vái trời cho cha con thằng Hậu lên Sài Gòn đặng công chuyện nên mới vớt được cô liền. Chớ không giờ này cô làm bạn với hà bá rồi.
– Dạ, số con chưa tận. Có phước gặp dì cứu.
– Sống khó chớ chết dễ lắm. Có phước có phần mới được sống lâu can chi đi chết…
– Chú với Hậu lên Sài Gòn chi vậy dì?
– Nó đậu nhứt cái trường chi mà về làm thầy cãi cho tòa án trên Sài Gòn đó cô. Cả xóm ghe này mình ên thằng Hậu nhà tui lên bờ đi học thành danh. Mấy bữa nay ai cũng mừng cho vợ chồng tui. Tui hứa với bà con sông nước rồi, ai có oan ức gì đem đây để cho thằng Hậu cãi dùm…
– À, Hậu làm luật sư…
– Ờ, đúng rồi, luật sư, tui quên hoài…
Dì Tư Rum cười, khuôn mặt héo hắt của chị bừng lên niềm vui khó tả. Khuôn mặt phản bội méo mó của người chồng sắp cưới khiến tôi phải gieo mình chợt nhòe đi như có vết tẩy mạnh đẩy ngang vết chì trong bức kí họa anh trong tôi. Cả khuôn mặt rất xinh đẹp của cô bạn thân quằn quại trên chiếc giường cưới cùng với người yêu tôi như bị phù sa châu thổ tràn lấp…Trước mắt tôi chỉ có Dì Tư Rum, cánh tay gầy nhưng rắn rỏi có vài vết sẹo do chân vịt chém phải, đôi tay ấy khỏe khoắn bơi ngược dòng Gành Hào kéo tôi lên ghe của dì. Giọng dì đều đều, rỉ rả như giọt mưa rơi trên đám lục bình:
“Tôi không biết mình đã đi bao nhiêu dòng nước sông, con rạch, ghé buôn bán ở những chợ nào, nhưng chắc ăn sông nước ĐBSCL này tôi rành rọt từng ngõ ngách, thuộc từng tên chợ như nằm trong lòng bàn tay. Đời thương hồ tụi tui họp tan theo con nước vơi đầy, theo từng buổi chợ đông, chiều muộn. Sống trên sông riết rồi quen, tui không còn muốn lên bờ nữa. Cực lắm cô. Nồi cơm, nồi canh nhiều khi nấu chín, chưa kịp ăn đã bị đổ sạch do bị sóng đánh mạnh làm chiếc ghe lắc lư. Đêm đến, ngủ không trọn giấc, gặp khi mưa to, giông, gió lớn thì không sao nhắm mắt được, lòng phập phồng lo sợ, mong gió, mưa sớm tạnh, mong trời mau sáng. Dân thương hồ mỗi người một hoàn cảnh, một xứ sở, một quê hương nhưng khi gặp nhau ở một chợ, neo đậu ghe cùng khúc sông thì kết nghĩa anh em bầu bạn giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn, khó khăn. Cô có nghe câu “Bớ chiếc ghe sau chèo mau tôi đợi. Khúc sông này bờ bụi khó qua” thì tụi tui y rang vậy đó. Tui sống với ổng chừng này tuổi đầu mà hồi giờ chưa có cự lộn. Nếu có thì “Bướm vàng đậu trái mù u/ Vợ chồng lục đục, con c… làm lành”. Mấy đứa con tui sanh ổng đỡ đẻ hết chớ không mượn bà mụ vườn nào đâu. Thằng Phúc lớn lên chỉ biết trên đò là trời, dưới là mặt nước sông. Nó lăn lóc trên sàn, đeo bám trên thành ghe mà lớn.May thời con tui dễ sanh, dễ nuôi không bệnh tật chi. Chớ có nhiều cảnh thương tâm lắm, cha mẹ mắc bán hàng, con nhỏ bị rớt xuống sông, thậm chí bệnh tật cũng không kịp đưa lên bờ để cứu chữa. Thằng Phúc không được đi học, nó biết bập bõm có mấy chữ tui dạy nó. Nó nhanh như con rái cá, bắt cua, bắt cá không ai nhanh bằng nó. Lớn tí đỉnh nó theo cha đi đục hàu. Thằng Phúc 10 tuổi tui mới sanh thằng Hậu. Mần ăn buôn bán lời lãi phập phùng như con nước lớn ròng, tụi tui cho ghe xuôi dưới miệt sông Cái Đôi bán đồ khô. Cha sắp nhỏ theo ghe bạn đốn củi hầm than dưới Gò Công, Ông Trang lận. Thằng Hậu sáng dạ, 2 tuổi mà thứ chi cũng biết ráo. Thằng Phúc với tui có nhiêu chữ nó lấy hết. Nó thèm đi học đến nỗi nhìn thấy bóng mấy đứa nhỏ đi trên bờ là níu áo tui la lên: “ Má, má… Cho con lên bờ đi học nghen”. Thằng Phúc thấy em nó vậy không nói năng chi, cái thằng lầm lì không ai hiểu hết tánh ý nó. Nó đục hàu siêng hơn, quên ăn cơm trưa. Hỏi nó mới nói nó đục nhiều nhiều đặng có tiền cho thằng Hậu lên bờ đi học. Hồi đó muỗi xứ này nhiều như trấu phủ, ổng quấn tấm đệm che thân, tui đan bằng một thứ cỏ lác mọc bạt ngàn trên những cánh đồng hoang đất phèn. Tui nhắn lời cho bạn đường rừng nói ổng chuyện thằng Hậu. Ổng về liền, nhót lòng, hình như ổng khóc, tui với thằng Phúc cũng khóc, có ên thằng Hậu cười. Sớm, ổng nói với tui là ổng đi xin học cho thằng Hậu. Ổng lội bộ chừng 20 cây số. Ổng mang theo một cây gậy tre để chống đường gập ghềnh mà đi, để đuổi đàn chó dữ ở xóm ổng qua, để tự vệ rắn độc nấp trong lùm. Mấy thằng con tui sanh ra trọi trơ không có đứa nào có giấy khai sanh. Ổng xin tới xin lui thằng Hậu mới được đi học…”
Dì Tư Rum ngừng kể, ngó mông lung ra ngoài, thỉnh thoảng có con cá, con tôm giật mình búng lên mặt nước sáng loáng như rắc lân tinh, văng vẳng trên sông có tiếng ai ru con não nuột: “….Ầu…ơ…Chớ anh đi xa anh trả áo lại đây, để khuya em đắp gió Tây lạnh lùng. Lạnh lùng thì lấy mùng mà đắp, trả áo đây anh đi học đường xa, chớ đường xa… xa lắm em ơi, gởi thư thư lạc chớ gửi lời á….Ầu …ơ….chớ gửi lời lời quên…”. Tiếng ru trong đêm thanh vắng nghe nỉ non tha thiết. Tôi hình dung người đàn bà cô đơn ru con mà nhớ chồng…
– Cô có nghe thấy tiếng ru con không?
– Dạ có …
– Con Lan nó ru con nó đó. Con nó lọt sông chết hồi năm ngoái mà nó ru hoài… Chồng nó đi hầm than còn nó bán đồ tươi. Từ ngày con nó chết đêm nào nó cũng ru, hồi mới ghe rợn sống lưng sau rồi riết quen. Khuya mà không nghe tiếng nó ru con xóm thương hồ tụi tui lại lo. Hổm rày nó như con chuột sống trong cái ổ chuột. Chồng nó mới thì bỏ ghe, bỏ nó lên bờ theo con Hiền bán café đầu sông đó. Đờn bà mình khổ thiệt heng cô?
– Trời ơi… Sao bạc bẽo vậy trời…
Gương mặt người đàn ông đầy trí tuệ của tôi, người bạn gái thân thiết của tôi xẹt ngang qua mặt. Tôi giật mình. Bọn họ như đang nhìn chòng chọc vào tôi cười ngả nghiêng, họ quấn vào nhau lăn lộn lên đầu sóng bật ánh lân tinh. Tôi chạy theo họ như lướt trên mặt sóng chập chùng, chới với..
– Nè cô, có sao không? Trúng gió hả?
Dì Tư Rum lắc lắc vai tôi. Tôi choàng tỉnh. Khuôn mặt của những kẻ phản bội đã ám ảnh tôi, kéo tôi đi…
– Con không sao. Con hơi lạnh thôi.
– Để tui thêm than vô lò cho cô ấm nghen. Còn yếu trong mình đó mà…
– Con đỡ rồi. Dì kể tiếp con nghe nghen.
– Chèng ơi, gấp gì cô, đêm còn dài mà, thủng thẳng tui kể… Để tui xức dầu nước xanh cho cô nghen. Chén nước gừng uống hết rồi hả. Ừa…
Dì Tư lấy mấy cục than đước bỏ vô lò rồi lục túi áo lấy chai dầu gió xức trên hai thái dương, sau ót cho tôi. Mùi bùn đất, mùi nắng, mùi gió đồng, mùi lục bình xanh nhớt lẫn khuất trong hơi thở của dì phả ra. Tôi thấy ấm áp lạ… Hơi thở ấy giống hơi thở của mẹ tôi khi còn sống, chỉ có khác mẹ tôi còn mang mùi của bờ cỏ xanh non trên cánh đồng ngày gieo hạt. Dì biểu tôi gối đầu lên đùi dì nằm cho đỡ mỏi, có hơi người cho ấm. Tôi nhỏ bé trong bộ bà ba rộng thùng thình của dì chắc đã may từ lâu lắm vì tôi thấy vải đã giãn ra hết cỡ, mỏng lét. Dì tiếp tục câu chuyện của mình:
“Lay lắt, vợ chồng tui cũng cho thằng Hậu lên bờ đi học như người ta. May mắn nó gặp được ông thầy nhơn hậu cho ở đậu. Nghe ông thầy khen nó học giỏi, có tương lai, vợ chồng tui mừng rơn. Mừng nhứt là thằng Phúc, nó biểu tui: “ Rồi má coi, mơi mốt thằng Hậu thành tài mần có tiền cất nhà lầu trên bờ cho ba má, khỏi cực.”. Vài tháng tụi tui xuôi về sông Cái Đôi một lần thăm nó, đời thương hồ mà cô. Tụi tui sống theo con nước, tới đâu là cắm sào tới đó rồi buôn gánh bán bưng, bán xong lại xuôi theo con nước tìm chỗ khác cắm sào nên người đời mới gọi tụi tui là “dân thương hồ”. Hết nhổ sào lại cắm sào, cứ thế dân thương hồ tụi tui lang bạt khắp miền. Hết sông Gành Hào, theo con nước mà đến sông Ông Đốc, có khi tới Bến Tre, Tiền Giang…Mấy năm nay tụi tui mới cố định ở khúc sông Gành Hào này, cho thằng Phúc đỡ tội… Khúc sông này coi vậy mà luồng lạch dữ lắm, đâu nuốt có mình thằng Phúc nhà tui đâu mà kéo theo chú thợ lặn chính quyền mướn xuống mò vật chứng là cái cây đục hào của con tui chi đó…Nghèo khổ thì vậy đó cô, người ta mướn gì làm nấy lấy tiền lo cho vợ con… Chú đó nghe nói cũng có vợ hai con rồi…”
Dì Tư Rum chợt nín thinh, thở dài thắc thỏm:
– Cha con thằng Hậu không biết xong công chuyện chưa?
– Mai mốt Hậu xây được nhà lầu, dì với chú có lên bờ sống không?
Dì tư trầm ngâm hồi lâu mới nói:
– Tui với ổng dứt dạt ở lại với sông rồi. Thằng Hậu lên bờ nó yên phận nó, nó xây được nhà lầu thì vợ nó cháu tui được sung sướng, vậy là tui an tâm. Tụi tui quen sóng quen gió rồi, lên bờ cái thứ chi cũng lạ nhách. Mà lên bờ tui với ổng bỏ ông bà nội sắp nhỏ, bỏ thằng Phúc sao đành cô ơi…
Tôi như thấy đôi mắt Phúc xuyên qua ánh sáng mờ mờ nhìn tôi với dì Tư Rum. Tự nhiên không còn thấy sợ nữa… Đôi mắt ấy hiền lành, đầy yêu thương….Tôi không thể lý giải vì sao lại có cảm giác Phúc như đang ngồi sát bên tôi. Phúc bỏ thêm vài cục than rồi khom khom thổi cho than bén lửa. Phúc gần lắm, gần đến mức chỉ cần tôi khẽ với là có thể chạm được Phúc…Tôi khẽ mỉm cười quay về phía trang thờ gật đầu chào Phúc. Bức ảnh động đậy, rõ ràng tôi thấy khóe môi Phúc hơi nhếch lên, Phúc cười. Tiếng dì Tư va với tiếng sóng vỗ oằm oặm vào mạn ghe đều đều: “ Ba thằng Phúc đặt nó lên cái bắp vế, lấy nước sông tắm cho nó lần cuối. Tui không thấy ổng khóc, đôi mắt ông lặng lờ như hai viên đạn keo. Thằng Hậu hồi đó đương thi, ổng dặn đừng có báo tin anh nó chết sông, nó động tâm không làm bài được. Tới khi nó biết anh nó chết, nó khóc ran trời, chạy miết trên bờ sông, nó biểu tro cốt anh nó đâu? Sao không chôn anh nó mà rải xuống sông chi cho tội phận? Đến lúc đó ba thằng Phúc mới khóc, ổng đứng trên mũi ghe chết trân dòm theo chân thằng Hậu chạy dài trên bờ sông, nước mắt ổng chảy nhiểu xuống ướt điếu thuốc rê ổng đang hút.”
Dì Tư ngừng nói, ngó xuống nhìn tôi:
– Tui kể tui không khóc sao cô khóc ?
– Dạ, không có…
– Có chớ sao không? Nước mắt cô ướt bắp vế tui nè.
– Chắc mồ hôi đó dì. Người con ấm lại rồi nè. Có dầu gió xanh dì xức, còn có chén nước gừng, có cái mền nữa…
– Ừa, vậy là cô khỏe trong mình rồi đó…
Tôi khóc lúc nào không hay. Là lúc tôi thấy Phúc nhìn tôi hay lúc ba Phúc tắm nước sông cho Phúc lần cuối… Là lúc nắm tro cốt của Phúc bay trắng như sương mù cả khúc sông hay lúc tôi thấy Phúc men hết bờ kè này đến bờ khác mải miết đục hàu cho Hậu đi học… Trời tạnh mưa từ lâu, ánh trăng lưỡi liềm tỏa ánh sáng xanh xao, mặt sông bớt cô quạnh,. Tiếng ru của chị Lan đã tắt, chắc chị ngủ và đứa con hẳn đã bớt lạnh dưới lòng sông. Vài chiếc tắc ráng chạy vọt xô nước, chiếc ghe chòng chành, Phúc hình như vẫn nhìn tôi và mỉm cười…
Sông lại lặng im. Ngoài tiếng gió lao xao trên tán dừa nước không còn một âm thanh nào khác nữa. Tất cả đều im lặng. Phải chăng là cái im lặng rình rập, cái im lặng hồi hộp, cái im lặng rợn người như một đoạn phim căng thẳng quá độ, đạo diễn không cho nhạc đệm?… Hình như tất cả điều đó đều không phải. Đó là cái im lặng êm đềm đang dành cho dì Tư, tôi và Phúc trong một cõi nửa thực, nửa mơ…
Sóng vỗ mạn ghe đều đều, hơi ấm dì Tư tỏa sang tôi, bếp lửa vẫn còn ấm nóng… Tôi nằm trên đùi dì Tư thiêm thiếp ngủ… Loáng thoáng tôi lại thấy Phúc cười….
Miền Tây, đêm tháng 9 mưa rả rích tàn canh.
NGUYỄN THỊ VIỆT HÀ
 
27/6/2020
Nguyễn Lê Vân Khánh
Theo https://vanhocsaigon.com/
 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...