1. Để được đón đợi
Tôi vẫn cho rằng mỗi nghệ sĩ đích thực phải là hiện thân của
một giá trị sống, giá trị người nào đó. Bằng tiềm hướng nhân bản, bằng văn
hóa và trải nghiệm trường đời, người ấy đã bừng ngộ về giá trị sống, giá trị
người kia. Rồi cứ thế suốt đời dồn toàn bộ tâm huyết và nghệ thuật của mình để
làm sáng danh cho giá trị ấy, dù không phải lúc nào cũng ý thức kỹ về nó. Đấy
là gốc rễ của mọi cái mới chân chính trong nghệ thuật. Thiếu điều này, cách
tân chỉ còn là những loay hoay vụn vặt về hình thức. Tuy nhiên, cái mới lại
thường gây hấn, gây sốc đối với tập quán. Nó không dễ được chia sẻ ngay, tiếp
nhận liền. Có khi còn bị ngờ vực, dằn hắt nữa. Nhưng, đã làm nghệ thuật thì
không thể khác! Chỉ có những kẻ dám dấn thân mới chịu nổi tai ách này. Khuôn
mặt nghệ thuật của nghệ sĩ, nghiệt thay, lại được định dạng bởi chính những
điều ấy. Sáng tạo và đày ải, lấy khổ làm sướng, nuốt buồn nhả vui, khó chịu
thì chịu khó… chính là nghệ thuật vậy.
Cuộc dấn thân của Vi Thùy Linh (còn gọi là ViLi), vậy là,
đã mười lăm năm. Để được chấp nhận, thật lắm truân chuyên. Nhớ hồi mới trồi
lên, mầm thơ Linh chưa được nâng niu đã phải đương đầu. Mưa đá của hoài nghi
tới tấp trút xuống. Nếu non bấy, hẳn chồi mầm kia đã tiêu rồi. May nhờ nội lực,
nó đã thách thức những bài bác cay nghiệt để gắng vượt lên. Mỗi tập mới là một
vụ nổ chữ mới. Mười lăm năm, dẹp sang bên những băng rôn khua chiêng, hàng
tít gõ trống, Linh vẫn là hiện tượng trẻ khuấy được dư luận nhất trong đời sống
thơ Việt. Đến nay, mỗi xuất hiện mới của Linh xem chừng đều muốn làm bận rộn
cả người đọc lẫn giới truyền thông. Mười lăm năm là cái giá để được đón đợi
chăng? Dù sao, đến tập thơ thứ năm Phim đôi – Tình tự chậm này [1], có thể
xem Vi Thùy Linh đã cắm xong cái mốc cho một chặng thơ mình. Ngoái lại, người
đọc đã có thể “tính sổ” cùng Linh. Có thể xem chặng thơ như một bộ phim dài
năm tập. Suốt cả năm tập, phim chỉ có một nhân vật trung tâm thôi: nàng Eva
Linh lụy tình, cứ trồng mình giữa vườn địa đàng của thì hiện tại mà thèm xây
dựng một đế chế yêu. Với ViLi, yêu là thơ là dệt tầm gai [2]… là sống. 2. Nữ quyền hay Ái quyền Bây giờ mà nói Vi Thùy Linh trở thành chính mình chỉ bởi sự
đam mê đề tài tình yêu, thì liệu có… nhàm quá không? Dù với Linh, đường thơ -
đường tình là một, dù tỉ lệ thơ tình hoàn toàn áp đảo, dù các tập thơ Linh
luôn có những cái tựa cực… tình (Khát, ViLi in love, Phim đôi - tình tự chậm),
thì việc chuyên thơ tình đâu còn làm nên khác biệt! Đã có chán vạn thi sĩ ái
tình rồi! Bao người đã tưởng điều làm nên “thương hiệu” ViLi chẳng
qua chỉ là ngang nhiên đưa vào thơ các “cảnh nóng”, gây sốc với ngay cả những
người hiếu sốc, kiểu như “Khỏa thân trong chăn/ Thèm chồng. Thèm có chồng ở bên.
Chỉ cần anh gối lên đùi/ Mình ôm lấy Anh ôm mình/ Biết sự bình
yên của mặt đất”, “Em kéo áo lên để anh tràn tinh khôi và mãnh liệt”, “Cài
then em bằng anh”, “Không còn biết một chấn động nào hơn/ Anh xoáy vào em/
Cơn lốc”… Thực ra, viết sau những đại bút như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích
Khê, Vũ Hoàng Chương, Nguyên Sa…, rồi những cây bút khác như Nhã Ca, Dư Thị
Hoàn, Phạm Thị Ngọc Liên… có đến mấy thế hệ, thì trình ra những cảnh được/ bị
xem là hot thời đương đại kia đâu còn là độc diễn nữa! Không ít người lại đinh ninh cái đáng nói nhất của ViLi là
sự kiên tâm nâng tình yêu lên thành tôn giáo. Ồ, tôn giáo hóa những điều mình
tôn thờ vốn là nét phổ biến của kẻ lãng mạn. Nếu nói riêng trong thơ tình ở
ta, người gần nhất xem tình yêu là tôn giáo thì cũng đã khởi nghiệp cách nay
dư nửa thế kỷ và đã chia lìa với thế giới này cũng có tới một thập niên rồi.
Coi tình yêu là tôn giáo, xem ra, là câu chuyện cũng đã… xưa. Vậy, đâu mới là Vi Thùy Linh? Rất nhiều người đã cả quyết: điểm đáng kể của Linh là tiếng
nói nữ quyền trong tình yêu. Tôi cũng từng tin thế. Linh là một nữ sĩ, mọi biểu
tỏ tình yêu đều từ vai nữ, vậy xem Linh là phát ngôn viên cho nữ quyền thì phải
quá còn gì. “Nữ quyền luận” chẳng phải đang xôm, đang mốt trở lại đó sao!
Nhưng lắng kĩ, té ra, nhầm. Té ra, khoa học cũng thời thượng. Tiếng nói nữ
quyền ở ta ít nhất đã có từ thời Xuân Hương rồi [3]. Với lại,
Linh có lên tiếng như nạn nhân của nam quyền đâu. Trong thơ, Linh chẳng đòi
quyền riêng gì cho giới nữ! Một người đòi quyền cho người nữ, thì sao lại hân
hoan làm một nô lệ tự nguyện đến thế này: Hình như tôi đã lớn lên
cùng tình yêu dành cho Anh, từ khi bắt đầu là bào thai con gái trong bụng
mẹ/ Tôi hôn Anh rưng rưng và biết mình đang trở thành nô lệ của
tình yêu, một nô lệ không cần được giải phóng. Một người bất bình với
nam quyền, muốn tranh giành vị thế với đàn ông thì sao có thể viết những dòng
tôn vinh đàn ông đến nhường này: Không cần Chúa Trời, Anh sáng tạo em bằng
sức mạnh phồn sinh/ Em thấy mình thực sự là phụ nữ khi có Anh
– điều tất yếu và linh thánh… Em quỳ xuống Anh gọi Bình minh sáng thế… Giới quyền không phải chuyện của Linh. Cái làm bận tâm thi
sĩ này, thực ra, là Ái quyền. Quyền được yêu như một Con Người viết hoa. Đối
với con người, quyền được yêu bao giờ cũng là phần đáng giá nhất của quyền sống.
Ý thức về ái quyền, ca tụng và đấu tranh cho ái quyền, đó là nguồn cảm hứng
sôi nổi nhất của hồn thơ Linh. Nó làm nên khuôn mặt nghệ thuật Vi Thùy Linh
trong thơ đương đại: “Em yêu Anh như yêu sự hiện diện của chúng
mình trên trái đất/ Mặc tháng năm chạy về cuối mắt/ Mặc thế gian
đổi thay từng giờ khắc/ Chúng mình yêu nhau”, “Ta/ lúc nào cũng
phá giới để yêu/ thì có nên tu không?/ Biết tu ở kiếp nào?/
Hôn nhau tràn tràn/ Ta tu suốt đời dưới gốc cây bồ đề – Anh/
Chúng mình siêu thoát”, “Em yêu Anh cuồng điên/ Yêu đến tan cả em… Kẻ thù của ái quyền trong thơ Linh không phải nam quyền, cường
quyền hay thần quyền. Nó là sự giả dối và ươn hèn khiến con người đánh mất những
tình yêu đẹp đẽ. Nó là tập quán lạc hậu của một cộng đồng chưa thực có truyền
thống tôn trọng cá nhân nên cũng chưa biết tôn trọng tình yêu đầy đủ, trái lại,
vẫn còn nhiều kì thị, thóc mách trước những biểu tỏ riêng tư của đôi lứa. Mà
giành quyền sống cho tình yêu trước những thế lực như vậy, còn gian nan và
dai dẳng gấp bội phần so với những thế lực khác. Ta hiểu vì sao, Linh xem sống là được yêu. Ta hiểu vì sao
Linh thèm muốn những nụ hôn của tình yêu được đàng hoàng công khai dưới ánh
ngày, được tự do biểu tỏ trước đám đông. Ta hiểu vì sao Linh thèm khát cái hạnh
phúc được Hôn nhau giữa thủ đô La Mã… Anh ôm em bay giữa bầu trời
Ý… quyện nhau thành tháp nghiêng trên tháp, thèm được Uống nhau không biết
mệt/ Cho cả thế giới nhìn… 3. Giữa vườn địa đàng… Chữ ái quyền không chỉ mang hàm nghĩa quen nhất là quyền được
yêu. Nó còn tiềm ẩn một nét nghĩa khác cũng hết sức đáng kể: quyền năng của
tình yêu. Thơ ViLi là sự ca tụng quyền năng đó. Đích cuối cùng của văn minh, tiến bộ có phải là xây dựng một
cơ ngơi vật chất huy hoàng cho thế giới này không? Không. Mọi nỗ lực của văn
minh, tiến bộ đều phải nhắm cái đích tối hậu: làm sao cho loài người biết
nhìn nhận tình yêu là cái nhụy của sự sống và biết sống trong tình yêu. Nhưng
thực tại lại ngày một xác xơ. Trái đất vốn là vườn địa đàng giờ đã bị xâm lấn
bởi cái gọi là văn minh. Nó lan tới đâu, những nẻo vườn liền bị san lấp, chôn
vùi. Con người thì sẵn sàng xắn ra từng mảnh nhỏ để bán chác, đánh đổi. Đến
nay, vườn địa đàng đã bị đè nghiến dưới chân móng của nền văn minh đó rồi. Ngự
trị luyến ái quan của chúng ta là một tình yêu bị chằng buộc biết bao luật lệ
quy ước của thứ văn minh đó. Những hành trang rởm ấy làm mờ đục sơ tâm, khiến
loài người yếu đuối, khiến thế giới khô cằn. Dù không ít lúc nói giọng to
tát, nhưng trong thơ, Linh luôn bày tỏ nỗi thất vọng chân thành về một thực tại
như thế. Linh nói nhiều về những nguyên nhân và hậu quả: “Trái đất ốm yếu
vì văn minh/ Thế giới thiếu chất thơ nên loài người bi kịch”. Vì “cả loài
người ngộ nhận tham vọng vật chất”, vì “Dục vọng bời bời khiến người ta
khốn khổ”, cho nên đến giờ “Thế giới còn rất ít người dám coi tình yêu
là tối thượng”… Cái gì có thể giải cứu một thế giới như vậy? Dĩ nhiên, chỉ
có một quyền năng duy nhất: tình yêu. Một tình yêu lớn và đẹp có thể giải cứu
cả thế gian này. Linh tin thế. Tình yêu nào có được quyền năng ấy? Tình yêu của Eva/ Adam. Đó là một tình yêu sơ nguyên thuộc về sơ tâm. Một tình yêu
vẹn nguyên và thuần khiết thuộc về cái tâm như bông sen buổi sáng của con người.
Nghĩa là tình yêu trong bản nguyên của nó. Bản nguyên không phải bản năng. Nó
là tình yêu thuộc về cái phần người tinh khôi, nguyên khiết của mỗi cá thể.
Nó hiện ra bằng những rung động tươi ròng, những khao khát trong lành mà con
người có thể dâng tặng cho con người. Linh dồn toàn bộ tâm huyết để tôn vinh
một tình yêu như thế. Càng kỳ vọng vào “Những cơn khát vỗ về dẫn đường
chúng ta, định giá chúng ta giữa hiện thực nhá nhem, giá trị bị đánh
tráo”, lại càng dị ứng gay gắt với những thứ tình yêu ngộ nhận, giả trang, rởm:
“Lưỡi của loài người phải được gột sạch ngôn từ ngụy trang, tẩy rửa những
cái hôn rởm, đọc điếu văn cho những cuộc tình ngộ nhận chết yểu”. Tình
yêu thuần khiết thì bao giờ cũng là một ái tiệc giữa vườn địa đàng. Mà tận hưởng
và tận hiến đến từng phút giây sống trong nhau chính là thực đơn kỳ diệu của
đại tiệc yêu này: “Vườn địa đàng một Eva Linh/ Cánh đồng violette mênh mông/ làm nên bao ái tiệc/ Hoa tím miền trinh miên quyến rũ/ Tất cả đại tiệc
yêu/… Cho đôi ta sống nhiều lần trong mỗi lần/ Cho hoan ca dội vang vũ trụ/
cho màu yêu loang nhiều thế kỷ/… môi rực tan thân nhiệt vã sáng/
Li ti sao vòm vòm cây thụ tình”. Tình yêu đích thực làm sao thiếu được tình tự ái ân. Bản
thân ái ân là một vẻ đẹp sơ nguyên. Ý thức văn minh rởm ngự trị trong chúng
ta đã biến nó thành cấm kị, che đậy nó bằng cái lá nho giả trang. Ngay từ buổi
ban sơ của sự sống người, cảnh ái ân sơ nguyên đã được tổ tiên tạo tác trên
thạp đồng Đào Thịnh [4] rồi. Ấy
vậy mà đời sau, hễ nói về ái ân thì lập tức bị xét nét, báng bổ. Thói đời, những
kẻ hô hào cấm kị nhất, báng bổ hăng nhất lại thường là kẻ khó cưỡng được sự
tò mò về nó nhất. Thể hiện ái ân bằng nghệ thuật mãi mãi là một nhu cầu nhân
bản. Chuyện cần xét nét chỉ là phẩm chất nghệ thuật và đẳng cấp văn hóa trong
cách thể hiện ái ân và cách đọc về ái ân thôi. Xóa bỏ dần những cấm kị vô lối,
dỡ bỏ dần cái lá nho vờ vịt kia chính là nỗ lực của văn minh thật. Hẳn nhiên,
cũng là nỗ lực của thơ yêu mỗi thời. Vậy mà khi những tiếng thơ như thế vừa cất
lên, tập quán liền rãy nảy, hùa vào chống trả. Còn nhớ thế kỷ XVIII, những trang yêu trong Kiều, những
phồn thực bóng gió của Xuân Hương từng bị quy kết là tà dâm. Nửa đầu thế kỷ XX, khi Xuân Diệu mới viết “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, “Hãy
sát đôi đầu hãy kề đôi ngực… Hãy khắng khít những làn môn gắn chặt” thì
đã bị la lối là vẩn đục. Hay, mới vài chục năm trước, Dư Thị Hoàn viết về cái
lơ đãng không thể tha thứ: “Sau những phút giây êm đềm trên ghế đá/ Anh
quên cài khuy áo ngực cho em”, thì đầu óc cấm kị đã vội vu lên là phàm tục… Đến thời Vi Thùy Linh, tận thế kỷ XXI rồi, chuyện đã khá
hơn đâu. Linh chả được thói đời miễn trừ một búa rìu nào. Cố nhiên, nhiễu loạn
rồi cũng qua. Và, may thay, sau mỗi lần như thế, ý thức của con người về tình
tự dường như lại nấn rộng một vòng, mỹ cảm về ái ân lại nâng lên một tầm. Giờ
đây, ít ai còn nghi ngờ điều này: biểu tả tình tự ân ái bằng những thi ảnh ngỡ
trần tục mà đầy thi vị là sở trường của Linh. – Những đường cong khỏa vào sóng chữ Em say nắng mất rồi, em say thêm nữa nhé Mặc cho búp hôn thụ phấn thân người. - Những con chữ nảy hạt dưới da Những con chữ hòa máu em vào anh Khao khát mở đường cong hợp - Ngày anh đến mùa tình lên Yên lặng mở những ngón tay chìa khóa – Da thịt dậy tình làm rơi xiêm áo Eo chờ đợi vuốt ve thắt bão – Vào lúc hạt hạt mồ hôi cha thấm vào ngực mẹ Mặt đất già chật chội nở dần những luống hoa đồng
trinh – Cài then tiếng khóc của em bằng đôi môi anh Cài then em bằng anh Có nhà điêu khắc đã dành cả đời mình để tôn vinh nụ hôn của
con người bằng hoa cương và cẩm thạch. Phải chăng ViLi cũng muốn làm một thi
sĩ hoan ca ái ân tình tự của con người bằng thi ảnh và ngôn từ? Khát khao một tình yêu sơ nguyên, hay sống với tình yêu
trong bản nguyên của nó, những mong cứu chữa địa đàng, ViLi thực là người
lãng mạn giữa thời buổi này. Tôi chắc những đầu óc hiện thực khó chia sẻ quan
niệm và cách nhìn của Linh. Nhưng, từ vạn kiếp, tình yêu luôn là phần lãng mạn
nhất của cõi người, làm sao có thể thiếu những cách tiếp cận lãng mạn được! 4. … thèm đế chế Yêu Linh còn đẩy niềm lãng mạn đi xa hơn khi xem tình yêu là sự
hoàn thiện bản thể. Mỗi con người vốn là một bản thể đầy mâu thuẫn, một bản
thể thiếu khuyết: “Tôi là tôi/ Một bản thể đầy mâu thuẫn”. Cái tôi ấy
chỉ trở nên hoàn thiện bởi tình yêu và trong tình yêu: “Vào lúc những kim đồng
hồ nhập một/ Chúng ta trở thành một bản thể/ và khi ấy/ Em nhận ra/ Anh là bản đồ thế giới”. Tình tự không chỉ là thú
yêu đương trong hoan lạc hiện sinh, không chỉ thỏa mãn những cơn khát tình,
những nguồn dục lạc của thể xác. Bởi với Linh, “thể xác chỉ là minh
họa của tinh thần”. Tình tự là lúc vượt thoát nỗi cô đơn bản thể, vượt thoát
mặc cảm thiếu khuyết: “Những ngôi sao tung vạn tinh thể ướt sáng, bọc
Anh và em thành một bản thể”. Tình tự là lúc sự sống trong vũ trụ này đang
làm cuộc hóa sinh kỳ diệu của nó trong những bản thể người: “sự vận động
âm – dương là bản chất thế giới”. Tình tự là lúc cảm nhận được sự bình
yên mặt đất, bình yên của phận người: “Khi hôn mắt Anh, mắt trong mắt Anh/
Em nhìn thấy sự vận động của thế giới từ những hạt mầm còn nằm
trong ngấn nước/ Khi nằm nơi Anh/ Em như ở trên hòn đảo bình yên
của cuộc đời mình/ Khi áp vào tai Anh/ Em nghe thấy muôn tiếng sóng vỗ về miên
man như áp con ốc biển/ Khi em hòa trong toàn vẹn Anh / Em đã vén
được bức màn bí ẩn về sự sống/ Và em biết/ Với tình yêu của
em /Anh có thể ngẩng cao, trở thành chính mình”. Hoàn thiện mỗi bản
thể bằng/ trong một tình yêu lớn, phải chăng là cách duy nhất để hoàn thiện thế
giới này? Có người đã hình dung rằng thơ Việt từ đầu thế kỷ XX đến những
năm đầu tiên của thế kỷ XXI là một hành trình dài dặc từ cái Tôi trở về với
cái Tôi. Y như một vòng luẩn quẩn. Sự thực có giản đơn và đáng lo ngại như vậy
không? Nhìn kỹ sẽ thấy đó là tiến trình đầy thăng trầm với bao khúc quanh từ
cái tôi cá thể đến cái tôi bản thể. Đó là hai tầm mức, hai chiều kích của cái
tôi cá nhân. Nếu cái tôi cá thể chủ yếu hiện lên qua tương quan với tập thể
và sống trong mối bận tâm với những giá trị hẹp của cộng đồng nhỏ, thì cái
tôi bản thể hiện ra trong đối lập với toàn thể và bận tâm với những giá trị
phổ quát. Trên thi đàn, đây đó, không ít người rơi vào những bận lòng thỏn mỏn
của cái tôi tiểu kỷ, chả đại diện được gì. Nhưng, ở những gương mặt nổi lên,
ta vẫn thấy những nét thần thái của cái tôi bản thể. Sống với niềm băn khoăn ấy,
Vi Thùy Linh là một trong những tiếng nói sốc của cái tôi bản thể đó. Một nghệ sĩ thực thụ thì phải tạo ra được một thế giới nghệ
thuật của riêng mình. Chưa làm được điều này, thì chưa thể có khuôn mặt nghệ
thuật thực sự thuyết phục. Là một hiện tượng trẻ, nhưng Vi Thùy Linh đã sớm
chín. Linh đã xây cất được một thế giới riêng trong thơ mình. Thế giới Linh
là thế giới đang yêu. Một tình yêu luôn ở thì hiện tại. Thế giới ấy có
thời gian là những mùa tình không dứt, không gian là cõi tình không biên giới,
cả không/ thời gian đều nhuốm một sắc tím không cùng của hoa Thùy Linh [5]? Vạn vật
trong đó, từ cụm hoa đến bầu trời, từ rêu cỏ đến biển đảo, từ cơn gió đến ngọn
sóng, từ thân cầu đến đỉnh tháp, từ khung cửa đến bức rèm, từ ly rượu đến ngọn
nến, từ góc vườn đến góc giường, đến cả những thành phố lớn như Hà Nội, Roma,
Paris… đều “đang yêu bằng trái tim lãng mạn”, đang tình tự bằng muôn vàn
tế bào dậy men tình ái, lồng lộng nude và rộn rực dục tình: “đại lộ dài
như một cơn hôn”, “những núi vú ưỡn lên nóng bỏng, những núi vú non
tơ sáng rực, những chóp vú khát yêu triệu năm, tự do hoan lạc giữa
mùa tình không bao giờ hết”, “vỗ vào bờ muôn đợt sóng khỏa trắng
tinh khôi”, “cây cầu kết bằng trăm thiếu nữ đùi nối nhịp mĩ kiều lồng lộng
nude sức sống”, “mây liếm cong trăng”, “nắng mạch nha trắng trong hệt
như lúc em vừa tắm”, “gió ào đến bế thốc mùa thu đi”… Linh đã thổi
những cơn yêu của mình vào mỗi sự vật ấy để vật nào cũng mang một mảnh hồn
yêu. Nghĩa là Linh đã phổ vào tạo vật của mình một bầu khí quyển riêng: khí
quyển yêu. Thực ra, dựng thế giới nghệ thuật thành cõi yêu cũng chưa hẳn
là điểm riêng của một thi sĩ nòi tình. Dấu ấn Linh phải chăng là quyền năng
Eva trong cõi yêu ấy? Tìm hiểu thế giới nghệ thuật của một nhà thơ tình, tôi
thấy một mô hình phổ biến. Ấy là một cõi giới với ba hệ thống hình tượng vừa
song hành vừa đan xen chuyển hóa lẫn nhau là: Cái tôi – Người tình – Thế giới.
Trong thơ Linh, mỗi hình tượng ấy có một diện mạo riêng. Tôi là
nàng Eva Linh. Cái tôi ấy mang trong mình một tình yêu nồng nàn đến cuồng
điên, đam mê đến tan nát. Điều thật lạ ở nàng Eva này là nỗi khát yêu càng vô
giới hạn thì cơn khát làm mẹ càng vô bờ bến. Nàng thèm có con từ vị thành
niên và rất ham phiêu diêu trong một viễn tưởng nhiều con. Với nàng, yêu là sống,
cõi sống là cõi yêu, càng nhiều con càng nối dài sự sống trên cõi yêu này. Người tình là Anh, một Anh luôn được viết hoa. Chàng
được tình yêu sơ nguyên của Eva biến thành một Adam lý tưởng và linh thánh
(vì thế, trong thơ ViLi không thể có một tiếng thơ nào than trách về chàng
hay tranh chấp giới quyền với chàng). Và Thế giới, cái cõi tình quanh họ ấy, đương
nhiên, phải là vườn địa đàng thì hiện tại, một địa đàng đang cần được nâng cấp.
Trong đó cuộc tương tranh giữa hoa địa đàng và rác văn minh đang ở hồi quyết
liệt. Những cặn bã và rác rưởi của đô thị hóa, công nghiệp hóa, thị trường
hóa… đang hòng robot hóa con người và hoang vu hóa vườn xưa. Nhưng, từ Eva và
Adam bản nguyên khí lực của tình yêu lớn và đẹp không ngừng trào tuôn vào thế
giới để cải hóa địa đàng thành đế chế yêu. Vì thế, không chỉ riêng khi yêu ở
Roma, mà ở mọi chốn, quyền năng của tình yêu ấy luôn giúp Eva Linh đồng hóa
thế giới này: Hôn nhau giữa thủ đô La Mã/ Pisa nghiêng thêm/ Anh
ôm em bay giữa bầu trời Ý/ Quyện nhau thành tháp nghiêng trên tháp/ Váy bay
tóc bay mắt bay sóng sánh/ Chúng mình là ngôi sao bay, là tượng tình yêu
đang thở, in vào La Mã xanh/ Pisa thứ hai/ Dẫu Pisa cũ sụp xuống/ Dáng
nghiêng hôn nhau quên thời gian vẫn in lên nền trời Roma/ Một đế chế Yêu
vĩnh cửu… Biến thế giới thành đế chế Yêu vĩnh cửu, chẳng phải là cái
đích lãng mạn nhất của văn minh sao? Và, thèm khát một đế chế Yêu như thế, chẳng
phải là nghiệp yêu bạo liệt của ViLi sao? 5. Dệt tầm gai thành thơ Tôi gọi ViLi là thi sĩ mắn chữ. Mắn là phúc lộc mà cũng là
tội tình. Nên người đọc Linh luôn có hai cảm giác phản trái: cuốn hút và ức
chế. Cuốn hút bởi một trữ lượng thi ca dồi dào, câu chữ sinh sôi, tình ý nườm
nượp, thi ảnh ngồn ngộn. Còn ức chế bởi chính mặt trái của nó: tràn lan và ồn
ào. Do thế, tôi chắc thơ Linh sẽ vậy thôi, một thứ dầu thô khó tinh lọc, một
thứ quặng thô khó tinh luyện. Đến khi đọc những câu này: Ta dâng hiến
cho thơ những năm tháng thanh xuân đẹp nhất/ Dệt tầm gai
thơ dệt sợi máu thành chữ, tôi có phần nghi ngại mình. Mình đã thiếu
kiên nhẫn chăng? đã thiếu công bằng trước những dòng thơ dệt từ “sợi máu” đó
chăng? Đọc ViLi cứ phải thả trôi theo sự “tràn trề”: Em vùi
em vào anh, nảy mầm chưa từng có/ Ảo thuật giác quan ốp la món trứng
mặt trời/… Anh dắt em đi mãi trong màu xanh của phố, trên triền xanh của
sóng, giữa không tận của trời/ Chúng mình đã đi qua bao thế kỷ bất
an, sao loài người yếu đuối đến thế?!/ Chúng mình đã đi qua ánh sáng bao nền
văn minh huy hoàng mà nhân gian vẫn tìm gì mãi thế?!/ Điều quan trọng nhất,
bí mật hệ trọng nhất là biết yêu trong sự sống tận cùng/ Đi bộ qua
vòm trời, anh nằm bên em giữa thời đại mệt nhoài rạn bóng những thế kỷ… Tràn trề khiến thơ Linh có dáng dấp thơ văn xuôi. Tràn trề
khiến mỗi bài thơ Linh như lồng ngực bé của thơ ngắn lại muốn chứa hơi thở
phóng túng của trường ca. Đó âu cũng là một chiêu pháp định dạng một lối thơ.
Thực ra, trước khi là một chiêu, nó là một điệu sống. Ai gần đều thấy Linh có
một điệu sống ấn tượng: như dòng nước khoáng nóng không ngừng xối xả. Dòng sống
mạnh xô đẩy cảm xúc tự trong hồn đã tuôn tràn ra thành sự xô đuổi câu chữ
trên mặt giấy. Nó là một tạng chất. Chủ thể chỉ có thể sửa đổi mà không thể
thay đổi. Thứ thơ như thế thường cậy vào chữ nhẫn ở người đọc. Nhẫn thì có cơ
vượt qua lớp thô gai để nâng niu những sợi “máu chữ”. Còn không thể nhẫn thì
đành “kính nhi viễn chi” do phát mệt với đám thô gai thừa thãi của ngôn từ. Thơ Linh lúc này cứ xui tôi nhớ đến phim Long thành cầm
giả ca. Nếu phim của Đào Bá Sơn được xem là thơ trên màn bạc, thì có thể
xem thơ Linh là phim trong ngôn từ. Ai quan tâm đến thơ đều thấy một thực tế:
thơ hiện nay đang phải chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt của các nghệ thuật
khác. Nhiều đối thủ đáng gờm đang cướp đi bạn đọc của thơ. Để sống và cạnh
tranh, thơ phải tự thay đổi bản thân. Hiện có hai xu hướng rõ rệt: một là,
vay mượn ưu thế của các nghệ thuật khác để làm giàu; hai là, tự đào sâu vào
mình để làm mới từ những ưu thế đặc thù. Nghe nhìn có lẽ là đối tượng được
thơ tìm tới để vay mượn nhiều nhất. Sắp đặt, trình diễn đã sớm được thơ vời
cũng theo tinh thần ấy. Trên sân khấu, là người chịu chơi thơ, Linh khá máu mê
trình diễn thơ. Nhưng trong văn bản, phim mới là nghệ thuật Linh am tường và
khai thác nhiều để làm ra thơ mình. Có phải đến Phim đôi – Tình tự chậm,
Linh mới học phim để làm thơ không? Không. Từ những tập đầu đã thấy xu hướng
này rồi. Linh coi trọng những khuôn hình, coi trọng tốc độ chuyển cảnh, dàn cảnh,
tin dùng động từ hơn tính từ để hình của mình không tĩnh kiểu tranh mà động
kiểu phim. Linh thường show những cảnh toàn, cảnh cận, cảnh đặc tả khiến câu
thơ, đoạn thơ như một chuỗi khuôn hình trên màn bạc. Có thể nói tư duy hình của
Linh rất phim: “Đột ngột vào kịch tính/ Nữ kỵ sĩ cưỡi bạch mã
phi nước đại xa lộ/ Đến villa trắng phủ dây leo xanh/ Núi rặng rặng
gần xa/ mây đắp xanh kín biển/ Nghênh chiến thách thức”… Ngay chiêu lặp, bề
ngoài tưởng chỉ là phép điệp quen thuộc như “vòm vòm”, “phố phố”, “cánh
cánh”, “nhà nhà”, “ngàn ngàn”, “cây cây”… nhưng, thực ra, chúng trở đi trở lại
trong thơ Linh theo dụng ý phim, như cách lia máy, chạy máy để bao quát hoặc
bám sát chuyển động của hình chủ: “Khi Anh chở em lướt Vespa phố phố”,
“Tôi luyện tôi bề bề bão”, “Li ti sao vòm vòm cây thụ tình”… Hay
cái cách chồng hình của phim đã nhập vào lối chồng chữ này: “Mình ôm lấy Anh
ôm mình”… đều cho thấy cách dụng hình, dụng chữ của Linh hấp thu từ điện
ảnh thế nào. Trước ViLi, không phải chưa có việc văn tìm đến phim. Nhưng
tìm đến phim kiểu ViLi thì có lẽ chưa. Thành công nhiều hay ít, còn tùy đánh
giá của lối đọc. Và kể cả cái nhìn ưu ái nhất cũng không thể làm lơ trước những
dấu hiệu “phim đè thơ” đây đó trong các thi phẩm của Linh. Song, bảo rằng cây
bút này không có cách tân gì về hình thức là chưa thật công bằng. Ném mình vào cuộc thơ này, ViLi mang theo một tâm niệm: Đỉnh
cao sự sống là hợp linh nghệ thuật và tình yêu. Tất nhiên, để có thể
lên đỉnh ấy, không thể thiếu một hợp linh khác: nội lực và cật lực. Nội lực một Eva bạo chữ, cật lực kiểu dệt tầm gai liệu có
giúp được ViLi? Chú thích: [1] Vi Thùy Linh có thơ in từ giữa những năm 90, sau lần lượt
ra đời các tập: Khát (NXB Hội Nhà Văn,1999), Linh (NXB
Thanh Niên, 2000), Đồng tử (NXB Văn nghệ, 2005), ViLi in
love (NXB Văn Nghệ, 2008), Phim đôi - Tình tự chậm (NXB
Thanh Niên, 2010). Thơ trích trong bài đều từ 5 tập thơ này. [2] Người
dệt tầm gai là hình tượng được nhiều người biết đến trong bài thơ cùng
tên của Vi Thùy Linh. [3] Có
thể xem Hồ Xuân Hương là tiếng nói nữ quyền sớm và hết sức mạnh mẽ chống lại
xã hội nam quyền, đòi quyền sống, quyền yêu cho người nữ. Tiếng nói ấy thể hiện
tập trung trong niềm khao khát được chung tình, niềm phẫn uất với chế độ đa
thê. [4] Là
di vật tiêu biểu của Văn hóa Đông Sơn, ngay trên nắp thạp, tổ tiên đã trang
trí hình bốn cặp trai gái đang giao hoan. [5] Trong
thơ mình, Vi Thùy Linh sáng tạo ra một loài hoa của tình yêu màu tím ngát có
tên là hoa Thùy Linh.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét