Thứ Ba, 10 tháng 9, 2024

Nghệ thuật trong thế giới phiền não 3

Nghệ thuật trong
thế giới phiền não 3

Nghiên cứu đã cho thấy rằng tự biểu lộ nuôi dưỡng những nối kết xã hội, là những thứ lần lượt làm giảm thiểu căng thẳng cá nhân cũng như khuyến khích người khác làm giống như thế, điều có thể bén rễ trong một xã hội để làm giảm thiểu sự căng thẳng của xã hội lan rộng hơn. Có nhiều chứng cứ rộng lớn cho thấy vô số lợi ích từ những liên kết xã hội và một cảm giác thân cận, từ các lợi ích sức khỏe thân thể đến những hiệu quả trực tiếp của nó trong việc gia tăng những cảm giác cát tường và những mức độ của hạnh phúc. Các nghiên cứu đã xác nhận những gì hiển nhiên không thể chối cải được đến hầu hết chúng ta trong thời gian những cuộc khủng hoảng: Con người tự nhiên cởi mở đến người khác và những liên kết xã hội hòa tan khi người ta bắt đầu những cuộc thảo luận sôi nổi với không chỉ gia đình và thân hữu mà cũng thường với những người hoàn toàn xa lạ - trong những hàng chờ đợi của siêu thị, thang máy, hay trạm xe buýt. Điều này là kết quả trong những cảm nhận của tình đoàn kết, là điều có thể là một sự đối trị đến mối đe dọa tập thể. Trong thực tế, những nghiên cứu đã cho thấy rằng chỉ đơn giản hiện diện với người khác và tạo nên một ý nghĩa thân mật có thể giảm thiểu cảm giác sợ hãi, ngay cả khi mức độ của hiểm nguy vẫn như vậy.
Trong việc nghiên cứu những ảnh hưởng tích cực của việc nói về các sự kiện chấn thương tinh thần, những nhà nghiên cứu đã nhìn vào hậu quả của những sự kiện chẳng hạn như trận động đất ở Bắc California năm 1989, cuộc chiến vùng vịnh Ba Tư, hay vụ nổ bom ở Oklahoma City, và đã xác định một số giai tầng có thể dự đoán trước mà cộng đồng trải qua trong việc đương đầu với những sự kiện căng thẳng hay chấn thương tinh thần cao độ. Người ta đã thấy rằng ba hay bốn tuần sau sự kiện, con người thảo luận tự do về việc ấy, nói chuyện một cách cởi mở bất cứ người nào về trải nghiệm của họ, và như một kết quả người ta đối phó tổng quát tương đối tốt. Tuy nhiên, từ khoảng tuần thứ tư đến tuần thứ tám sau những vụ chấn thương cảm xúc, người ta thường cảm thấy rằng họ nên vượt qua chúng vào lúc ấy và chấm dứt nói về các vấn đề ấy một cách tối đa. Vấn nạn là hầu hết mọi người vẫn nghĩ nhiều về chúng và vẫn muốn nói về những gì đã xảy ra, nhưng không cảm thấy như thích nghe đến những câu chuyện của các người khác. Một vài tuần sau trận động đất 1989, thí dụ thế, người dân ở Palo Alto đã bắt đầu mặc những chiếc áo thun vẽ dòng chữ, “Cảm ơn vì không chia sẻ kinh nghiệm động đất của bạn”. Vậy thì, sự xung đột này giữa nhu cầu để nói về những thảm họa và sự thiếu thiện ý lắng nghe người khác nói về nó thường đưa đến một sự căng thẳng lan rộng dấy lên, rắc rối sức khỏe, cáu kỉnh, tranh luận, và thậm chí trong vài trường hợp là một sự gia tăng tỉ lệ công kích trầm trọng trong một cộng đồng. Cuối cùng, một “giai tầng thích nghi” tổng quát xảy ra từ tám đến mười hai tuần sau sự kiện, và vào lúc kết thúc của thời điểm ấy đại đa số những ai bị ảnh hưởng bởi chấn thương cảm xúc đã trở lại bình thường - nhắc chúng ta một lần nữa về khả năng phục hồi kỳ diệu của loài người.
Trong việc xác định những lợi ích của việc nói về các sợ hãi của con người, một nghiên cứu tại UCLA đã khám phá một hiện tượng hấp dẫn khác: Chỉ đặt tên cảm giác sợ hãi đã giảm thiểu nó(3). Trong những nghiên cứu sử dụng kỷ thuật fMRI (Hình ảnh cộng hưởng chức năng điện trường), các nhà nghiên cứu đã cho những đối tượng thí nghiệm xem một loạt hình ảnh với những khuôn mặt biểu lộ những cảm xúc khác nhau và hỏi các đối tượng để nhận biết bằng lời nói về cảm xúc trên khuôn mặt ấy. Khi các đối tượng gọi tên “sợ hãi”, máy đo ảnh hưởng điện trường não bộ cho thấy sự khởi động của một vùng trong vỏ não phía trước trán được nghĩ là để ảnh hưởng những hiệu quả làm nản chí và ức chế trên amygdala (khu vực phát sinh sợ hãi) và một sự giảm thiểu hoạt động trong amygdala!
Năng lực vạch trần ra những tư tưởng và cảm giác nội tại của một người là quá lớn, trong thực tế, rằng ngay cả nếu một người không có ai để nói chuyện, một cách đơn giản tỉnh thức, phát âm, và đặt tên những tư tưởng và cảm xúc tiêu cực xuất hiện cũng có những lợi ích quan trọng, cả vật chất lẫn tinh thần. Những thí nghiệm đã cho thấy rằng mười lăm phút viết về những suy nghĩ và cảm giác về những sự kiện bất lợi và chấn thương tinh thần có thể giảm thiểu căng thẳng và giúp con người ứng biến. Trong một thí nghiệm, một nhóm đối tượng đã viết về những rắc rối cá nhân thúc bách nhất, trong khi một nhóm khác viết về một chủ đề bình thường, chỉ hai mươi phút trong bốn trường hợp riêng lẻ. Những ai vạch trần ra các tư tưởng và cảm xúc khổ đau thì ít các bệnh hoạn trong thời điểm của nghiên cứu hơn là những ai dấu kín. Những đối tượng “vạch trần ra” đã có nhiều ‘tế bào T hỗ trợ(4)’ hơn, một thành phần quan trọng của hệ thống miễn nhiễm. Các nhà nghiên cứu đưa lý luận rằng viết về những sự kiện giúp con người đặt kinh nghiệm trong một phạm vi rộng rãi hơn của đời sống họ, hành động như một loại thực tập “mở rộng”, là điều có thể cung cấp những lợi ích thật sự, là những thứ chúng ta sẽ khám phá xa hơn trong những chương sau này.
Dĩ nhiên, rõ ràng rằng chia sẻ trải nghiệm của một người, hy vọng và sợ hãi của một người, với một người khác không phải là thuốc trị bá chứng cho việc chinh phục tất cả những nỗi sợ hãi và băn khoăn, cũng không phải là viết vạch trần ra có thể làm tất cả. Trong việc thực hành tự biểu lộ với một cá nhân khác, cởi mở đến một người nào khác đó, không phải mọi người đều có cơ hội hay ưu đãi để chia sẻ những cảm nhận của họ với một người như đức Đạt Lai Lạt Ma. Vì thế, chúng ta cần thực tập trong ý nghĩa thông thường, khơi bày những gì thích hợp, với một sự nhạy cảm đến phạm vi - trong việc quan tâm đến những gì đang được nói, và nơi đâu, khi nào, với ai. Tuy thế, với mức độ thông thường, như đức Đạt Lai Lạt Ma đề nghị, hành động đơn giản của việc chia sẻ kinh nghiệm nội tại của một người với một người khác có một năng lực vô biên cho việc xua tan sợ hãi và ban cho sức mạnh nội tại.
Ngày kế, chúng tôi ngồi lại, tôi bắt đầu, “Thưa Đức Thánh Thiện, ngày hôm qua chúng ta đã nói về ý tưởng của nỗi lo sợ cùng khắp mà dường như gia tăng trong thế giới ngày nay. Đối với những người sống ở Ấn Độ, có mối đe dọa của sự tấn công hạt nhân, nỗi đe dọa của tấn công khủng bố đối với những người sống ở Hoa Kỳ, và dĩ nhiên ở Do Thái, nó là một cung cách của đời sống! Chúng ta không bao giờ biết những sự kiện này có thể xảy ra khi nào hay chốn nào - chỉ có nỗi sợ hãi âm thầm này. Và ngài hầu như hàm ý rằng trên một mức độ nào đấy chúng ta không thể làm gì nhiều về loại sợ hãi tiềm tàng này, khi nó không phải là ở mức độ của sự phóng chiếu vọng tưởng hay tưởng tượng của chúng ta.
“Dĩ nhiên, ngài hoàn toàn đúng về điều ấy, và tuy thế tôi không thể nào không cảm thấy có thể có điều gì đấy khác hơn; tôi vẫn không hoàn toàn cảm thấy hài lòng với câu trả lời của ngài rằng không có điều gì nữa mà chúng ta có thể làm về nỗi hãi sợ này khác hơn là chỉ chia sẻ nó với người khác. Do vậy, trước khi chúng ta đi qua những chủ đề khác, tôi đang tự hỏi rằng có bất cứ điều gì mà chúng ta chưa nghĩ tới trong dạng thức của những phương pháp để giúp chúng ta học hỏi và chấp nhận sợ hãi.”
“Vâng”, ngài nói, “thí dụ, luôn luôn có phương pháp của Tịch Thiên Tôn Giả, là điều mà ông và tôi đã thảo luận trong quyển sách đầu tiên về Nghệ Thuật Hạnh Phúc. Tóm tắt, Tịch Thiên [một vị thầy Phật giáo lớn vào thế kỷ thứ VIII của Ấn Độ] đề nghị rằng chúng ta phân tích hoàn cảnh và nhiều lần lập đi lập lại nhắc nhở chúng ta: Nếu rắc rối mà có giải pháp, thế thì không cần phải lo lắng về nó. Trong trường hợp ấy, chúng ta phải tập trung trên việc tìm kiếm giải pháp ấy. Nếu trái lại, không có giải pháp khả dĩ, thì không vấn đề gì trong việc lo lắng, bởi vì chúng ta không thể làm bất cứ điều gì về nó bất cứ cách nào. Vì vậy, khi chúng ta tiếp cận một tình cảnh với loại viễn kiến ấy, rồi thì ngay cả nếu chúng ta thật sự chạm trán với thảm họa, chúng ta sẽ có một cơ hội lớn trong việc đối phó với nó. Thế nên, điều đó có thể hữu ích trong một số tình thế.”
“Dĩ nhiên”, tôi nhận xét, “tôi nhận ra rằng có thể có nhiều loại sợ hãi khác nhau, nhiều mức độ khác nhau. ‘Sợ hãi’ có thể chứa đựng một hình ảnh của nhiều thể trạng tinh thần khác nhau có thể trở nên lũy tiến mạnh hơn và làm cho bất lực, đi từ một khuynh hướng để lo lắng về những sự kiện trong đời sống hằng ngày, đến một cảm giác kinh niên dai dẳng về băn khoăn đến những sự tấn công hãi sợ bùng nổ toàn diện với những triệu chứng vật lý đến những tình tiết khiếp sợ hoàn toàn. Loại khiếp sợ mà một cá nhân nào đấy sẽ trải nghiệm không chỉ tùy thuộc trên bản chất của hoàn cảnh mà cũng được quyết định một cách phổ quát bởi một sự phối hợp những nhân tố về sinh lý, tâm lý, và môi trường cá nhân.”
“Đúng đấy”, đức Đạt Lai Lạt Ma đồng ý. “Vì thế, chúng ta cần những sự tiếp cận đa dạng để đương đầu với những loại sợ hãi đa dạng hay những phạm vi khác nhau.”
“À, nếu chúng ta đang nói về những sợ hãi và lo lắng cá nhân, trên mức độ cá nhân, ông nói đúng là có nhiều phương pháp có thể cần đến, là những thứ cao gồm sự lượng định về điều kiện thân thể, bệnh hoạn tinh thần của cá nhân; bệnh hoạn tinh thần như sự rối loạn lo lắng lâm sàng, và những sự chữa trị đa dạng mà có thể bao gồm sự chú ý đến kiêng khem và tập thể dục, thuốc men, tâm lý trị liệu, và những ‘kỹ năng nhận thức thái độ(5)’ đặc thù. Như chúng ta đã thảo luận trước đây, mặc dù được viết trong thế kỷ thứ VIII, phương pháp dựa trên lý trí của Tịch Thiên để đối phó với lo lắng là rất giống với kỹ thuật nhận thức hiện đại. Trong thực tế, những phần của tác phẩm của Tịch Thiên đọc nghe như đến thẳng từ một quyển sách hiện đại về những kỹ năng nhận thức thái độ, nơi mà lý trí, luận lý, và phân tích được sử dụng để thách thức và bác bẻ một cách năng động những tư tưởng tiêu cực tự động của chúng ta.
“Nhưng trong phạm vi mà tôi đang nói ở đây”, tôi nhắc nhở ngài, “là loại hoàn cảnh có những sự sợ hãi có căn cứ liên hệ đến những vấn nạn và nguy hiểm rộng lớn hơn trong xã hội, những loại nguy hiểm hay đe dọa rộng lớn hơn mà chúng ta không có cách nào để kiểm soát, ngược lại với những rắc rối đặc thù hơn trong đời sống cá nhân hằng ngày của chúng ta mà chúng ta có thể lo lắng đến. Thế nên, tôi đang tự hỏi rằng chúng ta có bất cứ tư duy nào xa hơn về việc đối phó với những loại sợ hãi ấy không.”
“Vậy thì, với những loại sợ hãi đó...” ngài lập lại, trầm ngâm phản chiếu một chút, “dĩ nhiên đối với những người có niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng của họ luôn luôn có thể đóng một vai trò trong việc hỗ trợ họ đương đầu với những trường hợp này với ít hãi sợ hơn.”
“Điều ấy đúng,” tôi nói. “Trong thực tế, tôi mừng vì ngài đã nêu vấn đề đó lên. Có một số lượng lớn chứng cứ khoa học thiết lập một cách rõ ràng về những lợi ích vô biên của niềm tin tôn giáo trong việc giúp những cá nhân đương đầu với các khủng hoảng và kinh nghiệm chấn thương, v.v... Nhưng về những ai không tham gia với một tôn giáo nào thì ra sao?”
“Bây giờ, hãy có một cái nhìn khác vào điều này, chúng ta có thể thấy một nguyên tắc rất quan trọng. Quan điểm và động cơ tiềm tàng của chúng ta chắc chắn có thể có ảnh hưởng về việc chúng ta đáp ứng đến các nghịch cảnh, đe dọa, hay nguy hiểm như thế nào,”ngài đáp lời. “Thí dụ, một thái độ ân cần và từ bi đem đến một cảm giác tự tin, một sức mạnh nội tại. Điều đó sẽ giảm thiểu sợ hãi. Trong thực tế, chúng ta thường thấy những trường hợp này là nơi có thể có hai con người trong chính cùng một trường hợp nguy hiểm, tuy thế một trong hai người ấy đương đầu hiệu quả hơn người kia - ở đây chính là quan điểm của người ấy có thể làm nên sự khác biệt. Thật sự, việc đáp ứng của chúng ta đến một hoàn cảnh nguy hiểm và khả năng để đối phó với sợ hãi có thể thường tùy thuộc trên quan điểm và những đặc tính của cá nhân hơn là bản chất của chính hoàn cảnh.”
“Ngài biết không, thưa Đức Thánh Thiện, điều ấy nhắc tôi... tôi nhớ lại trường hợp của một bệnh nhân khi tôi đang chữa trị cho một rối loạn căng thẳng xảy ra như hậu quả của chấn thương tinh thần những năm trước đây khi tôi đang thực hành như một bác sĩ tâm lý trị liệu. Anh ta đi đến thành phố St. Croix với bạn gái và một cặp nữa khi cơn bão Hugo đập vào hòn đảo. Anh đã có một kinh nghiệm chấn thương thật sự và vẫn trải nghiệm những triệu chứng một thời gian dài sau sự kiện. Thế nào đi nữa, trong một buổi nọ, anh ta yêu cầu tôi gặp bạn gái của anh ta và cặp kia. Có bốn người giống nhau rất nhiều, với cùng quá khứ, tuổi tác, v.v..., và tất cả bốn người cùng chia sẻ kinh nghiệm chính xác như nhau trong cơn bão, với tất cả bốn cảm nhận sợ hãi thật sự vào lúc ấy. Nhưng vấn đề gây ấn tượng với tôi là mặc dù tất cả bọn họ trải qua cùng trạng thái, cùng những hoàn cảnh ngoại tại, nhưng mỗi người trong họ đã đáp ứng đến những hoàn cảnh đó trong một cung cách hoàn toàn khác nhau, trong dạng thức của mức độ sợ hãi mà họ biểu lộ, họ đã có thể đương đầu hợp lý như thế nào trong khi và sau khi trải nghiệm, và v.v...
“Vậy, bình luận của ngài về những con người khác nhau đáp ứng đến cùng một tình thế trong một thái độ khác biệt nhắc tôi nhớ lại câu chuyện ấy. Nó thật sự soi sáng quan điểm của ngài rằng thường thì không phải bản chất của sự đe dọa sai khiến thái độ và đáp ứng của chúng ta mà việc chúng ta nhận thức và diễn dịch mối đe dọa đó như thế nào. Và dĩ nhiên, như ngài đã chỉ ra, căn bản quan điểm về đời sống, kể cả niềm tin tôn giáo, có thể có một ảnh hưởng lớn trên việc chúng ta đáp ứng đến những hiểm nguy như thế nào, v.v... Thế nên, trong cái nhìn này, ngài có thể cho tôi một số thí dụ khác về những quan điểm hay nhận thức nào đó có thể giúp để giảm thiểu sợ hãi không?”
“Những nhận thức khác”, đức Đạt Lai Lạt Ma lập lại. “Vâng, một nhân tố khác liên hệ ở đây có thể ảnh hưởng phản ứng của con người đến một đe dọa hiện ra là mức độ mà với nó người ta tỉnh thức về sự vô thường của họ. Một cách tổng quát, trong đời sống hằng ngày của chúng ta, hầu hết mọi người trở nên quá mãi mê, bận rộn trong những hành vi hàng ngày của chúng ta khiến họ không để nhiều suy nghĩ đến ý tưởng rằng một ngày nọ chúng ta có thể chết. Vậy nên, không quán chiếu nhiều trên sự thật này, chúng ta có khuynh hướng có một cảm giác tiềm tàng rằng sự sống của chúng ta sẽ tiếp tục và tiếp tục, rằng chúng ta sẽ hiện hữu mãi mãi. Càng dính mắc với ý tưởng này, chúng ta sẽ càng gia tăng sợ hãi khi có một đe dọa đến sự tồn tại ấy.”
Dĩ nhiên, khi đức Đạt Lai Lạt Ma cảnh báo liên tục, rằng không có những câu trả lời dễ dàng và không có một chìa khóa đơn độc để giải quyết sự sợ hãi lan tỏa trong một xã hội, đặc biệt trong nhãn hiệu có thể làm xói mòn hạnh phúc, tự do của con người, và đưa đến xung đột cùng bạo động. Nhưng ngài tặng cho chúng ta một sự tiếp cận có thể đặt chúng ta trong một phương hướng đúng đắn, một phương pháp hoàn toàn đồng dạng với những khám phá của khoa học hiện đại, vì thế sự hội tụ của hai sự phương thức cống hiến những hy vọng chân thật cho tương lai.
“Ngài biết không, thưa Đức Thánh Thiện, tôi hầu như chỉ suy nghĩ bùng dậy ra đây; tôi phỏng đoán rằng điểm chính của vấn đề ở đây là chúng ta không bao giờ biết những gì sẽ được đem tới trong tương lai, rằng bạo động hay ngay cả cái chết có thể nổ ra. Chúng ta thường không kiểm soát gì được đối với những thứ ấy. Nhưng tôi đang tự hỏi rằng có bất cứ phương thức nào để biến đổi nỗi hãi sợ của chúng ta không, để sử dụng nó trong một cung cách tích cực và áp dụng nó đế đánh giá mỗi thời khắc mà chúng ta có ngay bây giờ, nghĩ về những ưu đãi của chúng ta trong sự sống, và sống mỗi ngày đến mức trọn vẹn nhất của nó.”
Đức Đạt Lai Lạt Ma gật đầu một cách nhiệt tình. “Vâng, điều ấy rất có thể... Và trong thực tế, có những phương pháp thiền quán mà nhấn mạnh được đặt lên là sự chính niệm về cái chết và quán chiếu trên sự không thể tránh khỏi về cái chết của chúng ta. Sự nổi bật chính của điều đó là để thật sự tạo nên một ý nghĩa của tính cấp thiết, việc nhận ra sự quý giá của đời sống con người này. Một trong những hiệu quả của loại thiền quán này là chúng ta sẽ đón nhận một cách nghiêm túc bất cứ thời khắc nào chúng ta chạm trán để có bây giờ, vì không có gì bảo đảm rằng nó sẽ tồn tại mãi mãi. Do vậy, toàn bộ mục tiêu của thiền quán là để sử dụng đời sống của chúng ta trong phương thức hiệu quả nhất, đặt toàn bộ nỗ lực để làm cho thời khắc hiện tại đầy đủ ý nghĩa nhất, chứ không chỉ đơn giản là dấn thân trong một số tư tưởng bệnh hoạn nào đấy về sự chết của chúng ta.
“Đó là tại sao trong kinh điển Phật giáo có những lời nhắc nhủ liên tục để quán chiếu trên bản chất nhất thời của mọi thứ - không chỉ chính sự tồn tại của chúng ta, mà của toàn bộ vũ trụ! Ông biết không, có một đoạn tuyệt vời trong một trong những kinh điển mà trong ấy nói rằng thậm chí chính Trái Đất mà chúng ta đang ở, những yếu tố như đất, nước, gió, lửa, tóm lại là toàn thể vũ trụ - không có gì sẽ duy trì, không ngay cả trong hình thức của bụi trần, hàng triệu năm tính từ bây giờ. Nếu điều đó là như vậy, tại sao sự hiện hữu mõng manh của con người cũng sẽ không đi đến chấm dứt chứ? Những sự quán chiếu như vậy tạo nên một nhận thức rộng mở hơn có thể giúp giảm thiểu sự có thể của việc phản ứng với nổi sợ hãi dữ dội.”
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói về cái chết, vũ trụ, chuyển động của những hành tinh và thiên hà, từ trong ấy một tỉ năm chỉ là một cái chớp mắt. Điều ấy quá quen thuộc với ngài, nghe như ai đấy diễn tả sự bố trí trong nhà nơi người ấy lớn lên. Có lẽ không quá ngạc nhiên, với quan tâm rằng việc thực tập thiền quán hằng ngày cả cuộc đời của ngài bao gồm cả một quán chiếu chuẩn bị cho cái chết của ngài. Nhưng khi ngài làm cho những ý tưởng này dường như đi đến hiện thực - thiết lập những sự sống nhất thời, phù du, của những con người bé nhỏ dựa trên nền tảng của sự mở rộng thời gian vĩnh cửu, sự vô tận trải dài của không gian - thế nào đấy mọi thứ đã bắt đầu thấy hơi khác biệt. Ra sao? Tôi không chắc. Nhưng tôi không còn toại nguyện với lời khuyên bảo của ngài về vấn đề đối phó với sợ hãi như thế nào, vì một điều.
Không cần phải thắc mắc rằng thế giới ngày nay là đầy dẫy hiểm nguy. Hiểm nguy thật sự, một đe dọa chính đáng đến sự an toàn của chúng ta, gợi lên sợ hãi - đấy là tự nhiên. Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ ra rằng thật ngu ngơ để sống mà không sợ hãi; rốt cuộc, sự sợ hãi lành mạnh có chức năng bảo vệ. Nhưng vấn đề cơ bản tiếp tục hiện hữu, với quá nhiều xung đột trong thế giới ngày nay, với quá nhiều đe dọa do con người làm ra có thể bùng nổ bất cứ lúc nào, có quá nhiều không chắc chắn, chỗ mà thị trường tài chính có thể sụp đổ bất cứ lúc nào, làm thế nào chúng ta tiếp tục cuộc sống hằng ngày cùa mình mà không cho phép sợ hãi hao mòn khả năng cho hân hoan, xói mòn cảm giác tự tin và lạc quan về tương lai, hay ngay cả làm cho đời sống của chúng ta đờ đẫn ra chứ?
Dĩ nhiên, khi đức Đạt Lai Lạt Ma cảnh báo liên tục, rằng không có những câu trả lời dễ dàng và không có chìa khóa đơn độc để giải quyết nỗi sợ hãi lan tỏa trong xã hội, đặc biệt nhãn hiệu có thể làm xói mòn niềm hạnh phúc, tự do của con người, và đưa đến xung đột cùng bạo động. Nhưng ngài tặng cho chúng ta một phương cách có thể đặt chúng ta vào phương hướng đúng đắn, một phương thức hoàn toàn tương đồng với những khám phá của khoa học hiện đại, vì thế sự hội tụ của hai phương pháp cống hiến một niềm hy vọng chân thành cho tương lai.
Theo quan điểm của khoa học, dĩ nhiên, các nhà khoa học đã có những cơ hội rộng rãi để tiến hành các cuộc thí nghiệm trên sự sợ hãi và xung đột trong cộng đồng và xã hội khắp nơi trên thế giới - nhìn vào những mô thức của thái độ con người tại Do Thái, Bắc Ái Nhĩ Lan, bán đảo Balkan, và rất nhiều khu vực, cùng địa điểm khác, nơi mà cuộc sống là không chắc chắn và sợ hãi là tương tự, trong những vùng bị xé nát bởi xung đột. Các nhà nghiên cứu đã thu thập đủ chứng cớ để xác định những sách lược hiệu quả nhằm đối phó với sợ hãi cũng như giảm thiểu phạm vi của sợ hãi và bạo động, những phương pháp song hành với các quan điểm của đức Đạt Lai Lạt Ma.
Sự tiếp cận này bắt đầu với tỉnh thức. Như chúng ta đã thấy, sợ hãi có thể được ý thức trước, chúng ta có thể phản ứng với sợ hãi trước khi chúng ta thậm chí cảnh giác về nó, vì thế trở nên tỉnh thức về những sự sợ hãi của chúng ta đem nó vào trong không gian của lý trí - trong trình độ sinh học, điều này có nghĩa là chuyển sự kiểm soát đối với những đáp ứng của chúng ta từ amygdala nguyên sơ đến vỏ não phía trước trán tiến hóa hơn, nơi mà chúng ta có thể điều chỉnh những thôi thúc mù quáng bán khai với những chức năng não bộ cao cấp hơn của lý trí, sự suy nghĩ quan yếu, và một quan điểm rộng rãi hơn, lâu dài hơn, được tôi luyện và kiềm chế với sự ân cần và từ bi của con người. Một phần của tiến trình tỉnh thức này liên hệ sự xác định những tình thế tập quán có khuynh hướng gây nên sợ hãi, và khảo sát một cách năng động những phương pháp đa dạng mà chúng ta thường biểu lộ và giải quyết những sợ hãi của chúng ta. Nó không khó khăn - tất cả chúng ta cần để làm là quán sát thái độ của chính chúng ta.
Trau dồi tỉnh thức mạnh mẽ hơn về những sợ hãi của chúng ta có thể là một sách lược rất năng lực - trong thực tế, chúng ta đã từng thấy chỉ đặt tên một cách có ý thức cảm xúc mà chúng ta đang trải nghiệm như “sợ hãi” sẽ giảm thiểu nó. Nhưng trau dồi một sự tỉnh thức lớn hơn chỉ là bước đầu tiên trong sự tiếp cận của đức Đạt Lai Lạt Ma. Với sự tỉnh thức hoàn toàn về tầm quan trọng của việc vượt thắng sợ hãi, tối thiểu là những tàn phá đa dạng của sợ hãi, bước tiếp theo liên hệ đến việc áp dụng những sự đối trị với sợ hãi, những chiến lược hay kỹ năng đặc trưng để giảm thiểu sợ hãi và căng thẳng.
Dĩ nhiên, khi chúng tôi đang nói về sợ hãi và lo lắng trong việc phản ứng đến tình thế hiểm họa hay đe dọa, thực hiện một cách năng động đối với sự giảm thiểu nguy hiểm hay đe dọa có thể là một sự tiếp cận hợp lý, ngay cả nếu nó chỉ là một bước nhỏ. Nhưng dĩ nhiên nếu chúng ta không có sự kiểm soát gì với đe dọa bên ngoài, và nếu không có những bước thực tiễn mà chúng ta có thể thực hiện để giảm thiểu hiểm nguy, thế thì chúng ta cần hướng đến những chiến lược nội tại để đối phó với sợ hãi.
Việc nhắc chúng ta rằng không bao giờ chỉ có một phương pháp duy nhất để vượt thắng những rắc rối của con người, chúng ta cần những vũ khí đa dạng trong kho để chiến đấu với những cảm xúc tàn phá như giận tức, thù hận, hay sợ hãi, ở đây đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu với một vài sự tiếp cận, bao gồm việc chia sẻ những nỗi sợ hãi với người khác, kỹ năng nhận thức (bao gồm công thức của Tịch Thiên), hay kêu gọi trên niềm tin tôn giáo của mỗi hành giả.
Trong việc nói về những sự tiếp cận khác nhau để giảm thiểu sợ hãi, đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đề cập vấn đề các thái độ và quan điểm tiềm tàng của chúng ta có thể ảnh hưởng việc chúng ta đối phó với sợ hãi như thế nào - bắt đầu bằng việc tiếp nhận một quan điểm nền tảng hay cơ cản là nhận ra và chấp nhận rằng luôn luôn có thể có một mức độ nào đó của sợ hãi trong đời sống, rằng điều này là một phần của đời sống. Ngài cũng chỉ ra rằng cung cách chúng ta nhận thức một tình thế đe dọa hay hiểm họa có thể làm nên một sự khác biệt lớn. Và, thậm chí quan trọng hơn, chúng ta có thể thay đổi một cách thận trọng việc chúng ta nhận thức một tình thế đe dọa như thế nào, mà nó có thể là một cung cách hiệu quả của việc giảm thiểu sợ hãi. Trong Phần thứ Ba, tôi sẽ diễn tả đến một thí nghiệm của đức Đạt Lai Lạt Ma mà trong ấy một nhóm đối tượng có thể giảm thiểu sự căng thẳng của họ khi họ thấy một nhiệm vụ như một thử thách thay vì một đe dọa. Tất cả việc thực hiện là một sự thay đổi thận trọng trong quan điểm, mà trong ấy họ nhận thức nhiệm vụ trong một cung cách mới.
Cuối cùng, trong việc nhìn vào tất cả những cung cách đa dạng để làm giảm thiểu sợ hãi và băn khoăn này, một cách đặc biệt trong những tình thế vượt khỏi sự kiểm soát của cá nhân, những nhà khảo sát tổng quát thích chỉ ra một đặc trưng quan trọng của bản chất nhân loại: Con người có một khả năng mênh mang để thích ứng, một tiến trình được gọi là thói quen, tiến trình giống như thế trong não bộ chịu trách nhiệm cho sự kiện rằng chúng ta không “nghe” tiếng tíc tắc của đồng hồ dường như quá to khi chúng ta có nó lần đầu tiên, hay tiếng ồn của giao thông bên ngoài cửa sổ dường như quá lớn khi chúng ta lần đầu tiên chuyển vào cư xá. Trong cùng cách, mức độ sợ hãi và băn khoăn của chúng ta sẽ tự nhiên có khuynh hướng giảm bớt khi chúng ta quen với những điều kiện mới - ngay cả những điều kiện chỗ mà chúng có thể có một sự đe dọa nào đó. Trong một nghiên cứu ở Do Thái, trong thời điểm thường xuyên có những vụ tấn công khủng bố ở xe buýt công cộng, các nhà khảo sát đã thấy rằng bên cạnh những chiến lược đương đầu khác mà một cá nhân có thể có, chỉ đơn giản đi trên một xe buýt thường xuyên hơn sẽ phối hợp với một sự sút giảm của sợ hãi và băn khoăn.
Sợ hãi có thể có những ảnh hưởng trên cá nhân, nhóm người, và những mức độ xã hội. Các xung đột, chiến tranh, và những hành vi lan tỏa của công kích và bạo động có thể là những kết quả khi sợ hãi bén rễ. Khi đối phó với những xung đột chúng ta sẽ thấy rằng khi những ảnh hưởng ngấm ngầm của sợ hãi tiếp tục luồn qua một hay cả hai bên trong một cuộc xung đột - là điều đại khái liên hệ đến những sợ hãi vì sự an toàn, an ninh, hay ý thức về cá tính mình - cho đến khi mà phía bên kia được thấy như một mối đe dọa trong một cung cách nào đó, sự xung đột sẽ không bao giờ được giải quyết. Đây là cốt lõi của vấn đề trong nhiều trường hợp của xung đột khó giải quyết. Để làm cho vấn đề tệ hại hơn, bạo động trong những trường hợp như vậy có thể khó khăn để trừ tiệt một cách đặc biệt qua khuynh hướng cố hữu của sợ hãi để bóp méo suy tư, thổi phồng nhận thức của chúng ta về đe dọa, lý do tàn phá, và quan điểm hẹp hòi.
Loại trừ nhân tố sợ hãi sẽ cùng đồng hành trên con đường dài trong việc giải quyết nhiều xung đột. Đây là tại sao biểu lộ những sợ hãi của mỗi bên đang trở thành một bộ phận tăng cường quan trọng của giải pháp xung đột. Sự tiếp cận này liên hệ đến những nhà thương thuyết tìm tòi để giúp các phe nhóm xác định, hệ thống, và cuối cùng thông hiểu những nỗi sợ hãi tiềm tàng của chính họ, cũng như của những ai thuộc phe nhóm đối kháng của họ. Khi những phe nhóm bắt đầu xác định, các mối lo sợ thổi phồng và xuyên tạc và họ bắt đầu thấy thực tại một cách rõ ràng hơn, thì một cảm nhận của tin tưởng sẽ thường bắt đầu lớn mạnh, là điều có thể trở thành một sự khởi đầu của việc cuối cùng chấm dứt vòng xoay của sợ hãi và bạo động. Từ đấy các phe nhóm sẽ bắt đầu để tìm ra những giải pháp mà họ chưa bao giờ thấy trước đây.
Cuối cùng, việc cố gắng áp dụng thử một cách thận trọng để thấu hiểu những nỗi lo sợ của người khác có thể trở thành căn bản cho thấu cảm hay cảm thông, cho việc thử “đặt mình trong vị thế của người kia” [thì ta sẽ nghĩ như thế nào]. Và cùng lúc ấy, chia sẻ nỗi lo sợ của chính mình với phía kia mở ra khả năng để họ có thể thấu cảm với chính chúng mình. Như chúng ta sẽ thấy trong chương cuối cùng của quyển sách này, thấu cảm là một trong những chìa khóa chính để vượt thắng xung đột, bạo động, và thành kiến - giải pháp đến rất những vấn nạn của nhân loại, với một năng lực chuyển hóa vô song.
Vào cuối tuần ở Dharamsala, chúng tôi dường như cảm thấy rằng đã bao hàm một nền tảng cụ thể nào đấy. Khi tôi lắng nghe đức Đạt Lai Lạt Ma tuần ấy, tôi đã cảm thấy rằng một sự thấu hiểu rõ ràng hơn về cả những căn nguyên của bạo động và bản chất của các cảm xúc tàn phá của chúng ta đã bắt đầu hiện ra. Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã cho tôi có một cái nhìn mới mẻ về căn bản tự nhiên nhân loại của chúng ta - không phải là điều gì đấy mà tôi đã nghĩ theo thói thường - cũng như phản chiếu trên những nguồn gốc xấu ác của con người. Cuối cùng, tôi đã cảm thấy rằng ngài đã chia sẻ một số sách lược thực tiển hoàn thiện, bao gồm cả một sự tiếp cận hữu dụng để đối phó với sợ hãi.
Cũng vào cuối tuần ấy, tôi cũng đã phản chiếu trên những gì chúng tôi đã thảo luận trước đây ở Dharamsala. Tôi đã cảm thấy rằng những loạt thảo luận là đầy hoa trái, kết quả là một sự thấu hiểu sâu sắc hơn về thành kiến và những phương cách để bắt đầu để vượt qua khỏi suy nghĩ Chúng Ta và Họ. Không chỉ thế, mà ngay chính đề tài đầu tiên ngài nêu lên, xác định việc tăng trưởng của đơn độc và chán ghét trong xã hội chúng ta và sự xói mòn ý thức cộng đồng, ý thức liên hệ của chúng ta, đã là điều gì đấy mà tôi thậm chí chưa bao giờ có một suy nghĩ để ý đến, nhưng một khi ngài đã đề cập, nó giống như một bức màn đã rơi khỏi mắt tôi - không chỉ tôi đã thấy chứng cứ về nó khắp mọi nơi, mà tầm quan trọng của nó đến hạnh phúc nhân loại dường như không thể chối cãi được, và tôi đã tự hỏi làm sao mà tôi chưa bao giờ chú ý đến nó trước đây như thế nào.
Tuy nhiên, tôi không hoàn toàn toại nguyện với sự phong phú mà tôi đã tìm thấy trong những cuộc đàm luận của chúng tôi. Vẫn cảm thấy đối với tôi giống như có điều gì đấy thiếu sót. Dĩ nhiên, mãng thiếu sót được xác định một cách dễ dàng: Trong khi chúng tôi truy kích những gốc rễ của bạo động đến những cảm xúc tàn phá, tôi cảm thấy chúng tôi không có những chiến lược khảo sát để đối phó với chúng tương xứng, để vượt thắng chúng. Nhưng có điều gì đấy nữa, một nhân tố thiếu vắng khác khó khăn hơn để xác định. Tôi cảm thấy rằng đối tượng chính của những cuộc thảo luận, khám phá những quan điểm của đức Đạt Lai Lạt Ma đối với việc tìm kiếm hạnh phúc trong thế giới phiền não, đang được nêu lên. Ngài đã đang nói một cách rõ ràng và trực tiếp về những vấn nạn đa dạng của loài người hay các vấn đề có thể tác động hạnh phúc của cả các cá nhân và xã hội. Quan điểm của ngài dường như có cơ sở hợp lý, như luôn luôn là thế, và lời khuyên bảo thực tiễn của ngài thật hữu dụng. Cuối cùng, sau một phản chiếu nào đấy, tôi cảm thấy những gì đã làm nên sự không hài lòng của tôi. Dường như rằng chúng tôi đang tìm cách giải quyết những vấn nạn hay các vấn đề một cách từng mảng, từng chút từng chút, nhưng cho đến bây giờ chúng dường giống như một sự sưu tập các chủ đề. Đến một mức độ như vậy dường như không có bất cứ một loại tiếp cận lạm dụng hay chủ đề hay khuôn khổ thống nhất mạnh mẽ có thể được dùng như một sự hướng dẫn để giúp giữ chúng ta trên dòng diễn biến đối với cả hạnh phúc cá nhân rộng rãi hơn và một thế giới tốt đẹp hơn. Dĩ nhiên, đây không có nghĩa là cuộc gặp gỡ cuối cùng của chúng ta, vì thế tôi vẫn hy vọng rằng cuối cùng mọi thứ sẽ đi vào vị trí thích hợp của nó.
Nguyên tác: Violence Versus Dialogue
Ẩn Tâm Lộ ngày 3/11/2011
Chú thích:
1. “Flight into health”: Xảy ra trong tâm lý trị liệu, khi một bệnh nhân dường như thực hiện một sự hồi phục tự động khi được đối diện với triển vọng của chữa trị.
2. Self-disclosure: Tự biểu lộ là hành vi cả ý thức và vô thức bộc lộ hơn về chính một người với người khác. Điều này có thể bao gồm, nhưng không giới hạn đến, tư tưởng, cảm giác, khát vọng, mục tiêu, thất bại, thành công, và mơ ước cũng như những thứ thích, không thích và mến chuộng của một người.
3. Đây cũng là một phương pháp của Làng Mai, Thiền sư Nhất Hạnh, nhận diện một cảm xúc và gọi tên nó.
4. T helper cell - tế bào T hỗ trợ: Một nhóm bạch huyết bào ngầm đóng một vai trò quan trọng trong việc thiết lập và làm tối đa hệ thống miễn nhiễm.
5. Cognitive behavioral technique: Kỹ năng nhận thức thái độ: Kỹ thuật tập trung trên việc thay đổi những sự tin tưởng, hình tượng, và tư duy nhằm để thay đổi các thái độ không đúng.
Phần III - Hạnh phúc trong thế giới phiền não - Chương 10
Đương đầu với một thế giới phiền não

VÀI NĂM đã trôi qua kể từ khi những loạt thảo luận cuối cùng của chúng tôi ở Dharamsala. Xảy ra không bao lâu sau vụ 11 tháng Chín, những buổi đàm luận này đã tập trung trên những chủ đề liên hệ đến thù địch, bạo động, và sợ hãi, những trạng thái muôn màu muôn vẻ về cách cư xử của con người. Kể từ lúc ấy, chúng ta đã thấy sự xâm chiếm Afghanistan, với sự sụp đổ của chế độ hà khắc Taliban, và sự xâm chiếm Iraq, với việc lật đổ Saddam Hussein. Và dường như rằng luôn luôn có một loại nào đấy của bạo động nổ ra, trong một vùng nào này hay một vùng kia của thế giới, trên một mức độ nhỏ bé hay rộng lớn, cho một thời gian ngắn hay trên một căn bản tiếp diễn lâu dài. Dường như không có sự chấm dứt trong cảnh tượng của việc sử dụng bạo động để giải quyết xung đột. Thế giới dường như không gần hơn nhiều với việc nhận ra sự sáng suốt của đức Đạt Lai Lạt Ma về một thế giới, nơi mà chúng ta cảm thấy liên hệ với những người khác, thoải mái bất chấp người nào mà chúng ta gần gũi, nơi mà sự tốt lành và dịu dàng của chúng ta ngự trị, một thế giới thênh thang không bạo động hay sợ hãi, có lẽ ngoại trừ những xung đột nhỏ không tránh khỏi giữa những con người nơi này và nơi kia. Tuy thế, ngài vẫn đầy hy vọng. Thế kỷ vẫn còn trẻ trung. Vẫn còn thời gian cho những thay đổi như thế xảy ra.
Nhưng với quá nhiều rắc rối trong thế giới ngày nay, tôi đã tự hỏi, ngài đã duy trì hy vọng như thế nào? Điều gì chống đỡ cho sự lạc quan của ngài? Và ngược lại với bối cảnh những vấn nạn thách thức của xã hội và vô số những căng thẳng của đời sống hàng ngày này, mỗi chúng ta cũng có những rắc rối cá nhân. Vì vậy, chúng ta đã đối diện với một câu hỏi căn bản: Chúng ta có thể tìm thấy hạnh phúc trong một thế giới rắc rối như vậy ra sao?
Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Hoa Kỳ trên một chuyến hoằng pháp, lần này ở Tucson, Arizona. Trong khoảng thời gian giữa những loạt bàn luận cuối cùng ở Ấn Độ, chúng tôi vẫn tiếp tục gặp gỡ thỉnh thoảng nhưng chúng tôi đã chuyển đến những chủ đề khác trong một lúc, nói về những vấn đề liên hệ đến kinh tế, thịnh vượng, lối sống, tham lam, chủ nghĩa tiêu thụ, giàu và nghèo(1). Lại nữa tôi cũng đã tháp tùng với ngài trong một số chuyến diễn thuyết, nhưng với thời khóa thuyết giảng dày đặc trong những chuyến hoằng pháp hải ngoại, nên một cách tổng quát không phải là thời gian thích hợp để thỉnh cầu cho những buổi đàm luận trong chiều sâu về những đề tài phức tạp.
Tuy nhiên, Tucson thì khác biệt. Chính là ở đây, tiểu bang quê nhà của tôi Arizona, nơi mà chúng tôi đã tiến hành những buổi thảo luận đầu tiên về hạnh phúc con người nhiều năm trước đây, những buổi đàm luận cuối cùng được ghi chép trong quyển sách Nghệ Thuật Tạo Hạnh Phúc(2). Đây là lần đầu tiên ngài trở lại thăm Arizona. Vì vậy, sau hơn một thập niên, chúng tôi ở đây một lần nữa, vẫn khám phá chủ đề hạnh phúc nhân loại. Sự bố trí của sa mạc Sonoran, giữa ngọn những đồi đá, những cây xương rồng saguaro cao ngất, mùi hương phảng phất của những cây bụi sa mạc, gợi lên một cảm giác nhớ nhà. Thế nào đấy dường như đúng là nơi mà chúng tôi tiếp tục những cuộc thảo luận ở đây, một chỗ nhắc nhở về những chu kỳ của đời sống, những vòng xoay bất tận xoay tròn chung quanh và không thay đổi cốt lõi của nó - câu hỏi tồn tại mãi mãi về vấn đề tìm kiếm hạnh phúc.
Đức Đạt Lai Lạt Ma với một ngày đầy các buổi làm việc. Bên cạnh một buổi ăn trưa ngắn riêng tư trong khách sạn nơi ngài ở, gần như mỗi phút của ngài đã được ghi chép chắc nịch. Tuần ấy, ngài thuyết giảng một trong những giáo huấn Đạo Phật mà ngài rất ưa thích, Hướng Dẫn Lối Sống Bồ Tát (Bodhicarayavatara) của Tịch Thiên. Những buổi thuyết giảng dài mỗi buổi sáng và buổi chiều chỉ có một ít thời gian cho những hoạt động khác. Thông thường, bất cứ một giây phút hiếm hoi nào mà ngài rảnh rỗi giữa những sự kiện công cộng và riêng tư sẽ bị lấp đầy với những buổi tiếp kiến ngắn gọn. Tuy nhiên, trong trường hợp này do bởi mối liên hệ địa phương của tôi, những người tổ chức cuộc thăm viếng của đức Đạt Lai Lạt Ma đến Tucson đã giúp để làm cho thuận tiện một cách tử tế một số khoảng thời gian dài hơn để chúng tôi gặp gỡ nhau, sau buổi điểm tâm vào những buổi sáng hay tiếp theo buổi thuyết giảng của ngài vào xế trưa.
Tôi đã đến khách sạn của ngài rất sớm vào buổi sáng cho buổi gặp gở đầu tiên của chúng tôi. Không thật sự là một “người của buổi sáng(3)”, tôi vừa mới uống xong ly cà phê của tôi, và vẫn còn đang vật vả để thấy màu sắc. Khi tôi tiến vào phòng khách của khách sạn, đức Đạt Lai Lạt Ma hiện ra từ phòng ngủ bên cạnh với những bước chân nhanh nhẹn và một nụ cười mỉm ấm áp, chào tôi một cách hoạt bát trong tinh thần sinh động. Như mỗi chuyến du hành thường lệ của ngài, ngài đã dậy từ bốn giờ sáng, đã dành hơn ba giờ đồng hồ trong thiền quán và cầu nguyện, và đã dùng xong buổi điểm tâm giản dị của ngài với món tsampa(4) truyền thống của Tây Tạng. Đây là thời gian tuyệt vời nhất trong ngày của ngài.
Chúng tôi mở đầu với một cuộc đối thoại nhỏ tổng quát khởi đầu khi ngài giũ đôi dép săng-đan nhựa ra và tréo chân ngồi xếp bằng, chân không, trên một cái ghế nệm dựa to rộng. Mặc dù bằng những tiêu chuẩn của Arizona, nhiệt độ đầu mùa thu đã là giảm bớt một cách thú vị so với mùa hè hung hãn, nhưng đức Đạt Lai Lạt Ma, người thường không thích thời tiết nóng bức, đã nhận xét về cái nóng của sa mạc khi tôi ngồi xuống trên chiếc ghế nệm dài đối diện với ngài và lấy tập ghi chép ra. Khi tôi chuẩn bị máy thu âm trên bàn cà phê đối diện với chúng tôi, chúng tôi đã nói chuyện trong vài phút về việc ngài trở lại Tucson sau nhiều năm. Nhưng với quá nhiều câu hỏi mà tôi muốn trình bày, trong một lúc rất ngắn ngủi chúng tôi lại bắt đầu cuộc đàm luận đã có từ lâu của chúng tôi, khơi lại từ những gì chúng tôi đã dở dang ở Dharamsala.
Nhanh chóng đi xuyên vào ngay trung tâm của vấn đề đã sẵn sàng, câu hỏi của vấn đề tìm kiếm hạnh phúc như thế nào trong thế giới phiền não của chúng ta, tôi bắt đầu, “Ngài biết không, thưa Đức Thánh Thiện, khi ngài nghĩ về tất cả những vấn nạn của thế giới, những rắc rối đã làm xói mòn hạnh phúc của nhân loại - bạo động, khủng bố, thành kiến, nghèo đói, và khoảng cách giữa giàu và nghèo, môi trường v.v... - và nghĩ về việc tất cả các vấn đề này bao la như thế nào, đôi khi tất cả dường như quá đáng, không thể làm được... ý tôi muốn nói, với quá nhiều đau khổ trong thế giới, khả năng của con người trong việc tìm kiếm hạnh phúc chân thật đôi khi dường như quá xa xôi”.  
“Howard, bây giờ một việc là - chúng ta đã và đang nói về hạnh phúc con người trên mức độ xã hội. Và trên mức độ này những điều kiện bên ngoài có thể có một tác động nào đấy trên hạnh phúc của những ai đang sống trong xã hội ấy. Vì vậy, chúng ta cần hành động trên vấn đề vượt thắng nhiều vấn nạn trong xã hội ngày nay. Chúng ta cần thực hiện một nổ lực để thay đổi mọi thứ trong bất cứ cung cách nào chúng ta có thể, ngay cả những phương thức nho nhỏ, vì thế những điều kiện xã hội được tạo nên có thể thúc đẩy những hạnh phúc rộng lớn hơn cho tất cả những thành viên trong xã hội ấy. Điều đó là quan trọng. Đấy là trách nhiệm của chúng ta, nhưng khi chúng ta nói về việc thúc đẩy hạnh phúc của nhân loại, chúng ta cần phát biểu về điều này trên hai mức độ: Nội tại và ngoại tại. Vì thế, chúng ta cần hành động đối với việc giải quyết những rắc rối ngoại tại, nhưng cùng lúc ấy, chúng ta cần tìm một phương cách để đương đầu một cách nội tại, trên mức độ cá nhân, do vậy chúng ta có thể duy trì hạnh phúc cá nhân trong sự giáp mặt với những vấn nạn thế giới.”
“Do vậy, tại điểm này, tôi muốn chuyển sang mức độ cá nhân, và khám phá những phương cách để tìm ra hạnh phúc mặc cho những rắc rối của thế giới,” tôi nói.
“Tốt lắm,” ngài trả lời.
“Nhưng ngài biết không,” tôi thở dài, “với quá nhiều rắc rối trong thế giới ngày nay, quá nhiều căng thẳng và khó khăn trong cuộc sống hàng ngày, đôi khi dường như cung cách tốt nhất để đối phó với nó tất cả sẽ chỉ là phớt lờ mọi thứ diễn biến chung quanh ta, hay trở thành một nhà ẩn dật hay điều gì đấy. Nhưng điều đó không thể là giải pháp.”
“Vâng, thế giới thật sự có nhiều rắc rối,” đức Đạt Lai Lạt Ma đồng ý. “Nhưng chúng ta không cần phải rút lui khỏi thế giới để tìm hạnh phúc.” Ngài dừng lại một lúc để với tới chiếc tách trà trên bàn, rồi tiếp tục. “Ông biết không, câu hỏi này thật sự nhắc tôi một chút về lần tôi ở Đức Quốc khi người phỏng vấn hỏi rằng tôi có nghĩ là căng thẳng ấy là một đặc trưng nhận thức của thế giới ngày nay, của xã hội hiện đại không.”
“Ngài đã nói gì với ông ấy?”
“Tôi nói với ông ta là không! Trong thực tế, nếu điều đó đúng, thế thì tất cả chúng ta đều nghĩ về một nơi không có TV, không có giao tiếp, không có bất cứ một tiện nghi hiện đại nào, và không có thực phẩm tốt lành [cho thân thể và tinh thần] như vậy!” Đức Đạt Lai Lạt Ma đáp lại. “Đối với tôi,” ngài tiếp tục, “bất cứ một nơi nào như vậy có thể là, tôi không nghĩ rằng chỗ ấy nhất thiết là một chốn sung sướng, không căng thẳng để sống! Vì thế, những tình trạng như căng thẳng và băn khoăn là những thể trạng nội tại, trái lại những điều kiện của xã hội chúng ta là ngoại tại - chúng không tạo nên sự căng thẳng của chúng ta một cách trực tiếp. Căng thẳng và những tình trạng tinh thần tiêu cực này phải hoạt động với đáp ứng của chúng ta đến những điều kiện đó, và cho thấy một sự thiếu vắng năng lực nào đó để đương đầu với môi trường của chúng ta.
“Vậy nên, nếu ông phản chiếu, ông sẽ thấy rằng nhiều đau khổ của chúng ta trong đời sống được làm ra không phải bởi những nguyên nhân ngoại tại mà bởi những sự kiện nội tại chẳng hạn như việc sinh khởi của những cảm xúc phiền não. Và phương pháp đối trị tốt nhất cho tình trạng xâu xé nội tại này là việc nâng cao khả năng của chúng ta để xử trí với những cảm xúc này, và nghiên cứu việc đương đầu với môi trường, những tình thế tiêu cực v.v... như thế nào.”
“Chỉ để làm cho sáng tỏ,” tôi hỏi, “khi ngài liên hệ đến việc ‘xử trí những cảm xúc này’, ngài đang liên hệ đến việc nghiên cứu việc chỉnh đốn những cảm xúc của chúng ta như thế nào, hay một cách chính xác hơn, làm việc trong vấn đề vượt thắng những cảm xúc tiêu cực chẳng hạn như giận tức, thù hận, tham lam, ganh tỵ, ngã lòng v.v... như thế nào? Nói cách khác, ngài có liên hệ đến tiến trình rèn luyện tâm thức không?”
“Vâng,” ngài khẳng định. “Trong quá khứ, ông và tôi đã từng nói về việc rèn luyện tâm thức, hay những gì đôi khi tôi gọi là nguyên lý nội tại, như một phương pháp của việc trau dồi hạnh phúc lớn hơn, vì thế tôi nghĩ...”
Hy vọng ngài không thảo luận qua loa chủ đề này bởi vì chúng tôi đã nói về điều này trong quá khứ, tôi cắt ngang một cách nhanh nhẩu. “Vâng, chúng ta đã nói về điều này, nhưng tôi nghĩ đây là một chỗ tuyệt vời để bắt đầu hôm nay! Bởi vì trong một đợt gặp gỡ ở Dharamsala lúc trước, chúng ta đã thảo luận về những hành động xấu ác và bạo động, và chúng ta đa truy tầm nguyên nhân của điều này đến gốc rễ của nó là những cảm xúc tiêu cực, tàn phá. À, trong những thảo luận này chúng ta đã dành một thời gian nào đấy trên một cảm xúc tiêu cực đặc thù là sợ hãi, nhưng chúng ta đã không đi vào thảo luận sâu hơn về việc đối phó với những thứ khác, hay những cảm xúc tiêu cực phổ quát. Tôi muốn trở lại chủ đề ấy, vì thế hôm nay sẽ thật tuyệt để ôn lại sơ qua về những chủ đề quan trọng,” tôi bàn thế. “Và bên cạnh ấy, trong quá khứ chúng ta đã thảo luận điều này chỉ trong phạm vi của việc phát triển cá nhân, bây giờ chúng ta cũng đang bàn thảo những vấn đề này nhưng trong một phạm vi khác biệt, trong một khung cảnh hay nhận thức những nhân tố xã hội rộng hơn.”
Với một nụ cười tế nhị trên khuôn mặt, một nụ cười mỉm chủ yếu với đôi mắt ngài, tôi nghĩ có thể bởi vì ngài hài lòng với nhiệt tình bám theo chủ đề của tôi, ngài đồng ý với thỉnh cầu của tôi, và nói, “Okay. Để ôn lại, thế thì, sự rèn luyện tâm thức này liên hệ đến việc trau dồi những thể trạng tích cực của tâm và vượt thắng những tình trạng tiêu cực của tâm thức, những cảm xúc tàn phá, hay những gì được biết như các cảm xúc phiền não. Khi chúng ta thảo luận trong quá khứ, theo giáo thuyết nhà Phật, những thể trạng tích cực tinh thần là những thứ đưa đến hạnh phúc lớn hơn. Những cảm xúc tiêu cực hay tàn phá tạo nên sự quấy nhiễu trong tâm thức chúng ta, phá hoại niềm hạnh phúc tinh thần của chúng ta. Những cảm xúc phiền não này làm cho khổ đau hơn. Theo quan điểm Phật giáo, chúng ta xem những phẩm chất tinh thần tích cực này là những phương thuốc đối trị đến các tình trạng phiền não hay tàn phá tinh thần - khi chúng ta tăng cường cảm xúc tích cực, sẽ có một sự giảm thiểu tương ứng trong sự ảnh hưởng và năng lực của cảm xúc tiêu cực. Vì vậy, trong sự thực hành Phật giáo, có những nhân tố tinh thần tích cực nào đó hoạt động như những phương thức đối trị đến những cảm xúc tiêu cực hay tàn phá tương ứng - thí dụ, kiên nhẫn và bao dung hoạt động như một loại thuốc đối trị đến giận tức, từ ái và bi mẫn như một loại đối trị đến thù hận, và những nhân tố chẳng hạn như toại nguyện và giản dị hoạt động như phương thức đối trị đến thèm khát và tham muốn v.v...
“Ô, một thứ khác nữa,” ngài thêm sau khi ngắt giọng; “ở đây chúng ta đang nói về những nguyên tắc nội tại. Nhưng như tôi thường đề cập, nguyên tắc nội tại này cần được liên kết với nguyên tắc đạo đức, hành động như một cung cách phẩm hạnh. Khi chúng ta giảm thiểu những cảm xúc tàn phá, chúng ta cũng cần hành động trên việc vượt thắng những thái độ tàn phá tùy tùng của chúng, là những thứ cũng có thể đưa đến những thứ khốn khó và khổ đau. Do vậy, khi chúng ta phát triển những phẩm chất tinh thần tích cực này, những thay đổi nội tại cần được biến thành thái độ của chúng ta, trong việc tương tác với người khác như thế nào. Điều đấy là quan trọng.”
Có lẽ một ngày nào đấy thế giới sẽ tiếp nhận những nguyên tắc bất bạo động một cách rộng rãi, khi sự ngu ngơ về thành kiến và tàn nhẫn của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc sẽ là một vấn đề phổ biến của quá khứ, khi nghèo khó và đói kém đã được loại trừ, những quyền căn bản của con người được ban cho tất cả, và những điều kiện xã hội thúc đẩy hạnh phúc được rộ nở. Có lẽ một ngày nào đấy. Khi nào là ngày ấy thì không chắc chắn. Nhưng một điều chắc chắn là sự thay đổi xã hội cần có thời gian. Chúng tôi đã chia tay với câu hỏi đương đầu với những vấn nạn của thế giới chúng ta như thế nào mà vẫn duy trì được niềm vui. Chúng tôi đã trở lại với trình độ của cá nhân, khám phá sự tiếp cận nội tại đến hạnh phúc như chúng tôi đã hoàn thành ở đây tại Tucson nhiều năm về trước đó. Nhưng hiện tại, chúng tôi nói về những vấn đề này trong một phạm vi xã hội rộng hơn. Và bây giờ, nghiên cứu khoa học đã nói về giá trị sự tiếp cận của đức Đạt Lai Lạt Ma đến hạnh phúc, tính hiển nhiên đã thiếu vắng vào thời gian những cuộc đàm luận đầu tiên của chúng tôi.
Khi tôi lắng nghe ngài bắt đầu phác thảo sự tiếp cận của ngài với nghịch cảnh của đời sống và vẫn duy trì hạnh phúc, tôi đã ngạc nhiên bởi những sự tương đương với chính các khám phá mới mẻ nhất của khoa học. Trong những năm ở giữa từ khi phát hành quyển Nghệ Thuật Hạnh Phúc, tôi đã theo dõi sát những phát triển mới trong nghiên cứu khoa học về hạnh phúc và những cảm xúc tích cực, và bây giờ tôi bắt đầu thấy một số khám phá khoa học then chốt phục vụ để tỏa ra ánh sáng mới trên sự tiếp cận của đức Đạt Lai Lạt Ma, là điều dĩ nhiên được căn cứ trên những nguyên lý và các sự thực tập Phật pháp cổ truyền.
Trong thảo luận về việc những cảm xúc tích cực hoạt động như những loại thuốc giải độc hay phương pháp đối trị đến những cảm xúc tiêu cực như thế nào, đức Đạt Lai Lạt Ma đang ôn lại một số nguyên tắc tiếp cận nền tảng của đạo Phật đến hạnh phúc. Sự tiếp cận này căn cứ trên ý tưởng rằng một khi chạm trán với sự sống còn cơ bản của chúng ta, hạnh phúc được quyết định nhiều bởi thể trạng của tâm thức chúng ta hơn là do những hoàn cảnh, điều kiện, hay sự kiện ngoại tại. Xa hơn nữa, theo quan điểm đạo Phật, chúng ta có thể trau dồi hạnh phúc một cách thận trọng bằng việc rèn luyện tâm thức chúng ta, bằng việc tái cấu trúc quan điểm và thái độ của chúng ta. Từ nhận thức này, chúng ta có thể trau dồi hạnh phúc rất giống việc phát triển bất cứ một kỹ năng nào khác, qua việc rèn luyện và thực tập.
Thực tập việc rèn luyện tâm thức bắt đầu với việc làm quen chính mình với tất cả những loại thể trạng tinh thần hay cảm xúc khác nhau mà chúng ta có thể trải nghiệm trong đời sống hàng ngày của chúng ta, rồi thì phân loại chúng như tích cực hay tiêu cực tùy theo việc hoặc là chúng đưa đẩy rốt ráo đến hạnh phúc lớn hơn hay khổ đau lớn hơn. Vì vậy, những cảm xúc như từ ái bi mẫn, tử tế ân cần, kiên trì nhẫn nại, tha thứ bao dung, hy vọng, v.v... được nhận ra như những cảm xúc tích cực. Những cảm xúc này không chỉ liên kết với hạnh phúc lớn hơn theo quan điểm Phật giáo mà cũng có hàng trăm nghiên cứu khoa học trong những năm gần đây cho thấy rằng những cảm xúc tích cực có những ảnh hưởng lợi ích trên sức khỏe thân thể, sức khỏe tinh thần, những mối quan hệ, và toàn bộ thành công trong đời sống, kể cả thành công nghề nghiêp và thịnh vượng tài chính.
Dĩ nhiên, cũng có nhiều cảm xúc và thể trạng tinh thần có thể dẫn đến khổ đau, đối nghịch, thù hận lớn hơn, cực kỳ băn khoăn, ghen tỵ, tham lam, bất lương, thành kiến, v.v... Những thứ này gọi là các cảm xúc tiêu cực, mặc dù trong những cuộc thảo luận, chúng tôi thỉnh thoảng sử dụng những tên gọi khác xen kẽ nhau - chẳng hạn như cảm xúc tàn phá, cảm xúc quấy rầy, hay klesha trong Sanskrit, đôi khi được chuyển dịch là “cảm xúc phiền não” hay “vọng tưởng”. Trong khi những thuật ngữ “cảm xúc tích cực” và “cảm xúc tiêu cực” được sử dụng một cách phổ biến, những dạng thức này không giới hạn đến những gì chúng ta định nghĩa một cách quy ước như những cảm xúc thật sự - thí dụ, trung thực lương thiện, tha thứ bao dung, kiên trì nhẫn nại hay khiêm tốn được bao gồm trong những cảm xúc tích cực, trong khi bất lương hay thiếu tự giác có thể được thấy như những cảm xúc tiêu cực. Nhưng bất cứ thuật ngữ nào chúng ta lựa chọn để sử dụng, nguyên tắc then chốt Phật giáo ở đây là cảm xúc tiêu cực và phương thức đối trị của nó là không tương hợp với nhau một cách nền tảng, và chúng ta không thể trải nghiệm cả hai trong cùng chính một thời điểm - cảm xúc tích cực hoạt động để xua tan cảm xúc tiêu cực, giống như việc chuyển sang ánh sáng sẽ xua tan bóng tối. Do vậy, giống như chúng ta trau dồi dần dần cảm xúc tích cực, tăng cường năng lực của nó, sẽ có một sự giảm thiểu tương ứng cảm xúc tiêu cực, cũng như hòa nước lạnh vào trong nước nóng - khi chúng ta đổ nước lạnh nhiều hơn, sẽ có một sự sụt giảm tương hợp trong nhiệt độ của nước.
Trong thập niên qua, chứng cứ nghiên cứu khoa học mới nổi bật lên để chứng tỏ giá trị của nguyên tắc Phật giáo này trong một số cung cách đáng ngạc nhiên. Thí dụ, trong một thí nghiệm có ảnh hưởng sâu xa được điều khiển bởi Tiến sĩ Barbara Fredrickson, một trong nhà nghiên cứu hàng đầu của thế giới về những cảm xúc tích cực, cùng với những đồng nghiệp tại Đại Học Đường Michigan, băn khoăn và căng thẳng được gây ra trong một nhóm đối tượng bằng việc nói với họ rằng họ chỉ có vài phút để chuẩn bị một phát biểu sẽ được quan sát bởi những đồng bạn và được đánh giá. Như người ta có thể phỏng đoán, những mức độ của sợ hãi và băn khoăn lập tức bừng dậy cùng với phản ứng căng thẳng thân thể, kể cả nhịp tim đập gia tăng, áp huyết cao lên, sự co thắt mạch máu ngoại biên, cơ bắp căng lên v.v... Sau khi kích thích những phản ứng căng thẳng này, các đối tượng được cho hay rằng buổi nói chuyện được đình lại và họ không cần phải làm điều này. Ôi chao! Rồi thì những nhà nghiên cứu chia đối tượng thành bốn nhóm, gây ra một cảm xúc khác trong mỗi nhóm bằng việc cho họ xem những đoạn phim được biết để:
1- Gợi lên sự vui thích (một cảm xúc tích cực đánh thức nhanh mạnh).
2- Toại nguyện và trầm tĩnh (một cảm xúc tích cực đánh thức chậm yếu).
3- Buồn rầu (một cảm xúc tiêu cực).
4- Nhóm kiềm chế thần kinh (việc gợi lại cảm xúc không thay đổi).
Những nhà khảo sát đã thấy rằng các đối tượng cảm nhận những cảm xúc tích cực hồi phục nhanh chóng hơn nhiều đối với những ảnh hưởng của băn khoăn của nhóm kiềm chế. Những nhà khảo sát đã khám phá ra rằng nhịp đập của tim và áp huyết của những đối tượng với các cảm xúc tích cực trở lại bình thường nhanh chóng hơn nhiều so với nhóm kiềm chế, trong khi nhóm “buồn rầu” cần nhiều thời gian hơn để hồi phục so với những nhóm kiểm soát bình thường - sự chỉ đạo của Fredrickson đề xuất một lý thuyết mới về chức năng của những cảm xúc tích cực. Gọi lý thuyết của bà là Giả Thuyết Cởi Mở, bà đề xuất ý kiến rằng những cảm xúc tích cực phục vụ để “cởi mở” hay làm mất tác dụng các ảnh hưởng tinh thần và thân thể của những cảm xúc tiêu cực: Nói cách khác, ý kiến là những cảm xúc tích cực hoạt động như những loại đối trị đối với những cảm xúc tiêu cực!
Điều này có quan hệ mật thiết với sự tin tưởng của đức Đạt Lai Lạt Ma, phát biểu đến phóng viên phỏng vấn người Đức mà ngài đã đề cập, rằng không phải xã hội hiện đại tạo nên căng thẳng một cách tự động. Dĩ nhiên, không có thắc mắc rằng tình trạng phổ quát của thế giới và những điều kiện của xã hội hiện đại có thể gây ra căng thẳng một cách cao độ. Một sự thật được nhìn nhận một cách rộng rãi trong những nhà khoa học là theo quan điểm tiến hóa, thân thể và não bộ con người được thiết kế cho kỷ nguyên Canh Tân(5), không phải cho xã hội công nghiệp và kỹ thuật hiện đại. Chúng ta đã tiến hóa trong những nhóm nhỏ trên những đồng cỏ(6) rộng lớn, không phải trong những thủ phủ vươn dài khổng lồ, với những con người chồng chất lớp này lên lớp khác trên đỉnh của nhau trong những tòa nhà vươn cao nhô lên hàng trăm thước trong không khí. Thân thể và não bộ chúng ta không phải được cấu tạo để dự vào hệ thống giao thông tắt nghẽn bởi sự chằng chịt của các con đường với những ngã ba, ngã tư..., kèn kêu inh ỏi chung quanh chúng ta, phải hội họp không ngừng nghỉ cả ngày, làm những bài báo cáo trong giờ phút chót, bị tấn công dồn dập với các loại kích thích giác quan liên tục từ phim ảnh và trò giải trí, e-mail tới tấp không có thời gian để trả lời, cũng như máy truyền hình và truyền thanh báo tin hàng giờ về đủ loại thảm họa do thiên nhiên và con người gây ra. Ngay cả mười phút xem tin tức có thể làm cho mức độ căng thẳng chúng ta cất cánh. Và những nghiên cứu đã cho thấy rằng ngay cả tiếng ồn ô nhiễm chung quanh chúng ta, chúng ta phân ly với môi trường và thậm chí không chú ý đến, những nơi chốn đòi hỏi trên hệ thống thần kinh của chúng ta mà chúng ta đã không được xây dựng cho sự thích ứng.
Kết quả của tất cả điều này thường là một sự kích thích kinh niên mức độ thấp trong sự đáp ứng căng thẳng của chúng ta, bơm ra những kích thích tố căng thẳng trong những cách mà thân thể chúng ta được cấu trúc. Những kích thích tố căng thẳng này được cấu thành để thực hiện một hành động nhanh, dứt khoát trong một khuynh hướng bùng lên cố gắng và rồi trở lại bình thường; chúng được cấu tạo để đối phó với những thú săn mồi và những kẻ gây hấn nguy hiểm, không phải để lo lắng hàng tháng về một số thi cử, căng thẳng tài chính, hay mất việc. Hệ thống đáp ứng căng thẳng của chúng ta được thiết kế cho những chiến trận chớp nhoáng với một con cọp răng bén nhọn, không phải cho một cuộc chiến dai dẳng trong một phiên tòa ly dị. Những gì thuận tiện cho thân thể chúng ta trong một biến động ngắn hạn có thể rất tai hại đối với những tai họa dài hạn. Hành động dài hạn của hệ thống đáp ứng căng thẳng hay phơi bày kinh niên đến những kích thích tố căng thẳng có thể thay đổi sự hoạt động và cấu trúc của những tế bào não quan trọng cho trí nhớ, cũng như tạo nên vô số rắc rối sức khỏe. Rồi thì, thêm vào loại căng thẳng kinh niên quá khứ này của đời sống hiện đại, chúng ta cũng chiến đấu với những tình cảnh bất lợi làm chúng ta xáo trộn, gợi lên các cảm xúc tiêu cực chẳng hạn như giận tức hay băn khoăn, phối hợp với những cao điểm ác liệt trong đáp ứng căng thẳng, phản ứng đánh - hay - chạy.
May mắn thay, như đức Đạt Lai Lạt Ma đề nghị, có một cách để vượt thắng những phản ứng căng thẳng kinh niên và gay gắt - và như cuộc thí nghiệm của Fredrickson cho thấy những cảm xúc tích cực có thể hoạt động như phương thuốc đối trị, đảo ngược lại những ảnh hưởng tiêu cực của đáp ứng căng thẳng. Dĩ nhiên, điều này đưa chúng ta đến một vấn đề nền tảng, vấn đề then chốt: Chúng ta có thể nghiên cứu các cảm xúc của chúng ta, đặt chúng ở dưới sự kiểm soát một cách chủ động hay không? Và ở đây chúng ta đang nói về một phương pháp của việc sản sinh sự gia tăng bền bỉ trong những cảm xúc tích cực, chứ không chỉ là một kinh nghiệm ngắn ngủi nhất thời của cảm xúc tích cực từ việc xem các đoạn phim.
Khi cuộc đàm luận của chúng tôi tiếp tục, đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ đi tới trả lời câu hỏi này.
Tiếp tục cuộc đàm luận của chúng tôi về trau dồi hạnh phúc bằng việc rèn luyện tâm thức, đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích, “Một vấn đề khác - trong việc bổ sung cho những phương thức đối trị đặc thù đối với những cảm xúc tiêu cực, cũng có một phương thuốc tổng quát. Như ông biết trong truyền thống Phật giáo, chúng tôi xem tất cả những cảm xúc phiền não có gốc rễ trong vô minh si ám - nhận thức sai lầm về tính bản nhiên chân thật của thực tại. Do thế, phương thức đối trị đến vô minh si ám, được biết như nhân tố Tuệ Trí, hay sự phát sinh tuệ giác nội quán vào trong tính bản nhiên chân thật của thực tại, có thể được thấy như một phương thức đối trị phổ quát có thể loại trừ tất cả những cảm xúc tiêu cực ngay gốc rể của chúng.
“Cũng thế,” ngài thêm, “đối với những cảm xúc tích cực và tiêu cực này, theo quan điểm của đạo Phật, chúng tôi nói rằng những cảm xúc tích cực có một nền tảng vững chắc, căn cứ trên thực tại, trong khi các cảm xúc tiêu cực thiếu một cơ bản vững vàng và tổng quát là căn cứ trên nhận thưc sai lầm, bóp méo hay vọng tưởng điên đảo về thực tại. Thí dụ, từ bi đối với người khác căn cứ trên việc nhận ra rằng người kia, giống như chính mình, cũng muốn hạnh phúc và không muốn đau đớn cùng khổ sở. Đây là một quan điểm có căn cứ, một bộ phận của thực tại. Trái lại, với một cảm xúc như thù hận, chúng ta sẽ thấy rằng nó thường căn cứ trên nhận thức về cá nhân như một trăm phần trăm tiêu cực hay tệ hại, giống như là bản chất thường còn, không thay đổi của người ấy. Đó là một bóp méo về thực tại, vì nếu chúng ta khảo sát một cách sâu sát, mỗi người sẽ có một phẩm chất tích cực nào đấy, và người ta cũng sẽ có khả năng để thay đổi.”
Quen thuộc với những khái niệm này từ việc tham dự nhiều buổi nói chuyện công cộng của ngài cũng như những buổi đàm luận riêng tư, tôi gật đầu, rồi thì lái cuộc thảo luận trở lại những gì tôi xem như là các vấn đề thực tiễn hơn, tôi nói, “Ngay bây giờ, để qua một bên những thứ như nền tảng vững chắc hay gốc rễ cố hữu của tất cả những cảm xúc tiêu cực này, vấn đề chính ở đây là việc phát triển khả năng để đương đầu với môi trường, nghịch cảnh và những căng thẳng của đời sống hàng ngày và để tìm hạnh phúc. Vì vậy, nếu các cảm xúc tích cực là phương thức đối trị, thế thì câu hỏi hợp lý là trau dồi chúng như thế nào... và tôi phỏng đoán rằng, một cách căn bản, câu hỏi chính ở đây là chúng ta có thể nghiên cứu để đương đầu như thế nào với...”.  
Đoán trước phần còn lại của câu hỏi, đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục, “Vì vậy, tôi nghĩ đến một sự mở mang rộng rãi thái độ và nhận thức của con người đóng một vai trò quan trọng ở đây. Một điều chắc chắn là: Chúng ta nhìn thế giới quanh ta như thế nào, chúng ta nhìn người khác như thế nào, và chúng ta diễn dịch các hoàn cảnh của chúng ta và những sự kiện diễn tiến quanh ta chúng ta như thế nào, chắc chắn có thể ảnh hưởng đến việc chúng ta có thể đáp ứng đến môi trường của chúng ta, thế giới của chúng ta, và những rắc rối của chúng. Đây là quan điểm nền tảng của chúng ta. Và tôi nghĩ điều này liên hệ một cách trực tiếp đến khả năng của chúng ta trong việc đương đầu với những rắc rối và duy trì hạnh phúc. Thế nên, chúng ta cần đặt sự chú ý đến trình độ này và phát triển một quan điểm và các thái độ cho chúng ta sức mạnh và có thể giúp chúng ta đương đầu”.  
“Thưa Đức Thánh Thiện, tôi nghĩ rằng tôi cứ tiếp tục hỏi đi hỏi lại cùng một vấn đề “ - Tôi cười - nhưng tôi đang tự hỏi ngài có thể đề xuất một vài phương pháp đặc thù hay cụ thể giúp chúng ta đương đầu. Thí dụ, con người tiếp cận việc phát triển một quan điểm chính xác như thế nào mà có thể cho chúng ta sức mạnh?”

Đức Đạt Lai Lạt Ma cười. “Và tôi cứ tiếp tục nói đi nói lại, giải pháp là, ‘Hãy thực tế!’ ‘Sự thực tế này... tôi đoán dường giống như một chân ngôn đối với tôi,’...tiếp cận thực tế... tiếp cận thực tế... ‘khi đương đầu với rắc rối. Thí dụ, trong việc đấu tranh cho sự tự do của Tây Tạng, như ông biết, tôi luôn luôn chủ trương một sự tiếp cận thực tế là điều liên hệ đến việc từ bỏ đòi hỏi cho một nền độc lập hoàn toàn, và thay vì thế tìm kiếm một sự tự trị chân thành. Một số người chỉ trích, những người khăng khăng cho một sự độc lập toàn vẹn được biết đã từng tuyên bố rằng họ thấy cách nói của tôi, ‘sự tiếp cận thực tiễn,’ là nguồn gốc của sự bực bội!".  
“Vì vậy, thế nào đi nữa, tôi nghĩ nền tảng tiềm tàng cho những loại thái độ và quan điểm hỗ trợ nhất cho việc đương đầu là suy nghĩ thực tiễn, một sự tiếp cận thực tiễn. Điều này liên hệ đến việc khảo sát và tăng cường tỉnh thức về hiện thực của những hoàn cảnh chung quanh chúng ta.” Mặc dù chúng tôi đã thảo luận vấn đề quan trọng về suy nghĩ thực tế này trong những phạm vi khác nhau trong quá khứ (lần cuối cùng trong phạm vi của những cảm xúc tàn phá), buổi sáng này một ý nghĩ khác nảy lên với tôi, một sự phản đối mà tôi cảm thấy một số người có thể phát sinh trong việc đáp ứng đến lập trường của ngài.
“À, tôi không chắc mọi người sẽ đồng ý với điều đó,” tôi phản đối, “tôi nghĩ rằng một số người có thể phàn nàn rằng nếu chúng ta càng trở nên tỉnh thức về những vấn nạn này trên thế giới, chúng ta càng trở nên thực tế với suy nghĩ của chúng ta, chúng ta càng khảo sát và nhìn vào các sự việc, càng có thể đúng hơn là việc khám phá thấy đủ loại rắc rối mà chúng ta đã không tỉnh thức đến. Chúng ta có thể khám phá ra rằng xã hội chúng ta đem đến nhiều vấn nạn hơn giải pháp v.v... Tôi không chắc rằng điều đó có làm cho chúng ta hạnh phúc hơn, toại nguyện hơn, hay đúng hơn là làm cho chúng ta cảm thấy bị tràn ngập hơn, bị căng thẳng và làm thất vọng hơn. Tôi muốn nói là nếu tôi quan tâm về những vấn đề của vũ khí nguyên tử và khảo sát và thấy ra ‘thực tế’ rằng vẫn có những hầm chứa hỏa tiễn ở khắp chung quanh những khu vực chúng ta ở, điều đó sẽ không làm cho tôi ngủ ngon giấc hơn trong đêm chút nào. (Hay, nếu tôi trở nên ‘tỉnh thức’ hơn về ‘thực tế’ của sự hâm nóng địa cầu hay điều gì đó, thì rõ ràng sẽ làm tôi càng chán nản hơn là làm tôi vui mừng hơn.)  
“Này nhé, nó là một vấn đề của nhận thức,” ngài nói, “và tiếp nhận một nhận thức thích đáng - bởi vì một khám phá như vậy cũng có thể có tác động gia tăng ý thức cấp bách của chúng ta về vấn nạn, và kích thích để đưa chúng ta tham gia vào một nhóm hay trở nên năng động một cách chính trị hơn hay thực hiện một hành động nào đó để cố gắng làm việc gì đó về vấn đề".
“Bằng việc giới thiệu sự tiếp cận này về suy nghĩ thực tế, về việc gia tăng sự tỉnh thức của chúng ta và đến gần hơn với thực tế, rất là quan trọng để thấu hiểu những gì muốn nói bằng ‘quan điểm thực tế.' Thí dụ, tôi không đề nghị chúng ta chỉ nhìn vào những rắc rối của thế giới, hay thực tế chỉ trên những khía cạnh tiêu cực của hoàn cảnh. Những thứ đó chỉ là một bộ phận của thực tế. Một sự tiếp cận thực tế thật sự nhìn vào tất cả mọi quan điểm và mọi khía cạnh của bất cứ hoàn cảnh nào - và điều này sẽ bao gồm cả tốt và xấu, không chỉ xấu. Đời sống luôn luôn gồm có những vấn nạn, nhưng cũng là những thời điểm của tốt đẹp. Vì vậy, tôi nghĩ nền tảng cơ bản cho việc phát triển quan điểm hay thái độ thực tế này là để thấy từ một viễn tượng rộng rãi hơn. Nếu chúng ta phân tích, khảo sát, chúng ta sẽ thấy rằng có nhiều phương cách để nhìn vào một rắc rối. Thí dụ, thay vì chỉ nhìn vào những hoàn cảnh tức thời, đôi khi có thể rất hữu ích để thực hiện một cách nhìn vào vấn đề trong chiều dài của thời gian."  
“Do thế, nói một cách tổng quát, ở đây chúng ta đang nói về một quan điểm cân bằng hơn, một nhận thức hoàn toàn hơn. Đây là một cái nhìn thực tế hơn. Nó liên hệ việc phát triển một loại suy nghĩ uyển chuyển có thể thấy một tình thế từ nhiều góc cạnh. Tôi nghĩ trong quá khứ chúng ta đã thảo luận việc các cảm xúc tiêu cực có khuynh hướng bóp méo thực tại và làm hạn hẹp quan điểm của chúng ta. Vì vậy, trong việc vượt thắng những cảm xúc tiêu cực, chúng ta cần chống lại điều ấy bằng việc tiếp nhận một quan điểm rộng rãi hơn và thánh thiện hơn.”
“Thưa Đức Thánh Thiện, ngài đang nói rằng có những phương thức khác nhau để thấy mọi thứ một cách thực tế, từ một viễn tượng rộng rãi hơn, và rằng điều này có thể vượt thắng những cảm xúc tiêu cực và giúp chúng ta đương đầu với những vấn nạn của đời sống.”
“Đúng đấy.”
“Thế thì, ngài có thể diễn tả một trong những phương cách này, và giải thích vấn đề nó có thể giúp chúng ta đương đầu như thế nào?”
Đức Đạt Lai Lạt Ma im lặng trong một vài giây, rồi nói, “Tôi nghĩ chúng ta có thể bắt đầu với chính thái độ của chúng ta về những vấn nạn và khổ đau trong tổng quát... Tôi nghĩ rằng nếu chúng ta có một thái độ thực tiễn và thấu hiểu rằng các vấn nạn bị ràng buộc để sinh khởi trong một hình thức này hay một hình thức khác, nó là thực tế giản dị của đời sống, chúng ta sẽ đương đầu có hiệu quả hơn với các rắc rối khi chúng sinh khởi.”
“Điều này giúp chúng ta đối phó một cách hiệu quả như thế nào với những rắc rối hơn là làm chúng ta ngã lòng?” tôi hỏi.
“Thí dụ, với thái độ này chúng ta sẽ không bị ngạc nhiên khi rắc rối nổi lên - chúng ta sẽ có thể đối diện tốt hơn với những vấn nạn của chúng ta một cách trực tiếp, với ít sợ hãi hơn, ít xu hướng lẫn tránh hay giả vờ rằng chúng không hiện hữu ở đấy. Chúng ta sẽ có thể đặt năng lượng của chúng ta vào trong việc cố gắng để sản sinh một giải pháp, hơn là tiêu phí năng lượng bằng việc cảm thấy nó là bất công, trở nên giận tức và bối rối rằng chúng ta có trải nghiệm này, hay tìm kiếm một cá nhân hay tổ chức nào đó để đặt sự phiền trách và rồi hướng toàn bộ sự giận tức của chúng ta đến ‘nguồn gốc’ đó của tất cả những rắc rối của chúng ta.
“Dĩ nhiên, có một thái độ thích đáng về khổ đau chỉ là một thứ. Chúng ta cũng cần tìm kiếm những phương cách khác để thấy mọi việc từ một viễn tượng rộng rãi hơn, khảo sát những cách tiếp cận khác nhau trong việc nhận thức những vấn nạn của chúng ta từ những góc cạnh khác nhau, khám phá một triển vọng có thể giúp chúng ta đương đầu khi rắc rối sinh khởi, nhưng là một quang cảnh căn cứ trên thực tế.”
Một sáng nọ, hai người đàn ông đang trên xe đến một cuộc hội họp thương vụ rất quan trọng, và họ thật sự đang đến trễ. Trên đường đến cuộc họp họ bị xì bánh xe. Không cần phải nói, người đi cùng rất khó chịu về điều này, nhưng ông ta để ý thấy rằng người tài xế hoàn toàn trầm tĩnh và không bị quấy nhiễu bởi tình thế, và ngay lập tức chuẩn bị thay bánh xe. Khi họ đang thay bánh xe, người đi cùng đã trở nên càng lúc càng bối rối hơn theo từng phút, nhưng tài xế vẫn tiếp tục làm việc, vẫn hoàn toàn không náo động. Thế rồi cuối cùng người đi cùng không thể dằn được và hỏi, “Chúng ta sẽ đến rất trễ, làm sao mà anh có thể quá điềm tĩnh như thế này? Và một cách gần như phấn khích, tài xế trả lời, “Đây là số ba!” Không hài lòng dĩ nhiên, người đi cùng yêu cầu tài xế trả lời, và ông nói, “Nhiều năm trước đây, khi tôi lần đầu tiên lái xe, tôi đã đọc một thống kê về số trung bình của bánh xe bể mà những người có xe sẽ có trong những năm lái xe của họ. Vì thế, ngay sau đó tôi liền quyết định tiên đoán sự góp phần hợp lý của tôi với những bánh xe bể, là điều mà qua đó vẫn chưa đạt đến mức trung bình, và cùng lúc ấy tôi nhận ra rằng bất kể khi nào hay nơi nào mà tôi bị xì bánh xe, tôi có thể chắc rằng khi nó xảy ra nó sẽ không bao giờ thuận lợi. Tôi hình dung rằng điều ấy chỉ là một phần của cái giá thông thường của tiện nghi lái xe, như chi tiền cho xăng hay nhớt. Thế nên, đây chỉ là một trong những góp phần hợp lý của tôi đối với những bánh xe xì, thế thôi.”
Ai đó đã kể cho tôi nghe câu chuyện này lâu lắm rồi, và mặc dù trong khi nguồn gốc chính xác của câu chuyện đã dần dần phai mờ trong trí nhớ của tôi, nhưng câu chuyện đã chiếm một chỗ trong ký ức tôi, gợi lên trong tâm thức tôi hết lần này đến lần khác, khi tôi bắt đầu cảm thấy rằng dường như những sự kiện hàng ngày chung sức chống lại tôi. Câu chuyện này soi sáng những nguyên tắc được đức Đạt Lai Lạt Ma bàn đến sáng ngày hôm ấy, cho thấy việc chấp nhận những rắc rối như một thực tế tự nhiên trong sự hiện hữu của con người có thể giúp để giảm thiểu những bối rối và cảm xúc tiêu cực không cần thiết ra sao. Nó cũng làm sáng tỏ nguyên tắc tổng quát hơn, cho thấy một “triển vọng” như thế nào, căn cứ trên việc nhìn vào rắc rối từ một nhận thức rộng rãi hơn, có thể giúp chúng ta đương đầu với những rắc rối.
Từng bước một, đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục khai mở một sự tiếp cận đầy năng lực để tìm kiếm hạnh phúc trong thế giới phiền toái của chúng ta, một sự tiếp cận để đương đầu với những rắc rồi hàng ngày mà không bị tràn ngập với thất vọng, làm mất hết can đảm, hay sợ hãi. Đề cập vấn đề từ viễn tượng của đạo Phật, những cảm xúc tích cực có thể hoạt động như một phương thuốc đối trị như thế nào để những tình trạng tiêu cực của tâm thức, bây giờ ngài tiếp tục để xác định một công thức cho mọi mục tiêu, một phương thuốc phổ quát mà có thể loại trừ hoàn toàn tất cả mọi cảm xúc tiêu cực bằng việc chiến thắng nguyên nhân gốc rễ của chúng, căn bản vô minh ám tối của chúng ta. “Vô minh(7)” trong phạm vi này không chỉ có nghĩa như một sự thiếu thốn thông tin hay kiến thức. Ở đây thuật ngữ này liên hệ đến một sự thiếu thốn căn bản của sự tỉnh thức về nền tảng chân thật tự nhiên của thực tại, là điều được biết như Tính Không. Nó ngụ ý năng động hơn là một loại nhận thức sai lầm hay không hiểu về thực tại, một khoảng cách giữa việc sự vật xuất hiện như thế nào và chúng thật sự tồn tại như thế nào. Theo giáo thuyết nhà Phật, nhận thức trực tiếp của bản chất tối hậu của thực tại, “Thực Chứng Tính Không”, tịnh hóa tâm thức khỏi tất cả những khuynh hướng tiêu cực, và những kết quả của một thể trạng Giác Ngộ, mà trong ấy chúng ta tự do khỏi tất cả khổ đau, giải thoát khỏi chu trình Luân Hồi (Samsara), vòng xoay bất tận của sinh, chết, và tái sinh.
Đây là một quy tắc cao siêu: Theo kinh luận Phật giáo có thể cần đến vô số kiếp sống để đạt một thể trạng [giác ngộ] như vậy! Vì thế, câu hỏi rõ ràng là điều này liên hệ thế nào với chúng ta những ai không phải là hành giả Phật giáo, hay những ai không muốn đợi chờ hàng vô số kiếp sống cho hạnh phúc? Điều này áp dụng thế nào cho những ai trong chúng ta vật vã đương đầu với thế giới rắc rối này và tìm cầu một phương sách cho hạnh phúc và hòa bình?
Theo triết lý nhà Phật, có hai trình độ của thực tại, thực tại tối hậu (chân đế(8)) và thực tại quy ước (tục đế(9)). Thực tại bản nhiên tối hậu, như chúng tôi đã đề cập, liên hệ đến khái niệm của Tính Không, và nhận thức trực tiếp về Tính Không mang đến như một kết quả của những sự thân chứng tâm linh. Thực tại quy ước liên hệ đến đời sống hàng ngày, thực tế của những cảm giác thông thường, chấp nhận thực tế của mọi thứ biểu lộ là thật. Cùng cách ấy, chúng ta có thể liên hệ đến hai mức độ của hạnh phúc. Trong một trong những cuộc đàm luận mấy năm trước đây, đức Đạt Lai Lạt Ma một lần nọ đã liên hệ đến Giác Ngộ hay Giải Thoát như “hạnh phúc tối thượng”. Đó là hạnh phúc tối hậu. Mục tiêu của loạt sách Nghệ Thuật Hạnh Phúc thì khiêm nhường hơn, nhưng vẫn không phải luôn luôn dễ dàng: Việc đạt đến một niềm hạnh phúc lớn hơn hàng ngày và toại nguyện trong đời sống. Đây là hạnh phúc quy ước [hạnh phúc trong cuộc sống hàng ngày].
Với phần cuối cùng này chúng ta có thể trở lại ý tưởng được đức Đức Đạt Lai Lạt Ma phát biểu trong cuộc đàm luận của chúng tôi và bắt đầu đưa mọi thứ vào đúng vị trí của chúng. Như chúng ta đã thấy, phương pháp của đức Đạt Lai Lạt Ma để tìm hạnh phúc trong thế giới phiền toái của chúng ta là “sự tiếp cận thực tiển”, sự phát triển một “triển vọng thực tế”, là điều liên hệ “sự khám phá và tăng trưởng tỉnh thức về thực tế của tình thế chung quanh chúng ta.” Ở đây, ngài đang liên hệ đến thực tại quy ước. Nó là một loại phương pháp cho tất cả mọi mục tiêu đối phó với những rắc rối mỗi ngày, đương đầu với nghịch cảnh, trau dồi những cảm xúc tích cực, và vượt thắng những cảm xúc tiêu cực là nguyên nhân của quá nhiều khổ đau của chúng ta trong cuộc sống. Vì thế, chúng ta có thể thấy trực tiếp những sự tương đương trên hai trình độ của thực tại: Tỉnh thức về tính bản nhiên tối hậu của thực tại Tính Không đưa đến “hạnh phúc tối thượng”, và sự tỉnh thức hơn về thực tại quy ước của cuộc sống hàng ngày đưa đến hạnh phúc quy ước [của thế gian]. Cả hai có thể được thấy như những phương thuốc đối trị cho các cảm xúc phiền não và những tình trạng của tâm thức, với phương thức đối trị “tối thượng” hoàn toàn loại trừ tất cả những tình trạng tiêu cực của tâm thức, và phương thuốc đối trị “quy ước” (là điều mà chúng ta đang khám phá nơi đây) loại trừ hay giảm thiểu những cảm xúc tiêu cực và các tình trạng của tâm thức đủ để vui hưởng một đời sống hạnh phúc.
Cuối cùng, trong việc rút ra những tương đồng giữa phương pháp của đức Đạt Lai Lạt Ma của việc vượt thắng các cảm xúc tiêu cực (và đạt đến hạnh phúc) và những nghiên cứu gần đây nhất của khoa học về hạnh phúc, chúng ta có thể thêm một lý thuyết khoa học mới đây về các cảm xúc tích cực. Lúc trước chúng ta đã thấy Giả Thuyết Cởi Mở của Fredrickson cung cấp chứng cứ cho khái niệm về những cảm xúc tích cực hoạt động như các phương thuốc đối trị đến những cảm xúc tiêu cực. Điều này có thể tương đồng với khái niệm Phật Giáo về “những phương thức đối trị đặc thù,” mỗi cảm xúc tiêu cực có một cảm xúc tích cực đặc thù có thể hoạt động như một phương thuốc đối trị. Đến lượt Barbara Fredrickson và các đồng nghiệp cũng phát triển một lý thuyết ảnh hưởng cao độ có thể hoạt động như một sự tương đồng đối với khái niệm của Đạo Phật về một “phương thức đối trị tổng quát” đến tất cả những cảm xúc tiêu cực. Lý thuyết của bà, ‘Mở Rộng và Xây Dựng Kiểu Mẫu của những Cảm Xúc Tích Cực(10)’, cũng giúp giải thích tại sao phương pháp của đức Đạt Lai Lạt Ma là đầy năng lực và hiệu quả vô cùng.
Cho đến thập niên cuối vừa qua, tuyệt đại đa số nghiên cứu khoa học về cảm xúc con người tập trung vào những cảm xúc tiêu cực. Như một kết quả, những nhà thần kinh học và tiến hóa trình bày những lý thuyết mạch lạc hòa điệu về vấn đề tại sao những cảm xúc tiêu cực tiến triển, việc chúng hỗ trợ tổ tiên xa xôi của chúng ta sống còn như thế nào. Từ quan điểm tiến hóa, những cảm xúc tiêu cực có ý nghĩa tốt. Nhưng khi nhìn vào lý do tại sao chúng ta có những cảm xúc tích cực, tìm kiếm để xác định vấn đề chúng có khả năng thích nghi như thế nào theo quan điểm tiến hóa, việc chúng hỗ trợ chúng ta sống còn như thế nào, mọi thứ không có ý nghĩa nhiều lắm. Không giống như những cảm xúc tiêu cực, mà trong ấy mỗi thứ phối hợp với những khuynh hướng “tư tưởng hoạt động” đặc thù đã thúc đẩy chúng ta hành động trong những cung cách giúp chúng ta tồn tại, trái lại những cảm xúc tích cực dường như không chủ trương thúc đẩy chúng ta hành động bất cứ điều gì một cách đặc biệt; chúng có thể chỉ nói với chúng ta, “Hê! Thứ này tốt - chỉ tiếp tục làm những gì chúng ta đang làm, và không thay đổi bất cứ điều gì!” Thật dễ dàng để thấy những cảm giác khoái lạc vật chất, liên kết với những vui thích về thức ăn hay tình dục đóng một vai trò quan trọng trong sự sống còn và tái tạo, nhưng giá trị thích ứng của nhiều cảm xúc tích cực khác vẫn là một huyền bí bao la vời vợi.
Phần xây dựng của thuyết Mở Rộng và Xây Dựng mà những cảm xúc tiêu cực được thiết kế để giúp chúng ta sống còn khi chúng ta gặp nguy hiểm, trong khi những cảm xúc tích cực được hình thành cho những lúc mà mọi thứ là an toàn, và mục tiêu của chúng là để xây dựng những tiềm lực vật chất, tri thức, và xã hội mà chúng ta có thể sử dụng trong tương lai, những thứ có thể làm nổi bật các cơ hội cho sự sống còn của chúng ta. Đây là những cảm xúc phối hợp sáng tạo và khám phá, của những suy nghĩ về những chiến lược mới để đạt đến những tài xoay sở và phương thức thích ứng đến môi trường của chúng ta. Và đây là những cảm xúc giúp chúng ta nuôi dưỡng những liên kết xã hội sẽ lợi lạc trong tương lai, khi mọi thứ có thể khó khăn và chúng ta cần hướng đến người khác để giúp đỡ. Như những con người tiến hóa và sống lâu hơn, chắc chắn việc nghĩ đến tương lai và xây dựng nên một ít tiềm năng nào đấy mà chúng ta có thể được đền trả trong những thời gian về sau là cần thiết.
Trong một trong những thí nghiệm ban đầu minh chứng cho hiệu quả của việc “mở rộng” những cảm xúc tích cực”, Fredrickson và các đồng nghiệp của bà đã tập hợp một nhóm những đối tượng thử nghiệm, phân chia thành những nhóm nhỏ, và gợi lên một cảm xúc khác biệt trong mỗi nhóm bằng việc cho họ xem những đoạn phim ngắn gợi ra một cảm xúc đặc thù, chẳng hạn như sự thích thú, giận tức, hay sợ hãi. Sau đó bà ước lượng hiệu quả của cảm xúc trên khả năng của người tham dự rằng họ nghĩ một cách rộng rãi hơn hay hẹp hòi hơn, để thấy hoặc là “hình ảnh rộng lớn” [tổng thể] hay để tập trung trong những chi tiết nhỏ bé. Bà đã thực hiện trong những phương cách đa dạng. Trong một thí nghiệm, thí dụ, bà đã sử dụng “bài tập quán sát tiến trình toàn thể - cục bộ” - bà đã cho những đối tượng tham gia thấy một một biểu đồ với một số hình dạng hình học “kiểu mẫu”. Sau đó, bà cho họ xem hai biểu đồ khác và yêu cầu họ xét đoán hình nào trong hai hình ảnh so sánh này là giống với hình “kiểu mẫu”. Không chọn “đúng” hay “sai”; một hình ảnh so sánh giống với kiểu mẫu trong hình dạng toàn thể của nó, hay “hình thể toàn bộ”, và hình kia giống với cái thứ nhất hơn trong những chi tiết chi li của nó, hay “những yếu tố cục bộ”. Các kết quả cho thấy rằng những ai cảm nhận cảm xúc tích cực thì thường “thấy hình ảnh rộng lớn” và chọn hình ảnh giống với hình dạng tổng thể. Những ai cảm nhận trung tính hay trong một tình cảm tiêu cực là thường biểu lộ một kiểu mẫu tư tưởng hẹp hòi hơn, tập trung trên những chi tiết nhỏ. Từ thí nghiệm ban đầu ấy, Fredrickson và những người khác đã tiến hành nhiều loại thí nghiệm tương tự cho thấy một cách thuyết phục một số khác biệt nền tảng này trong suy nghĩ giữa những ai ở trong một tính tình tích cực và những ai trong tính tình tiêu cực.
Một nhà khảo sát khác, Alice Isen từ Đại Học Cornell, một trong những nhà tiên phong thật sự của việc nghiên cứu về các cảm xúc tích cực, đã khảo sát những hiệu quả của các cảm xúc tích cực trên suy nghĩ trong hơn hai thập niên, tập hợp những chứng bao quát minh chứng các hiệu quả việc mở rộng. Thí dụ, trong một nghiên cứu, bà đã gây ra một cảm giác tích cực trong một nhóm đối tượng thí nghiệm và cho họ trình bày những bài tập ngôn ngữ phối hợp. Bà cho họ một danh sách của ba chữ, thí dụ, “máy cắt”, “ngoại quốc”, và “nguyên tử”, rồi yêu cầu họ nghĩ về một chữ liên hệ đến cả ba (trả lời: “năng lực”). Bà thấy rằng các đối tượng cảm thấy vui vẻ đã thực hiện tốt hơn nhóm kiềm chế một cách nổi bật. Cuộc nghiên cứu đầu tiên của bà sử dụng phương pháp này được thiết lập để nghiên cứu những hiệu quả của cảm xúc tích cực trong việc sáng tạo, nhưng trong việc điều khiển những thí nghiệm như những thứ này, sự việc cũng trở nên rõ ràng rằng các cảm xúc tích cực giúp người ta thấy mọi thứ từ một viễn tượng rộng rãi hơn, như đối lập đến những hiệu quả hạn hẹp của các cảm xúc tiêu cực.
Với điều này như một quá khứ tiềm tàng, nếu chúng ta thực hiện một quán sát khác vào “sự tiếp cận thực tế” của đức Đạt Lai Lạt Ma, bỗng nhiên chúng ta thấy rằng những ngôn từ của ngài bắt đầu đảm nhiệm một vòng đai quen thuộc! Kỹ thuật hay phương pháp chính yếu mà ngài đề xuất cho việc trau dồi triển vọng thực tế này là nhìn vào những tình thế bất lợi từ một viễn tượng rộng rãi hơn, từ những góc cạnh khác nhau, nhìn “hình ảnh rộng lớn” [tổng thể], tiếp nhận một viễn tượng lâu dài, trau dồi một cung cách uyển chuyển về suy nghĩ mà nó cho phép chúng ta thấy mọi vật trong những cung cách mới v.v... Đây chính xác là một loại suy nghĩ mà các nhà khảo sát đã từng phối hợp với những cảm xúc tích cực qua những thí nghiệm gần đây.
Ở đây một câu hỏi quan trọng khởi lên. Việc nghiên cứu cho thấy việc các cảm xúc tích cực hay cảm giác hạnh phúc một cách tổng quát hoạt động để mở rộng nhận thức và triển vọng của chúng ta. Đức Đạt Lai Lạt Ma đề nghị ngược lại - rằng trau dồi một viễn tượng rộng rãi, một nhận thức phóng khoáng và một triển vọng thực tế (sử dụng khả năng của chúng ta cho lý trí, phân tích, và luận lý [logic]...), là một sự tiếp cận hiệu quả để đương đầu với thế giới rắc rối của chúng ta và duy trì hạnh phúc. Vì vậy, những cảm xúc tích cực có thể đưa đến một loại triển vọng mà đức Đạt Lai Lạt Ma đang nói đến, nhưng có phải điều ngược lại là đúng không? Nói cách khác, có phải việc trau dồi thận trọng một nhận thức rộng rãi, thấy những rắc rối của chúng ta từ những khía cạnh khác nhau,..., sẽ đưa đến những cảm xúc tích cực hơn hay không?
Trong một chữ, Vâng! Các nghiên cứu hoàn tất bởi Fredrickson và những người khác đã cho thấy rằng nó là một con đường hai chiều: Những cảm xúc tích cực đưa đến suy nghĩ rộng rãi hơn, và sự thực hành suy nghĩ rộng rãi hơn đưa đến những cảm xúc tích cực. Kết quả là những gì các nhà khảo sát đã xác định như một “xoắn ốc hướng lên”, nơi mà khi chúng ta càng thực tập suy nghĩ rộng rãi, chúng ta càng trải nghiệm những cảm xúc tích cực và hạnh phúc hơn, là điều hóa ra sẽ đưa đến một quan điểm rộng rãi hơn, v.v...
Những điều này dường như không nghi ngờ rằng nhìn những tình thế từ một nhận thức rộng rãi có thể giúp chúng ta trau dồi những cảm xúc tích cực hơn và có thể giúp chúng ta đương đầu với những rắc rối hàng ngày một cách hiệu quả hơn. Dĩ nhiên, có những cảm xúc tích cực hay những thể trạng tâm thức nào đó là nổi bật và quan trọng đặc biệt khi đối phó với một số rắc rối nghiêm trọng và nan giải hơn trong thế giới ngày nay là hy vọng, lạc quan, và hồi phục. Do vậy, buổi sáng tiếp theo chúng tôi sẽ trở lại những chủ đề cấp thiết này.
Nguyên tác: Coping with a Troubled World
Ẩn Tâm Lộ ngày 13/11/2011
Chú thích:
1. Những thảo luận này sau cùng sẽ xuất hiện trong một trong những tập sách còn lại của loạt sách Nghệ Thuật Hạnh Phúc.
2. Đã được Thượng tọa Tâm Quang dịch với tựa đề Nghệ Thuật Tạo Hạnh Phúc.
3. A morning person: Một người của buổi sáng: Một người cảm thấy tuyệt vời nhất với những giờ khắc trước buổi trưa.
4. Tsampa: Đôi khi được gọi là thức ăn quốc gia truyền thống của Tây Tạng. Món tsampa là món ăn căn bản của người Tây Tạng. Nhiều người Tây Tạng quanh năm chầy tháng chỉ sống bằng món tsampa và trà đến suốt đời.
5. Thế Pleistocen hay thế Canh Tân là một thế địa chất, theo truyền thống kéo dài từ khoảng 1.806.000 tới 11.550 năm trước ngày nay, tuy nhiên kể từ ngày 30-6-2009, IUGS đã phê chuẩn đề nghị của ICS về việc kéo lùi thời điểm bắt đầu của thế này về 2,588±0,005 triệu năm để bao gồm cả tầng Gelasia.
6. Savanna: Xavan hay còn gọi là trảng cỏ, đồng cỏ khô là một kiểu hệ sinh thái trảng cỏ xen cây bụi, với một số loài cây thân gỗ nhỏ thưa thớt, xen kẽ các khoảnh đất đá trống trọc với rất nhiều khối đá lộ đầu trơ trụi. Vùng xa van phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới khô Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Á và Châu Đại Dương, nơi có mùa khô kéo dài.
7. Vô minh được xem là gốc của mọi bất thiện trong thế gian và cũng là một đặc tính của Khổ (sa. dukha). Đó là tình trạng tâm thức không thấy sự vật “như nó là” (Như thật tri kiến), cho ảo giác là sự thật và vì vậy sinh ra khổ. Vô minh sinh ái (sa. tā) và đó là yếu tố cơ bản sinh ra sự tái sinh. Theo quan điểm Đại thừa, vì vô minh mà từ tính Không (sa. śūnyatā) thoắt sinh ra hiện tượng, làm cho người còn mê lầm tưởng đó là sự thật và không thấy tự tính (Si mê)...
8. Chân đế: Trong thế giới của sự thật tuyệt đối thì không có khổ mà cũng không có lạc. Nói cách khác, cái vui của chân đế không phải là cái vui của tục đế. Nhưng chúng ta đã biết chân đế không trái ngược với tục đế. Khi thực tập trong phạm vi tục đế một cách sâu sắc rồi, ta sẽ thấy chân đế tự nhiên hiển lộ.
9. Tục đế, sự thực có giá trị tương đối. Khổ là ngược lại với vui, cái vui đó có thể trở lại thành khổ, rồi khổ đó trở lại thành vui v. v...
10. The Broaden-and-Build theory of Positive Emotions: Đưa ra giả thuyết rằng những cảm xuất tích cực (vui thích/hạnh phúc, và có lẽ hấp dẫn/tiên đoán) mở rộng sự tỉnh thức và khuyến khích những tư tưởng và hành động mới lạ, đa dạng, và khám phá.
Chương 11
Hy vọng, lạc quan và khả năng phục hồi
HY VỌNG
Mùa xuân là mùa hy vọng. Và mỗi mùa xuân, khi những người hâm mộ của Chicago Cubs tràn ngập sân bóng Wridge cho trận mở màn của đội bóng dã cầu trong mùa, có một niềm tin chân thành trong mỗi trái tim: “Đây là năm! Đây là năm mà chúng ta sẽ thắng Loạt Thi Đấu Thế Giới!” Và mỗi mùa thu, khi hơi se lạnh trở lại không gian và những ngày bắt đầu ngắn hơn, với những giấc mơ của họ như món quà lởn vởn vỡ tan, thì có một tư tưởng trong mỗi con tim: “Hãy chờ đợi đến năm sau!” Và điều gì đã truyền cảm hứng cho những người hâm mộ để tụ tập trong sân vận động năm sau, và một lần nữa hét toáng lên, “Đây là năm của chúng ta!” mặc dù đội của họ chưa từng thắng một Loạt Thi Đấu Quốc Tế nào từ năm 1908? Đấy là hy vọng.
Hy vọng là một trong những tiềm năng nội tại quan trọng nhất của con người. Và nó là hy vọng mà bây giờ chúng ta hướng sự chú ý đến.
“Thưa Đức Thánh Thiện,” tôi bắt đầu, “ngài biết không, hôm qua ngài đã đề cập rằng những lợi ích của việc chấp nhận sự kiện rằng những vấn nạn và khổ đau nhất định sinh khởi trong đời sống. Tuy thế, tôi đang nghĩ rằng mặc dù những lợi ích tiềm tàng của việc tiếp nhận quan điểm hoàn toàn thực tế này mà ngài đang nói đến, trong cái nhìn của tất cả những rắc rối đang diễn ra trên thế giới, mọi thứ chắc chắn đôi khi dường như đáng thất vọng".
"Đó là tại sao chúng ta cần sự đa dạng trong các phương pháp,” đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời, “và những cung cách của việc nhìn vào những vấn nạn của chúng ta. Thí dụ, ngay cả nếu chúng ta đang nghĩ về một số vấn nạn nào đó rộng lớn hơn hay nghiêm trọng hơn trong xã hội, những vấn đề như môi trường v.v..., và cảm nhận một ý thức chán nản hay tuyệt vọng, nếu chúng ta nhìn vào điều này trong một viễn tượng rộng rãi hơn, chúng ta có thể thấy rằng nhiều thứ trong những rắc rối này là do trí thông minh con người tạo ra, việc lạm dụng trí thông minh con người, không làm cân bằng với những giá trị nhân bản, một trái tim lương thiện. Thí dụ, óc thông minh của chúng ta đã đưa đến việc phát triển những kỹ thuật hiện đại, nhưng không có một ý thức trách nhiệm nhân bản, kỹ thuật có thể làm nên những thảm họa. Nhưng nếu những rắc rối nào đấy làm nên hay tạo ra bởi óc thông minh của con người, thế thì cùng sự thông minh ấy có thể được sử dụng để tìm ra giải pháp, nếu ý chí ở đấy, được hướng dẫn bởi động cơ chính đáng.”
“Ô, ngay cả nếu có thể tìm ra giải pháp, tôi nghĩ nhiều người có thể vẫn trở nên chán nản bởi vì các rắc rối là quá phức tạp, và tiến bộ trong việc vượt thắng chúng dường như xảy ra quá chậm chạp.”
“Đó là tại sao tôi nghĩ rằng thật quan trọng để trau dồi một thái độ mà nó cho phép chúng ta duy trì hy vọng. Hy vọng có thể làm nên một sự khác biệt lớn lao trong sự đáp ứng của chúng ta đến những rắc rối và khó khăn.”
“Vậy nên, vì hy vọng là quá khẩn thiết trong thế giới ngày nay, tôi đang tự hỏi ngài có thể nói cho tôi nghe một ít nữa về nó, và việc trau dồi nó như thế nào không?”
“Vâng... Bây giờ về hy vọng... tôi nghĩ theo một nhận thức mà chúng ta có thể nói rằng sự hiện hữu của chính chúng ta được kéo dài bởi hy vọng. Ông thấy đấy, như chúng ta đã thảo luận nhiều lần rồi, khát vọng căn bản nhất của nhân loại là tìm kiếm hạnh phúc, để vượt thắng khổ đau. Chúng ta có thể lên giường vào ban đêm đối diện với nhiều rắc rối trong đời sống của chúng ta. Nhưng chúng ta có thể đi ngủ hy vọng chúng ta sẽ thức dậy sáng hôm sau!” Ngài chắc lưỡi, sau đó tiếp tục. “Và rồi thì sáng hôm sau, trong một cách, lại là hy vọng thúc đẩy chúng ta rời khỏi giường và tiếp tục với đời sống của chúng ta - hy vọng mà chúng ta cuối cùng có thể đạt đến nguyện vọng của mình cho hạnh phúc, hy vọng rằng thế nào đấy chúng ta sẽ có thể vượt thắng mọi chướng ngại. Và chúng ta có thể có những loại mục tiêu đặc thù nào đấy trong đời sống của chúng ta, và nó là hy vọng cho phép chúng ta tiếp tục hoạt động đối với những mục tiêu ấy. Do thế, đời sống của chúng ta rõ ràng được giữ cho sống động bởi hy vọng.”
Với điều này trong tâm, tôi hỏi, “Ngài có thể nói về việc chính ngài đã kéo dài một cảm giác tiềm tàng của hy vọng như thế nào, trong cuộc diện của những thử thách đối với những tình thế của Tây Tạng đã vẫn không giải quyết được một cách căn bản cho đến ngày hôm nay không?”.
 “Vâng. Ở đây, chúng ta đang thảo luận sự tiếp cận này của việc tiếp nhận một viễn tượng rộng rãi hơn, và điều ấy có thể hỗ trợ vô cùng lớn lao trong việc duy trì một cảm nhận hy vọng trong việc đối phó với tình cảnh của Tây Tạng, bởi vì cái nhìn của chúng ta càng hẹp, thì nó càng trông như tuyệt vọng hơn. Nếu chúng ta nhìn vào nó chỉ trong một phạm vi giới hạn, nhìn chỉ vào những sự kiện gần đây và tình thế hiện tại, chúng tôi đã đấu tranh trong năm mươi năm, nhưng cho đến bây giờ những nỗ lực của chúng tôi vẫn chưa đem đến thành công."
“Nhưng nếu ông mở rộng viễn tượng của ông, và nhìn vào hoàn cảnh từ một viễn tượng toàn cầu, thế thì ông có thể thấy một căn bản hy vọng nào đấy. Xét cho cùng, toàn bộ thế giới đang thay đổi, và không có lý do gì mà Trung Hoa phải là một ngoại lệ. Chỉ trong một vài thập niên qua, ai có thể tiên đoán sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết? Trong thực tế, Trung Hoa hiện nay rất khác với Trung Hoa hai mươi năm trước. Trong trường hợp của Tây Tạng, nếu ông chỉ nhìn vào những chính sách quá khứ của Bắc Kinh, ông có thể không thấy khả năng cho hy vọng nhiều. Nhưng với một viễn tượng rộng rãi hơn, ông có thể khám phá có những thay đổi xảy ra chính trong xã hội Hoa Lục, đặc biệt những người bình thường đang bắt đầu biểu lộ thích thú hơn đối với văn hóa và đạo Phật Tây Tạng. Ngay cả trong những người Hoa, ông có thể thấy một con số lớn mạnh những người ủng hộ và những người biểu lộ tình cảm lớn hơn cho người Tây Tạng. Vì vậy, ở đây một lần nữa ông có thể thấy rằng nếu viễn tượng của chúng ta càng rộng rãi hơn, khả năng cho hy vọng càng lớn hơn."
“Ngay cả với sự quan tâm đến việc di chuyển một số lượng lớn tộc người Hoa vào Tây Tạng, là điều đưa lên các nỗi lo sợ nghiêm trọng trong những người Tạng rằng việc này có thể biến người Tạng thành một nhóm thiểu số không quan trọng ngay trong chính quê hương chúng tôi, nhưng người ta có thể thậm chí hình dung đến khả năng cho một sự thay đổi trong chính sách. Người ta có thể tưởng tượng rằng không có sự khuyến khích của chính quyền để người Hoa di cư vào Tây Tạng, sự chuyển dịch dân số này không chỉ có thể dừng lại, mà trong thực tế, một số người Hoa hiện định cư tại Tây Tạng có thể hồi hương về nguyên quán của họ, nơi mà độ cao và thời tiết có thể thích hợp hơn. Vì vậy, bất cứ thứ gì cũng có thể.”
Suy nghĩ về sức mạnh nội tại và ý nghĩa lớn lao của tính quả quyết được đòi hỏi để duy trì hy vọng sau hàng thập niên thất bại trong việc đối phó với Trung Cộng, tôi hỏi, “Cũng có bất cứ nhân tố nào khác có thể hỗ trợ ngài duy trì hy vọng để tiếp nhận viễn tượng rộng rãi này không?”
“Sự tiếp cận này đã thật là hữu dụng trong việc giúp để duy trì hy vọng,” ngài trả lời, “nhưng trong trường hợp của tôi có thể có nhiều nhân tố hiện hữu. Có điều này, tôi tìm sự nương tựa trong sự thực hành Phật giáo của tôi. Thí dụ, có một đoạn kệ mà tôi lập lại mỗi ngày, là điều hỗ trợ tôi, cung cấp một cội nguồn sức mạnh to lớn, và ngăn ngừa tôi khỏi đánh mất lòng hy vọng...”
“Ngài muốn nói đến đoạn kệ ưa thích của ngài từ Tịch Thiên chứ gì?”
“Vâng,” ngài nói. Rồi thì, tụng lại đoạn kệ với một âm hưởng sinh động giống như nó được trì tụng lần đầu tiên, ngài nói, “Khi không gian còn tồn tại, khi chúng sinh còn hiện hữu. Cho đến lúc ấy, nguyện cho tôi cũng hiện diện. Và xua tan những khổ đau của trần thế. Vì vậy, ở đây, đoạn kệ này giúp tôi chuyển viễn tượng của tôi, tạo nên một cái nhìn rộng rãi hơn, nhìn vào hoàn cảnh trong một phạm vi rộng lớn hơn. Thế nên, nếu ông nhận định tình thế dựa vào nền tảng của việc mở rộng thời gian, cùng với nhận thức rằng thay đổi không thể tránh khỏi, rằng vô thường là một trong những đặc trưng bất khả kháng của sự tồn tại, thế thì chúng ta có thể thấy rằng mọi thứ là có thể.”
“Dĩ nhiên, đây là một phương pháp chính yếu của đạo Phật,” ngài nhắc lại. “Chúng ta cần tâm niệm rằng một trong những lý do tại sao những kệ tụng như đoạn kệ này của Tịch Thiên là đầy năng lực đối với tôi là như thế, khi tôi trì tụng chúng, có toàn bộ hệ thống của niềm tin phía sau nó. Điều này bao gồm một sự tin tưởng trong giáo lý tái sinh, khái niệm vô lượng vô biên kiếp sống, v.v...
“Tôi nghĩ rằng tổng quát một người có niềm tin tôn giáo hay không có thể làm nên một sự khác biệt lớn trong khả năng đương đầu của mỗi người. Và ở đây, tôi nghĩ mỗi tôn giáo quan trọng của thế giới đã có một cống hiến, mỗi tôn giáo với lý tưởng hay sự thực tập của nó đã giúp để ban cho những người tin tưởng một loại sức mạnh nội tại, và ngăn ngừa họ khỏi chìm vào trong sự tuyệt vọng hay hết hy vọng khi đối diện với những rắc rối của thế giới. Dĩ nhiên, “ngài thêm, “từ một quan niệm thế tục, người ta có thể thấy những ý tưởng này là khó để chấp nhận.”
“Thật sự, thưa Đức Thánh Thiện, có nhiều chứng cứ khoa học ủng hộ ngài, việc chỉ ra những lợi ích của tín ngưỡng trong sự gia tăng toàn bộ hạnh phúc của con người và trong việc giúp con người đương đầu với những nghịch cảnh hay các sự kiện chấn thương tâm lý trong cuộc sống. Và đây là chủ đề mà tôi thích khám phá với ngài một cách sâu rộng hơn tại một điểm nào đó về sau này. Nhưng bây giờ, tôi muốn tiếp tục với những sách lược thế tục."  
“Thế này, tôi tự đang tự hỏi... ngài đã đề cập việc trì tụng đoạn kệ của Tịch Thiên đã giúp ban cho ngài một viễn tượng rộng rãi và lâu dài hơn, nhưng có một hệ thống niềm tin Phật giáo phía sau điều ấy. Tuy vậy tôi nghĩ rằng ngay cả từ một quan điểm thế tục, không có hệ thống tin tưởng ấy, một người có thể vẫn thấy rõ giá trị của một quan điểm rộng rãi và lâu dài.”
Tôi suy nghĩ một lúc. “Vậy thì, tôi đang tự hỏi, có những phương cách bổ sung để phát triển cái nhìn mở rộng ấy không mà không nhờ vào việc nghĩ đến vô lượng vô biên kiếp sống và tái sinh v.v... Ở đây tôi đang cố gắng để nghĩ về một thí dụ đặc thù liên hệ đến chủ đề hy vọng bền bỉ.”
Đột nhiên một tư tưởng lóe lên trong tôi. “Ô, điều này có thể là một thí dụ: Hãy nói rằng một người đang thực hiện một nhiệm vụ khó khăn, điều gì đấy trông hầu như bất khả thi, không hy vọng,... Giống như, thí dụ, hãy nói là một nhà nghiên cứu đang hành động trong việc cứu chữa bệnh truyền nhiễm, nhưng dĩ nhiên điều ấy rất phức tạp, dường như tuyệt vọng. Thay vì bị tràn ngập bởi tính chất không hứa hẹn của việc khám phá ra phương thức chữa trị, cho rằng người ấy có thể chán nản trong việc dành thời gian để nghĩ về phương pháp ấy, ‘Ôi chao, nhiệm vụ này quá khó khăn. Tôi không thể hoàn tất một mình tôi. Nhưng nếu tôi thực hiện chỉ một sự cống hiến nhỏ nữa, một bước nhỏ nữa, rồi thì một nhà nghiên cứu khác có thể lấy đó làm nền tảng để thiết kế, và người nào khác nữa có thể xây dựng việc làm của họ trên ấy,’ v.v... Nếu chúng ta nhìn vào vấn đề từ viễn tượng ấy, thế thì chuyện ấy dường như không quá tuyệt vọng, người ấy sẽ có hy vọng rằng cuối cùng việc chữa trị sẽ được tìm ra. Cách hành động lý trí ấy như một sự thay thế, sự đổi chỗ cho ý tưởng tái sinh và vô biên kiếp sống có được không?”
“Đúng đấy! Đúng đấy! Quá hay!” đức Đạt Lai Lạt Ma reo lên. “Đó là một ví dụ rất tuyệt. Bởi vì, trong thực tế, nếu chúng ta nhìn vào lịch sử của khoa học hiện đại và chỗ hiện tại của chúng ta, chúng ta có thể thấy những ảnh hưởng của các cống hiến được thực hiện bởi những con người từ các xu hướng và thế hệ khác nhau. Vì thế, một người thực hiện một đóng góp và một người khác tiếp theo sau và xây dựng trên điều này. Một người khác tiếp theo và xây đắp lên điều nọ. Nên chúng ta có thể nhìn chỉ vào thế kỷ trước và thấy nơi mà khoa học đã tiến bộ đến một giai tầng chỗ mà các nhà tiên phong của khoa học hiện đại thậm chí đã không bao giờ mơ tới được!
“Vì vậy, Howard, tôi nghĩ rằng trong thực tế đây là một loại ý tưởng bổ sung, và loại lý trí mà ông đề nghị hữu ích trong việc phát triển một viễn tượng lâu dài hơn có thể hữu dụng trong một niềm hy vọng kéo dài, đặc biệt khi nói về những rắc rối đủ loại trong xã hội hay việc đạt đến bất cứ mục tiêu khó khăn lâu dài nào.”
“Ngài có nghĩ về bất cứ những nhân tố hay sách lược nào khác để hỗ trợ niềm hy vọng bền bỉ, những cung cách khác để nhìn vào một rắc rối sẽ cho chúng ta sức mạnh để tiếp tục tiến tới mà không rơi vào ngã lòng hay thất vọng?”
“Vậy thì, những nhân tố khác...” ngài nhắc lại một cách từ tốn. “Ông biết không, Howard, trong việc duy trì hy vọng và quyết tâm trong vấn đề theo đuổi một mục tiêu cao quý, một cách tổng quát tôi cảm thấy rằng thật thiết yếu để có một nhận thức rõ ràng về vấn đề mục tiêu của chúng ta xứng đáng như thế nào, giá trị của mục tiêu. Đó là vấn đề quan trọng. Thí dụ, nhận ra rằng mục tiêu của chúng ta là thích đáng, là một việc liên hệ đến lợi ích của người khác hay sự cát tường thông thường của cộng đồng, sẽ hỗ trợ cho quyết tâm của chúng ta để theo đuổi nó. Và rồi khi mọi việc trở nên khó khăn, chỉ đơn giản nhắc nhở chính mình về giá trị mục tiêu của mình có thể giúp để niềm hy vọng và lòng can trường bền bỉ. Chúng ta có thể thật sự đang vật vả với một vấn đề khó khăn, thí dụ thế, nhưng nếu chúng ta có thể tự nhắc nhở mình rằng những thế hệ tương lai của gia đình hay thân hữu chúng ta sẽ thu hoạch những lợi ích nếu chúng ta thành công, thế thì điều này sẽ giúp để kéo dài những nỗ lực của chúng ta và không bỏ cuộc. Trong trường hợp đó, rồi thì cho dù mục tiêu ấy có được thực hiện trong kiếp sống hiện tại của chúng ta hay không thì không thật sự quan trọng. Thí dụ, ông nhìn vào đời sống của những đạo sư tâm linh vĩ đại như đức Phật và Chúa Giê-su, những sứ mệnh mà các Ngài sắp đặt không chỉ giới hạn trong lúc các Ngài tại thế mà thôi.”
“Ý tưởng này về ‘có một mục tiêu xứng đáng’,” tôi hỏi; “ngài có nghĩ là điều này liên hệ đến việc có một cảm nhận về ý nghĩa và một mục tiêu cao thượng trong đời sống không?”
“Vâng, điều này có thể liên hệ,” đức Đạt Lai Lạt Ma đáp lời. “Mặc dù những gì tôi muốn nói ở đây một cách đặc biệt là nhu cầu để nhận thức về giá trị của mục tiêu mà chúng ta mong ước theo đuổi, nó cũng là trường hợp mà khi một cá nhân có một cảm nhận về mục tiêu trong sự hiện hữu của người ấy vượt hơn những quan tâm hẹp hòi cá nhân, điều này cung ứng một cội nguồn của sức mạnh và khả năng để chịu đựng nghịch cảnh và khó khăn. Vì thế, nếu mục tiêu hay ý định của một người liên kết đến cảm nhận của họ về ý nghĩa hay mục tiêu cao thượng, thế thì điều này có thể làm nên một khác biệt lớn lao trong việc tăng cường quyết tâm của họ.”
Đối với hầu hết những người quán sát nhìn vào tình thế hiện tại ở Tây Tạng, giấc mơ của đức Đạt Lai Lạt Ma về một khu tự trị chân thật và tự do cho đồng bào ngài, ngay cả không có sự độc lập hoàn toàn, dường như vô vọng. Dường như không thể tưởng tượng được rằng giới lĩnh đạo Trung Cộng sẽ bỗng nhiên đảo ngược, và ngăn chặn xu hướng người Hán đổ vào Tây Tạng, từ bỏ rõ ràng ý đồ làm giảm tỉ lệ dân số người Tạng đến một mức độ mà họ trở thành một thiểu số nhỏ ngay trên quê hương của họ.
Bất chấp điều này, trong năm mươi năm qua đức Đạt Lai Lạt Ma đã tranh đấu không ngừng nghỉ, hoạt động không mệt mỏi để đạt đến một sự tự do hơn và nhân quyền cho đồng bào Tây Tạng, hành động trong khả năng tuyệt vời nhất của ngài để giáo hóa người khác, khẩn khoản thỉnh cầu bất cứ khi nào và bất cứ nơi nào ngài có thể. Và trong năm mươi năm ngài đã không thỏa mãn được gì ngoài thất bại. Trong mỗi bước, bất chấp những gì ngài làm hay ai ngài gặp, ngay khi sự hiện diện của ngài trở nên được biết bất cứ nơi đâu trên thế giới, những vụ phản kháng chính thức và những lời phàn nàn không chính thức do nhà cầm quyền Bắc Kinh lên tiếng khiếu nại chắc chắn sẽ ồn ào, sử dụng bất cứ áp lực nào mà họ có thể bắt nạt hay dọa dẫm bất cứ người nào gặp gỡ ngài. Điều này đã và đang xảy ra hết lần này đến lần khác, với trạng thái đơn điệu tàn nhẫn và tức giận điên cuồng. Trong năm mươi năm. Nhưng ngài đã không đánh mất hy vọng.
Rõ ràng, đức Đạt Lai Lạt Ma đã chủ động tinh thông Nghệ Thuật Hy Vọng, và trong cuộc đàm luận của chúng tôi buổi sáng hôm ấy, ngài đã giải thích việc ngài điều khiển để thực hiện vấn đề này như thế nào. Sử dụng tình thế Tây Tạng như một sự minh họa, ngài đã tiết lộ “sự tiếp cận thực tiễn” có thể được dùng để trau dồi hy vọng như thế nào. Sách lược phổ thông hay kỹ thuật chính yếu mà chúng tôi đang thảo luận tuần lễ ấy liên hệ đến việc nhìn vào một tình thế từ một viễn tượng rộng rãi hơn hay từ những khía cạnh khác biệt. Như chúng tôi đã đề cập, sách lược này có một lĩnh vực rộng rãi của các áp dụng trong việc trau dồi những cảm xúc tích cực, như hy vọng, cũng như việc giảm thiểu các cảm xúc tiêu cực và trong việc giúp chúng ta đương đầu với những khó khăn với đời sống trong tổng quát. Trong ngôn ngữ khoa học, sách lược này đôi khi được gọi là tái cấu trúc (reframe), tái nhận định hay đánh giá lại (reappraisal).
Trong việc biểu lộ việc ngài áp dụng phương pháp này đến hoàn cảnh của Tây Tạng như thế nào, đức Đạt Lai Lạt Ma đã bắt đầu bằng việc nhìn vào tình thế một cách rộng rãi hơn cùng với hai chiều kích: Không gian và thời gian. Nhìn từ một cấu trúc thời gian rộng lớn hơn, ngài đã nắm bắt một quan điểm lâu dài hơn của tình thế. Và nhìn một cách rộng rãi hơn từ chiều kích “không gian”, ngài đã nhìn vào hoàn cảnh không chỉ từ lập trường của những điều kiện và hoàn cảnh địa phương, mà đúng hơn ngài đã mở rộng viễn tượng của ngài đến nhìn tình thế từ một phạm vi toàn cầu rộng lớn hơn, nhìn vào những thay đổi khắp thế giới.
Khi cuộc đàm thoại của chúng tôi mở ra tuần ấy, đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục tiết lộ những phương pháp bổ sung của việc nhìn vào những rắc rối “một cách thực tế hơn” hay theo một “viễn tượng rộng rãi hơn”. Và trong thảo luận này, ngài đã thêm vào một trong những phương thức quan trọng nhất của việc “đánh giá lại” hay “tái nhận định” một tình thế bất lợi hay một rắc rối: Tìm kiếm một ý nghĩa lớn lao hay một mục tiêu cao thượng nào đó phối hợp với hoàn cảnh như đức Đạt Lai Lạt Ma đề nghị, mục tiêu của chúng ta càng “liên kết với cảm nhận ý nghĩa hay mục tiêu cao thượng,” sẽ càng dễ dàng tìm thấy sức mạnh hơn từ mục tiêu của chúng ta, và gia tăng quyết tâm của chúng ta để vượt thắng bất cứ chướng ngại nào trong đời sống.
Trước đây, chúng tôi đã đề cập vấn đề những cảm xúc tích cực có thể giúp chúng ta đương đầu với nghịch cảnh, hoạt động như một phương thuốc đối trị đến những đáp ứng căng thẳng phối hợp với những cảm xúc như băn khoăn hay giận tức. Tóm lược chứng cứ khoa học về chủ đề này, Barbara Fredricksons đã nói, “Những cảm xúc tích cực liên kết với sự đương đầu hiệu quả hơn, đánh dấu bởi việc tìm kiếm ý nghĩa tích cực trong những rắc rối và tiếp nhận một viễn tượng rộng rãi hơn trên những vấn đề ấy.” Nhìn vào những dữ liệu thông tin từ những thí nghiệm khác cũng như của chính mình, bà đã kết luận, “Việc tìm ra ý nghĩa tích cực có thể là điểm tác dụng đòn bẩy năng lực nhất cho việc trau dồi những cảm xúc tích cực trong những thời gian của khủng hoảng.”
Theo truyền thống, phương thức thông thường nhất của việc tìm ra ý nghĩa là qua những niềm tin tâm linh hay tôn giáo của chúng ta. Trong cuộc thảo luận của chúng tôi, đức Đạt Lai Lạt Ma đã hoàn toàn thật tình trong việc xác định vấn đề các niềm tin và những thực hành đạo Phật đã đóng một vai trò đầy năng lực trong việc hỗ trợ ngài đương đầu với nghịch cảnh như thế nào. Việc tìm ra một ý nghĩa tích cực nào đó trong nghịch cảnh không chỉ làm nổi bật những cảm xúc tích cực trong phổ quát, mà cũng có thể làm mạnh mẽ những cảm xúc tích cực đặc thù mà chúng tôi đang nhắm đến ở đây: Hy vọng. Trong thực tế, ý nghĩa tích cực xuất phát từ niềm tin tôn giáo chắc chắn là cội nguồn đơn độc to lớn nhất của hy vọng xuyên qua lịch sử, từ đấy vô số người đã tìm thấy sức mạnh, cảm hứng, và can đảm.

Không có thắc mắc gì rằng mục tiêu và ý nghĩa là một trong những nguồn gốc chắc chắn nhất của hạnh phúc con người nói chung, thêm vào vai trò của nó trong việc giúp chúng ta duy trì hy vọng, nâng đỡ chúng ta qua nghịch cảnh, khổ đau, thảm họa, và những thời điểm tối tăm nhất của cuộc đời. Như chúng ta đã từng thấy, niềm tin tôn giáo chắc chắn có thể cung cấp một cảm nhận về ý nghĩa, nhưng mục tiêu và ý nghĩa cũng có thể được tìm thấy trong nhiều phương thức bên cạnh niềm tin tôn giáo. Đức Đạt Lai Lạt Ma khuyên bảo rằng khi chúng ta đang đối diện với nghịch cảnh hay chướng ngại trong việc theo đuổi mục tiêu của mình, một phương cách của việc tăng cường hy vọng và sức mạnh để tiếp tục là việc nhắc nhở chính mình về giá trị hay lợi ích lớn lao trong mục tiêu của chúng ta, phản chiếu trên sự thích đáng của nó, chẳng hạn như vấn đề nó có thể cống hiến đến lợi lạc hay cát tường của người khác. Đây là một phương pháp thiết yếu của việc tìm kiếm ý nghĩa tích cực, và một sách lược hiệu quả để giúp làm mạnh mẽ hy vọng mà có thể được sử dụng giống như nhau bởi những người có tín ngưỡng và không niềm tin tôn giáo.
Liên hệ đến những nghiên cứu của chính bà và những người khác, Fredrickson đã nói, “Có hay không có sự tiêm nhiễm tôn giáo, con người có thể tìm thấy ý nghĩa tích cực trong đời sống hàng ngày bằng việc đánh giá lại những sự kiện bất lợi trong một ánh sáng tích cực, truyền cho những sự kiện thông thường với những ý nghĩa tích cực, và theo đuổi cùng đạt đến những “mục tiêu thực tiễn”. Khi cuộc đàm luận của chúng tôi tiếp diễn, lời chỉ bảo thực tiễn của đức Đạt Lai Lạt Ma có tương quan một cách toàn hảo với lý thuyết khoa học hiện đại trong việc thảo luận tầm quan trọng của việc thiết lập những mục tiêu thực tiễn.
THIẾT LẬP NHỮNG MỤC TIÊU THỰC TIỄN
“Thưa Đức Thánh Thiện,” tôi tiếp tục, “tôi nghĩ ngài đã đặt ra một lời khuyên bảo tốt đẹp nào đó về việc đương đầu với những rắc rối mà không trở nên bị áp đảo một cách hoàn toàn. Tôi chỉ đang tự hỏi ngài có thể nghĩ về bất cứ những nhân tố nào khác có thể hữu dụng khi chúng ta theo đuổi các mục tiêu của chúng ta trong đời sống - những nhân tố khác có thể giúp để ngăn ngừa chúng ta khỏi trở nên quá chán nản khi chúng ta đi đến việc chống lại những chướng ngại?”
“Vâng. Một vấn đề khác nữa. Chúng ta đang nói về sự hữu ích của việc có một triển vọng thực tiễn, và tôi nghĩ rằng khi chúng ta bố trí để đạt đến một mục tiêu nào đấy, điều quan trọng để khảo sát vấn đề thực tiễn và khả thi như thế nào, để thấy mục tiêu của chúng ta là có thể đạt được hay không. Việc chuẩn bị ngay lúc khởi đầu tốt như thế nào có thể làm nên một sự khác biệt. Như Tịch Thiên chỉ ra trong tác phẩm Hướng Dẫn Lối Sống của Bồ Tát, khi chúng ta bắt tay vào dự án, đầu tiên thẩm tra xem để thấy chúng ta có thể thực hiện nó một cách thích đáng hay không. Chúng ta không nên lao vào một cách hấp tấp. Tôi nghĩ đấy chỉ là một sự cảnh giác sáng suốt rằng mục tiêu của chúng ta thật sự có thể đạt được có thể giúp tăng cường sức mạnh cho hy vọng và quyết tâm của chúng ta."
"Bị xao lãng vì máy thu âm trong một lúc, tôi lạc hướng và lần theo, “Thưa Đức Thánh Thiện, tôi đang cảm thấy bối rối về một điểm. Ngài đã đề cập rằng một nhân tố giúp để duy trì hy vọng là loại nhất tâm để theo đuổi mục tiêu của chúng ta, căn cứ trên nhận định của chúng ta về vấn đề nó xứng đáng và quan trọng như thế nào, bất chấp nó có thể đạt được trong kiếp sống hiện tại hay không. Bây giờ ngài đang nói về nhu cầu thiết lập một mục tiêu thực tiễn, phải chắc rằng mục tiêu là thiết thực, rằng chúng ta thật sự có thể đạt được nó. Vậy thì, trong một cung cách, nó dường như rằng...”
"Không đợi cho tôi nói hết suy nghĩ này, ngài trả lời, “Howard, ở đây chúng ta đang nói về hai vấn đề khác nhau - mức độ toàn cầu và mức độ cá nhân. Vậy thì trong trường hợp của mức độ toàn cầu, xử trí những vấn nạn xã hội rộng rãi hơn, và v.v..., ngay cả nếu những mục tiêu của chúng ta không đạt được trong một kiếp sống hay một thế hệ, vẫn thích đáng để theo đuổi. Nhưng trong trường hợp nhu cầu cá nhân của một người, thế thì những mục tiêu cá nhân phải nên thực tiễn và khả thi. Thế nên không có xung đột ở đây. Đấy là hai phạm vi khác biệt."
Để làm sáng tỏ về điểm này, ngài tiếp tục. “Dĩ nhiên, việc phát triển một quan điểm thực tế không chỉ liên quan đến quyết định mục tiêu của chúng ta là khả dĩ hay không. Nó cũng liên hệ đến một loại ước định năng động về những thử thách khả dĩ có thể sinh khởi trong việc theo đuổi mục tiêu ấy. Nếu ngay lúc khởi đầu, có một sự thấu hiểu rõ ràng rằng những mục tiêu nào đấy có thể là khó khăn hơn để nhận ra và một số có thể được nhận thức một cách dễ dàng hơn, nếu người ta đã cảnh giác về sự khác biệt ấy và chấp nhận nó, và nếu chúng ta khám phá rằng mục tiêu đặc thù của chúng ta có thể nhận ra khó khăn hơn, thế thì chúng ta sẽ phỏng đoán rằng có sự ràng buộc đến những rắc rối nào đó trong việc theo đuổi điều ấy. Và nếu chúng ta đã cảnh giác về điều ấy trong thực tế này rồi, thì khi chúng chạm trán nghịch cảnh, chúng đã được chuẩn bị một cách tốt đẹp hơn. Thế thì ít có nguy hiểm đánh mất hy vọng hơn. Trái lại nếu ngay từ đầu chúng ta hoàn toàn quên lãng sự kiện rằng những chướng ngại sẽ sinh khởi, thế thì khi chúng ta chạm trán ngay cả với một trở ngại nho nhỏ, chúng ta đánh mất hy vọng và chúng ta phản ứng trong một cung cách cường điệu.”
Đức Đạt Lai Lạt Ma xem hy vọng như một nhân tố thiết yếu trong việc hỗ trợ chúng ta duy trì các nỗ lực khi chúng ta chạm trán những chướng ngại và trì trệ trong đời sống của chúng ta, giúp chúng ta kiên nhẫn trong việc tìm kiếm các giải pháp đến những thử thách của cuộc đời, một quan điểm được sự hỗ trợ của nhiều nghiên cứu khoa học. Do bởi giá trị vô biên của nó, hy vọng đã là một đề tài hấp dẫn mãnh liệt đến những nhà tâm lý học liên hệ trong phong trào tâm lý tích cực. Khi khám phá hy vọng, hầu hết những nhà nghiên cứu phân loại nó như một cảm xúc tích cực, mặc dù không có một sự đồng ý toàn thể. Một số có thể thấy hy vọng như một tiến trình suy tư hay một điểm đặc trưng hơn. Nhưng bất chấp người ta phân loại hy vọng như thế nào, không có thắc mắc gì đến việc nó là một chất liệu then chốt trong việc đương đầu với thế giới rắc rối. Thêm nữa, như một cảm xúc tích cực, giống như những cảm xúc tích cực khác nói chung, hy vọng có thể thực hiện một cống hiến trực tiếp đến tổng lượng hạnh phúc của chúng ta. Và như thế chưa đủ, các nghiên cứu còn thấy hy vọng phối hợp với một lực lượng lợi ích rộng rãi cho sức khỏe thân thể và tinh thần. Hy vọng đã phối hợp với những thành tựu học thuật và thể thao trong sinh viên, và những người trưởng thành trong hy vọng có những mối quan hệ mạnh mẽ hơn, thành công hơn trong công việc, và gia tăng cơ hội đạt được mục tiêu của họ nói chung.
Trong cái nhìn đến tất cả những lợi ích mà hy vọng mang đến, không ngạc nhiên rằng hơn một hay hai thập niên qua đã có nhiều lý thuyết mới về bản chất tự nhiên của hy vọng và việc tăng cường nó như thế nào. Một số giả thuyết này đã đạt được một ít chú ý. Hầu hết bị loại bỏ. Nhưng đặc biệt một nhà tâm lý học, Charles Richard Snyder, tại Đại Học Kansas, rất ảnh hưởng trong lĩnh vực này, đã thực hiện một đóng góp quan trọng cho sự thấu hiểu của chúng ta về hy vọng. Trước lý thuyết của Snyder, người ta cảm thấy hy vọng là một loại mong ước hay cảm giác không phân biệt được là người ta có thể đạt được mục tiêu của họ hay không. Snyder nghĩ về hy vọng như một tiến trình suy tư trực tiếp đến mục tiêu của hai thành phần làm việc chung với nhau: Lộ trình tư duy và cơ chế tư duy. Lộ trình tư duy liên hệ đến việc có một ý định về vấn đề đạt đến mục tiêu của chúng ta như thế nào. Cơ chế tư duy liên hệ đến ý chí hay động cơ để thực hiện việc ấy. Snyder tin rằng cả hai loại tư duy này phải hiện diện nhằm để duy trì hy vọng và tăng cường sức mạnh cho nhau.
Nhìn vào phương pháp để trau dồi hy vọng của đức Đạt Lai Lạt Ma từ viễn tượng lý thuyết của Snyder, chúng ta có thể thấy một cách dễ dàng phương cách của ngài cống hiến như thế nào đến cả tư duy cơ chế và lộ trình. Cơ chế thành công là ý nghĩa quyết tâm của chúng ta để hoàn thành mục tiêu, cảm nhận được thúc đẩy vào lúc ban đầu, và tiếp tục khi chúng ta bắt đầu, ngay cả nếu nó là khó khăn. Đức Đạt Lai Lạt Ma khuyến nghị rằng khi hy vọng dao động, một cách để khôi phục lại sức mạnh và nghị lực là quán chiếu một cách cẩn trọng trên giá trị và tầm quan trọng của mục tiêu, vì “nhận ra giá trị của nó giúp ban cho chúng ta lòng quyết tâm để theo đuổi nó.” Đây là một phương cách thiết yếu để tăng cường cơ chế, của việc làm mạnh động cơ và quyết tâm của chúng ta.
Đức Đạt Lai Lạt Ma ủng hộ những mong đợi thực tiễn và cảnh giác về những khả năng của chúng ta trong khi thiết lập những mục tiêu thực tiễn và có thể thực hiện được cũng như tiên liệu những chướng ngại tiềm tàng. Tư duy lộ trình bao gồm có một cảm giác rằng có một con đường rõ ràng để đạt đến ước muốn của chúng ta, rằng có một phương thức để gặp gỡ mục tiêu của chúng ta. Dường như hợp lý để thừa nhận rằng “sự tiếp cận thực tiễn” của đức Đạt Lai Lạt Ma đến việc hoàn thành những mục tiêu chắc chắn sẽ có khuynh hướng nuôi dưỡng tư duy lộ trình, và vì thế làm mạnh mẽ hy vọng. Một cách ngẫu nhiên, trong khi hình ảnh thông tục của những người với hy vọng cao độ là một loại lạc quan mù quáng, của những hy vọng sai lạc, thì phía đối kháng xuất hiện là trường hợp: Nghiên cứu cho thấy rằng những cá nhân hy vọng cao độ thật sự thường hoàn toàn thực tế.
Lộ trình tư duy cũng phối hợp với cảm nhận tiềm tàng rằng chúng ta có khả năng để tìm ra những phương thức mới để đạt đến mục tiêu của mình ngay cả nếu những chướng ngại bỗng nhiên sinh khởi, rằng chúng ta luôn luôn có thể tìm ra một phương cách để giải quyết răc rối, hay nghĩ đến một dự án để gặp được mục tiêu của mình. Do vậy, chúng ta càng sáng tạo, khả năng cho việc giải quyết những rắc rối càng mạnh mẽ hơn, chúng ta càng tự tin chúng ta sẽ hiểu rằng chúng ta sẽ có thể tìm ra một “lối đi” để vượt thắng những khó khăn và hoàn thành những mục tiêu của chúng ta. Sự tiếp cận của đức Đạt Lai Lạt Ma cũng có thể hỗ trợ để làm nổi bật khía cạnh này của tư duy lộ trình. Như chúng ta đã thấy trước đây, phương thức tiếp cận thực tiễn của đức Đạt Lai Lạt Ma để đương đầu với những rắc rối liên hệ đến việc nhìn vào những tình thế từ một viễn tượng rộng lớn. Điều này sẽ gia tăng những cảm xúc tích cực, là những điều ngược lại sẽ tăng cường suy nghĩ rộng rãi hơn, kết quả là trong sự tăng dần lên mà trong ấy sự suy nghĩ rộng rãi hơn và những cảm xúc tích cực tiếp tục để tăng cường cho nhau.
Có bằng chứng cụ thể rằng việc gia tăng trong cảm xúc tích cực kết quả từ sự tăng dần lên liên tục này được phối hợp với một thể trạng tâm thức rộng rãi hơn giúp con người thấy những rắc rối trong các cung cách mới lạ, “việc rộng mở” phạm vi hoạt động của chúng, mở ra những cung cách mới của việc làm - “những lộ trình” mới để đạt đến mục tiêu của chúng. Một thí nghiệm làm sáng tỏ nguyên tắc này một cách tốt đẹp. Trong thí nghiệm cổ điển này về sáng tạo, nhà nghiên cứu đặt trên bàn một hộp chứa đèn cầy, diêm quẹt, và một ít đinh mũ. Đối tượng thí nghiệm được yêu cầu gắn những cây đèn cầy lên bức tường trong một cách mà chúng sẽ cháy nhưng không rơi sáp trên sàn nhà hay trên bàn. Vấn nạn được giải quyết nếu đối tượng bỏ mọi thứ trong hộp ra ngoài, đóng đinh mũ lên tường, và dùng nó như một cái đế hay chân đèn cầy mà trên đó đèn cầy được dựng lên. Điều này đòi hỏi một loại “suy nghĩ rộng rãi” để thấy cái hộp trong một phương cách mới, không chỉ là một vật chứa. Những nghiên cứu cho thấy rằng thúc đẩy hay xui khiến tính khí một người trước thời hạn sẽ làm tăng khả năng tìm ra giải pháp. Vì thế, việc gia tăng sáng tạo và khả năng cho việc giải quyết rắc rối có kết quả từ những khả năng làm nổi bật tư duy lộ trình - nói cách khác là việc tìm ra “những lộ trình mới” để đạt đến một mục tiêu - là điều sẽ làm mạnh mẽ khả năng chúng ta cho hy vọng, ngay cả khi đối diện với những điều kiện thử thách.
Đến đây, dường như có một sự đồng nhất, hầu như tài tình, tương liên giữa những quan điểm của đức Đạt Lai Lạt Ma và hầu hết những lý thuyết khoa học và khám phá gần đây nhất, một sự tương liên tiếp tục khi ngài mở rộng sự khám phá của ngài về hy vọng.
LẠC QUAN
“Một nhân tố rất quan trọng cho việc duy trì hy vọng nói chung là có một thái độ lạc quan,” đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục. “Nếu chúng ta nuôi dưỡng một thái độ bi quan ngay từ lúc khởi đầu, điều này sẽ là một sự thất bại thật sự. Bởi vì thái độ của chúng ta sẽ là điều gì đó, ‘Không có gì hoạt động.’”
“Ngài tự xem mình là một người lạc quan chứ, đặc biệt trong cái nhìn về những khó khăn đối diện với những người Tây Tạng cũng như những rắc rối trên thế giới?” tôi hỏi.
“Ô, vâng, chắc chắn là như thế,” đức Đạt Lại Lạt Ma nói với một cái chắc lưỡi.
“Thế thì, thưa Đức Thánh Thiện, ngài là một người tin tưởng vững chắc trong việc nhìn một cách thực tiễn trong những hoàn cảnh thực tế nào đó. Và một cách thực tế, đôi khi những hoàn cảnh là rất ảm đạm. Vậy thì, không phải nhìn vào đó một cách lạc quan là khờ dại hay sao? Đôi khi trái ngược với thực tế?” tôi hỏi.
“Không nhất thiết như thế,” ngài trả lời. “Lạc quan không có nghĩa là chúng ta mù quáng với thực tế thật sự của hoàn cảnh. Nó có nghĩa là chúng ta luôn luôn cưu mang tinh thần tích cực vì thế chúng ta duy trì động lực trong việc tìm kiếm một giải pháp đến bất cứ rắc rối nào đấy. Và nó có nghĩa là chúng ta nhận ra rằng bất cứ hoàn cảnh nào đó đều có nhiều khía cạnh khác nhau - lạc quan liên hệ đến việc nhìn vào tình thế không chỉ từ lập trường của chính vấn nạn, không chỉ việc nhận ra những khía cạnh tiêu cực, mà cũng tìm kiếm ra một khía cạnh tích cực nào đó, một lợi ích tiềm tàng nào đó, nhìn một cách năng động vào cùng hoàn cảnh trong những dạng thức của những kết quả tích cực tiềm tàng.”
“Tôi tự hỏi ngài có thể nghĩ về những thí dụ bổ sung về vấn đề chúng ta có thể nhìn vào những vấn nạn trong dạng thức những lợi ích tiềm tàng hay hậu quả tích cực như thế nào, một số thí dụ cụ thể hơn?”
“Thí dụ, thí dụ, thí dụ!” Ngài cười một cách tự nhiên sảng khoái. “Howard, ông luôn luôn muốn ‘thêm những thí dụ này’!”
Với thiện chí rõ rệt luôn luôn hiện diện trong nụ cười của ngài, một nụ cười luôn luôn chân thật hồn nhiên, tôi không bao giờ có thể bực mình với sự la rầy tế nhị của ngài. Trong thực tế, nó làm cho tôi mỉm cười, gần như khúc khích. Hơn nữa, ngài đã đúng. Nhưng vẫn bắt đầu cảm thấy phòng ngự phơn phớt, tôi nói, “Vâng, thí dụ luôn luôn rất hữu ích trong việc thấu hiểu vấn đề áp dụng những nguyên tắc và kỹ năng đa dạng như thế nào mà ngài đưa ra. Và vả chăng...”
 Tôi đã không cần phải tiếp tục.
“Được thôi! Okay,” ngài nói một cách tán thành, nhanh chóng bớt nghiêm nghị hơn. “Thêm thí dụ...”
Ngay khi đức Đạt Lai Lạt Ma định tiếp tục, ngài đột nhiên có một cơn ho ngắn. Tôi đã thấy ngài ở Âu Châu vài tuần trước đây, nơi mà ngài đã mắc phải một cơn đau cổ và ho từng cơn. Mặc dù ngài đang có một sự chăm sóc y tế cẩn thận và mới bắt đầu dùng thuốc kháng sinh, nhưng tôi không thể không cảm thấy quan tâm về sự kiên gan với những triệu chứng của ngài. Tuy nhiên, cho dù có những chứng bệnh đã qua hàng năm, nhưng chỉ khi trở cơn nghiêm trọng làm yếu sức mới có thể cắt giảm thời biểu giảng dạy thường niên của ngài.
Đưa tay vào túi áo, tôi dâng ngài một viên thuốc hình thoi.
“Cảm ơn,” ngài nói, và khi ngài đặt viên thuốc vào trong miệng, ngài bồng nhiên bắt đầu cười lớn: “Ô! Vậy thì ở đây ông có thể thấy ở đây một thí dụ rất nhỏ - ngay bây giờ tôi có cơn ngứa, đau cổ này, một vấn đề nhỏ. Đó là tiêu cực. Nhưng nếu chúng ta khảo sát, chúng ta sẽ thấy, chúng ta luôn luôn có thể tìm ra nhưng khía cạnh khác. Cho nên, nhìn vào một khía cạnh khác, một khía cạnh tích cực, cơn ho này chỉ mang điều gì đấy tốt đẹp - một viên kẹo từ người bạn! Một khoảnh khắc chia sẻ. Không phải tệ hại cả. Đấy là một vấn đề nhắc nhở chúng ta rằng mặc dù có rắc rối này, nhưng vẫn có những việc tích cực trong đời sống của chúng ta.
“Thế nên, chúng ta đang nói về một nhận thức hẹp hòi có thể làm tăng những cảm giác tuyệt vọng và những cảm xúc tiêu cực khác như thế nào, và làm cho chúng ta đau khổ hơn như thế nào. Nếu chúng ta quá co vào bản thân mình, một loại tự quan tâm quá hẹp hòi, điều này có thể hạn chế chúng ta và làm ra rắc rối, làm cường điệu khổ đau của chúng ta. Vậy nên, trong trường hợp của cơn đau cổ này, đây không thật sự là một rắc rối quá lớn - nhưng nếu tôi tập trung quá nhiều về chính tôi và mãi suy nghĩ, ‘Ô, rắc rối của cơn đau cổ này là gì, cơn ho này quá phiền toái, tại sao tôi bị nhiễm chứng này? Rồi thì điều này chỉ phục vụ để làm cường điệu tình thế, và rồi thì nó trở nên một rắc rối thật sự. Nếu cái nhìn của chúng ta hạn hẹp vì thế chúng ta tập trung sự chú ý của chúng ta chỉ trên một vấn nạn hay thảm họa, chúng ta ngay cả trở nên hoàn toàn bị áp đảo bởi rắc rối ấy, khi trong thực tế nó là một rắc rối có thể khắc phục được."  
“Tuy nhiên, chúng ta có thể ngăn ngừa điều này. Mở rộng nhận thức của chúng ta hoạt động như một phương thuốc đối trị đến loại quan điểm hẹp hòi ấy, và có những phương thức phong phú để làm điều này. Một cách là bằng so sánh, so sánh hoàn cảnh của chính chúng ta với những người kém may mắn hơn chính mình. Điều này thường làm nên một sự khác biệt, tối thiểu trong việc hỗ trợ để đương đầu với những rắc rối cá nhân. Nó đặt mọi việc trong một tỉ lệ tích cực hơn. Thí dụ, nếu tôi bị rắc rối bởi một cơn đau cổ và những cơn ho ồn ào thường xảy ra, tôi có thể nhớ rằng tại thời điểm này có rất nhiều người trên thế giới trải nghiệm những vấn nạn nghiêm trọng hơn rất nhiều, rất nhiều người khổ sở, trong những cơn đau đớn thật sự - và so sánh với điều ấy, rắc rối nhỏ này là không nhằm vào đâu. Một cung cách khác là tiếp nhận một quan điểm lâu dài hơn, nhận ra rằng, vâng, điều này có thể hơi quấy rầy hay bất tiện, nhưng điều này chỉ tạm thời và sẽ nhanh chóng trôi qua.
“Và rồi, như chúng ta đã thảo luận trước đây, bằng việc nhớ rằng rắc rối và khổ đau bó buộc sinh khởi một cách tự nhiên, nhìn từ một khía cạnh khác, chúng ta sẽ nhận ra rằng, xét cho cùng, cho đến khi mà tôi có tấm thân này,” ngài nói, vỗ cánh tay này vào cánh tay kia, “bắt buộc phải có một số cơn ho nào đấy. Đấy là thực tế.
“Vì vậy, tất cả vấn đề này là thực tế! Cho nên, khi khủng hoảng ập đến, ông thấy đấy, nếu chúng ta nhìn vào thảm họa ấy mà không đánh mất cái nhìn của bức tranh tổng thể, rồi thì chúng ta sẽ đi đến nhận ra sự thật đơn giản theo đấy. ‘Vâng, rắc rối của tôi vẫn hiện hữu; vâng, đây là vấn đề chẳng mong đợi tí nào, nhưng nó chỉ là một phần đời sống của tôi, chỉ là một bộ phận nhỏ bé của cuộc sống.’ Và loại suy nghĩ này sẽ giúp chúng ta đương đầu tốt đẹp hơn, và đối phó với những rắc rối một cách hiệu quả hơn.”
“Tôi nghĩ thí dụ về cơn ho và đau cổ của ngài thật sự là một minh họa tuyệt vời của việc sử dụng phương pháp này để tìm kiếm những khía cạnh tích cực hơn, đây là một loại lý trí,” tôi nói. “Trong việc đề xướng ra những phương cách khác nhau để chúng ta nhận thức những rắc rối của chúng ta -”
Bây giờ dường như để thu thêm một sự cố gắng nào đấy, ngài nhóm về phía trước giống như được đẩy tới bởi lòng nhiệt tình tăng lên của ngài, và tiếp tục. “Hay, một thí dụ khác... hãy nhớ rằng một người không đơn độc trong việc đối phó với nghịch cảnh. Khi chúng ta đang đối phó với những rắc rối, đôi khi chúng ta có một cảm nhận rằng giống như chúng ta thế nào đấy bị phân biệt cho sự bất hạnh này. Đây là một loại làm hạn hẹp nhận thức, giống như thế giới chúng ta đang bị co rút lại, và chúng ta có thể cảm thấy đơn độc hay bị cô lập. Nhưng nếu chúng ta nhớ rằng có những người khác đã đi qua hay đang đi qua những vấn đề tương tự như thế, rằng chúng ta không cô độc, và trong một số trường hợp ngay cả vươn ra tìm kiếm hay đón nhận sự hỗ trợ của người khác, tôi nghĩ điều này có thể hữu ích."
“Trong thực tế, bất chấp khó khăn mà chúng ta đang đối phó là gì, tất cả chúng ta là một bộ phận của xã hội hay một cộng đồng, ngoại trừ ai đấy sống ẩn dật trong một hang động. Vì thế chúng ta có thể thận trọng rộng mở nhận thức của chúng ta là cảnh giác về sự kiện chúng ta là một thành viên của xã hội. Nếu chúng ta nhớ điều này, trau dồi nó như một bộ phận tỉnh thức tiềm tàng của chúng ta, chúng ta sẽ nhận ra rằng nó có thể tìm thấy từ những nguồn gốc trong cộng đồng hay xã hội trong những thời điểm khó khăn. Luôn luôn có một loại bảo vệ, thoải mái, hay hỗ trợ nào đó có thể được thấy nếu chúng ta tìm kiếm một cách năng động. Có thể có những người hay những tổ chức có thể giúp chúng ta mà chúng ta có thể ngay cả chưa nhận biết đến, nhưng là điều mà chúng ta có thể khảo sát. Chúng ta không bị cô lập hay đơn độc. Vì thế có thể có nhiều loại tỉnh thức khác nhau.
“Vậy thì... ở đây có phải là những thí dụ của ông!” Ngài cười, bày tỏ đường nét với một cái quét của bàn tay và một cái vung tay gần như điệu nghệ, giống như ngài là một ảo thuật gia vừa mới lôi ra một con thỏ từ trong nón của ngài. Những luận bàn của ngài đang bắt buộc một cách chắc chắn, với một lời kêu gọi trực giác sâu xa, và từ quan điểm khoa học chúng sẽ chuyển từ sự thúc ép đến áp đảo khi sau này tôi khảo sát những ủng hộ và chứng cứ cho những quan điểm của ngài. Nhưng có một điểm dường như nó cần được nói đến.
“Ngài biết không, tôi vừa mới nghĩ,” tôi nói, “và tôi hoàn toàn đồng ý rằng sự trau dồi những thái độ hay quan điểm mà ngài đề cập có thể giúp chúng ta đương đầu với nghịch cảnh, giúp chúng ta đối phó với những rắc rối của đời sống. Như thường lệ, những đề nghị của ngài cũng được đặt nền tảng trong những cảm nhận chung nhất. Nhưng tôi không chắc hiệu quả của nó như thế nào để nhìn vào thực tế của một tình thế khi chúng ta đang xuyên qua một cuộc khủng hoảng hay đang đối phó với nghịch cảnh, thấy nó từ một viễn tượng rộng rãi hơn. Xét cho cùng, ngài đã đề cập trong quá khứ khi chúng ta đang trải nghiệm những cảm giác mạnh mẽ như thế nào như tức giận hay băn khoăn, những nhận thức của chúng ta dường như co rút lại - vì thế dường như tại những thời điểm đó chúng ta có thể không có khả năng để thấy mọi thứ từ những viễn tượng rộng rãi hơn, để phân tích hay để khảo sát thực tế của hoàn cảnh một cách thánh thiện hơn, và nhìn vào những khía cạnh khác nhau v.v...”
“Điều ấy đúng đấy, Howard,” ngài trả lời, “vì thế đây là tại sao chúng ta phải thực hiện một nỗ lực để nghĩ về những thứ này một cách sớm sủa, lập đi lập lại, làm cho chính mình quen thuộc với những cung cách suy nghĩ này trong một thời gian nào đấy. Và chúng ta cần phản chiếu trên những thứ quan điểm này một cách thật sâu sắc, tăng cường chúng, vì thế chúng trở thành một bộ phận trong nhận thức nền tảng của chúng ta. Cách ấy, khi rắc rối đến, những thái độ và những cung cách nhận thức thánh thiện mọi việc sẽ sinh khởi một cách tự động.”
Đức Đạt Lai Lạt Ma nhìn vào đồng hồ của ngài và tôi nhận ra thời gian của chúng tôi đã gần hết.
“Tôi biết rằng chúng ta sắp chấm dứt, nhưng có bất cứ tư tưởng nào mà ngài có đối với những phương cách để giúp chúng ta đương đầu không, trước khi chúng ta kết thúc?”
“Vâng,” ngài trả lời, thật quan trọng để có một sự đa dạng trong việc tiếp cận mà chúng ta có thể sử dụng để giúp chúng ta đương đầu với môi trường, và những vấn nạn khác sinh khởi trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Thí dụ, nếu chúng ta đang sống trong một môi trường nơi mà có những quả bom liên tục phát nổ chung quanh chúng ta, việc phân tích tình thế từ một quan điểm rộng rãi hơn hay nhìn vào những khía cạnh khác nhau của tình thế không phải là cách tiếp cận tốt nhất cho ‘việc đương đầu’. Ngài chắc lưỡi một cách ngắn gọn. “Trong trường hợp ấy, sự tiếp cận tốt nhất là chạy kiếm chỗ trốn!”

“Vậy thì, một việc... mặc dù sự tiếp cận chính mà chúng ta đang sử dụng ở đây để giúp chúng ta đương đầu, liên hệ đến việc phát triển một quan điểm hay thái độ nào đấy, là việc trau dồi những tiềm lực nội tại, thì tôi nghĩ rằng những trải nghiệm ngoại tại của chúng ta cũng có thể đóng một vai trò trong việc chúng ta đương đầu với nghịch cảnh như thế nào.”
“Ngài có thể giải thích thêm một ít về việc những trải nghiệm ngoại tại của chúng ta có thể nâng cao khả năng của chúng ta để đương đầu với nghịch cảnh, đối phó với những rắc rối, hay giúp chúng ta điều chỉnh những cảm xúc tiêu cực của mình, v.v... như thế nào không?”
“Vâng. Nhưng tôi nghĩ chúng ta nên chấm dứt ở đây hôm nay. Chúng ta sẽ tiếp tục vào ngày mai.”
Ngược lại một chút, như một phần của công việc tôi đang tiến hành cho Nghệ Thuật Hạnh Phúc, tôi đã yêu cầu những người tham gia hoàn thành một bài tập trong việc thực hành đánh giá lại một cách tích cực những hoàn cảnh, tình trạng, hay sự kiện nghịch cảnh. Bài tập liên hệ đến việc yêu cầu những tham dự viên chọn một kinh nghiệm nghịch cảnh hay một thời điểm khó khăn hay khổ đau mà họ đã trải qua, một trải nghiệm mà bây giờ đã là quá khứ. Sau khi viết xuống bài tập này, họ được yêu cầu tái cấu trúc, tái nhận định và đánh giá lại nó, nhìn kinh nghiệm từ những khía cạnh thay đổi, liệt kê bất cứ hệ quả hay lợi ích tích cực nào kết quả một cách căn bản từ kinh nghiệm ấy, hoặc là trực tiếp hay gián tiếp.
Tôi đề nghị họ sẽ quan tâm đến những câu hỏi như, có bất cứ điều gì hữu ích mà tôi học được từ kinh nghiệm đó, về chính tôi, người khác hay về những khía cạnh khác của đời sống? Tôi đã gặp bất cứ người nào như một kết quả của kinh nghiệm, hoặc là trực tiếp hoặc là gián tiếp, ai đã đóng một vai trò nổi bật trong đời sống của tôi? Tôi đã trưởng thành trong bất cứ cách nào từ đó? Nó có đưa đến bất cứ những thay đổi ích lợi nào mà sẽ không xảy ra, nếu tôi không trải qua kinh nghiệm ấy? Kinh nghiệm một cách căn bản đã mở ra bất cứ những cánh cửa mới nào, cung cấp bất cứ những cơ hội mới nào không?
Kích cỡ của công việc đặc thù này được giữ một cách thận trọng để cho mỗi tham dự viên sẽ có một cơ hội để chia sẻ kinh nghiệm của họ với những người khác nếu họ thật mong ước. Vì thế, trong giai đoạn hai của bài tập này, các tham dự viên được mời để chia sẻ kinh nghiệm của họ với nhóm. Ngồi trong một vòng tròn, chúng tôi đã bắt đầu với người thứ nhất, Joseph, một người chuyên môn, ăn mặc tề chỉnh, thông minh, lịch thiệp trong độ tuổi sáu mươi.
“Tôi thật không biết nói gì,” Joseph bắt đầu. “Thật dễ dàng để đưa ra một thời điểm của khổ đau - con gái tôi đã chết bốn năm trước đây vì bệnh bạch cầu. Nhưng tôi đang ngồi đây suy nghĩ về điều đó. Tôi không thể thấy bất cứ điều gì tốt lành đã đến từ đó trong bất cứ cách nào, không có điều gì tôi đã học được từ đó ngoại trừ đau thương, và không có những thay đổi lợi ích hay tích cực gì được mang đến, cho dù trực tiếp hay gián tiếp - nó chỉ là tệ hại.” Giọng nói của ông không công khai giận hờn hay đòi hỏi; đôi mắt ông và phát biểu chuyển tải gần như một loại chán chường và một loại trống vắng uể oải. Ngoại trừ có lẻ vì một giới hạn vi tế của nỗi buồn và thương đau còn sót lại - và một âm điệu không nghi ngờ của một người cha rõ ràng yêu mến con gái ông ta. Ông tiếp tục giải thích về việc ông ta đã trở thành một người cha muộn màng trong cuộc đời, trong độ tuổi năm mươi, và ông đã luôn luôn nghĩ rằng ông có thể không còn sống để thấy những đứa cháu của ông, nhưng không bao giờ nghĩ rằng một đứa nào trong hai con của ông sẽ chết trước ông.
Công nhận sự thật buồn đau đôi khi là nỗi khổ quá lớn và thảm họa quá áp đảo làm cho người ta không thấy sự kiện từ bất cứ khía cạnh nào khác, một nhóm thành viên đưa ra một vài lời thông hiểu và thông cảm, và chúng tôi đã đi qua người tiếp theo để chia sẻ câu chuyện của bà ta. Trong khi một cách tổng quát như được đề nghị rằng mọi người trước tiên thực hành bài tập này với những rắc rối thông tục hơn thường ngày và dần đi đến những những vấn nạn lớn hơn, buổi trưa hôm ấy, một số người trong nhóm cũng đã chọn lựa những thử thách lớn nhất trong đời sống - đưa những câu chuyện sống sót với ung thư, đối phó với những cái chết đau thương của người thân, đối diện với phá sản sau một thời gian làm việc cực nhọc, và những thứ khác - mỗi người trong họ đã bộc lộ những lợi ích căn bản, nguyên lý “cánh cửa này đóng, cánh cửa khác mở ra”. Sau khi người cuối cùng đã chia sẻ câu chuyện của họ, khi chúng tôi định tiếp tục, thì Joseph đã đưa tay và yêu cầu được nói một vài lời.
“Quý vị biết không,” ông nói, “Tôi muốn chữa lại những gì tôi đã nói trước đây. Tôi đã nghe những câu chuyện và suy nghĩ này, và càng suy nghĩ về điều đó, tôi nhận ra rằng mặc dù đau thương, tôi có thể nghĩ về hai lợi ích đưa đến một cách căn bản. Thứ nhất, tôi nghĩ kinh nghiệm làm cho tôi mạnh mẽ hơn trong một cách nào đấy.”
“Trong cách nào?” tôi hỏi.
“À, cái chết của đứa con tôi là vấn đề rất tệ hại mà tôi có thể hình dung, tôi nghĩ rằng trải qua sự việc rất đau buồn mà tôi chưa từng bao giờ nghĩ đến, và qua khỏi nó, đã cho tôi một sức mạnh nội tại - biết rằng nếu có thể đối diện với điều ấy, tôi có thể đối phó với bất cứ vấn đề gì khác. Không còn điều gì nữa để sợ hãi, bởi vì bất chấp sự việc là khốn khó cách nào đi nữa, tôi biết rằng tôi đã qua khỏi được điều tệ hại nhất.
“Và có một điều nữa - tôi nghĩ cái chết của con gái tôi đã làm cho tôi hiểu rõ giá trị, Chloe, đứa con gái nhỏ của tôi hơn. Nó làm cho tôi nhận ra tặng phẩm của Chloe là gì, mỗi ngày, và không xem nó như điều đương nhiên, và như một kết quả tôi nghĩ tôi là một người cha tốt hơn đối với Chloe. Vì thế, tôi nghĩ đó là một thay đổi tich cực căn bản khác.
Khi sự khám phá của chúng tôi tiếp tục, đức Đạt Lai Lạt Ma thêm một thành phần nữa vào công thức của ngài để đương đầu với những nghịch cảnh của đời sống và thấy hạnh phúc trong thế giới phiền toái của chúng ta: Lạc Quan. Như đề xuất của ngài, có một liên kết gần gũi giữa lạc quan và hy vọng - càng lạc quan, thì đúng như là chúng ta có thể duy trì hy vọng trong những lúc khó khăn. Hầu hết những nhà nghiên cứu phân loại lạc quan như một cảm xúc tích cực, trong cùng một gia đình với hy vọng, vì cả hai có một định hướng “tương lai”, với một tiên đoán tổng quát về viễn tượng tích cực trong tương lai. Lạc quan là một trong những cảm xúc tích cực được nghiên cứu kỹ lưỡng nhất. Những thí nghiệm đã cho thấy rằng lạc quan có thể đóng một vai trò nổi bật trong việc hỗ trợ chúng ta đương đầu với những hình ảnh toàn diện của các nghịch cảnh và rắc rối trong đời sống, từ những quấy rầy thường ngày đến chấn thương tinh thần, mất mát, và những thảm họa. Như với những cảm xúc tích cực khác, nó có vô số lợi ích trong việc làm nổi bật sự cát tường thân thể, tinh thần và xã hội - phối hợp với sức khỏe tốt hơn, đời sống dài hơn, hôn nhân mạnh mẽ hơn và thành công to lớn hơn trong trường học hay trong công việc.
Phương pháp của đức Đạt Lai Lạt Ma về việc trau dồi sự lạc quan rộng lớn hơn liên hệ một cách thiết yếu cùng kỹ năng tổng quát được sử dụng trong trau dồi hy vọng - nhìn vào những hoàn cảnh và sự kiện tiêu cực từ một quan điểm rộng rãi hơn, nhìn vào những tình thế nghịch cảnh từ những khía cạnh khác nhau, v.v... Tuy nhiên, trong cuộc đối thoại này, ngài đã nói thêm chi tiết trong sự tiếp cận này bằng việc giải thích rằng kỹ năng liên hệ một cách năng động cho việc tìm kiếm một khía cạnh tích cực nào đó đến tình thế hay sự kiện, một lợi ích tiềm tàng hay một kết quả tích cực nào đó. Kỹ năng này đôi khi được gọi là tái cấu trúc, tái nhận định, đánh giá tích cực lại, hay tìm thấy lợi ích.
Trong việc tìm kiếm một sự thấu hiểu tốt đẹp hơn về kỹ năng này và tại sao nó rất hiệu quả, thật hữu ích để trở lại tiền đề ban đầu của đức Đạt Lai Lạt Ma: “Chúng ta nhìn thế giới chung quanh chúng ta như thế nào... chúng ta hiểu những hoàn cảnh của chúng ta như thế nào và những sự kiện xảy ra chung quanh chúng ta, có thể ảnh hưởng một cách xác định đến việc chúng ta có thể đáp ứng đến thế giới và những rắc rối của nó như thế nào... tôi nghĩ điều này liên hệ một cách trực tiếp đến khả năng của chúng ta để đương đầu với những vấn nạn và duy trì hạnh phúc.” Nghiên cứu đã thừa nhận rằng lạc quan một cách bao quát là một vấn đề của việc chúng ta nhận thức và diễn dịch những hoàn cảnh và sự kiện tệ hại của chúng ta mà khi chúng xảy ra trong đời sống, những vấn nạn, thất bại, và trì trệ. Thật rõ ràng rằng khi điều gì đấy tệ hại xảy ra, người ta có khuynh hướng hỏi, tại sao? Sự lượng định của họ về nguyên nhân, câu trả lời của họ về câu hỏi này, quyết định việc đáp ứng của họ như thế nào đến sự kiện bất lợi.
Một số nghiên cứu ban đầu trong lĩnh vực này được tiến hành bởi Bác sĩ Martin Seligman, một trong những nhà chuyên môn hàng đầu của lạc quan, người đã khai triển sự hấp dẫn với chủ đề này trong nghiệp vụ của ông tại Đại Học Pennsylvania. Seligman đưa ra lý thuyết rằng sự khác biệt giữa lạc quan và bi quan là “phong cách giải thích” của chúng, cung cách mà chúng giải thích những sự kiện tệ hại xảy ra đến chúng. Theo nghiên cứu được tiến hành bởi Seligman và những người khác, có hai chiều kích trong phong cách giải thích của một người: Sự thường xuyên và sự lan tỏa. Khi giải thích một tình thế xấu, những người bi quan thường có khuynh hướng quy cho nguyên nhân hay những cảm xúc tiêu cực sẽ tiếp tục tồn tại dai dẳng trong một thời gian dài, và sẽ tác động những lĩnh vực khác trong đời sống của họ, làm xói mòn mọi thứ họ thực hiện. Khi đối diện với thất bại hay bất hạnh, những người lạc quan thấy mọi thứ một cách chính xác trong thái độ lạc quan: Họ tin tưởng rằng những nguyên nhân tiềm tàng chỉ là tạm thời và chỉ hạn chế đến một trường hợp này mà thôi. Vì thế, nếu người bi quan trải nghiệm một thất bại đại loại như hỏng một kỳ thi, người ấy có thể quy cho lý do về sự thiếu thông minh bẩm sinh hay sự thiếu căn bản về năng khiếu học tập, và nghĩ, “Tôi chắc chắn sẽ hỏng lớp này và cuối cùng sẽ bị đuổi học vì trượt thi!” Một người lạc quan, trái lại, có thể quy cho nguyên nhân đã không dành đủ thời gian để học tập cho bài kiểm này, và nghĩ, “Tôi đã thất bại bài kiểm tra này. Nhưng không có nghĩa là tôi sẽ hỏng những bài sát hạch khác.” Người lạc quan đơn giản chỉ thấy điều này như một sự trì trệ tạm thời và là một sự thử thách để hành động tốt hơn lần sau.
Bởi vì lạc quan và bi quan hầu như là một vấn đề của phong cách giải thích, những nhà tâm lý học ngày nay nhận ra lạc quan như điều gì đấy có thể nghiên cứu được - chúng ta có thể nghiên cứu để thay đổi phản ứng cảm xúc của chúng ta đến một tình thế hay sự kiện bằng việc thay đổi vấn đề chúng ta nhận thức hay thấu hiểu tình thế đó như thế nào. Kỹ năng chính được sử dụng để bồi đắp lạc quan là một kỹ thuật nhận thức cổ điển, một kỹ thuật với một thành phần chứng cứ rộng lớn khoa học minh chứng hiệu quả của nó: Đầu tiên nhận dạng sự bi quan, những tư tưởng tiêu cực, tính ôm đồm, và những tin tưởng của chúng ta; rồi thử thách một cách năng động và kháng cự lại những tư tưởng đó, tìm kiếm chứng cứ bác bẻ lại những suy nghĩ đó hay thay đổi những sự giải thích một cách lạc quan hơn.
Ở đây chúng ta có thể thấy phương pháp của đức Đạt Lai Lạt Ma đương đầu với thế giới rắc rối của chúng ta cùng với những kỹ năng đã được thực hành một cách rộng rãi trong tâm lý học Tây phương. Những gì ngài gọi là “trau dồi một quan điểm thực tiễn” hay “nhìn từ một viễn tượng rộng rãi hơn”, những nhà tâm lý học gọi là “những kỹ năng nhận thức”. Cả hai sự tiếp cận liên hệ sự đánh giá lại một cách tích cực. Khả năng để tái cấu trúc hay đánh giá lại những kinh nghiệm và quan điểm của chúng ta từ một nhận thức rộng rãi hơn, một khía cạnh tích cực hơn, hy vọng và lạc quan, và một sự bố trí các cảm xúc tích cực. Phương pháp này có thể tóm tắt lại, cô đọng lại trong cốt lõi của nó, và có thể gói gọn trong một câu mà thôi, bằng việc tự hỏi chính mình: “Tôi có thể thấy điều này một cách khác biệt như thế nào?” Kỹ năng này có một sự áp dụng rộng rãi. Có nhiều phương thức mà chúng ta có thể phản ứng đến những tình thế và sự kiện trái ngang. Thí dụ, chúng ta có thể phản ứng với sự giận tức, thịnh nộ, ghen tỵ, thù hận, cực kỳ lo lắng, hay chán nản. Tất cả những điều này là các cảm xúc tiêu cực có thể xói mòn hạnh phúc. Phương pháp này có thể được áp dụng trong những hoàn cảnh mà căn cứ vào đấy làm phát sinh bất cứ những cảm xúc tàn phá này. Nó có thể giúp chúng ta đối diện với tình thế một cách hiệu quả hơn, chiến đấu cảm xúc tiêu cực, và gia tăng cảm giác tổng thể của chúng ta về cát tường.
Tuy nhiên, khi chúng ta nói về việc nhìn vào nghịch cảnh và các rắc rối từ một viễn tượng tích cực hơn, tìm kiếm những khía cạnh tích cực của một hoàn cảnh tiêu cực, v.v..., có một đề tài thông thường sinh khởi: Nhiều người có thể hỏi, “Không phải sách lược này là giống như suy nghĩ tích cực hay sao,” chỗ mà chúng ta nói với chính mình tất cả những thứ tích cực, luôn luôn ‘nhìn về phía sáng’. Trong khi quên đi hay phủ nhận những khía cạnh tiêu cực của thực tế? Không phải đây là ‘Chủ Nghĩa Lạc Quan Quá Độ’, chỗ mà chúng ta đang tự lừa dối mình hay sao?”.  
Dĩ nhiên, giống như những điểm tâm lý khác, có thể có những sai biệt đáng kể giữa những con người trong trình độ lạc quan theo thói quen của họ, và khi lạc quan trở nên cực đoan, nó có thể trở thành không thực tế và có khả năng đưa chúng ta vào rắc rối - đánh giá thấp hiểm họa, phóng đại khả năng của chúng ta, hay liên tục đổ thừa người khác cho những vấn nạn của chúng ta ngay cả khi rắc rối được tạo ra bởi thái độ của chính chúng ta. Thêm nữa, những nghiên cứu trước đây cung ứng một chứng cứ nào đấy rằng những người lạc quan thật sự có khuynh hướng gạn lọc tin tức với một sự thiên vị tích cực, một cách căn bản cho phép tin tức tích cực xuyên qua tâm ý trong khi loại bỏ thông tin tiêu cực. Những sự nghiên cứu này thấy rằng, trong thực tế, những người chán nản hay buồn phơn phớt có khuynh hướng nhận thức thực tế một cách chính xác hơn.
Chính ở đây mà tuệ giác của đức Đạt Lai Lạt Ma có thể trở nên rất quan trọng. Như chúng ta đã thấy, sự tiếp cận của đức Đạt Lai Ma được xây dựng trên một nền tảng của “suy nghĩ thực tế”. Bằng việc bảo đảm rằng nhận thức hay sự thấu hiểu về các sự kiện luôn luôn được căn cứ trên thực tế, “sự tiếp cận thực tiển” của đức Đạt Lai Lạt Ma có một cơ chế an toàn trọn vẹn ngăn ngừa những hiểm họa phối hợp với sự lạc quan cực đoan hay không thực tế.
Dường như trên bề mặt có thể không thể thấy những hoàn cảnh nào từ khía cạnh tích cực. Nhưng giống như sự minh họa của Joseph, người cha đã mất đứa con, nếu chúng ta khảo sát một cách cẩn thận, luôn luôn có những phương cách để nhận thức rắc rối từ một thái độ lạc quan, nhưng trong những cách không phủ nhận thực tế. Xét cho cùng, do bởi bản chất tương đối của mọi thứ, chẳng bao giờ chỉ có một cách duy nhất để nhìn vào việc gì đó, vì thế chúng ta có thể đặt phần lớn chú ý đến những khía cạnh tích cực kinh nghiệm của chúng ta và trau dồi một triển vọng đặt nền tảng trong việc cảm kích những thứ tốt đẹp trong cuộc sống của chúng ta, mà không phủ nhận thực tế. Và vì không ai trong chúng ta có thể tiên đoán tương lai một cách đúng đắn, và chúng ta không thật sự biết những gì sẽ xảy ra, chúng ta có thể chọn đón nhận một quan điểm lạc quan mà không phủ nhận thực tế. Và ngay cả một quan điểm nhìn các rắc rối như những thử thách, với một sự định hướng đối với việc giải quyết rắc rối, việc cố gắng cho những mục tiêu của chúng ta, và ở trên triển vọng vì những cơ hội tiềm tàng để đem đến những thay đổi lợi ích.
Hấp dẫn thay, nghiên cứu mới gần đây khám phá rằng những người lạc quan nhất sẽ tương hợp sự diễn tả về kiểu thức một “người lạc quan” của đức Đạt Lai Lạt Ma. Mặc dù sự nhận thức thông thường của những người lạc quan đúng hơn là có vẻ có năng lực hơn những kẻ bi quan để sống trong thế giới phóng túng của riêng họ, và chứng cứ quá khứ rằng những người phiền muộn phơn phớt thường thấy thực tế một cách rõ ràng hơn, nhưng đang có những chứng cứ lớn mạnh bác bẻ lại quan điểm này, thấy rằng những người bi quan là có khả năng lừa dối chính họ và phủ nhận thực tế hơn là những người lạc quan.
Trong thực tế, có những nghiên cứu quan trọng cho thấy rằng những người lạc quan đương đầu tốt hơn những người bi quan dưới những điều kiện khó khăn, và trải nghiệm ít khổ sở hơn. Nghiên cứu trên những khác biệt trong những lối đương đầu cho thấy rằng người lạc quan có một phương hướng đương đầu để giải quyết khó khăn năng động hơn và tiếp tục sử dụng nỗ lực ngay cả khi đối phó với một vấn nạn nghiêm trọng, trái lại chính là người bi quan thường lẫn tránh tình thế hay giả vờ như rắc rối không hiện hữu. Những người lạc quan được thấy là uyển chuyển hơn trong việc tìm ra giải pháp, có vẻ có năng lực để đánh giá lại hoàn cảnh của họ khi tiếp tục đương đầu với nó, theo thực tế của tình thế. Và khi hoàn cảnh vượt khỏi khả năng kiểm soát hay sự giải quyết của họ, những người lạc quan thường thực hiện một nỗ lực để chấp nhận thực tế của những sự kiện gây ra căng thẳng, nhưng đây không phải là một loại khắc kỷ căn cứ trên sự cam chịu hay định mệnh, mà đúng hơn nó là một loại cố gắng để chấp nhận thực tế và hợp nhất nó vào trong quan điểm hay thế giới quan của họ. Sau đó họ sử dụng những kỹ năng nhận thức cố gắng để thấy một hoàn cảnh tệ hại trong ánh sáng hợp lý nhất và cố gắng để học hỏi điều gì đó thậm chí từ trong nghịch cảnh.
Lạc quan, giống như tất cả những cảm xúc tích cực, là một thể trạng phong phú của tâm thức, với khả năng của chúng ta cho lạc quan được quyết định một phần bởi sự bố trí căn bản, sự giáo dục, kinh nghiệm đời sống, và khả năng tự nhiên của chúng ta để điều chỉnh những cảm xúc của chính chúng ta. Nhưng một điều căn bản rõ ràng là bất chấp sự bố trí hay kinh nghiệm của chúng ta có thể là gì, lạc quan có thể được trau dồi một cách cẩn trọng qua nỗ lực của chính chúng ta và, như đức Đạt Lai Lạt Ma khuyến nghị, nó định hình triển vọng căn bản của chúng ta về cuộc sống khi cần thiết.
KHẢ NĂNG HỒI PHỤC
Với tuổi bảy mươi tư, đức Đạt Lai Lạt Ma đã trải qua một cuộc đời thật sự phi thường, một cuộc sống được đánh dấu bởi chuyển hướng định mệnh đột biến và cuồng nhiệt. Ngài không lạ gì với những nghiệt ngã, chán nản, hay thất bại. Vào lúc hai tuổi, ngài đang sống với gia đình trong một làng quê Tây Tạng, hai mươi gia đình, trong một vùng xa xôi cách trở với thủ đô Lhasa. Gia đình nông dân nghèo của ngài gieo trồng một ít kiều mạch, lúa mạch, và khoai tây. Ngài đã ngủ cạnh một chiếc lò gỗ trong nhà bếp mỗi tối, và ban ngày chập chững đi quanh vườn với những con gà và những con dzomo (một loại lai giữa tuyết ngưu yak và bò).
Khi được mười tuổi, cậu bé hai tuổi Lhamo Döndrub đó đã trở thành Jetsun Jamphet Ngawang Lobsang Yeshe Tenzin Gyatso, nhà cai trị siêu thế của vùng đất cổ xưa, được tất cả yêu mến và phụng thờ. Vượt khỏi vai trò của một vị vua thông thường, ngài được xem như sự tái sinh lần thứ mười bốn của Đạt Lai Lạt Ma. Trong một truyền thống ngược dòng thời gian sáu trăm năm, ngài là hiện thân của đức Quán Thế Âm, Bổn Tôn Từ Bi, vị hộ mệnh của Tây Tạng. Ngài đã bắt đầu sự học tập cả cuộc đời dài của ngài với đạo Phật như một thầy tu. Bất cứ khi nào du hành khỏi cung điện một nghìn phòng tráng lệ, Potala, cung điện mùa đông của Đạt Lai Lạt Ma, ngài được vây quanh bởi một đoàn tùy tùng khổng lồ; bất cứ khi nào ngài đi, ngài ngồi trên một chiếc kiệu màu vàng được trang trí lộng lẫy được khiêng bởi tám người phu ăn mặc trau chuốc. Với thêm một trăm người mỗi bên. Cả thành phố chỉ trông ngóng để được nhìn thấy ngài khi ngài ngang qua, chìm trong im lặng với lòng kính sợ, những dòng lệ rơi xuống trong đôi mắt khi họ lạy phủ phục trên mặt đất.
Vào năm mười lăm tuổi, ngài chính thức đăng quang để đảm đương vai trò toàn quyền chính trị, nhưng ngài đã không hoàn toàn chuẩn bị cho những gì xảy ra phía trước cho Tây Tạng. Ngài đảm nhận vai trò lĩnh đạo của một xứ sở trên bờ ven của chiến tranh với một quốc gia đông dân nhất trên thế giới, mà những đội quân Cộng sản của nó đã xâm lấn giang san, làm khổ đau đến đồng bào mà họ sẽ phải khiếp đảm khi so sánh với những gì sẽ xảy ra không bao lâu sau đó.
Đến năm hai mươi bốn tuổi, ngài bị bắt buộc phải đào thoát khỏi quê hương mến yêu của ngài trong một sự ngụy trang và lẫn tránh ngặt nghèo, đến biên giới Ấn Độ sau hàng tuần di chuyển xuyên qua Hy Mã Lạp Sơn khúc khuỷu. Ngài đã đến nơi kiệt sức trên lưng một con dzomo, ướt đẫm từ những cơn mưa giá buốt cuồn cuộn, nóng sốt với cơn bệnh kiết lỵ. Gần như bỏ lại hầu hết sau lưng, ngài đã đến nơi thực tế không có gì mang theo.
Vào ngày 10 tháng Ba, 2008, một nhóm tu sĩ Tây Tạng bên trong quê hương Tuyết Sơn tổ chức một cuộc biểu tình hòa bình phản kháng những thập niên tàn bạo và áp chế dưới cai trị của Trung Cộng. Đấy là kỷ niệm bốn mươi chín năm của cuộc đồng khởi bất bạo động thất bại đã đưa đến việc đào thoát của đức Đạt Lai Lạt Ma lưu vong đến Bắc Ấn Độ. Từ thủ đô Lhasa, những cuộc chống đối tương tự đã bắt đầu lan rộng khắp Tây Tạng và ngay cả trong những tỉnh Hoa Lục lân cận với đông cư dân Tây Tạng. Nhiều cuộc phản kháng này nhanh chóng chuyển biến vượt khỏi sự kiểm soát. Trong nhiều ngày, thế giới đã chứng kiến một thời điểm bất ổn, bạo động, náo loạn, và đàn áp rộng lớn nhất bên trong Tây Tạng tối thiểu trong vòng hai mươi năm qua. Sự đáp ứng của Trung Cộng nhanh lẹ và thô bạo, với một dập tắt bởi quân đội kể cả những sự bắt bớ, giam giữ nhiều người, nhiều trường hợp thương vong, và đặc biệt là đặt toàn bộ Tây Tạng trong tình trạng phong tỏa... Đức Đạt Lai Lạt Ma lập tức ra lời yêu cầu chấm dứt bạo động cho cả hai phía, và xuyên suốt thời điểm tệ hại nhất của cuộc khủng hoảng, và sau đó duy trì lời kêu gọi kiên quyết của ngài cho bất bạo động, cho lưu hành những bức thư mở cho cả những người Tạng và Hoa trong ấy kêu gọi cho sự thông hiểu hỗ tương, để tránh khỏi sự bạo động xa hơn nữa, và cho từ bi ngay cả đến kẻ thù của mỗi người.
Trong việc đáp ứng đến lời kêu gọi của những lĩnh tụ thế giới cho nhà đương cục Bắc Kinh tiến hành đối thoại với những đặc phái viên của đức Đạt Lai Lạt Ma để làm dịu căng thẳng và tìm ra một giải pháp nào đấy cho vấn nạn, giới lĩnh đạo Trung Cộng đã lên thời biểu cho một cuộc gặp gỡ. Thông lệ họ thường tảng lờ những yêu cầu như thế, nhưng họ quan tâm đến việc tô điểm một khuôn mặt đẹp đẽ trước Thế Vận Hội sắp đến ở Trung Hoa.
Tôi đã gặp đức Đạt Lai Lạt Ma vào tháng Mười Một năm 2008 để thảo luận tình thế với ngài. Đã mất sự tin tưởng vào giới lĩnh đạo Trung Cộng như những đối tác thương thuyết thật sự, vào lúc ngài cảm thấy rằng tình thế là tuyệt vọng, nhưng không có ý tưởng gì khác, vì thế tuần ấy ngài đã triệu tập một cuộc gặp gỡ đặc biệt của người Tây Tạng, yêu cầu họ đến Dharamsala từ khắp nơi trên thế giới - cho một cuộc trưng cầu dân ý về phương pháp Tiếp Cận Trung Đạo của ngài và một diễn đàn để thảo luận những ý kiến mới. Trước khi diễn tả sự đáp ứng cá nhân của đức Đạt Lai Lạt Ma về những sự kiện này, thật quan trọng để đặt những sự kiện này trong một khung cảnh, vì thế ôn lại tóm tắt lịch sử vấn đề Hoa - Tạng từ năm 1959 có thể rất hữu ích.
Vào năm 1959, đức Đạt Lai Lạt Ma đã đào thoát lưu vong sang Bắc Ấn, cùng với khoảng một trăm nghìn người Tây Tạng khác, sau một cuộc nổi dậy bất bạo động thất bại bởi những người Tây Tạng chống lại sự xâm lược và chiếm đóng bởi quân đội Trung Cộng. Bao năm đã trôi qua, được đánh dấu bởi những khổ đau vô vàn cho người Tây Tạng. Trong những thập niên đầu, có vô số người bị cầm tù, tra tấn, đói khát, hay bị giết hại. Đã có hàng nghìn tu viện Phật giáo bị san bằng thành bình địa, cùng với một nỗ lực có hệ thống để xóa sổ sự thực tập và tâm linh đạo Phật ở Tây Tạng. Ngày nay, tôn giáo, văn hóa, ngôn ngữ, và bản sắc Tây Tạng gần tuyệt diệt trong những gì được gọi là một “sự diệt chủng văn hóa”. Và của một sự quan tâm to lớn nhất của nhà cầm quyền về một dự án định cư có tính toán - một chính sách về sự di chuyển dân cư người Hán vào Tây Tạng, tìm cách làm cho người Tây Tạng bất lực bằng việc cuối cùng biến họ trở thành một nhóm thiểu số ngay trên quê hương của họ như cách mà Bắc Kinh đã làm ở Nội Mông, nơi mà cư dân bản thổ khu vực bây giờ chỉ còn hai mươi phần trăm trong tổng số dân cư.
Trong năm mươi năm, việc tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho vấn đề, đức Đạt Lai Lạt Ma đã cố gắng đi vào những cuộc thương thảo nghiêm chỉnh. Từ năm 2002, đã có tám vòng đàm phán giữa những đặc phái viên của đức Đạt Lai Lạt Ma và giới chức Trung Cộng. Trong những năm lưu vong, ngài đã phát triển những vị thế hứa hẹn với phương pháp Tiếp Cận Trung Đạo và Dự Án Hòa Bình Năm Điểm, mà trong ấy ngài đã từ bỏ việc kêu gọi cho một sự độc lập trong việc chuyển đổi cho một khu tự trị đầy đủ ý nghĩa, nhân quyền, và một sự tự do hơn cho đồng bào của ngài. Không có cuộc đàm phán nào đã làm nên một tiến trình thật sự trong việc chấp nhận cho những dự án này hay ngay cả một sự thương nghị nghiêm túc. Cuộc gặp gỡ sau cùng đã xảy ra vào năm 2008, sau những cuộc náo loạn và đè bẹp tháng Ba. Trong cuộc gặp gỡ ấy, cuối cùng đã trở nên rõ ràng rằng nhà đương cục Bắc Kinh đã không thương thảo với một sự tin cậy tốt lành: Không chỉ không một tiến trình nào được làm nên, mà họ đi ngược lại những vị thế giống như họ đã làm hai mươi năm trước đây, áp đặt những đòi hỏi gần như không thể có đối với đức Đạt Lai Lạt Ma, chẳng hạn như đòi hỏi ngài công nhận một cách chính thức rằng Tây Tạng đã luôn luôn là một phần của Trung Hoa, trước khi họ đồng ý tiếp tục những cuộc nói chuyện xa hơn - một thực tế đơn giản là không đúng và là ngay chính trọng tâm của cuộc tranh cãi.
Vì vậy, sau năm mươi năm nỗ lực không ngừng, rõ ràng đức Đạt Lai Lạt Ma và những người khác đã không làm nên được một sự tiến bộ nào với nhà đương cục Bắc Kinh. Dĩ nhiên, đã có vô số chứng cứ về điều đó trước đây rồi.
Trong những năm gần đây giới cầm quyền đã tô điểm sự khoa trương chống lại đức Đạt Lai Lạt Ma đến những trình độ chưa từng thấy trước đây, dán cho ngài nhãn hiệu một “kẻ ly khai”, “tội phạm”, “phản quốc” (?), và mửa ra một luồng bôi bẩn, không ngượng nghịu, và những sự xuyên tạc có thể bắt đầu để trở thành việc làm phiền toái thật sự (ít ra đến những người biết đức Đạt Lai Lạt Ma) nếu nó không vì một sự uốn nắn buồn cười được cung cấp bởi một số sự lăng mạ nhắm vào ngài. Điều thích thú của tôi có lẻ là “Một con cáo trong lớp áo thầy tu, một ác quỷ với khuôn mặt con người nhưng với trái tim một con thú!” - một miếng bánh bơ được cung cấp bởi người đứng đầu khu ủy Cộng Đảng của khu tự trị Tây Tạng.
Thêm nữa, Trung Cộng đã leo thang trong cố gắng để làm mất uy tín, hạ thấp hay loại bỏ đức Đạt Lai Lạt Ma. Với thế giới ở giữa cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, Bắc Kinh đã sử dụng sức mạnh kinh tế của họ cố gắng để bắt nạt và dọa dẫm một cách hùng hổ mỗi một lĩnh tụ, viên chức chính quyền, cá nhân đáng chú ý, hay những tổ chức thế giới để xa lánh đức Đạt Lai Lạt Ma. Thí dụ, khi Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy gặp gỡ với đức Đạt Lai Lạt Ma trong năm 2008, trong sự trả đũa, Trung Cộng rút lui một cuộc họp thượng đỉnh quan trọng với Liên hiệp Âu châu đã được lên thời biểu để đối phó với những vấn đề nghiêm trọng liên hệ đến cuộc khủng hoảng tài chính. Trong thực tế, vào tháng Ba, ngoại trưởng Trung Cộng Dương Khiết Trì đã tuyên bố một cách trơ trẻn rằng xa lánh đức Đạt Lai Lạt Ma phải được xem là một trong những “nguyên tắc căn bản trong những mối quan hệ quốc tế [với Trung Hoa]”.
Sau cuộc thương nghị thất bại trong năm 2008, nhiều người tin rằng rõ ràng là nhà cầm quyền Bắc Kinh từ trước đến giờ đã trì hoãn, chờ đợi sự ra đi vĩnh viễn của đức Đạt Lai Lạt Ma, thế là họ có thể dựng lên một bù nhìn. Dĩ nhiên, điều đó cũng sẽ không phải là một điều ngạc nhiên gì. Cũng đã có một bằng chứng nào đấy về điều đó.
Trong thực tế, họ dường như đang thực hiện những bước sôi động để chuẩn bị cho điều này. Đôi khi những biện pháp này dường như lố bịch, và vào những lúc khác chúng rõ ràng vượt khỏi phạm vi ấy, thâm nhập sâu vào trong lĩnh vực kỳ quái. Thí dụ, trong năm 2007, chính quyền Cộng sản duy vật vô thần khép kín, đối kháng tôn giáo đã thông qua một loạt những đạo luật đặc biệt: Tiêu chuẩn Quản lý Đánh giá Tái sinh (MMR) được ban hành bởi Vụ Quản lý Tôn giáo Quốc gia (SARA). Những đạo luật này cho phép chính quyền hoàn toàn kiểm soát đối với việc tái sinh! Vâng, đúng như vậy. Các đạo luật tuyên bố rằng chỉ chính phủ mới có quyền cho phép một vị lạt ma qua đời tái sinh! Luật đã cho phép nhà đương cục quyền năng phủ quyết một lạt ma Phật giáo Tây Tạng được tái sinh sau khi vị ấy viên tịch! Trong thực tế, các đạo luật đã tuyên bố rằng chính phủ độc quyền kiểm soát việc tái sinh của những lạt ma Phật giáo cao cấp, và không một tổ chức ngoại quốc hay cá nhân nào có thể can thiệp vào việc lựa chọn những lạt ma tái sinh. Nó cũng đòi hỏi rằng tất cả những lạt ma Tây Tạng phải tái sinh trong lĩnh thổ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chứ không phải ngoại quốc! Tiện lợi làm sao ấy! Theo truyền thống Tây Tạng, mỗi vị Đạt Lai Lạt Ma là tái sinh của tất cả những vị Đạt Lai Lạt Ma trước đây của vị ấy, được lựa chọn theo những truyền thống và nghi thức cổ truyền của Phật giáo Tây Tạng, là việc tìm kiếm và xác định vị Đạt Lai Lạt Ma hài đồng tái sinh khi vị cũ qua đời - tối thiểu là cho đến bây giờ.
Với điều này như một nền tảng, tôi đã gặp đức Đạt Lai Lạt Ma tại tư dinh của ngài vào tháng Mười Một năm 2008. Sau quá nhiều thập niên hoàn toàn thất bại trong việc tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho tình thế, những sự kiện 2008 đã đánh lên một tiếng chuông. Khi tôi bắt đầu hỏi ngài về những náo loạn trong tháng Ba và việc đè bẹp theo sau, sự biểu lộ phiền não trên khuôn mặt của ngài và sự mệt mỏi trong giọng nói của ngài đã chuyển tải một mức độ của sự chán nản mà tôi chưa từng thấy trong hơn hai mươi lăm năm từ khi chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên.
“Từ khi khủng hoảng tháng Ba xảy ra, tôi thật sự cảm thấy một cảm giác tuyệt vọng,” ngài giải thích. Giống như khó khăn để tìm ra những ngôn ngữ chính xác, ngài dừng lại để tập trung tư tưởng trong một lúc trước khi tiếp tục trong một âm điệu mềm mại và êm ả hơn. “Tôi cảm thấy nó giống như kinh nghiệm mà tôi đã có vào năm 1959, ngày 10 tháng Ba.” Một lần nữa ngài rơi vào trong im lặng trong chốc lát và ngồi trong tư thế mơ màng trong một vài phút trước khi tiếp tục. “Cũng vào lúc ấy đồng bào Tây Tạng đã tin tưởng tôi, đặt nhiều hy vọng vào tôi, và tôi đã không làm được bất cứ điều gì. Tôi thật sự cảm thấy rất, rất buồn. Rất buồn.”
Khi chúng tôi bắt đầu nói chuyện, tôi thật sự quan tâm để thấy ngài đã vượt thắng như thế nào. Chúng tôi đã nói chuyện với nhau hơn hai giờ đồng hồ về phản ứng của ngài đến những sự kiện gần đây bên trong Tây Tạng và lịch sử trường kỳ thất bại của ngài trong việc giải quyết vấn đề Tây Tạng. Tuy vậy, khi cuộc gặp gỡ của chúng tôi tiếp tục, tôi đã chứng kiến một tiến trình phi thường. Mặc dù chán nản và lo lắng, nhưng khi tôi hỏi thăm rằng ngài có mất hy vọng không, câu trả lời của ngài là không một cách rõ ràng. Trong việc trả lời câu hỏi của tôi ngài đã bắt đầu cho hết lý do này đến lý do khác tại sao những mục tiêu của ngài - những mục tiêu cho đồng bào Tây Tạng, ngài nói rõ, như ngài đã chỉ đang hành động nhân danh họ - có thể cuối cùng đạt được mà không có bạo động. Ngài đã giải thích những sự kiện năm 2008 rốt cuộc đã làm cho ngài đánh mất sự tin tưởng như thế nào, tối thiểu vào lúc ấy, trong chính quyền và giới lĩnh đạo Trung Cộng như những đối tác thật sự trong việc đem đến sự thay đổi lợi ích hỗ tương. Nhưng ngài tiếp tục nói niềm tin tưởng vững chắc của ngài đối với người Trung Hoa là mạnh mẽ hơn bao giờ hết và đó là phương hướng mà ngài nhắm tới để thấy hy vọng. Ngài chú ý sự quan tâm gia tăng đối với vấn đề Tây Tạng và sự đoàn kết lớn mạnh ngày càng nhiều hơn trong giới nhà văn, chuyên môn, trí thức, và những người khác. Ngài đã đề cập một vài thay đổi nhất định trong triết lý phổ quát của giới lĩnh đạo Trung Cộng trải qua hàng thập niên đã làm cho ngày càng rõ ràng rằng sự thống trị của họ sẽ đi đến chấm dứt. Cũng thế, ngài đã trích dẫn những lý do khác đã được hỗ trợ bởi những cảm nhận thông thường lẫn nghiên cứu khoa học. Thí dụ, ngài đề cập rằng sự tập trung của chính quyền trong việc tạo nên sự thịnh vượng và những thực hành tư bản chủ nghĩa gia tăng cuối cùng sẽ đưa đến kết quả trong việc làm lớn mạnh ảnh hưởng trong từng bộ phận dân chúng ngày càng lớn hơn. Ngài đề nghị rằng tại một thời điểm nào đó khi người dân có đủ những nhu cầu căn bản tồn tại cần thiết, cùng với một bảo đảm tối thiểu nào đó của sự sống, thế rồi những vấn đề như tự do, dân chủ, v.v... sẽ bắt đầu trở nên gia tăng tầm quan trọng. Như một kết quả, cuối cùng thay đổi xảy ra không thể tránh được.
Mỗi luận điểm của ngài được hỗ trợ bởi cảm nhận thông thường và được căn cứ trên thực tế hơn là những hy vọng sai lạc. Và khi cuộc gặp gỡ của chúng tôi tiếp tục, tôi đã thấy một sự chuyển biến - trong đau thương và chán nản lúc đầu, khi tôi hỏi ngài và ngài đã đưa ra những luận điểm của ngài, ngài đã trở nên ngày càng sinh động hơn, tin tưởng hơn, và lạc quan hơn. Tôi đã có thể cảm nhận một cách rõ ràng sức mạnh và sự kiên quyết bên trong của ngài, và tôi có thể thấy năng lực tâm linh của ngài bừng lên ngay trước mặt tôi, vì vậy vào lúc chấm dứt buổi gặp gỡ, mặc dù vẫn còn rất quan tâm, nhưng không còn dấu vết của tuyệt vọng hay lo sợ.
Vào lúc kết thúc cuộc gặp gỡ hôm ấy, tôi đã chứng kiến sự hồi phục trong hoạt động.
Tiếp tục cuộc thảo luận của chúng tôi buổi trưa hôm ấy, tôi bắt đầu, “Thưa Đức Thánh Thiện, hôm qua chúng ta chia tay với lời của ngài về vấn đề những kinh nghiệm ngoại tại của chúng ta có thể đóng một vai trò như thế nào trong việc chúng ta đương đầu với nghịch cảnh như thế nào...”.  
“Đúng đấy,” ngài đáp.
“Vậy thì, ngài có thể giải thích chứ?”

“Bây giờ này, trong việc phát triển sức mạnh nội tại mà có thể giúp chúng ta sống sót qua những thời điểm khó khăn, những gì chúng ta thật sự cần thiết là một loại khả năng hồi phục, khả năng để đối diện với những khó khăn của chúng ta mà không đánh mất hy vọng hay trở nên bị vùi lấp bởi nghịch cảnh. Những kinh nghiệm của chúng ta có thể là một nhân tố giúp xây dựng khả năng hồi phục. Tôi nghĩ rằng những ai đã kinh nghiệm gian khổ trong quá khứ đôi khi có thể đối phó một cách hiệu quả hơn với những rắc rối và nghịch cảnh sinh khởi trong hiện tại. Thí dụ, trong trường hợp của những người Âu châu, những người đã thấy hai cuộc thế chiến diễn ra trên đất đai của họ, do bởi kinh nghiệm này, khi họ chạm trán với những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, mặc dù họ đánh giá nó một cách nghiêm chỉnh, thì cùng lúc ấy sự đáp ứng của họ sẽ là điều gì đấy như, ‘Vâng, chúng ta đã thấy điều này trước đây; chúng ta đã trải qua nó và sống còn.’ Trái lại, trong những xã hội nơi mà người ta không trải nghiệm loại khổ đau như vậy trước đây, khả năng hồi phục có lẽ sẽ yếu kém hơn. Đôi khi, người ta ngay cả thấy khổ đau là không thể chịu nổi, vượt ngoài sự tưởng tượng, và có thể phản ứng đến nó trong một thái độ phóng đại.
“Nguyên tắc này, khả năng của gian khó giúp xây dựng khả năng hồi phục, dĩ nhiên hoạt động trên cả hai trình độ cá nhân cũng như trình độ xã hội. Thí dụ, chúng ta thấy điều này rất thường trong những đứa trẻ nào đó đến từ những gia đình giàu có, những ai sinh trưởng trong những sự thoải mái chung quanh, không bao giờ trải nghiệm thảm họa, gian khổ, hay nghịch cảnh. Bởi vì mọi thứ đã được cung ứng cho chúng, thường thì chúng đi qua đời sống với thái độ, ‘tôi giàu có, tôi mạnh khỏe, tôi sẽ có mọi thứ mà tôi cần,’ giống như chúng không tiên liệu để chạm trán những rắc rối trong cuộc sống. Đây là một ảo tưởng. Không thực tế. Vì thế, khi chúng giáp mặt với một rắc rối hay khó khăn, chúng có thể trở nên hoàn toàn bị áp đảo.
“Do vậy, nếu chúng ta nhìn vào những người vốn đã có những đời sống rất gian khó, chúng ta thông thường thấy họ có một khả năng hồi phục to lớn hơn. Khả năng hồi phục này, người ta đã xây dựng lên như một kết quả của việc chạm trán với những thảm họa tạo nên một loại kiên quyết nào đấy, và một quan điểm hay thái độ khác biệt đối với nghịch cảnh hay khổ đau, vì thế khi họ chạm trán với những thảm họa hay tình thế mới bất lợi, có một cấp độ lớn hơn của việc thừa nhận vì thế nó không quấy rầy họ quá nhiều. Có một loại sức mạnh nào đó, một phẩm chất ổn định của tâm thức, là điều có thể là một lợi ích lớn trong việc hổ trợ người ta đương đầu [với nghịch cảnh].”
“Ngài biết không, thưa Đức Thánh Thiện, tôi nghĩ ngài đã nêu lên một điểm rất quan trọng về vai trò của gian khó trong việc bồi đắp nên khả năng hồi phục. Nhưng cho đến khi nào có một phương pháp thực tiễn như vậy để giúp chúng ta xây dựng khả năng hồi phục, có một kỹ năng mà chúng ta có thể áp dụng hay thực tập, thì tôi không chắc điều này hữu ích như thế nào. Bởi vì xét cho cùng, bất chấp những thử thách có thể hữu ích như thế nào trong việc thiết lập khả năng hồi phục, thì chúng ta cũng không cố vươn ra và tìm kiếm khó khăn một cách cẩn trọng,” tôi trả lời.
Đức Đạt Lai Lạt Ma lắc đầu. “Chúng ta không cần phải cố gắng vươn tới và tìm kiếm thử thách một cách thận trọng; khó khăn sẽ tìm kiếm chúng ta. Những vấn nạn đầy dẫy chờ chực phát sinh; đấy là bản chất của đời sống. Và tiến trình này không là điều gì đấy mà chúng ta cần thực tập một cách chủ tâm; nó là một tiến trình tự nhiên sẽ xảy ra bởi tự nó.”
“Nhưng khi chúng ta đang nói trước đây về việc phát triển một cái nhìn hay thái độ nào đấy về khổ đau và nghịch cảnh, ngài thường đề cập rằng điều này phải liên hệ với một tiến trình năng động hơn của việc nghiên cứu, học hỏi, khảo sát, phân tích, gia tăng sự tỉnh thức của chúng ta và... -”
“Nhưng ở đây chúng ta đang nói về điều gì đấy khác hơn,” ngài chỉ ra. “Trong trường hợp này, gian khổ có thể được thấy như những chướng ngại đủ loại sẽ phát sinh trong đời sống của chúng ta. Và trong một ý nghĩa, những chướng ngại này hoạt động đối kháng đến những nỗ lực để đạt đến hạnh phúc của chúng ta, để chạm tay đến những cội nguồn của hạnh phúc và toại nguyện. Chính là sự đối kháng này đã tạo nên sức mạnh của chúng ta. Định luật đối kháng này là một bộ phận của thế giới tự nhiên. Thí dụ, nếu chúng ta muốn tạo nên một thân thể, sự đề kháng mạnh mẽ hơn đòi hỏi cho cơ bắp lớn lên - một năng lực đối kháng được yêu cầu. Phía trước, chúng ta đã nói về vấn đề những năng lực đối kháng là cần thiết cho việc duy trì trạng thái cân bằng trong thân thể. Và những sự đối kháng hay thử thách đến những quan điểm của chúng ta có thể đưa đến kết quả trong các ý tưởng mới và sự phát triển mới, v.v... Một tiến trình tương tự được khai triển ở đây trong trường hợp của việc xây dựng khả năng hồi phục.
“Do vậy, trong bất cứ trường hợp nào đi nữa,” ngài kết luận, “chính là từ nhận thức này mà chúng ta có thể nhìn những chướng ngại trong đời sống của mình từ một khía cạnh tích cực, như có một tiềm năng lợi ích nào đấy - cống hiến đến khả năng hồi phục và sức mạnh nội tại lớn hơn.”
Đức Đạt Lai Lạt Ma dừng lại ngắn gọn trước khi tiếp tục. “Điều này nhắc tôi về một nguyên tắc tâm linh trong truyền thống Tây Tạng về những sự thực tập phổ quát được biết như lojong hay ‘luyện tâm’. Theo điều này, có ý kiến rằng, những hành giả tâm linh trưởng thành hơn sẽ không chỉ có thể chịu đựng các nghịch cảnh, mà trong thực tế, họ có thể chuyển hóa các nghịch cảnh một cách sáng tạo thành những cơ hội.”
“Ngài có thể giải thích một cách chính xác ngài tiến hành việc này như thế nào không?”
“À, phương pháp then chốt ở đây, một lần nữa là có một nhận thức rộng rãi hơn. Thí dụ, nếu chúng ta bỗng gặp phải khổ sở vì một chứng bệnh nào đó, thay vì bị áp đảo và chán nản bởi tư tưởng trải nghiệm này “Tại sao là tôi?” chúng ta có thể sử dụng nó như một căn bản cho một sự đánh giá sâu sắc hơn về những gì là những thứ yêu mến nhất đối với chúng ta trong đời sống của mình. Khi chúng ta ở trong hoàn cảnh ấy, kinh nghiệm có thể mở ra cho chúng ta một khả năng thật sự về việc nhận ra những gì quan trọng thật sự trong đời sống, đối lập với nhiều thứ thường chiếm cứ quá nhiều thời gian của chúng ta và dường như quá quan trọng đối với chúng ta, mà bây giờ chúng ta nhận ra là không quá quan trọng. Đối với một số người, điều này cũng có thể là một cơ hội làm tăng thêm lòng từ bi của họ cho những con người đồng loại.”
Nhớ lại một sự kiện vài năm trước đây, tôi nói, “Thưa Đức Thánh Thiện, những gì ngài vừa nói nhắc tôi khi ngài có một cơn bệnh nghiêm trọng. Đấy là khi ngài phải đình chỉ một lễ truyền pháp Thời Luân. Tôi nghe nói ngài bị một loại rối loạn tiêu hóa, ngài có thực tập bất cứ kỹ năng nào loại này không? Ngài có thể kể cho tôi nghe trong một số chi tiết về những gì xảy ra lúc ấy không?”.  
“Vâng. Lúc ấy, tôi đến Đạo Tràng Giác Ngộ - Bodhgaya, và có một vài ngày chuẩn bị trước lễ truyền pháp Thời Luân. Tôi nhân cơ hội này để hành hương đến Vương Xá thành và Na-lan-đà. Trên đường trở lại, chúng tôi đi ngang qua Patna, tôi đã bắt đầu bị đau ở đây” - chỉ vào bụng dưới của ngài - “Cơn đau đã trở nên rất tệ hại, mãnh liệt, đau dữ dội. Cơn đau quá mãnh liệt tôi đã đẫm mồ hôi. Tôi không thể ngủ, không thể nằm xuống thẳng ra, tôi chỉ cong người và giữ như thế này, thế này,...”
“Vị thế như thai nhi?”
“Vâng, vị thế thai nhi. Xuyên qua Patna, đây là tiểu bang Bihar. Bihar là một bang rất nghèo, gần như nghèo nhất Ấn Độ. Có rất nhiều người nghèo, và đặc biệt, tôi chú ý các trẻ em, các bé trai và bé gái chân không, mang cặp sách đi học, và lượm nhặt phân bò làm chất đốt. Và rồi thì tôi chú ý một bé trai. Cậu bé trông khoảng mười tuổi, có thể trẻ hơn. Và cậu bé đeo vòng cả hai chân, bị bại liệt, tôi nghĩ thế, và chống nạn cả hai tay. Cậu bé vẫn chỉ ở trên đường, và dường như không ai săn sóc. Rồi thì, không xa đấy, tôi thấy một cụ ông đang nằm trong một... ngăn buồng hay chuồng, chỉ nằm hay ngủ ở đấy. Theo hiện tướng của ông cụ, đầu tóc, râu ria dài và quần áo rối bùi - đấy là chứng cứ rằng không ai săn sóc ông cụ này. Vì thế, tôi có một cảm giác rất mạnh mẽ, một loại tuyệt vọng và bơ vơ. Tôi cảm thấy một cách rất mạnh mẽ, tôi không thể giúp đỡ những người này. Tôi không thể hỗ trợ họ và có rất nhiều. Tôi đã nghĩ về việc họ phải là sự quan tâm của chính quyền tiểu bang như thế nào, và có những người tốt bụng muốn giúp đỡ, nhưng cũng có nhiều sự tham nhũng ở Bihar, vì thế những điều kiện ở đấy rất là tồi tệ, rất nghèo. Thật rất đáng buồn."
“Vì thế vào lúc ấy, tôi đang có cơn đau dữ dội, nhưng thay vì tập trung tâm tư của tôi trên cơn đau của chính tôi, tôi đã quán chiếu trên những người nghèo này và đặc biệt tôi đã nghĩ về cậu bé nọ và cụ già đó, với một cảm giác quan tâm liên tục cho những người này. Tôi đã nghĩ về việc tôi may mắn như thế nào, với rất nhiều người quan tâm đến tôi, để tỏ lòng thông cảm và ở đây là những người này, những người cùng giống như..., những người này là những con người giống như tôi, nhưng không ai săn sóc họ... Thế nào đi nữa, suy nghĩ trong cách này hướng tâm tư tôi từ một suy nghĩ về bệnh hoạn và đau đớn của tôi sang phía khác... Và kinh nghiệm này cho một sự làm mới của việc đánh giá về lòng từ bi, một niềm tin tưởng mới về những lợi ích của từ bi.”
Giọng của đức Đạt Lai Lạt Ma chìm vào trong im lặng trong một lúc, rồi thì ngài đột nhiên cười lớn. “Ông thấy đấy, mặc dù đấy là chính những người khác này mà tôi đã quan tâm đến, nhưng tôi là kẻ được lợi ích - bởi vì tôi trải nghiệm sự giảm thiểu đau đớn."
“Do vậy,” ngài kết luận, “tôi đã phải đình chỉ lễ hội Thời Luân và họ tuyên bố hoản lại. Tôi đi nhà thương ở Bombay, và họ đã thử nghiệm và tìm ra chứng nhiễm trùng ruột. Sau một vài điều trị với thuốc kháng sinh, và cũng dùng một số y dược Tây Tạng, tôi đã bình phục hoàn toàn.”
Đức Đạt Lai Lạt Ma dừng nói trong một lúc, nhìn xa xôi như trong một loại mơ tưởng, đuổi theo những quán chiếu riêng tư của ngài. Nghĩ về lược sử cá nhân của đức Đạt Lai Lạt Ma, đầy tràn những chướng ngại, tôi không thể không lấy làm lạ về bản chất những quán chiếu của ngài và hỏi, “A, nói về những thăng trầm và những khó khăn của đời sống, tôi tự hỏi, theo quan điểm riêng của ngài, thời điểm của những chướng ngại to lớn nhất trong đời sống của chính ngài là lúc nào, trên mức độ cá nhân, thời khắc khó khăn hay thảm nảo nhất của ngài, hay ngay cả những gian khó mà ngài có thể có khi là một cậu bé là lúc nào?"  
Câu hỏi của tôi dường như đánh động ngài từ cơn mộng tưởng ngắn của ngài, nhưng ngài vẫn dừng lại một lúc nữa, và một cách kinh ngạc sau đó ngài bắt đầu cười lớn. “Những khó khăn nhất trong lúc thơ ấu, là thầy tôi, Ling Rinpoche, đôi khi quở trách tôi, và điều này thật là dễ sợ. Thỉnh thoảng tôi bị ngài khiển trách gắt gỏng, tôi quá bị áp đảo mà tôi phải chạy đến mẹ tôi! Và bà sẽ cho tôi một ít bánh mì và an ủi tôi.” Ngài lại cười nữa. “Dĩ nhiên, chúng ta không cho những kinh nghiệm thời thơ ấu là quan trọng lắm...” Nhanh chóng trở nên u sầu hơn, ngài tiếp tục. “Nhưng chắc chắn thời khắc khó khăn nhất là đêm mà tôi rời Lhasa, đêm mà tôi rời thoát khỏi Tây Tạng. Mọi thứ quá mờ mịt. Trên mức độ cá nhân, thậm chí cuộc sống của tôi ở trong tình trạng nguy hiểm. Và sự sống của non sông Tây Tạng đang treo trong khoảng không vô định. Do thế, đấy là một thời điểm vô cùng mờ mịt, không chắc chắn, và đau buồn vô hạn..."  
“Và rồi thì có lẻ là một thời điểm khác, khi Ling Rinpoche viên tịch... Không, không phải khi ngài qua đời, nhưng khi tôi nghe tin rằng ngài đã khốn đốn vì tai biến mạch máu não... Một vị thầy nữa của tôi đã về nơi vĩnh cửu một ngày trước. Vì thế, tôi đã nhận tin về cái chết này và tai biến mạch máu não của Ling Rinpoche cùng một lúc và trong ngay chính trong một điện tín.” Ngài dừng lại một lần nữa và nói một cách êm ả trong một giọng buồn rầu, “tôi đang ở Thụy Sĩ vào lúc ấy.” Ngài thêm một cách giản dị, “Đó là một thời khắc vô cùng đau buồn.”
“Nhìn lại, ngài đã suy nghĩ những kinh nghiệm đến một trình độ nào đã làm mạnh khả năng hồi phục của ngài?” tôi hỏi.
“À, này Howard, tôi không thể cho rằng tôi là một trong những người có khả năng hồi phục nhất trên thế giới. Nhưng về mặt khác, tôi cũng không ở phía cực đoan khác, một người khổ sở với mọi thứ xảy ra. Nhưng những kinh nghiệm này thật sự đã có một tác động nào đó."  
“Do vậy trong trường hợp của tôi, nếu tôi sống ở Tây Tạng và dành trọn cuộc đời của tôi ở Potala(1) và Norbulingka(2), sống một cuộc đời tự do thoải mái không chướng ngại, có lẽ tôi sẽ là một Đạt Lai Lạt Ma rất khác hôm nay. Dĩ nhiên, những thực tập tâm linh của tôi cũng làm nên một sự khác biệt. Nhưng thêm vào đấy, tôi cũng đã phải đối phó với những tình thế của đời thật nơi mà có nhiều phức tạp. Vì thế trong một ý nghĩa, người ta có thể nói rằng có hai cơ hội cho sự thực hành thiền tập. Một là sự thực hành thiền tập trong dạng thức quán chiếu, những sự thực tập tâm linh hàng ngày của chúng ta. Thứ kia là sự thực tập của đời thường, cuộc sống hàng ngày của chúng ta, nơi mà chúng ta phải chịu trải qua những kinh nghiệm đủ loại của các nghịch cảnh và thử thách, và rồi thì chúng ta thay đổi và trưởng thành từ những thứ này.”
Khi đức Đạt Lai Lạt Ma sắp kết luận những bình luận của ngài về gian khó và thử thách, một tư tưởng khác dường như đang nổi lên, và ngài thêm, "Ông biết không, trong việc nói về gian khó, có một hình ảnh đặc biệt của đức Phật mà cá nhân tôi thấy ngưỡng mộ sâu xa. Đấy là hình tượng của đức Phật trong một thân thể như bộ xương, đại diện cho một thời điểm trước đó trong đời sống của Ngài khi Ngài trải qua một thời gian của nguyên tắc và khó khăn căn bản của đời sống tu tập thời ấy, khổ hạnh. Những bức tượng nguyên thủy tồn tại đến ngày nay ở Viện Bảo Tạng Lahore, Pakistan. Tôi có một bức hình về hình tượng này ở nhà tôi. Đối với tôi, hình tượng này chuyển tải một thông điệp đầy năng lực rằng chính là qua khó khăn, chính là qua nỗ lực liên tục, mà đức Phật đã đạt đến sự tỉnh thức trọn vẹn. Bất cứ khi nào tôi thấy bức hình ấy, tôi cảm thấy xúc động sâu xa và nó cho tôi một ý nghĩa của tính can trường”.  
“Ngài biết không, thưa Đức Thánh Thiện, tôi vừa nghĩ về điều gì đấy khi ngài nói về những ‘nghịch cảnh và thử thách’, nói về hai thứ này giống như chúng đồng đẳng với nhau. Vậy thì, một phần của những gì ngài đang nói ở đây là chúng ta có thể nhìn những rắc rối của chúng ta như các thử thách được vượt thắng, và khi chúng ta chiến thắng những thử thách này, chúng ta trở nên mạnh mẽ hơn, kiên cường hơn và sôi nổi hơn, có thể đương đầu với những khó khăn của đời sống tốt đẹp hơn.”
“Đúng đấy.”
“Điều này rõ ràng nhắc nhở tôi về một loạt những thí nghiệm đã được thực hiện để khảo sát khả năng hồi phục, và nhìn vào những nhân tố có thể làm nổi bật khả năng của cá nhân bật dậy từ những nghịch cảnh hay khủng hoảng...”
Tại thời điểm này tôi đã diễn tả những thí nghiệm được điều khiển bởi Barbara Fredrickson và các đồng nghiệp, đưa đến Lý Thuyết Cởi Trói, như được diễn tả ở phía trước, họ gây ra một tình trạng băn khoăn và căng thẳng trong một nhóm đối tượng bằng việc nói với họ rằng họ chỉ có vài phút để chuẩn bị một bài thuyết trình. Sau đó các đối tượng được nói là buổi thuyết trình sẽ bị đình lại, và những người khảo sát có thể quyết định mức độ hồi phục bằng việc dự liệu họ cần bao lâu để hồi phục khỏi sự phản ứng căng thẳng - trong trường hợp này việc đo lường cần bao nhiêu thời gian để nhịp đập trái tim và áp huyết của họ trở lại bình thường. Tôi đã diễn tả loạt thí nghiệm đầu tiên mà trong ấy những cảm xúc tích cực được thấy làm nổi bật khả năng hồi phục, làm nhanh tiến trình hồi phục. Nhưng bây giờ, tôi đã đi đến xác định một nhân tố khác có thể cũng hoạt động để gia tăng khả năng hồi phục của các đối tượng.
“Thế nào đi nữa,” tôi tiếp tục, “khi tiến hành những loạt thí nghiệm, khảo sát này, chú ý rằng tất cả những đối tượng thí nghiệm quanh quẩn cùng một mức độ căng thẳng, nhưng không phải tất cả các đối tượng đã hồi phục cùng một tốc độ. Một số đối tượng có khả năng hồi phục cao độ một cách tự nhiên trong khi những người khác có sự hồi phục chậm. Do vậy, trong thí nghiệm này họ đã phân chia các đối tượng thành hai nhóm. Khi những người điều khiển thí nghiệm đang công bố những hướng dẫn về việc chuẩn bị buổi thuyết trình, họ đã cho một nhóm những hướng dẫn khuyến khích họ nhận thức bài tập trong một ánh sáng tích cực, như một thử thách được chạm trán và vượt thắng. Những hướng dẫn trong nhóm thứ hai hướng các đối tượng để thấy buổi thuyết trình có vẻ đe dọa hơn, họ được cho biết rằng buổi thuyết trình này sẽ được phân tích bởi những nhà chuyên môn và sự đánh giá trị sẽ được dùng để dự đoán tương lai thành công của họ".   
“Các nhà nghiên cứu thấy rằng sự thay đổi này không làm nên sự khác biệt nào đối với những đối tượng với khả năng hồi phục cao - giống như trước đây, họ bật dậy một cách nhanh chóng khỏi những phản ứng căng thẳng. Nhưng sự đổi thay này thật sự làm nên một khác biệt trong nhóm những người với sự hồi phục chậm - những người nhìn một cách thận trọng rằng việc thuyết trình như một thử thách đã bình phục khỏi những tác động của căng thẳng một cách nhanh chóng hơn, trong khi những người tiếp tục thấy buổi thuyết trình như sự đe dọa vẫn cần nhiều thời gian hơn để trở lại bình thường. Tôi nhắc lại thí nghiệm này, bởi vì tôi nghĩ nó là một sự soi sáng to lớn đối với quan điểm của ngài về nhận thức hay cái nhìn đơn thuần có thể có một ảnh hưởng trên khả năng của chúng ta để đương đầu với các vấn nạn, và trong trường hợp này là một tác động gây ấn tượng thật sâu sắc, một ảnh hưởng vật lý.”
“Vâng, đấy là một thí dụ tốt.” Đức Đạt Lai Lạt Ma nhất trí.
Đời sống là bấp bênh. Lược sử cá nhân của đức Đạt Lai Lạt Ma là một chứng cứ rõ ràng về điều đó - từ một cậu bé tại một làng quê nghèo vào lúc hai tuổi; đến một vị lĩnh tụ của một đất nước cổ xưa vào tuổi mười lăm; đến một nhà thương thuyết đấu tranh với Chủ tịch Mao vào lúc mười chín; đến một người tị nạn trong những năm ba mươi tuổi của ngài vẫn được yêu mến bởi đồng bào của ngài và được biết trong thế giới Phật giáo nhưng có lẻ sống trong một tình trạng ít người biết đến và hầu như bị quên lãng bởi thế giới còn lại. Đối với nhiều lĩnh tụ bị hạ bệ, câu chuyện sẽ chấm dứt ở đấy, rất giống với trường hợp của vị hoàng đế cuối cùng của Đại Thanh Trung Hoa. Tuy nhiên, trong trường hợp của đức Đạt Lai Lạt Ma, ngài trở thành công dân của thế giới, một vị thầy tâm linh vĩ đại, một khôi nguyên Nobel hòa bình, và một đại diện của bất bạo động, hòa bình thế giới, nhân quyền, và hòa hiệp liên tôn giáo. Trong khi đức Đạt Lai Lạt Ma phủ nhận bất cứ lời tuyên bố nào như một người hồi phục mạnh mẽ nhất của thế giới, thì rõ ràng rằng khả năng hồi phục đã đóng một vai trò trong năng lực của ngài để đối phó vô cùng thành công với nhiều đổi thay và nghịch cảnh mà ngài đã đối diện.
Để làm phong phú bộ sưu tập những khí cụ giúp chúng ta đương đầu với những đổi thay và nghịch cảnh trong đời sống, đức Đạt Lai Lạt Ma bổ sung thêm một khả năng hồi phục khác. Khái niệm của sự hồi phục được liên hệ một cách gần gũi với sự trau dồi hy vọng và lạc quan, khi cả ba thứ được liên hệ trong việc giúp sự đối phó của cá nhân với những khó khăn và căng thẳng của đời sống. Tuy nhiên, không giống như hy vọng và lạc quan, sự hồi phục là một khái niệm rộng rãi hơn mà nó bao gồm tổng lượng những cội nguồn nội tại - khả năng hồi phục là khả năng của chúng ta bật dậy từ những kinh nghiệm của nghịch cảm, chấn thương tâm lý, gian khó, và mất mát. Trong việc bổ sung vào việc hỗ trợ chúng ta đương đầu một cách hiệu quả với những vấn nạn quan trọng của đời sống và tiến tới, nó cũng giúp chúng ta đối phó với những căng thẳng hàng ngày và thích ứng với một thế giới biến chuyển liên tục.
Có nhiều nhân tố có thể đóng một vai trò tiềm tàng trong trình độ thông thường của một cá nhân nào đó về khả năng hồi phục. Thí dụ, duy trì những mối quan hệ tốt đẹp, có một quan điểm lạc quan về thế giới, sự giữ gìn mọi thứ trong những mục tiêu thiết lập triển vọng và hiện thực những bước để đạt đến, có niềm tin vững vàng, và có thể điều hòa những cảm xúc, được phối hợp toàn bộ với một khả năng hồi phục rộng lớn hơn.
Những cá nhân có thể khác biệt trong những sách lược hay đường hướng đặc thù mà họ dựa vào để giúp họ đương đầu [với khó khăn]. Nghiên cứu trên sự hồi phục thấy rằng một số người cố gắng để đương đầu với các căng thẳng và nghịch cảnh bằng “sự đối phó ức chế,” đơn giản cố gắng quên lãng nó. Trong những trường hợp khác, thì thấy rằng những ai trong đường hướng “tự đề cao” dường như xử trí những sự kiện chấn thương tâm lý tốt hơn những người khác. Đặc trưng này được phối hợp với những người mạnh mẽ một cách đặc thù trong lòng tự trọng và những người biểu lộ một khuynh hướng thấy chính họ trong tuệ trí sáng suốt nhất mà họ có thể làm. Trong khi đường hướng này có thể cho người ta một niềm tin vững vàng lớn hơn để đối phó với những sự kiện chấn thương tâm lý, hầu như thường khi những người khác có khuynh hướng thấy họ như kiêu ngạo hay ồn ào.
Trong việc thể nghiệm phương pháp của đức Đạt Lai Lạt Ma để xây dựng khả năng hồi phục, chúng ta có thể bắt đầu với tiền đề ban đầu của ngài rằng quan điểm của chúng ta về đời sống, chúng ta nhận thức thế nào về những rắc rối của chúng ta, đóng một vai trò then chốt trong việc chúng ta đương đầu như thế nào. Cái nhìn này được hỗ trợ bởi một nhóm lớn các nhà nghiên cứu khoa học. Trong việc tổng kết những chứng cứ hiện tại, những nhà tâm lý học của Đại học Notre Dame, Anthony Ong và Cindy S. Bergeman, những nhà chuyên môn trong lĩnh vực khả năng hồi phục của con người chỉ ra những “khác biệt trong việc thích ứng đến căng thẳng có thể hướng theo quan điểm tập quán của chúng ta về đời sống, đó là, vấn đề chúng ta phản ứng, đánh giá, và diễn dịch những kinh nghiệm trong đời sống như thế nào.” Trong một kinh nghiệm mà tôi đã diễn tả cho đức Đạt Lai Lạt Ma, chúng ta có thể thấy một cách rõ ràng vấn đề nhận thức của chúng ta về một rắc rối có thể ảnh hưởng một cách sâu sắc việc chúng ta hồi phục một cách nhanh chóng như thế nào từ những tác động của căng thẳng. Trong trường hợp này, cho dù đối tượng nhận thức rắc rối như một thử thách hay như một đe dọa làm nên một sự khác biệt lớn trong khả năng của họ đương đẩu với hoàn cảnh.
Thậm chí quan trọng hơn, thí nghiệm này cho thấy rằng một cá nhân có thể thay đổi một cách thận trọng việc họ nhận thức một hoàn cảnh đe dọa như thế nào. Trong thí dụ này, tất cả là yêu cầu những cá nhân với khả năng hồi phục chậm nhìn vào bài tập hay việc làm như một thử thách hơn là một đe dọa! Nhìn vào hoàn cảnh như một thử thách thay vì như một đe dọa là một thí dụ của việc tái nhận định tích cực hay đánh giá lại một cách tích cực - chúng tôi đang thảo luận cùng kỹ năng như vậy, thể hiện rất hiệu quả trong vấn đề trau dồi hy vọng và lạc quan. Đấy là một trong những phương pháp mà chúng tôi có thể sử dụng để nhìn vào những hoàn cảnh và sự kiện tiêu cực từ một nhận thức rộng rãi hơn, là điều hóa ra là sách lược chính yếu được đề nghị bởi đức Đạt Lai Lạt Ma cho việc trau dồi cái nhìn thực tiễn.
Có nhiều chứng cứ thừa nhận sự kiện rằng nhìn vào một rắc rối từ một nhận thức rộng rãi hơn có thể gia tăng khả năng hồi phục. Điều này có thể hoàn tất với việc tái nhận định tích cực - tìm ra ý nghĩa tích cực, mục tiêu cao cả, hay lợi ích tiềm tàng đối với nghịch cảnh, hoặc là ngắn hạn hay dài hạn. Việc tái nhận định tích cực cũng có thể bao gồm việc đánh giá lại tình thế tiêu cực trong một ánh sáng tích cực hơn bằng việc tìm kiếm những bài học có thể thu thập, hay những triển vọng tích cực tiềm tàng, như là kết quả trực tiếp hay gián tiếp của hoàn cảnh. Những kỹ năng nhận thức được diễn tả trước đây cũng có thể rất hữu dụng ở đây.
Những phương pháp này về tái nhận định tích cực, nhìn từ một viễn tượng hay nhận thức rộng rãi hơn, là cùng kỹ năng mà chúng tôi đã thảo luận trước đây cho việc gia tăng hy vọng và lạc quan. Trong thực tế, những kỹ năng này không chỉ hữu ích trong việc trau dồi hy vọng và lạc quan, mà chúng có thể cũng được dùng để giúp điều chỉnh cảm xúc trong phổ quát, một cách tự động giảm thiểu cảm xúc tiêu cực và gia tăng cảm xúc tích cực. Trong việc nhìn vào những nhân tố có thể giúp để làm làm tăng khả năng hồi phục. Nghiên cứu cho thấy rằng một cách căn bản bất cứ một cảm xúc tích cực hay tình trạng nào của tâm thức (tĩnh lặng, vui vẻ, sung sướng, toại nguyện, hạnh phúc trong tổng quát, v.v...) có thể nâng cao khả năng hồi phục.
Một trong những nhà nghiên cứu nhìn vào sự liên kết giữa những cảm xúc tích cực và khả năng hồi phục là Barbara Fredrickson. Trong một nghiên cứu, Fredrickson và những đồng nghiệp đã quán sát một nhóm sinh viên của Đại học Michigan và vài tháng trước sự kiện 11 tháng Chín, đo lường mức độ của sự hồi phục. Họ thử nghiệm lại sau 11 tháng Chín. Sau 11 tháng Chín, dĩ nhiên gần như mọi người cảm thấy buồn bả, giận tức, và sợ hãi thế nào đấy. Cả những sinh viên có khả năng hồi phục nhanh và chậm đã trải nghiệm những cảm xúc tiêu cực và bị xúc động sâu xa bởi thảm họa của quốc gia. Tuy thế những cá nhân nào đã được xác định như hồi phục cao độ trước 11 tháng Chín cho thấy nhiều cảm xúc tích cực hơn sau 11 tháng Chín mặc dù cảm thấy buồn bã và giận tức, họ không bị áp đảo bởi trải nghiệm, và cùng với những cảm xúc tiêu cực họ cũng cảm thấy biết ơn cho những điều tốt đẹp vẫn còn trong đời sống của họ. Họ cảm thấy rằng họ đã học hỏi điều gì đấy tích cực từ cuộc khủng hoảng, và lạc quan hơn trong tổng quát. Những người có khả năng hồi phục cao có khả năng để trải nghiệm những cảm xúc tích cực ngay cả ở giữa những sự kiện khủng hoảng. Những cảm xúc tích cực này dường như che đậy những ảnh hưởng tiêu cực của chấn thương tâm lý, giúp họ đương đầu tốt hơn, và so với những người có khả năng thấp hơn trong việc hồi phục và những cảm xúc tích cực, giảm thiểu những khổ đau có thể xảy ra từ việc phiền muộn. Những nhà khảo sát cho biết rằng những ai ở trong đường hướng của khả năng hồi phục “thoát khỏi những nỗi thống khổ của họ toại nguyện hơn với đời sống, lạc quan hơn, tĩnh lặng hơn - và thường mau phục hồi hơn - hơn là trước đó.”
Trong cái nhìn của nhiều lợi ích của những cảm xúc tích cực, kể cả khả năng làm tăng khả năng hồi phục và năng lực để đương đầu với nhiều rắc rối của thế giới ngày nay, may mắn rằng có nhiều sách lược hiệu quả có thể gia tăng một cách trực tiếp những thể trạng tích cực của tâm thức. Trong khi những khả năng như tái nhận định tích cực và nhìn vào rắc rối từ một viễn tượng rộng rãi hơn là những phương pháp chính của việc trau dồi những cảm xúc tích cực mà chúng tôi đang tập trung vào, cũng có những chiến lược khác có thể được sử dụng để gia tăng những cảm xúc tích cực. Thiền tập tương xứng và những kỷ năng thư giản đã cho thấy làm gia tăng những cảm xúc tích cực chẳng hạn như trầm lặng, yên tĩnh, v.v... Việc sử dụng tính hài hước và cười cũng hiệu quả. Do thế, không ngạc nhiên gì nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng tiếu lâm và cười to giúp chúng ta đương đầu với một sự giáp trận rộng lớn của những rắc rối hàng ngày. Tôi nghĩ không phải ngẫu nhiên mà đức Đạt Lai Lạt Ma không chỉ dường như có thể đương đầu với những rắc rối một cách rất hiệu quả, nhưng ngài cũng nổi tiếng vì cảm giác tráng kiện về tính hài hước và sự thoải mái mà với chúng ta ngài bùng nổ vào trong một nụ cười chân thật.
Khi nghiên cứu cho một phương pháp để duy trì hạnh phúc trên khuôn mặt của quá nhiều rắc rối trong thế giới hiện nay, chúng ta đã xác định những nhân tố đa dạng có thể đóng một vai trò quan yếu trong việc hỗ trợ chúng ta đương đầu: hy vọng, lạc quan, hồi phục, các cảm xúc tích cực trong tổng quát, một nhận thức rộng rãi hơn, tái nhận định tích cực, một ý nghĩa nền tảng, v.v... Đôi khi dường như rằng có quá nhiều kẻ diễn trò ở đây mà chúng ta cần một bảng kiểm điểm để không lạc lối với chúng.
Trong một nghiên cứu năm 2004 bởi Michel M. Tagade tại Đại học Boston College và Barbara Fredrickson, trích dẫn lẫn nhau cũng như những khám phá của riêng họ, các tác giả đã diễn tả mối quan hệ trong một số nhân tố: “Những ích lợi của việc đương đầu thường là tích lũy lại bởi vì sự mở rộng những cảm xúc tích cực làm gia tăng việc có thể đúng là những cá nhân thấy ý nghĩa tích cực trong những hoàn cảnh căng thẳng... Những cảm xúc tích cực có thể sinh ra việc tìm thấy ý nghĩa tích cực, là điều mà bởi hậu quả của nó, có thể phát khởi những kinh nghiệm xa hơn của những cảm xúc tích cực. Trong cách này, việc tìm thấy ý nghĩa tích cực tương ứng với sự mở rộng nhận thức của chúng ta khi đương đầu, là điều rồi thì sau đó giúp để xây dựng những nguồn gốc tâm lý, như khả năng hồi phục. Chu trình này có thể tiếp tục trong một ‘vòng xoắn ốc đi lên’ đối với việc làm gia tăng cảm xúc cát tường.”
À? Trong việc nhìn vào mối quan hệ giữa những nhân tố đa dạng này, chúng ta thấy một mạng lưới phức tạp của mối liên hệ hỗ tương mà có thể đôi khi dường như khó hiểu. Dường như rằng bất cứ nhân tố nào trong những nhân tố ấy cũng có thể làm nổi bật tất cả những nhân tố còn lại, trong một mối quan hệ đối ứng. Thí dụ, một viễn tượng rộng rãi hơn có thể làm gia tăng hy vọng, và càng hy vọng hơn càng dễ thấy hơn một rắc rối từ một viễn tượng rộng rãi hơn. Lấy bất cứ nhân tố nào trong hai thứ này và chúng ta sẽ thấy chúng có thể làm gia tăng cho nhau. May mắn thay, thật dễ dàng để đơn giản hóa những mối tương tác phức tạp giữa nhiều nhân tố có thể giúp chúng ta đương đầu với thế giới phiền toái của chúng ta. Nhìn vào những rắc rối và nghịch cảnh từ một viễn tượng rộng rãi hơn giúp chúng ta thấy những khía cạnh tiềm tàng tích cực từ hoàn cảnh. Càng hy vọng, lạc quan, và những cảm xúc tích cực khác mà chúng ta có, thì càng dễ dàng hơn để đương đầu với những vấn nạn ngoại tại trong khi vẫn duy trì hạnh phúc nội tại.
Nguyên tác: Hope, Optimism, and Resilience
Ẩn Tâm Lộ ngày 14/12/2011
Chú thích:

1. Cung điện mùa đông của đức Đạt Lai Lạt Ma.
2. Cung điện mùa hè, nơi đức Đạt Lai Lạt Ma trú ngụ ngay trước khi lưu vong. Hồng quân Trung Cộng ngỡ ngài ở bên trong ấy nên đã san thành bình địa, và đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ vừa cải trang thoát ra bên ngoài không bao lâu.
Chương 12
Hạnh phúc nội tại, hạnh phúc ngoại tại và niềm tin
Chúng tôi tiếp tục cuộc đàm luận vào buổi sáng kế tiếp với một vấn đề mà tôi cảm thấy cần được nêu lên.
“Thưa Đức Thánh Thiện, hôm qua chúng ta đang thảo luận về sự thực tập nhìn vào những rắc rối từ một viễn tượng rộng rãi hơn như một phương pháp để phát triển sức mạnh nội tại để giúp chúng ta đương đầu, để duy trì lạc quan hay hy vọng, v.v... Khi chúng ta đang thảo luận những cung cách đa dạng mà chúng ta có thể thấy mọi thứ từ một viễn tượng rộng rãi hơn, một đề xuất mà ngài đã nêu lên là hãy nhớ rằng chúng ta là một bộ phận của một cộng đồng to lớn hơn, chúng ta có sự liên kết này với những người khác, chúng ta không bị cô lập và đơn độc, v.v...”
“Vâng”.
"A,” tôi tiếp tục, “Điều này vừa nhắc tôi nhớ về những buổi thảo luận lần đầu tiên của chúng ta ở Dharamsala trên những chủ đề này. Tôi nhớ trong một lần thảo luận ngài đã đề cập cảm nhận của ngài rằng có một sự thiếu vắng ý thức cộng đồng trong nhiều xã hội, một cảm nhận gia tăng về sự cô lập và đơn độc, và rằng đây là một trong những nhân tố chính đã xói mòn hạnh phúc trên mức độ xã hội. Vì thế, tôi nghĩ rằng sách lược ngài đề cập hôm qua - ý tưởng rằng nhớ đến mối liên hệ của chúng ta với cộng đồng sẽ cho chúng ta sự thoải mái và sức mạnh nội tại cùng niềm tin vững vàng - không thật sự hoạt động một cách quá tốt đẹp nếu một người cảm thấy bị cô lập và cách ly khỏi cộng đồng. Do vậy, điều này đưa trở lại chủ đề thiếu vắng ý thức cộng đồng."
“Trong loạt gặp gỡ sau cùng ở Dharamsala, chúng ta đã chuyển đến sự thảo luận về bạo động và xung đột trong xã hội, v.v..., nhưng dường như rằng chúng ta chưa bao giờ thật sự kết thúc việc thảo luận của chúng ta về cộng đồng. Ngài đã phác thảo một vài bước mà chúng ta có thể thực hiện để xây dựng một ý thức cộng đồng mạnh mẽ hơn, như quán chiếu trên những lợi ích trong việc có những mối ràng buộc cộng đồng này, khảo sát quá khứ hay những đặc trưng mà chúng ta thường có thể có với những người khác, và rồi thực hiện một hành động bằng việc vươn ra và tham gia một nhóm hay liên hệ với người khác trong một cung cách nào đó. Nhưng dường giống như chúng ta chưa bao giờ kết thúc thảo luận vấn đề hình thành những mối liên hệ với người khác như thế nào trong một trình độ sâu xa hơn, căn bản hơn.”
Ngài xem xét điểm này trong một lúc trước khi trả lời. “Tôi nghĩ rằng ý nghĩa tiềm tàng của cộng đồng có thể liên hệ một cách gần gũi đến vấn đề niềm tin.”
“Liên hệ trong cách nào?” tôi hỏi.
“Dĩ nhiên, sự thiếu vắng ý nghĩa cộng đồng có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau, và luôn luôn có nhiều nhân tố khác biệt có thể góp phần đến rắc rối. Nhưng tôi nghĩ rằng sự vắng bóng cộng đồng này, sự đơn côi và xa lánh này, tất cả đều xuyên qua trong sự cục bộ đến một sự mất niềm tin tiềm tàng giữa con người với nhau. Dĩ nhiên, cùng lúc ấy, nơi có sự thiếu vắng cảm giác liên hệ với người khác, một sự thiếu vắng liên hệ cá nhân giữa những thành viên cua một cộng đồng hay một xã hội, và một sự vắng mặt của tâm linh hay tinh thần cộng đồng, điều này tạo nên những điều kiện có thể đưa đến một cảm giác mất sự tin tưởng. Vì thế, nó có thể xảy ra cả hai chiều.”
Một thời gian nào đó đã trôi qua giữa loạt thảo luận cuối cùng của chúng tôi ở Ấn Độ và việc tiếp tục khám phá về hạnh phúc con người của chúng tôi ở Tucson, Arizona. Trong khi chờ đợi tôi đã hoàn thành một số nghiên cứu xa hơn về hạnh phúc trên một mức độ xã hội rộng rãi hơn. Trong việc khảo sát xác nhận của đức Đạt Lại Lạt Ma rằng sự thiếu vắng ý thức cộng đồng làm xói mòn mức độ hạnh phúc trong một xã hội, tôi đã quán sát dữ liệu thông tin liên hệ đến vấn đề niềm tin với cả ý nghĩa cộng đồng và với hạnh phúc của chúng ta. Được cung cấp với những chứng cứ khoa học phong phú hỗ trợ cho quan điểm của ngài, tôi dự định sẽ tự mình đưa lên vấn đề niềm tin.
Háo hức chia sẻ tin tức này với đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi tiếp tục: “Thưa Đức Thánh Thiện, trong thời gian từ những cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng ta ở Dharamsala, tôi đã hoàn tất một nghiên cứu nhỏ về những chủ đề này. Tôi nghĩ thật là thích thú rằng ngài đã xác định cả hai niềm tin và ý thức cộng đồng của chúng ta như những nhân tố chìa khóa trong việc thúc đẩy hạnh phúc nhân loại trên mức độ xã hội. Một nghiên cứu tuyệt vời tôi đã thấy, Nghiên Cứu Những Giá Trị của Thế Giới, nhìn vào những quốc gia khác nhau và ước lượng mức độ trung bình về hạnh phúc trong công dân của họ. Sau đó những nhà nghiên cứu tiếp tục xác định sáu nhân tố then chốt giải thích hầu hết sự đa dạng trong các mức độ của hạnh phúc giữa những quốc gia. Số lượng người liên kết với những tổ chức xã hội, và vì thế có một sự liên kết với những người khác, là một trong sáu nhân tố. Một nhân tố khác có liên quan với mức độ trung bình của hạnh phúc trong một xã hội là tỷ lệ số người nói rằng những người khác có thể tin cậy được.”
“Cũng có một nghiên cứu được hoàn thành bởi Đại học Cambridge ở Anh Quốc, phân tích những kết quả của một cuộc thăm dò rộng rãi trong mười nghìn người trong nhiều khu vực khắp Âu châu, và họ thấy rằng những khu vực với mức độ hạnh phúc cao nhất cũng được báo cáo có mức độ tin tưởng cao nhất của họ đối với chính quyền, luật lệ, và giữa mọi người với nhau. Vì thế, chứng cứ dường như không lập lờ. Bất chấp nghiên cứu nào người ta nhìn đến, bán đảo Scandinavia luôn luôn ở trong số những khu vực hạnh phúc nhất của thế giới. Nếu chúng ta nhìn vào những đặc trưng của người dân ở vùng ấy, chúng ta sẽ thấy một ý thức cộng đồng mạnh mẽ và cảm giác tin tưởng tiềm tàng trong mỗi người với nhau. Trong một nghiên cứu các nhà chuyên môn đã hỏi các trẻ em giữa mười một và mười lăm tuổi, ‘Nói một cách tổng quát, em có thấy bạn bè trong lớp tử tế và hữu ích không?’ Một số lớn nói ‘vâng’ điều này tôi nghĩ là sự đo lường tổng quát thật tốt đẹp của câu hỏi ‘Em có tin bạn bè em không?’ Vì thế chứng cứ khoa học dường như chắc chắn ủng hộ những quán sát của ngài. Một cảm giác tin tưởng thật sự có thể làm nên một sự khác biệt trong mức độ hạnh phúc thông thường của con người.”
Đức Đạt Lai Lạt Ma dường như bị thu hút với những khám phá này và nhổm tới phía trước chiếc ghế của ngài với sự tập trung chú ý.
“Đúng là sự tin tưởng có thể góp phần cho hạnh phúc của chúng ta trên mức độ cá nhân,” ngài đồng ý. “Một cảm giác mất niềm tin có thể đưa đến một thái độ nghi ngờ, sợ hãi, và tinh thần bất an hơn, trái lại thái độ tin tưởng hơn có thể đóng góp cho một thể trạng tâm thức tĩnh lặng hơn, hạnh phúc hơn. Mà tin tưởng cũng có thể quan trọng trên những mức độ khác. Trên một trình độ rộng rãi hơn, tin tưởng có thể là một nhân tố không chỉ trong việc xây dựng một ý thức cộng đồng mạnh mẽ hơn, và vượt thắng cô đơn cùng xa lánh mà chúng ta đã nói đến, nhưng nó cũng hữu ích trong việc đối phó với nhiều vấn nạn trong xã hội mà chúng ta đã từng thảo luận. Thí dụ, trong một thảo luận chúng ta nói về tầm quan trọng của việc tìm ra những giải pháp đến các xung đột của chúng ta qua đối thoại hơn là qua bạo động. Tinh thần đối thoại. Đây là vấn đề then chốt. Và ở đây, niềm tin đóng một vai trò quan trọng - để một cuộc đối thoại được thành công điều quan trọng là cố gắng để xây dựng niềm tin giữa các bên đối tác. Do vậy", ngài thêm, “ông có thể thấy niềm tin là quan trọng như thế nào trong rất nhiều phương diện”.  
Trong những chương mở đầu của quyển sách này, đức Đạt Lai Lạt Ma đã đề cập về cộng đồng Tây Tạng như một sự minh họa về một cư dân với một tinh thần cộng đồng mạnh mẽ, là điều thường vắng bóng trong phương Tây xã hội đương đại. Nhớ lại lần viếng thăm lần đầu tiên của tôi đến Dharamsala, Ấn Độ, nơi cư trú của đức Đạt Lai Lạt Ma và một cộng đồng Tây Tạng lưu vong đang lớn mạnh, không có thắc mắc trong tâm tôi rằng sự minh họa của ngài đã được biện minh. Chứng cứ về đời sống cộng đồng năng động chưa từng hiện diện trước đây, cả trong đời sống tu viện lẫn cộng đồng cư sĩ. Có một sự ủng hộ hoàn toàn thật sự cho những cơ sở địa phương, kể cả Làng Trẻ Em Tây Tạng, phối hợp để bảo tồn nền văn hóa và nghệ thuật Tây Tạng, và vô số tổ chức dâng hiến cho việc nghiên cứu và thực tập đạo Phật. Tuy thế, tinh thần cộng đồng không phải chỉ đơn thuần được bảo tồn trong nhiều cơ sở này nhưng được phản chiếu trên mỗi khuôn mặt, được nghe trong từng nụ cười ha hả của trẻ con nô đùa trên đường làng, được thấy trên mỗi nụ mỉm cười của láng giềng đối thoại trên thềm cửa, sự thành tâm của những cụ già quay các bánh xe cầu nguyện và âm thinh của tu sĩ tán tụng xa xa. Chúng ta có thể cảm nhận tinh thần thống nhất gần giống như nó được phảng phất trên mùi hương vi tế của những nén nhang Tây Tạng thoảng qua không khí, một mùi gỗ tươi tắn của việc đốt cây cối và cỏ thuốc Hy Mã Lạp Sơn.
Tôi cũng nhớ lại lần đầu tiên tôi tham gia một cuộc tập họp đông đảo những người Tây Tạng. Lý do trực tiếp là một chương trình giảng dạy của đức Đạt Lai Lạt Ma ở một thị trấn miền Đông Bắc Ấn, Đạo tràng Giác Ngộ, một địa điểm thiêng liêng của Phật giáo, nơi Hoàng tử Sĩ Đạt Ta ngồi xuống dưới một gốc cây để thiền quán 2,500 năm trước đây, đạt đến giác ngộ, và trở thành một vị Phật. Ngày nay nó là chỗ cây Bồ Đề(1), được nói là dòng dõi trực tiếp của cây mà dưới nó Đức Phật đã ngồi. Cũng có khu phức hợp đền chùa, với nhiều tháp nhỏ và điện thờ, chung quanh Đại Tháp Giác Ngộ với những chấn song đá chạm trổ sắc sảo và một ngôi đền như kim tự tháp điêu khắc xinh đẹp vươn lên sừng sững trong không gian.
Hàng nghìn người Tây Tạng đã đến từ khắp Ấn Độ và Nepal, ngay cả một ít người đến từ chính Tây Tạng, tạo nên một không khí lễ hội, được làm nổi bật bởi những lá cờ cầu nguyện đủ màu sắc giăng ngang dọc trên những hàng cây, nhẹ nhàng phất phơ trong gió. Đấy là sự đắm mình đầy năng lực trong cộng đồng tâm linh Tây Tạng. Các gia đình đã trải những chăn mền trên mặt đất để ngồi trong thời gian thuyết giảng, và lần đầu tiên tôi chú ý một chi tiết nhỏ về cộng đồng, một điều không quan trọng bất thường cho lắm nhưng chính điều ấy với một lý do nào đấy đã đánh động tôi như một trong các dấu hiệu xúc động và yêu mến nhất của sự nối kết cộng đồng bền chặc: Nhóm những đứa bé đồng hương chập chững rõ ràng thích thúc cảm giác cộng đồng, một số chỉ mới tập đi, loạng choạng, không vững, và ngã vào trong lòng của những người xa lạ đang mỉm cười. Những đứa trẻ lớn hơn đôi khi tự biến mất để vui chơi, nhưng chúng dường như không có sự khẩn cấp để thoát khỏi cha mẹ của chúng như những trẻ con Mỹ có thể biểu lộ trong những tình cảnh tương tự. Các ông cha bà mẹ thỉnh thoảng đưa mắt để trông những con cái của họ, nhưng là một con mắt không lo lắng khi trẻ con hầu như được cho phép để lang thang tự do, bảo đảm trong ý nghĩa an toàn của cả nhóm (đông nhất như có thể), không có nỗi lo sợ là đặc trưng của rất nhiều bậc cha mẹ ở Hoa Kỳ khi những con trẻ của họ tham dự đến một cộng đồng rộng lớn hơn của những người xa lạ.
Trong một lý do nào đó cảnh tượng những đứa trẻ trong đám đông đã tạo nên một cảm giác nhớ nhà mạnh mẽ đối với tôi ngày hôm ấy rất nhiều năm về trước và tôi nhớ đã tự hỏi tại sao nó lại gợi lên một phản ứng như vậy, bởi vì kinh nghiệm của những đứa trẻ này lớn lên trong một mãnh đất xa lạ và một nền văn hóa khác biệt có thể là khác biệt hơn với nền văn hóa của chính tôi. Nhưng nhanh chóng nảy đến với tôi rằng đấy là một cảm giác lan tỏa về sự an toàn và bảo đảm của niềm tin.
Dĩ nhiên, cũng đã có một thời gian khi cùng một niềm tin và an toàn như vậy tỏa rộng trong xã hội Hoa Kỳ. Khi tôi là một đứa trẻ, mỗi mùa hè, cha mẹ tôi cho anh em tôi lên một chiếc xe station wagon cũ và lái đến Venice, California, nơi mà cha mẹ tôi mướn một căn nhà bên cạnh bờ biển cho kỳ nghĩ hè. Trong những ngày ấy, nhiều phần của Venice là một khu lụp xụp những căn cư xá rẻ, hấp dẫn hàng đầu, bên cạnh bờ đại dương. Được mệnh danh là “Appalachia(2) bên cạnh bờ Biển” bởi những phương tiện truyền thông địa phương. Venice là một sự hòa hiệp đặc biệt của những ông lão, bà lão dễ thương người Do Thái, hầu hết là di dân từ Đông Âu, dành những ngày cuối đời trên trái đất tán gẫu với nhau trên những chiếc ghế dài để dọc bờ biển và của những thành viên phong trào tuổi trẻ phản kháng văn hóa, những người lập dị chống lại những quy ước xã hội vào cuối những năm năm mươi và đầu những năm sáu mươi, tiếp theo là những người hippy vào giữa và cuối những năm sáu mươi. Thời biểu hàng ngày của anh chị em tôi thường giống nhau: Sau điểm tâm, chúng tôi chạy ra ngoài và dành cả ngày trên bở biển, bến tàu, hay đi lên đi xuống những lối đi lót ván, không bao giờ trở lại nhà cho đến buổi ăn tối. Vào lứa tuổi bảy hay tám, tôi được phép dành cả ngày không bị giám sát, hay tối thiểu chỉ bị trông nom bởi người anh chỉ lớn hơn tôi một tuổi rưỡi, vui chơi với những gì dường như một sự đa dạng vô hạn của các hoạt động - câu cá trên bến tàu Santa Monica, thích thú với những trái bắp nướng, thăm viếng những gian hàng bán đồ kỷ niệm, khao khát những món đồ quý mà chúng tôi không thể mua nổi, thậm chí dành một ngày ngẫu nhiên nào đấy ở Công viên Pacific Ocean (Thái Bình Dương), một khu vui chơi xây dựng trên một bến tàu nhô ra đại dương.
Trong nhiều cộng đồng ngày nay, cha mẹ thường cho phép đứa con tám tuổi của họ lang thang trên đường không có sự giám sát sẽ bị báo cáo cho những cơ quan bảo vệ trẻ em, hơn nữa trong hiện tại việc này là thủ tục tiêu chuẩn. Với nỗi lo sợ lan rộng trong nhiều xã hội phương Tây ngày nay, vào lúc bảy tuổi, con nít không nghi ngờ gì nữa đã chịu sự rèn luyện Nguy Hiểm Lạ Mặt, giống như sự chuẩn bị cho chiến trận. Trong thực tế, tôi nghe rằng bây giờ thậm chí sự rèn luyện Nguy Hiểm Lạ Mặt đã lỗi thời, được thay thế mới gần đây hơn trong trường học với cái tên đáng ngại Lockdown Drills (sự thực tập khóa xuống), là thứ có nghĩa rõ ràng là để chuẩn bị cho những vụ nổ súng tại học đường. Các học sinh tìm chỗ để nấp và được hướng dẫn không nói chuyện, di chuyển, hay làm ra một tiếng động nào vì bất cứ lý do gì. Bảo vệ, bảo đảm, an toàn, và phòng ngừa là những quan tâm và điển hình chính ngày nay. Không còn nữa cộng đồng trẻ con tự do bay nhảy trên chiếc xe đạp của chúng và lang thang trên đường. Bây giờ, trước khi nhảy lên xe đạp, chúng phải đội nón bảo vệ, mang miếng đệm trên đầu gối, bao cổ tay, và miếng đệm cùi chỏ. Sau đó những chiếc xe đạp được khóa cổng sau lại và đạp xe trong một khu vực được giám sát. “Những ngày vui đùa” bố trí trước một cách nghiêm túc được thiết lập giữa những ông cha bà mẹ như những tác viên xã hội cho việc xây dựng những giám đốc điều hành (CEO) của họ.
Như trẻ con trong xã hội Hoa Kỳ tiếp tục bị quy định không tin bất cứ bên ngoài chu vi thân cận của chúng, hay trong nhóm, nó đã đưa lên những câu hỏi rất thật về khả năng đảo ngược xu hướng rắc rối này. Nhưng tôi tự hỏi đức Đạt Lai Lạt Ma có thể nói gì về chủ đề này.
“Bất hạnh thay,” tôi đã nói với đức Đạt Lai Lạt Ma khi cuộc đàm luận của chúng tôi tiếp tục,”dường như rằng mức độ của niềm tin giữa con người đã và đang đi xuống và đi xuống trong nhiều xã hội trong thế giới ngày nay. Thí dụ, ở Anh Quốc và Hoa Kỳ, người ta đã thực hiện một nghiên cứu và họ đã hỏi mọi người, ‘Bạn có thấy rằng tổng quát mà nói người ta không thể tin tưởng chứ gì, hay bạn có cảm thấy rằng bạn không thể quá cẩn thận khi đối phó với mọi người chứ, rằng bạn nên luôn luôn cẩn trọng chứ? Và số lượng con người tin tưởng người khác đã giảm thiểu mất năm mươi phần trăm từ những năm 1950, điều này là khổng lồ".
“Ngài biết không, thưa Đức Thánh Thiện, nơi đây chúng ta ở Tucson một lần nữa, nhiều năm sau những thảo luận lần đầu tiên của chúng ta ở đây. Ở chốn này nhắc nhở tôi khi tôi đã sống ở đây, trong bốn năm khi tôi đi học ở trường Dược khoa tại đại học. Tôi vừa nhớ tôi đã sống như thế nào trong một căn nhà nhỏ bước ngang qua một con đường tới trường đại học và trong cả bốn năm tôi đã sống ở đây luôn luôn để cửa trước của tôi mà không khóa trái lại - ngày và đêm. Trong trường hợp của tôi, dường như tôi tin tưởng ít hơn tôi đã từng - tối thiểu trong ý nghĩa rằng ngày nay sẽ không bao giờ thậm chí nghĩ rằng sẽ rời nhà mà không khóa lại như tôi đã từng làm ngày trước.”
“Howard, tôi không biết có phải điều này chỉ là một vấn đề tin tưởng con người không,” ngài nói với một âm điệu hơi đùa cợt. “Tôi hy vọng đấy không chỉ là trường hợp mà ông không có gì để ăn trộm lúc ấy!”
“À, hãy nghĩ về điều này,” tôi thú nhận, “tôi cho rằng chính là trường hợp ấy. Trong thực tế, đấy chính là trường hợp,” tôi thêm, "gợi nhớ lại điều kiện sống đơn sơ trong những ngày ấy."
“Vậy thì,” đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục, “ông cần thực tế. Nếu những điều kiện của ông là như thế mà ông cần khóa cửa lại bây giờ, thế thì đó chỉ là sự cẩn trọng. Không hành động trong một thái độ thận trọng, là không thực tế, dù đơn giản chỉ là bởi vì ông nhận ra bản chất tốt đẹp nền tảng của con người, hay bởi vì ông cảm thấy một cảm giác liên hệ với những người khác trong tổng quát hay ông có một ý thức tin tưởng đối với những thành viên trong cộng đồng của ông. Ông có thể là một người tế nhị, tử tế nhưng đồng thời phải thực tế."
“Câu chuyện về những ổ khóa, v.v... đã nhắc tôi về thung lũng Spiti ở Bắc Ấn, trong những làng xá xa xôi này, vào thời xưa không có thói quen đặt những ổ khóa vào cửa ra vào. Hoàn toàn không có khóa. Khách du lịch đến và tự tiện. Điều ấy chỉ là đương nhiên.”
Trong một thoáng những lời của ngài đã gợi lên một hình tượng đầy năng lực: Một cộng đồng không có những ổ khóa, một thế giới hoàn toàn tin tưởng, viễn tượng về một thế giới nơi mà căn bản thánh thiện của con người có thể biểu hiện được. Nhưng hình ảnh ấy nhanh chóng được thay thế bằng một hình ảnh của thế giới ngày nay, với đầy dẫy những rắc rối.
“Có phải đấy vẫn là trường hợp trong khu vực ấy ngày nay không?” tôi hỏi.
“Ô, nó đang thay đổi, một cách tự nhiên,” ngài trả lời, “mặc dù thật khó để nói đến mức độ của nó ra sao.”
“Sự thay đổi trong dạng thức của những mức độ toàn diện của niềm tin, đặt những ổ khóa lên cửa ra vào, loại sự việc ấy?”
“Vâng...”
“Vậy thì ngài đã đóng góp gì cho những loại thay đổi này? Tại sao ngày càng giảm thiểu niềm tin?”
“Trước đây, tôi nghĩ, có rất hiếm hoi khách viếng thăm,” ngài trả lời.
“Tôi nghĩ họ sinh sống hầu như chỉ trong cộng đồng của riêng họ. Và ngày nay, dĩ nhiên, khác biệt rồi. Ngày càng có nhiều khách du lịch hơn và rồi có những người mới lạ làm việc trên công trình xây dựng đường xá....”
“Thưa Đức Thánh Thiện, nhưng tôi nghĩ ngài đã nêu lên một điểm quan trọng dường như là một đặc trưng chung của xã hội hiện đại. Chính là ý kiến này, ngày càng có nhiều người lạ đến với các cộng đồng. Điều này liên hệ đến những gì chúng ta đã từng thảo luận trong những lần gặp gỡ trước đây ở Dharamsala, ý kiến về sự biến đổi lớn hơn trong xã hội công nghệ hiện đại này, con người di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Và ý kiến này về một dòng liên tục những người mới đổ vào trong một cộng đồng có khả năng làm nên một sự mất tin tưởng nào đó cũng như căng thẳng."
“Thí dụ, tôi vừa thấy một nghiên cứu hấp dẫn liên hệ đến ý kiến này mà nó liên hệ đến một cộng đồng mới tinh ở Anh Quốc nơi họ đã xây dựng một phức hợp nhà ở hay chung cư này. Phức hợp này là một tòa nhà vài tầng. Sau khi nó được hoàn thành và con người vào ở, một số người chú ý rằng những người ở tầng trệt bắt đầu gia tăng tỉ lệ tiêm nhiễm chứng bệnh tinh thần."
“Thế nào đi nữa, những người thiết kế những tòa nhà quyết định thực hiện một thí nghiệm. Những gì họ đã làm là xây dựng một số bức tường. Những bức tường này cắt ngang những lối đi phía trước cửa sổ của những người này ở tầng trệt, vì thế rất ít người lạ có thể đi ngang qua cửa sổ của họ. Người ta tái thiết kế nó vì thế khi một người nhìn ra cửa sổ phía trước của họ, họ thường thấy một người hàng xóm, một người nào đó mà họ quen thuộc. Và chỉ bằng việc làm như vậy, việc tái thiết kế những lối đi, đã làm giảm thiểu 24 phần trăm chứng bệnh tinh thần."
“Nhưng dĩ nhiên vấn đề là chúng ta không thể đi vòng quanh với những viên gạch và hồ vữa, xây dựng những bức tường trong xã hội. Vì thế tôi tự hỏi, ngài có bất cứ đề nghị nào về việc chạm trán năng lực đó như thế nào, năng lực tàn phá của mất niềm tin?”
Suy nghĩ một lúc, ngài trả lời, “Ở đây, trong trường hợp này, có thể có nhiều nhân tố mà chúng ta có thể cần để suy nghĩ cẩn trọng. Dĩ nhiên, khi đối phó với bệnh hoạn tinh thần, nó sẽ đổi thay tùy theo những cá tính khác biệt và các cấu trúc tâm lý của con người. Và rồi trong tổng quát, tôi nghĩ rằng trong xã hội Tây phương, có một khuynh hướng để nhìn đến những phương tiện ngoại tại để giải quyết tất cả những rắc rối của chúng ta, và để cung ứng hạnh phúc và sự toại nguyện của chúng ta. Vì thế, có lẽ sự định hướng này làm cho con người có xu hướng bị tác động hơn bởi những thay đổi trong môi trường ngoại tại. Tôi không biết.".
“Nhưng điểm chính trong sự khám phá của chúng ta là để xác định những kỹ năng mà các cá nhân có thể sử dụng để xây dựng những tiềm năng nội tại, vì thế chúng ta không phải xây dựng những bức tường từ bên ngoài,” đức Đạt Lai Lạt Ma lưu ý.
“Chính xác!” tôi nói. Tôi đã vui mừng rằng ngài đã nêu lên ý tưởng về những kỷ năng nội tại. “Vậy thì ngài tránh sự xói mòn niềm tin như thế nào?”
“Điều này có thể là phức tạp, bởi vì có thể có nhiều nhân tố liên hệ, vì thế chúng ta cần nhận ra rằng có thể có những sự tiếp cận đa dạng mà chúng đòi hỏi trên những trình độ khác nhau. Nhưng một thứ, thí dụ, sự tiếp xúc cá nhân và tìm hiểu để biết người khác, có thể giúp để xây dựng một niềm tin rộng lớn hơn. Tôi nghĩ rằng một số sự tiếp cận nào đó mà chúng ta thảo luận trong quá khứ về vấn đề xây dựng tinh thần đối thoại cũng có thể áp dụng để xây dựng niềm tin.”
"Nhưng trong các trường hợp ấy, nơi có nhiều người mới di chuyển vào trong cộng đồng của chúng ta, giống như trong thung lũng Spiti, nơi mà con người bây giờ đang đặt những ổ khóa trên cửa của họ, và chúng ta không có cơ hội để có sự tiếp xúc cá nhân với tất cả những người ấy...”
“Howard, chỉ vì chúng ta thấy sự phòng ngừa trước trong những cộng đồng này không có nghĩa là nhất thiết phải có bất cứ sự thay đổi sâu sắc trong mức độ của niềm tin, hay có một sự nghi ngờ lan rộng. Thí dụ, có thể có một cộng đồng nơi có hàng trăm người, và con người có thể có một cảm nhận của niềm tin cho chín mươi chín con người ấy, nhưng nếu người ta không tin người cuối cùng, dĩ nhiên, những người kia sẽ thực hiện sự đề phòng. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta cần phải nghi ngờ mọi người."
“Do vậy, tôi nghĩ một lần nữa nó đi đến việc có một quan điểm thực tế. Chúng ta có thể thực hiện sự phòng ngừa để tự bảo vệ bởi vì chúng ta nhận ra rằng có thể có một số ít phần trăm những người với khuynh hướng xấu, nhưng cùng lúc, nếu chúng ta nhìn vào mọi thứ từ một viễn tượng rộng hơn, nếu chúng ta nhìn vào thực tế, chúng ta sẽ thấy rằng hầu hết mọi người là lương thiện. Nếu chúng ta duy trì một quan điểm thực tế và không phóng đại mức độ của vấn đề, rồi thì chúng ta sẽ không thay đổi nhận thức nền tảng về bản chất tự nhiên của loài người. Do vậy, không cần phải khai triển một thái độ nghi ngờ đối với tất cả những người mới đến trong cộng đồng.”
Vậy thì, mọi thứ thay đổi. Những ông cha bà mẹ ở ngoại ô không còn cho phép con cái của họ dong ruỗi tự do trong những mùa hè. Một nhà tâm lý trị liệu sống ở Phoenix và một dân làng người Tây Tạng sống trong vùng thung lũng Spiti xa xôi ở Hy Mã Lạp Sơn không còn để cửa ra vào của họ không khóa vào ban đêm. Chúng ta có thể làm gì? Có phải chúng ta bị đòi hỏi phải quên lãng những hiểm họa của thế giới nhằm để trở lại một thời điểm vô tư hơn, nhằm tái thiết lập những trình độ của chúng ta về niềm tin trong một lần khác và lấy lại ý thức cộng đồng.
Trong việc hỏi đức Đạt Lai Lạt Ma câu hỏi nền tảng ở đây - chúng ta có thể trau dồi một niềm tin lớn hơn như thế nào? - những trả lời của ngài ban đầu làm tôi thất vọng. Những câu trả lời này cũng giống như những đáp ứng và chiến lược cũ mà ngài đã đề cập đến rồi. Và nói rằng: Chúng ta cần những sự tiếp cận đa dạng - lãng tránh! Tiếp xúc cá nhân - chán nản! Quan điểm thực tiển - Thượng đế giúp chúng ta! Ngài không có gì mới để bổ sung sao? Trong một cuộc đàm luận ngài đề cập một số người bạn Tây Tạng của ngài đã thấy ngài liên tục sử dụng những chữ “sự tiếp cận thực tiễn” là ồn ào. À, tôi chưa đến chỗ cảm thấy bực bội, nhưng có thể nó sắp xảy ra.
Chuyện không đến như thế cho đến một lúc nào đấy sau những thảo luận này khi tôi thực hiện một cái nhìn gần gũi hơn vào những quan điểm của đức Đat Lai Lạt Ma và sự tiếp cận của ngài cho việc nuôi dưỡng hy vọng, lạc quan, khả năng hồi phục, và niềm tin, tất cả những thứ ngài cảm thấy có thể được trau dồi bằng việc sử dụng cùng phương pháp: “Quan điểm thực tế” của ngài. Dĩ nhiên, tôi đã có một sự tỉnh giác nào đó về sự tương quan giữa những quan điểm của ngài và nghiên cứu khoa học vào lúc chúng tôi thảo luận, nhưng không phải như thế cho đến khi tôi dành một ít thời gian phụ trội để quán chiếu trên những ngôn từ của ngài và việc chiêm nghiệm trên những nghiên cứu khoa học mới đây nhất về hạnh phúc và những cảm xúc tích cực, và sự tương liên của cả hai, và tôi đã bắt đầu thấy sự tiếp cận của ngài trong một cách sâu sắc hơn và nhận ra sự thâm sâu của nó. Những gì đã bắt đầu xuất hiện trong tôi như một lời sáo rỗng chán phèo - “quan điểm thực tế” của ngài - thì tôi nhanh chóng nhận ra điều cứ tưởng là đơn giản mà thật sự có tuệ trí và sáng suốt vô biên phía sau nó, lớp này trên lớp kia. Nó là một mật mã hơn, và mặc dù nó được biểu lộ trong một ngôn ngữ thế tục thông thường, nhưng nó dường như che dấu những nguyên lý rất thậm thâm phong phú và sự thực tập của đạo Phật. Những dạng thức đơn giản này mà ngài đã sử dụng như “tỉnh thức” hay “quan điểm thực tiễn”, tiêu biểu cho một sự đa dạng của những sách lược hiệu quả để gia tăng hạnh phúc và giúp chúng ta đương đầu với thế giới phiền não - những sách lược căn cứ trên những nguyên lý nền tảng của đạo Phật và được hỗ trợ bởi khoa học hiện đại. Thí dụ, như chúng ta đã thấy, sự “tiếp cận thực tiễn” của ngài bao gồm cùng những kỹ năng mà những nhà tâm lý học gọi là sự tái cấu trúc, tái đánh giá tích cực, tìm lợi ích, kiếm ý nghĩa tích cực, những kỹ năng nhận thức, kỹ thuật ‘nhận thức hành vi’(3), v.v... - tất cả những thứ này có một bộ phận lớn chứng cứ khoa học minh chứng cho sự hiệu quả của chúng.
Phải thừa nhận, tại một điểm tôi đã thất vọng rằng dường như đức Đạt Lai Lạt Ma dường như đã đề ra quan điểm thực tế của ngài như kỹ năng chính để trau dồi bất cứ cảm xúc tích cực nào chúng tôi đang nói đến. Nó không làm tôi chán ngán lúc đầu, nhưng vào lúc chúng tôi đi đến chủ đề niềm tin và ngài vẫn sử dụng cùng phương pháp, tôi thật sự đã sẵn sàng cho một kỹ năng mới. Tuy nhiên, trong việc nhìn lại những bằng chứng khoa học, sự tiếp cận của đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu nổi lên một ý nghĩa toàn hảo và rơi vào đúng vị trí của nó. Thí dụ, đức Đạt Lai Lạt Ma đã bắt đầu tuần ấy với một thảo luận về sự tiếp cận thực tế của ngài (“viễn tượng rộng rãi hơn”, v.v...), rồi hy vọng và lạc quan, tiếp theo với khả năng hồi phục và niềm tin. Cách này không phải ngẫu nhiên - chủ để của chúng tôi là để khám phá việc đương đầu với thế giới phiền não của chúng ta và vẫn duy trì hạnh phúc. Trong khi theo nghiên cứu, tất cả những cảm xúc tích cực có thể hoạt động như một sự đối trị đến những ảnh hưởng của các cảm xúc tiêu cực và căng thẳng, và tất cả có thể góp phần cho những hạnh phúc cá nhân lớn hơn, có một nhóm cảm xúc tích cực hiệu quả một cách đặc biệt trong việc giúp chúng ta đương đầu với nghịch cảnh, những chướng ngại và rắc rối ngoại tại, v.v... Và những cảm xúc nào được phân loại như ở trong nhóm này? Nhóm này bao gồm: Hy vọng, lạc quan, hồi phục, và, vâng - niềm tin! Một số nhà khảo sát thêm tín ngưỡng và sự quả quyết vào nhóm này. Một cách rõ ràng, không phải tất cả những nhà nghiên cứu đều phân loại các cảm xúc tích cực trong một cách giống nhau - trong thực tế, có thể có một sự biến thiên rộng rãi. Nhưng tối thiểu, có một nhân tố căn bản ở đây. Những cảm xúc được phân nhóm với nhau bởi những nhà tâm lý học tích cực như Bác sĩ Martin Seligman bởi vì chung một sự định hướng tổng quát “tương lai”, liên hệ đến những dự đoán tích cực về loại này hay loại kia. Thí dụ, đối tượng của hy vọng tổng quát là một mục tiêu đặc thù nào đó trong tương lai, trong khi lạc quan liên hệ hơn đến một dự đoán tổng quát về những việc tích cực sắp xảy ra. Với niềm tin, đối tượng của tiên liệu tổng quát là một con người nào đấy.
Khi chúng ta nhìn từ một “viễn tượng rộng rãi hơn”, có thể dường như không quá ngạc nhiên là đức Đạt Lai Lạt Ma đã chọn để sử dụng cùng sách lược để trau dồi hy vọng, lạc quan, khả năng hồi phục, và niềm tin, vì chúng được thấy như ở cùng một gia đình. Chúng ta đã thấy phía trước việc nghiên cứu đã biểu thị rằng tất cả những thể trạng và kỹ năng tinh thần tích cực đa dạng mà chúng tôi đã thảo luận dường như cũng cố lẫn nhau, vì thế việc lựa chọn một sách lược mạnh mẽ đã được chứng minh phải là đã đủ để làm nổi bật một sự đa dạng của cảm xúc tích cực, tất cả những gì có thể giúp chúng ta đương đầu một cách hiệu quả với thế giới phiền não của chúng ta.
Bây giờ việc nhận ra rằng đức Đạt Lai Lạt Ma đã không đề xuất ‘sự tiếp cận thực tế’ của ngài như một kỹ năng để giúp cho việc xây dựng niềm tin đơn giản bởi vì ngài đã hết nhưng ý tưởng mới mẻ và phải tiếp tục lập lại cùng kỹ năng cũ kỹ, thì chúng ta có thể thực hiện một cái nhìn cuối cùng vào những quan điểm của ngài trong việc trau dồi niềm tin.
Đức Đạt Lai Lạt Ma cống hiến cho chúng ta một sự tiếp cận mà trong ấy chúng ta có thể duy trì một cảm nhận phổ quát về niềm tin với mọi người, là điều tạo nên một sự cởi mở - một sự cởi mở mang với nó khả năng nối kết, một sự ràng buộc tiềm tàng. Khi chúng ta vươn tới một người khác và thực hiện sự nối kết, thiết lập mối ràng buộc ấy, điều này trở thành căn bản cho ý thức cộng đồng. Dĩ nhiên, câu hỏi then chốt là, chúng ta có thể duy trì cảm nhận niềm tin như thế nào? Sự tiếp cận của đức Đạt Lai Lạt Ma căn cứ trên một chí nguyện vô úy đối với việc khám phá thực tế, và ý chí chấp nhận thực tế ấy, để sống bằng sự thật ấy. Trong trường hợp này, thí dụ thế, sự tiếp cận của ngài bắt đầu bởi việc phát triển một sự thấu hiểu sâu sắc về bản chất con người, và nhận thức rằng đại đa số nhân loại là lương thiện, những người hiền lành - những người chỉ muốn hạnh phúc, chỉ muốn được yêu thương, những người không muốn đau khổ. Đúng là giống như chúng ta.
Đồng thời, có một sự thấu hiểu tương đồng về thực tế rằng có một số người có khuynh hướng hiểm độc, những kẻ sẽ làm tổn hại những người khác. Tại chỗ gặp gỡ của hai quan điểm phân kỳ này hiện hữu ý nghĩa và lý do thông thường. Với quan điểm này, chúng ta có thể luôn luôn tin tưởng mọi người - chúng ta có thể tin cậy con người là con người: Một số chính yếu là tốt, một số chủ yếu là xấu, và tất cả chúng ta có một sự pha trộn giữa tốt và xấu thế nào đấy. Điều này có nghĩa là hầu hết mọi người chúng ta chạm trán sẽ là tốt và không lạm dụng niềm tin của chúng ta, trong khi một số nhỏ thiểu số sẽ là xấu và ngược đãi niềm tin của chúng ta. Nhưng với sự tiếp cận của đức Đạt Lai Lạt Ma, chúng ta có thể phòng ngừa để chống lại việc có thể bị làm tổn thương, chúng ta có thể làm bất cứ điều gì chúng ta cần để bảo vệ chính mình với thiểu số nhỏ ấy, nhưng đồng thời chúng ta có thể duy trì một cảm nhận chung chung về niềm tin đối với những người khác, mà không để thiểu số nhỏ ấy bóp méo nhận thức, quan điểm và thái độ của chúng ta.
Dalai Lama
Tuệ Uyển dịch
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Văn Lê cả đời Chí Thụy

Văn Lê cả đời Chí Thụy Nhân dịp kỷ niệm 100 ngày nhà thơ, nhà văn, đạo diễn Văn Lê - Lê Chí Thụy (1948-2020) từ giã cõi trần, Văn Học Sài ...