Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2024

Dạo chơi vườn văn Mỹ

Dạo chơi vườn văn Mỹ

Văn học Mỹ được đánh dấu bởi một số yếu tố cơ bản. Văn học phản ánh xã hội và lịch sử, những sự kiện lớn ở Mỹ luôn luôn gắn với những sự kiện lớn ở châu Âu từ khi lập quốc cho đến nay.
Do đó, những trào lưu và trường phái văn học châu Âu đều có ảnh hưởng đến Mỹ (chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực…). Văn học Mỹ vừa gắn bó với văn học Anh và châu Âu, vừa “mặc cảm thuộc địa” đẻ ra khuynh hướng văn học chủ nghĩa thế giới (cosmopolitanism) và chủ nghĩa cô lập (isolationism), cũng như trong sách lược chính trị.
Yếu tố tôn giáo với màu sắc Thanh giáo thấm nhuần đạo lý Mỹ và là nguồn cảm hứng vô tận cho sáng tác. Yếu tố địa lý đặc biệt quan trọng đối với văn học Mỹ; mọi thứ ở đây đều lớn quá khổ, bao la: Từ cây cối, đến sông hồ, núi non, sa mạc, thành phố. Không gian Mỹ cũng như thời gian Mỹ luôn luôn ám ảnh sáng tác, khêu gợi những khám phá và sáng kiến trong mọi thể loại, nhất là tiểu thuyết.
Vào thời kỳ thực dân (1607-1774) cho đến hết thế kỷ XVIII, văn học Mỹ mang tính chất Thanh giáo, thần bí và u buồn. Benjamin Franklin (1706 -1790) là người đầu tiên mang đến một không khí văn học mới với những tư tưởng nhân văn của triết học Ánh sáng; ông cũng đóng góp làm thức tỉnh ý thức độc lập quốc gia. Văn học yêu nước phát triển đặc biệt với những tác phẩm của George Washington (1732-1799) và Thomas Jefferson (1743-1826).
Đến thế kỷ XIX, từ cuối thập kỷ 10 đến đầu thế kỷ XX, có ba tác giả đi tiên phong. Washington Irving (1783-1859) được coi là cha đẻ truyện ngắn Mỹ. Một nhà văn Mỹ là Fenimore Cooper (1789-1851) được dư luận chú ý với một loạt tiểu thuyết biên cương, đặc biệt Người cuối cùng của bộ tộc Mohican (the Last of the Mohicans, 1826). Ông xây dựng cốt truyện trong bối cảnh Mỹ với nhân vật Mỹ điển hình, người không có học, rất gần thiên nhiên, tồn tại được do bản năng, lương thiện và có đầu óc thực tế.
William Cullen Bryant (1794 -1878) là nhà thơ Mỹ đầu tiên có tầm vóc. Thơ ông lãng mạn, buồn buồn, nhuốm màu Thanh giáo, phản ánh sự gắn bó với thiên nhiên.
Từ thập kỷ 30 đến nội chiến Nam Bắc 1865, thể truyện ngắn được Edgar Poe (1809-1849) đưa lên đỉnh cao. Ông là nhà thơ “lãng mạn – tượng trưng” tiêu biểu cho khuynh hướng “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Những tiểu thuyết và truyện ngắn của Nathaniel Hawthorne (1804-1864) và Herman Melville (1819-1891) tiếp tục gia tài tinh thần của Thanh giáo.
Trường phái triết học siêu việt luận (transcendentalism) của Ralph Waldo Emerson (1803-1882) là nguồn cảm hứng sáng tác mạnh mẽ cho suốt giai đoạn ấy, đồng thời thúc đẩy nhiều cuộc thể nghiệm tập thể trong tự do của chủ nghĩa xã hội không tưởng. Ông đề cao tự nhiên, cho là cá nhân tự do có thể đạt tới đỉnh cao của tinh thần, không cần đến tôn giáo hình thức. Một đồ đệ kiệt xuất và chịu ảnh hưởng của Emerson là Henry David Thoreau (1817-1862) đã sáng tác hàng loạt tác phẩm vào thập kỷ 50, đánh dấu thời hoàng kim của văn học Mỹ.
Một số tác giả có tâm huyết đấu tranh chống chế độ nô lệ vào thập kỷ 50. Nhà thơ Walt Whitman (1819-1892) nổi bật trong số đó, ông là tiếng nói của nước Mỹ, ca ngợi núi sông, đồng ruộng, nền dân chủ mới hình thành ở Mỹ. Hơn Whitman 12 tuổi, nhà thơ thuộc giáo phái quaker là John Whittier (1807-1892) có hai nguồn cảm xúc: Thiên nhiên và chống chế độ nô lệ. Nói đến đề tài chống chế độ nô lệ, không thể không kể tới tác phẩm Túp lều của Bác Tôm của Harriet Beecher Stowe (1811-1896); tiêu biểu cho sức mạnh lương tâm của văn chương lên án đanh thép chế độ nô lệ tàn bạo, đồng thời góp một phần vào công cuộc giải phóng nô lệ ở Mỹ, khích lệ những người Mỹ có lương tâm đấu tranh mạnh mẽ, quyết liệt.
Sau nội chiến, một trào lưu văn học địa phương miêu tả từng vùng (regionalism) xuất hiện. Tác giả nổi trội nhất là Mark Twain (1835-1910), với Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer và Những cuộc hiêu lưu của Huckleberry Finn. Đây là cuốn tiểu thuyết được coi là lớn nhất của văn học Mỹ. Nổi lên trong văn học địa phương còn có William Dean Howells (1837-1920), người đề ra lý luận về chủ nghĩa hiện thực ở Mỹ. Chịu ảnh hưởng của Howells, hai nhà văn Frank Norris (1870-1902) và Stephen Crane (1871-1900) đưa chủ nghĩa hiện thực lên chủ nghĩa tự nhiên, đồng thời phản ứng lại chủ nghĩa vật chất, đi ngược con đường hiện thực là một nhà văn khác là Herry James (1843-1916) quay sang những vấn đề tâm lý cá nhân, báo hiệu tiểu thuyết tâm lý hiện đại.
Cũng nên nhắc tới nhà thơ Mỹ rất nổi tiếng của thế kỷ XIX, Henry Longfellow (1807-1882) với những bài thơ trong sáng, giản dị và du dương.
Từ đầu thế kỷ XX đến Thế chiến II, Jack London (1876-1916) là nhà văn vô sản Mỹ đầu tiên, ông có thế giới quan đầy mâu thuẫn, phê phán xã hội, đề cao phiêu lưu, hành động bản năng và hoang dã.
Trong và sau Thế chiến I, khuynh hướng hiện thực phê phán vẫn tiếp tục. Theodore Dreiser (1871-1945) có thể coi là “Cao điểm văn học hiện thực Mỹ”. Edgar Lee Masters (1869-1950) là nhà thơ trào phúng; Carl August Sandburg (1878-1967) là nhà thơ công nghiệp, ca ngợi sức sống của nhân dân. Sherwoad Anderson (1876-1941) viết truyện ngắn và tiểu thuyết chống công thức, có thiện cảm với người da đen và các lực lượng cách mạng vô sản; Sinclair Lewis (1885-1951) là nhà viết tiểu thuyết chế nhạo giấc mơ truyền thống Mỹ về sự thành công; Upton Sinclair (1878-1968), cũng như Sinclair Lewis, được liệt vào nhóm nhà văn “Khuấy bùn” (muckraker) đả phá quan niệm coi nước Mỹ là một thiên đường.
Vào thập niên 1920, “thế hệ mất mát” (lost generation) gồm những nhà viết tiểu thuyết và truyện ngắn còn bi quan, chán chường, cảm thấy lạc lõng trong một xã hội mất lý tưởng.
Francis Fitzgerald (1896-1940) tự cho mình là đại diện của “kỷ nguyên jazz” những năm 20, “khi thế hệ mới, lớn lên để thấy tất cả các thần minh đã chết, chiến tranh đã kết thúc, tín ngưỡng trong con người đều bị khuynh đảo”.
Nhưng có lẽ tiêu biểu cho “Thế hệ mất mát” là Ernest Hemingway (1899-1961), nhà văn tự sát bằng súng trường. Dos Passos (1896-1970) có tâm trạng u buồn, thất vọng, ông đặt vấn đề siêu hình về thân phận con người. William Faulkner (1897-1962) đan chủ đề sự tha hóa và cô đơn của con người với chủ đề miền Nam nước Mỹ suy thoái trong những tiểu thuyết thể nghiệm kỹ thuật viết.
Henry Miller (1891-1980) đã phá công thức xã hội tư sản, ông gạt bỏ các quy tắc văn học một cách vô chính phủ, đề cập tình dục với một cái nhìn cách mạng, ông viết những truyện độc đáo, hài hước, kệch cỡm, nửa tình dục, nửa huyền bí, với những chủ đề có tính chất bệnh hoạn tâm thần.
Thomas Wolfe (1900-1938) viết rất sâu về New York, cảm thấy lạc lõng đối với xã hội quanh mình, ông không phê phán nó, mà tập trung viết về chính mình và những người mình biết.
Vào những thập kỷ đầu thế kỷ XX, trường phái thơ hiện đại (the modernists) xuất hiện. Dòng thơ Mỹ-Anh “ý tượng chủ nghĩa” (imagism) ra đời khoảng sau 1910, chủ trương ngắn gọn, có khi chỉ bốn năm câu, tái tạo hình ảnh của cá nhân (không phải chỉ là miêu tả), thơ tự do chống lại kiểu tình cảm công thức.
Đại diện tiêu biểu của dòng thơ này là Ezra Pound (1885-1972), thường ở châu Âu; về sau thơ phát triển sang một thể tối nghĩa, phức tạp. Chịu ảnh hưởng của Pound, Thomas Stearns Eliot (1888-1965) là nhà thơ Mỹ nhập quốc tịch Anh (giải thưởng Nobel) được coi là thi bá của thơ hiện đại thế kỷ XX; ông đề cập sự hoài nghi và trống rỗng tâm hồn con người, viết kịch thơ, luận văn siêu hình và tôn giáo.
Cũng vào thập kỷ 20, dòng thơ Fugitive (“Thoáng qua” – do tên tờ tạp chí thơ The Fugitive) tập hợp một số thơ miền Nam ca ngợi sự trung thành với đời sống thôn dã, có tính chất bảo thủ của miền Nam; tìm thi hứng ở quê hương chứ không hướng ngoại như trường phái thơ hiện đại. Đứng đầu là John Crowe Ransom (1888-1974).
Sân khấu mới nở rộ, đặc biệt với Eugene Gladstone O’Neill (1888-1953, bốn lần đoạt giải Pulitzer cho kịch và giải Nobel Văn học năm 1956), chuyển từ chủ nghĩa tự nhiên và chủ nghĩa hiện thực sang tư duy siêu hình, sử dụng phân tâm học với sắc thái bi quan, nhất là vào những năm 30 kinh tế khủng hoảng (những năm này, sân khấu chú trọng đến những vấn đề xã hội).
Thập kỷ 30 là thời kỳ khủng hoảng. Đây là thời kỳ chủ nghĩa hiện thực chi phối văn học. Tiểu thuyết, truyện ngắn lấy hiện thực xã hội và những vấn đề có thực của con người làm đối tượng sáng tác. Mỗi tác phẩm là một bức tranh sinh động quen thuộc về con người và đời sống xung quanh.
Erskine Caldwell (1903-1987) viết 26 cuốn tiểu thuyết bán 40 triệu bản (trong đó có Con đường thuốc lá, 1952); nỗi cơ cực của vô sản da trắng và da đen tại các bang miền Nam. John Steinbeck (1902-1968) kể về nỗi cơ cực của công nhân và đặc biệt nông dân miền Nam bị chiếm đất và bóc lột thảm hại khi lang thang đến miền Tây.
Thời kỳ Đại khủng hoảng và Thế chiến II cũng là thời kỳ độc giả tìm thoát ly khỏi thực tế bằng hai thể loại văn học: truyện trinh thám và tội phạm với Dashiell Hammett (1894-1961), Raymond Chandler (1888-1959), James Mallahan Cain (1892-1977); tiểu thuyết lịch sử với Margaret Mitchell (1900-1949). Những năm 30, Pearl Buck (1892-1973), con gái những mục sư ở Trung Quốc viết tiểu thuyết về một lĩnh vực riêng biệt.
Vào thập kỷ 40, tiểu thuyết “cao bồi” bắt đầu lại thịnh hành và từ những năm 50, phim “cao bồi” cũng được nâng lên một chất lượng mới. Những năm 60, vô tuyến cho thâm nhập các gia đình hình ảnh người anh hùng “cao bồi” miền Tây, tự tin, dũng cảm. Từ sau Thế chiến II, các tác phẩm văn học và số lượng tác giả nhiều đến chóng mặt.
Ngay sau chiến tranh, một số nhà văn trẻ phân tích ảnh hưởng của chiến tranh đến tính cách con người: Norman Mailer (1923-2007) trong Những người trần truồng và những người chết (the Naked and the Dead, 1948) kể về một nhóm trinh sát Mỹ xâm nhập một đảo do Nhật chiếm đóng, quân đội như một chiếc xe lăn đường nghiền nát cá nhân; Irwin Shaw (1913-1984) chống quân Nhật và phát xít trong Những con sư tử nhỏ (The Young Lions, 1948). Trong cuốn tiểu thuyết trào phúng châm biếm chiến tranh và bộ máy quan liêu Catch – 22 (1961), Joseph Heller (1923-1999) coi chiến tranh là một sự luyện tập vô lý cho người điên.
Những nhà thơ hậu chiến tuy theo hình thức truyền thống nhưng vẫn diễn tả cảm xúc mạnh mẽ, như Robert Lowell (1917-1977), Theodore Roethke (1908-1963). Nhưng có những nhà thơ thể hiện thi pháp mới, nhất là nhóm San Francisco, thành phần quan trọng của trường phái “Thế hệ Beat” là thế hệ phản kháng những ước lệ xã hội công nghiệp, kỹ thuật và có hoài bão sống trần trụi không có đồ vật gì thừa, vứt bỏ lối sống và những giá trị của tầng lớp trung lưu. Thực chất là một trào lưu thi ca trữ tình tương đối có tầm cỡ nhất từ sau Thế chiến II. Tiêu biểu là Lawrence Ferlinghetti (1919-1921), Allen Ginsberg (1926-1997), Jack Kerouac (1922-1969), William Burroughs (1875-1950).
25/4/2024
Hữu Ngọc
Nguồn: Báo Quốc Tế
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái gương - Truyện ngắn của Võ Đăng Khoa

Cái gương - Truyện ngắn của Võ Đăng Khoa Chị Lài đi lấy chồng rồi, tôi lủi thủi một mình suốt ngày. Cái hôm gương vỡ là ngày mà ba tôi thu...