Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2024

XXXXXVua Gia Long và người Pháp 5

Vua Gia Long và người Pháp 5

Chương 18

Olivier De Puymanel (1768-1799)

Phần I: Khởi hành

Olivier de Puymanel và Laurent Barisy là hai khuôn mặt đáng mến, đã giúp vua Gia Long nhiều việc, phục vụ vua đến lúc mất và đã không phản bội. Nhưng sự tôn vinh đồng loạt và tột đỉnh của các sử gia thuộc địa về Olivier de Puymanel, như vị “kỹ sư đầu tiên” của nước Việt, là “ông tổ” xây dựng các “thành đài Vauban”, là người “hình thành quân đội” Việt Nam, đã tạo ra một Olivier khác hẳn, không giống với thực tế, thể hiện qua những thư từ, tài liệu của gia đình, và những thành tích đích thực mà Olivier đã thực hiện trong thời gian ở Nam Hà. Olivier “tân tạo” này, sau cùng được Wikipédia Pháp thăng chức Tướng (Général) với lời tổng kết như sau:

“Olivier de Puymanel (1768-1799) là, một người Pháp, một nhà xây dựng và một nhà tổ chức quân đội Việt Nam dưới triều Nguyễn”. Gắn liền với “công trạng” này, là bản đồ thành bát quái Gia Định “của Le Brun”, do Puymanel “xây” và hình ảnh thành Diên Khánh, cũng là “công trình” của Puymanel. Wikipédia tiếng Anh dịch từ tiếng Pháp. Wikipédia Việt, còn thêm vào những câu: “Puynamel được ghi nhận là đã huấn luyện 50.000 quân Nguyễn”, là “người có vai trò khá quan trọng trong lịch sử Việt Nam”.

Vậy, đâu là sự thực? Chúng ta thử tìm lại hành trình thật sự của Puymanel, từ đầu.

Trình độ học vấn

 

Ở tuổi 12, Olivier de Puymanel đã viết thư xin cha cho phép đổi trường “vì con không chịu nổi ở đây nữa. Sáng nay, người ta đã định quất roi vì tội con không thuộc bài” (Thư viết trong nội trú một trường ở Roanne, đề ngày 22/11/1780, Taboulet, I, t. 248-249).

Chín năm sau, Olivier de Puymanel viết thư cho M. Letondal, quản thủ (procureur) tu viện Macao, bắt đầu bằng câu:

“Je regrette touts les jours de n’avoir pas été à Macao où j’aurois pu faire tout ce qui eut dépendu de moi pour mariter d’être connu de vous” [Je regrette tous les jours de ne pas avoir été à Macao où j'aurais pu essayer de tout faire pour mériter votre confiance - Con tiếc hoài đã không ở Macao, nơi con có thể làm hết sức mình để xứng đáng được cha tin cậy] (Thư viết ngày 15/7/1789, Cadière, Les français au service de Gia Long, Leur correspondance, BAVH, 1926, IV, t. 363). Ba lá thư của Puymanel được Cadière sưu tầm và in lại trong bài Leur correspondance (Thư từ) này, BAVH, 1926, IV, các trang 363, 365 và 369; đều đầy lỗi như thế.

Nhìn câu, chữ trên đây, ta thấy Puymanel, ở tuổi 21, vẫn còn phạm những lỗi: chính tả, từ vựng, văn phạm, cấu trúc câu và sự diễn đạt ý tưởng; vậy mà Taboulet viết: “… cuối cùng anh hoàn thành việc học ở Louis Le Grand” (Taboulet, I, t. 247). Louis Le Grand là trường trung học nổi tiếng của Pháp, chỉ nhận những học sinh ưu tú. Một người viết tiếng Pháp, trình độ như Puymanel, chắc chắn không thể được nhận vào trường Louis Le Grand.

Năm 1922, trong bài diễn văn đọc trước Thống Chế Joffre, học giả Cadière cũng đã gián tiếp so sánh Puymanel với thống chế Joffre, xuất thân trường Polytechnique, là trường đào tạo kỹ sư nổi tiếng nhất nước Pháp. Hơn 20 năm sau, Taboulet, thêm vào tiểu sử Puymanel vinh hạnh “cựu học sinh Louis Le Grand”, để “kiện toàn nền học vấn” của “kỹ sư” Puymanel.

Đó là manh mối câu chuyện người ta đã nhào nặn một cậu bé, từ nhỏ đã không ưa việc học, đến 21 tuổi vẫn thất học, trở thành kỹ sư, rồi nhà xây dựng thành đồn và nhà xây dựng quân đội cho cả một dân tộc!

Gia thế

 

Victor-Louis-Joseph-Cyriaque-Alexis Olivier, sinh tháng 4 năm 1768 tại Carpentras [Vaucluse, Pháp], con Augustin Raymond Olivier và Françoise Louise Vitalis, [theo di chúc của Olivier, in trong La Cochinchine Religieuse của Louvet, t. 561]. Olivier de Puymanel có những tên Victor, Alexis… (người Âu có nhiều tên); họ là Olivier. Còn Puymanel là tên mảnh đất của gia đình Olivier ở gần Carpentras, trên bản đồ quân sự ghi là Plumanel. Victor Olivier sinh ngày 8/8/1768 (theo Taboulet, I, t. 245). Trong gia đình, để phân biệt với các anh, Olivier de Puymanel thường được gọi là Victor hay Puymanel.

Trong lá thư viết tại Avignon ngày 9/12/1937, gửi cho tập san Đô Thành Hiếu Cổ, bác sĩ L. Gaide cho biết: ông được vị quản thủ thư viện Carpentras cho bản sao 2 lá thư của người anh ruột, Vitalis-Ignace, là tu sĩ, viết cho người cha về việc Puymanel. Hai thư này, đăng trên BAVH, 1938, I, t. 63-67, đề ngày 28/11/1787 và 30/11/1787, tức là một tháng trước khi Puymanel lên tàu ở Lorient để đi Ấn Độ và Nam Hà, trong đó linh mục Vitalis kể lại sự tình người em Victor Puymanel. Ngoài ra, bác sĩ Gaide còn cung cấp thêm một số thông tin về gia đình Puymanel, như sau:

Victor-Louis-Alexis Olivier de Puymanel, sinh trong một gia đình thế giá, cha làm chưởng ấn tại Tối cao pháp viện Carpentras; có hai anh: anh cả, Gabriel Raymond, sinh ngày 10/2/1753, học luật, đỗ tiến sĩ ở Avignon năm 1778. Năm 1790, được bầu làm dân biểu quốc hội. Sau cùng, làm thẩm phán toà thượng thẩm Nimes.

Vitalis-Ignace, sinh ngày 13/2/1764, tại Carpentras, đi tu, trở thành chanoine (chức sắc trong hàng giáo phẩm) tại thánh đường Sainte Siffen, Carpentras. Chỉ hơn Puymanel có 4 tuổi, nhưng vị linh mục này cư xử và lo lắng cho em không khác gì cha vậy. Nhờ hai lá thư của ông viết vào đúng thời điểm Puymanel sắp lên tàu đi Ấn Độ, mà chúng ta biết khá rõ đầu đuôi câu chuyện viễn du của Puymanel, về tính tình, hạnh kiểm và tại sao, sinh trưởng trong một gia đình thế giá như vậy, mà lại phải đầu quân tình nguyện làm lính thuỷ.

 

Thư của linh mục Vitalis, đề ngày 28/11/1737 [in nhầm, thực ra là 1787]

 

Lá thư này chia làm hai phần, cách nhau một hàng chấm chấm, có thể là hai thư chắp lại, vì có chủ đề khác nhau. Phần thứ nhất, vị tu sĩ cố gắng giải thích cho cha về chuyến đi Ấn Độ sắp tới của em mình.

Thời đó, đối với Châu Âu, Á Châu là Ấn Độ; và Nam Hà là một phần của Ấn Độ. Người Âu thường hình dung Ấn Độ, trong đó có Nam Hà, với những tiểu vương đầy quyền uy, bạc vàng châu báu. Lối ăn mặc của Hoàng tử Cảnh khi sang Pháp: áo gấm đỏ, hoa vàng, đầu đội khăn xếp, thắt nơ, trông giống một “tiểu vương Ấn Độ”, được ghi lại trong bức họa chính thức của hoàng gia Pháp. Hoàng tử Cảnh là một đứa bé đẹp và sang trọng, sau này Shihõken Seishi, thủy thủ Nhật, khi sang Gia Định, được vào yết kiến vua, đã viết: “Thái tử độ trạc hai mươi tuổi, rất đẹp và sang trọng không ai sánh nổi. Trong tất cả các nước mà tôi ghé qua trên đường trở về [Nhật], chúng tôi chưa thấy ai đẹp như ông”.

Trong khung cảnh xa hoa của Versailles, cậu Cảnh đã trở thành le petit prince, và, theo những báo săn tin sốt dẻo của hoàng triều thời đó, được Faure chép lại, thì người ta thích thú theo dõi các trò chơi của hai hoàng tử cùng tuổi, con Louis XVI và con Gia Long, trong vườn thượng uyển Versailles. Léonard, người thợ chải tóc nổi tiếng cho hoàng hậu Marie-Antoinette, đã “cảm hứng” từ chiếc khăn lạ của hoàng tử Cảnh, để sáng tạo lối chải tóc “kiểu hoàng tử Nam Hà” cho các ông và “búi tóc kiểu Tàu” cho các bà hoàng phái (Faure, t. 120-121).

Cậu hoàng tử nhỏ bé Cảnh, trong bối cảnh đó, thực sự đã là một “đại sứ” cho cha ở trời Tây. Và khi gửi hoàng tử trở về nước với giám mục Bá Đa Lộc trên tàu Dryade, vua Louis XVI đã ra lệnh cho thuyền trưởng hiệp sĩ De Kersaint phải đối đãi theo đúng nghi lễ, để Hoàng tử, vị Giám Mục và đoàn tháp tùng dùng bữa với các sĩ quan trên tàu. (Launay, III, t. 177).

Không khí “linh đình” như thế, khiến linh mục Vitalis cho việc em mình, được đi cùng tàu với hoàng tử Nam Hà, là một vinh dự, một giấc mơ “ngàn lẻ một đêm”, để đến một đất nước “giầu có” ở phương Đông, mà cậu hoàng tử bé nhỏ kia, chính là hình ảnh trong sáng phản ánh quyền năng, bạc vàng, mà em mình có thể dễ dàng đạt được. Nhất là người em này, không phải là một người con mẫu mực, năm trước đã phạm một lỗi lớn, tức là bỏ nhà đi hoang ở Le Havre, và hiện ông đang còn phải bù đắp trả nợ cho em về chuyến đi hoang này.

Bức thư như sau:

 

Cha kính mến,

“Trong khi con đang lo bù đắp cho xong những phí tổn của chuyến đi Le Havre [chỉ vụ Puymanel bỏ nhà trốn đi Le Havre], thì cơ hội may mắn tình cờ đến, con vội chụp ngay, đó là ông bá tước de Capellis, mà con đã sưởi ấm tình bạn và ý muốn làm gì hữu ích cho quê mình, đặc biệt cho cha mẹ và gia đình ta [Lời giáo đầu để giải thích tại sao đã lo cho em xung vào lính thuỷ tình nguyện]. Hiện nay con rất bận nên không thể kể hết chi tiết những lý do đã khiến con giúp đỡ em con khi nó nhất quyết định đi sang Ấn Độ, đặc biệt vùng Nam Hà; nó đã chỉ ở lại Paris có bốn ngày, và khi mà cha nhận được lá thư này, thì nó đã đi Lorient với Giám Mục Adran và hoàng tử Nam Hà rồi. Chuyến đi này không phải là sự bất cẩn như lần trước [ý nói vụ trốn nhà đi Le Havre năm ngoái], nó đi với tư cách sĩ quan tình nguyện thuỷ binh [ở đây linh mục Vitalis tưởng lầm là em mình có thể được vào lớp sĩ quan tình nguyện], và nó rất sung sướng được xuống tàu của vua, cùng với hoàng tử. [Tàu Dryade của vua Louis XVI, được lệnh đưa hoàng tử Cảnh về nước với tất cả những vinh dự dành cho một hoàng tử]. Ông De Kersaint thuyền trưởng tàu này, sẽ lo cho nó, dẫn nó đi và đưa nó về, trừ khi nếu được thăng tiến thì nó sẽ ở lâu, dưới sự che chở của các quyền lực mạnh mẽ ở Ấn Độ, hay nó làm sáng giá những điều nó biết và những điều nó sẽ học được. Nó sẽ được gởi gấm kỹ càng cho ông De Kersaint và ông sẽ cần kiệm cung ứng cho nó trong mọi trường hợp, những gì nó cần dùng; có thể, chỉ trong vài năm nó sẽ được huân chương La Croix de Ste-Louis [Huân chương quân đội] và mang về rất nhiều tiền, nếu có hạnh kiểm tốt.

Tàu này chở nhiều sinh viên sĩ quan trẻ của ông Capellis và ông sẽ giới thiệu nó với họ và nó cũng muốn có thư giới thiệu với tất cả các quan trấn thủ các nơi mà nó sẽ ghé lại; con nghĩ nghề nó chọn là tốt, trừ những hiểm nguy không thể tránh được mà con đã chỉ rõ cho nó, con cũng đã cố gắng kéo nó chọn một dịch vụ ít động tác hơn, và con đã để cho nó tự quyết định lấy một mình; nó sẽ ra đi với sự chu toàn bổn phận của một con chiên.

Con viết thư này, chính là để nhờ cha đến xin ông d’Entrecasteaux viết thư ngay cho em ông ấy hiện làm quan trấn thủ Ile de France, để thành khẩn gửi gấm Puymanel và xin ông ấy hết lòng giúp nó những gì mà ông ấy có thể giúp được. Con đã giao hẹn với ông de Capellis rằng ông sẽ đưa cho em con một lá thư cho quan trấn thủ, báo với quan trấn thủ rằng ông d’Entrecasteaux [anh] sẽ gởi gấm người thanh niên này cho ông [em], trong lá thư sắp tới.

Cha cũng nên viết thư cho bá tước de Capellis, triều đình Louvre, để tỏ lòng biết ơn của gia đình mình đối với sự hết sức ưu ái mà ông bá tước đã dành cho em con và đã tạo phương tiện để nó có được sự thăng tiến nhanh, và cha cũng còn phải cám ơn ông ấy về những gì ông đã làm để ngăn nó không cho nó làm chuyện khởi hành bất cẩn ở Le Havre, mà một lần khác con sẽ kể cho cha nghe chi tiết hơn về vụ này. Con hôn cha mẹ các anh chị em. Khí hậu ở Nam Hà tốt.

Puymanel sẽ viết thư cho cha trước khi rời Lorient và [nếu] M. d’Entrecasteaux [anh] đưa thư của ông ấy cho cha ngay, thì có thể lá thư này sẽ đến Lorient trước khi em con đi. Cha chỉ cần bỏ thư trong phong bì, đề địa chỉ M. de Versine, sĩ quan Pháo binh tại Lorient, Bưu điện lưu trữ (poste restante); trong trường hợp hợp mà em con đã đi rồi, thì ông de Versine sẽ lo liệu gửi thư này cho ông d’Entrecasteaux [em].

Người anh tu sĩ này đã làm hết sức để gửi gấm em, và Olivier de Puymanel thực sự là một loại “con ông cháu cha” có nhiều ân sủng, đã được hưởng mọi sự giúp đỡ che chở, của gia đình và những người quen biết, làm lớn, trong xã hội thời ấy.

Sau đó, lá thư bị bỏ dở hoạc bị cắt ngang, với nhiều chấm…

Rồi đến đoạn tiếp theo, dưới đây, linh mục Vitalis giải thích tại sao ông lại chọn cho em con đường tình nguyện lính thủy, (có lẽ vì ông de Capellis đã cho biết Puymanel không thể học lớp “sĩ quan”), trong khi có thể chọn con đường chỉ đi viễn du, rồi ở lại nơi nào có của cải và có việc làm tốt. Ông giấu em, không nói đến chuyện có thể chọn sự viễn du, vì ông chưa thấy một đề nghị cụ thể nào về ngành công binh mà ông muốn người em đi vào. Ông viết:

“Chúng ta nói chuyện về em con, nó nói với con rằng, nếu nó muốn đi Nam Hà, thì chuyến đi đã xong, Giám mục Adran phải đi ngày thứ năm, rằng đó là một cơ hội tốt (…) con phải đến ăn chung bữa với nó, để nói cho nó biết những đề nghị của ông de Capellis và cho nó 24 giờ để suy nghĩ. – Nó cũng chẳng cần đến ngần ấy thời gian, khi biết ông de Capellis đã dàn xếp xong tất cả, nó bị kích động ngay cho đến ngày hôm sau. Dù vận hội này đem lại cho em con những lợi ích, có thể con đã giấu nó khả năng được lựa chọn giữa việc chỉ đi viễn du hay là làm lính thuỷ tình nguyện đi Ấn Độ, nhưng vì chưa có gì chắc chắn, dẫn nó tới ngành công binh, mà cơ hội thì khẩn cấp, cần phải quyết định ngay tức khắc, hoặc là nắm lấy hoặc là kéo dài tình trạng không dứt khoát của thằng nhỏ này, mà sự thiếu kiên nhẫn là tính khí hàng đầu của nó.

Con biết rằng nghề lính thuỷ tình nguyện có lợi ở chỗ là thời gian đi biển sẽ được tính tăng gấp đôi, đối với những người nhắm được huân chương La Croix de St-Louis, con cũng biết rằng trong những chuyến đi trường kỳ, cả lần đi, lẫn lần về, chỉ một món hàng rất nhỏ được phép mang theo cũng kiếm được một món hời [những thuỷ thủ đi biển ngày trước, được phép mang theo một gói hàng nhỏ gọi là pacotille, để bán]. Ông de Capellis nói với con rằng thằng nhỏ này là đứa tiêu tiền như phá, đi bể thì nó không có gì để tiêu xài, tiền lương rất ít, nhưng đã không phải trả tiền ăn và tiền phòng. Sau cùng, con đã quyết định giúp nó được đi xem các xứ xa xôi trong một chuyến đi hiếm hoi đưa đến một xứ sở giầu có, và tình thân của giám mục Adran có thể giúp ích rất nhiều cho nó”.

 

Thư thứ nhì của linh mục Vitalis, viết ngày 30/11/1787

 

Hai ngày sau khi viết là thư trên, linh mục Vitalis gửi cho cha lá thư thứ nhì sau đây. Thư này cũng chia làm hai phần. Phần đầu, ông tỏ ý hết sức hối hận về quyết định đã ghi tên cho em vào lính tình nguyện và nói với người cha: Nếu cha muốn thì cha có thể bãi bỏ hết:

Gửi Ông Olivier, Chưởng ấn toà Thượng thẩm Carpentras,

Đêm qua, con đã đưa em Puymanel lên xe ngựa đi Rennes và nó sẽ tới nơi trong ngày thứ năm; còn phải mất hai ngày nữa nó mới tới Lorient. Mặc dầu cha đã cho con toàn quyền đối với đứa em này, mặc dù con đã dẫn dắt nó như một người cha, nhưng ngay sau khi nhận được thư này, cha có thể viết thư cho nó, gửi tới bưu điện lưu trữ ở Lorient thì rất có thể nó còn nhận được; và cha còn kịp huỷ bỏ hoàn toàn những gì con đã làm. Con có cảm tưởng rằng chuyến đi lâu dài như thế này sẽ làm cha mẹ buồn, và nếu vì hoàn cảnh khiến cha thấy cần phá bỏ những điều con đã thoả thuận trước, con sẽ tự trách mình là đã dám trộm quyền cha mẹ để định đoạt.”

 

Phần kế tiếp, linh mục Vitalis mới giải thích tất cả các lý do đã khiến ông hành động như vậy, việc này liên quan tới hạnh kiểm của em ông, những lời gần như tuyệt vọng của vị linh mục sau đây nói lên những khó khăn và đau khổ của một người anh, trước một người em vô hạnh mà giáo dục gia đình đành bó tay, phải để cho trường đời dạy dỗ:

“Có những trường hợp khiến ta không thể chờ đợi lời khuyên, mà cha sẽ thấy qua câu chuyện nhỏ sau đây: Victor đi Le Havre, như cha đã biết, nó thực hứng khởi về chuyến đi này cho nên bao nhiêu lá thư với lời lẽ ngọt ngào của ông de Bonneuil, mà trong vài ngày nữa con sẽ chuyển cho cha, trong đó ông đã ca tụng tình yêu của cha mẹ, cũng chẳng làm cho nó động lòng. Đến nỗi, trong lúc ở lại tu viện này, nó còn tìm cách đánh lừa ông Bonneuil, chỉ cho ông cách xếp đặt [cho nó] về Paris, để nó trở lại tự do. Nhưng nó đã đi [Le Havre] và biết tất cả các mối hiểm nguy mà nó phơi mình, bằng cách đến nơi với ít tiền, không trương mục, không lời giới thiệu, chỉ có mưu mẹo là vài quyển sách, ít dụng cụ toán học và quần áo để bán, những nguồn lợi mà trong những xứ đắt đỏ, cách xa 2000 dặm, sẽ bị cạn kiệt. Cha xét xem, sau đó, nó đã công nhận với con những hiểm nguy đó, và con muốn tin rằng, như nó đã nói với con, là nó không dám nhìn mặt gia đình và bạn bè, sau cái việc xấu xa mà nó vừa làm, để Thượng Đế xét xử nó. Tuy nhiên de Bonneuil lại dàn xếp cho nó, và cuối cùng, nó lại trở về nhà con, con để cho nói thoải mái, cho nó bớt xấu hổ vì chuyện nó đã làm, cho nó hồi hương với những người bạn bị nó lừa. Việc dại dột phải được quên đi để sửa lỗi lầm, trong lúc con muốn thoả thuận với nó để trả ít hơn, một số hoá đơn. Con đã nói với nó rằng, những bộ quần áo đắt tiền, tiêu phí phạm, con sẽ không trả tiền cho người sản xuất, mà bắt nó phải bán lại; nó trả lời, chẳng còn bộ nào; con lờ sự bực bội của nó, đợi một lúc khác, hỏi nó về số tiền 300 ls [300 Louis] mà Thiébault nói chắc; nó bảo đảm đã đưa rồi. Con vặn hỏi, nó bối rối, sau cùng nó thú thực là nó chưa nhận được. Con nói với cha những việc này không phải để kết tội nó mà để cho cha biết, trong vòng có một tháng mà thằng này đã mất hết tính thật thà, nó đã bao lần nói dối tất cả mọi người, cả sự nó muốn cắt đứt với gia đình, nó mua một xe ngựa hai bánh giá 30 Louis để biếu BO, bán đồng hồ đeo tay 8 Louis cho BVS. Bức tranh này làm con khá đau lòng, nhưng vì cái nền [của nó] vẫn còn tốt, con nghĩ rằng cứ nhẹ nhàng [khuyên bảo], mặc dù nó có tánh quyết định và khó bảo, con hy vọng, nó sẽ trở về với những đức tính ban đầu. Chủ đích của con là thử nghiệm đắp cầu công binh với những mảnh vụn lượm lặt được…”

Lá thư kết thúc dở dang ở đây. Lời thư kín đáo quá, nhiều khi không rõ, úp mở, hoặc nói chưa hết ý, cũng cho ta mường tượng vụ trốn nhà lên Le Havre năm 1786, nhưng bị chận lại của Puymanel là nặng nề, và có những điểm không thể tha thứ được. Có thể là việc lấy trộm của gia đình vài quyển sách, ít dụng cụ toán học và quần áo để bán, và có thể, ý định sẽ từ Le Havre vượt biển đi rất xa, cho nên Vitalis mới viết: “những nguồn lợi mà trong những xứ đắt đỏ, cách xa 2.000 dặm, sẽ bị cạn kiệt”. Dù sao chăng nữa, người anh linh mục, vì mất hết tin tưởng vào em hư hỏng, nên đành phải chọn cho em con đường “lính thuỷ tình nguyện”, và cuối cùng ông đã hối hận, muốn cha quyết định lại số phận cho em.

Tuy nhiên, Puymanel chính thức được nhận vào lính tình nguyện binh nhì ngày 15/12/1787, như vậy, cha đã đồng ý với người anh linh mục, không sửa đổi chương trình sang Ấn Độ và Nam Hà của Puymanel, nhưng tàu chưa khởi hành ngay, phải đợi một tháng sau mới đi được, vì không thuận gió mùa.

 

Thư của Gabriel Olivier viết ngày 21/12/1787

 

Lá thư, do người anh cả Gabriel Olivier viết cho cha ngày 21/12/1787, sau thư của linh mục Vitalis gần một tháng, cho biết đến ngày 21/12/1787, Victor vẫn chưa đi vì tàu còn phải đợi cơn gió Bắc, thuận chiều, mới có thể giong buồm khởi hành. Trong thư, đoạn đầu, viết về sự hồ hởi của Victor về chuyến đi này, và an ủi cha, rằng ông de Kersaint đã đưa nó đi, thì thế nào cũng phải đưa nó về tới bến, đó là bổn phận của người thuyền trưởng, vv…

Đoạn sau ông viết:

“Đúng là Victor có dự định ở lại Nam Hà để tìm một sự thăng tiến lớn nhất. Nó đã hứa với con là chỉ dừng lại ở đấy, nếu nó chắc chắn bảo đảm là kiếm được của cải. Tuy nhiên, để theo đúng ý cha, con đã nhờ ông de Capelis [Capellis] viết thư cho ông de Kersaint dặn ông này -là người chỉ huy thuỷ thủ đoàn, không ai được rời tàu mà không có nghiêm lệnh của ông- chỉ cho phép nó [rời tàu] trong trường hợp có sự thăng tiến lớn lao và bảo đảm mà người ta cống hiến cho nó. Một mặt khác, con còn nhân danh cha, viết thư cho Giám Mục Adran, để năn nỉ ông theo đúng như ý cha, mà khuyên nhủ nó. Ở đầu kia trái đất, nó vẫn còn giữ được mối liên lạc với quyền uy hoà dịu của cha là điều rất tốt cho nó, dù xa xôi cách trở hai ngàn dặm”… (Taboulet, I, t. 246).

Lá thư này nói rõ quyết định của Puymanel đi Nam Hà là để tìm cải. Người anh cả, không rõ lắm về quy chế lính tình nguyện: bởi nếu Puymanel đã đăng lính tình nguyện rồi, thì không thể tới nơi nào, có việc tốt, muốn xuống thì xuống. Vì vậy, khi đến Côn Lôn, Puymanel xuống cùng với những người trong nhóm pháo binh, và ở lại, anh sẽ trở thành lính đào ngũ.

Ngày khởi hành

 

Ngày tàu Dryade khởi hành, ngoài sổ hành trình của tàu, còn được xác nhận qua hai thư sau:

Thư ông Thévenard gửi bộ trưởng Montmorin, viết từ Lorient ngày 28/12/1787:

“Hai tàu Méduse và Dryade cuối cùng đã khởi hành hôm qua, vào lúc 2giờ 30 chiều, theo ngọn gió đông bắc đầu tiên, và chắc nó sẽ tiếp tục thổi mạnh.

Đức giám mục Adran, hoàng tử Nam Hà, phân đội pháo binh và những hành khách khác cùng với hành lý, đều có mặt trên hai tàu này đúng như chỉ thị của ông [bộ trưởng].” (Launay, III, t.178).

Thư Bá Đa Lộc ngày 14/4/1788:

“Tôi vừa tới Ile de France, sau 102 ngày vượt biển… Tàu Méduse đi cùng với chúng tôi đến Hảo Vọng Các (Cap de Bonne-Espérance), rồi đi trước để đưa tin, thế mà vẫn chưa đến. Chúng tôi sợ nó đã bị buộc đỗ lại ở Hảo Vọng Các…” (Launay, III, t. 178).

Như vậy, ta biết chắc Puymanel khởi hành từ Lorient (Bretagne) ngày 27/12/1787, trên tàu Dryade, như binh nhì tình nguyện. Trên tàu, ngoài phái đoàn Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh, còn có một phân đội pháo binh. Chính những người lính trong đội pháo binh này, sẽ chỉ dẫn cho Puymanel biết về ngành pháo, việc này sẽ giúp đỡ rất nhiều cho anh, khi đến giúp vua Gia Long. Một số trong bọn họ sẽ đào ngũ cùng Puymanel ở Côn Lôn tháng 9/1788.

 

Hải trình của tàu Dryade và sự tiến thân của Olivier de Puymanel

 

Theo sự ghi chép của Faure, thì, tàu Dryade do hải quân đại tá hiệp sĩ Kersaint điều khiển, rời Lorient ngày 27/12/1787, chở Hoàng tử Cảnh và giám mục Bá Đa Lộc cùng đoàn tùng về Pondichéry. Sau đây là sổ hành trình của tàu Dryade, từ 27/12/1787, khởi hành ở Lorient, đến 23/8/1790 về tới Brest:

Đi từ Lorient ngày 27/12/1787, đến Ile de France và ở lại từ (8-26/4/1788). Đến Pondichéry, ở lại từ (18/5- 15/8/1788). Để giám mục Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh ở lại. Ba tháng sau, đi Côn Lôn và ở lại từ (15-19/9/1788). Olivier và 8 pháo binh đào ngũ tại đây. Tàu Dryade tiếp tục hành trình đi Phi Luật Tân, đỗ ở Cavite và Manille (7/10-29/11/1788). Về Macao (13-29/12/1788). Được lệnh Conway từ trước, [thư Conway gửi bộ trưởng Luzerne, Launay, III, t. 192] tàu sẽ từ Macao về Nam Hà để do thám tình hình: Tới Đà Nẵng (8-13/1/1789); Cham-Callao [Cù Lao Chàm] (14-16/1/1789); Cham-Chen [?] (17-18/1/1789); Cambir [?] đất liền (18-19/1/1789); Côn Lôn và Phú Quốc (24-27/1/1789); Poulo-Yang (28/2-1/2/1789); Côn Lôn (10-20/2/1789). Tới Malacca (19-22/2/1789); Pondichéry (13/3-12/4/1789); Trinquemale (12/4-15/5/1789); Pondichéry (37/5-11/7/1789); Ile de France (3/8-6/12/1789); Brest (23/8/1790) (Faure, t. 242).

Faure cho biết thêm chi tiết về những người lính đào ngũ ở Côn Lôn:

Olivier de Puymanel, tình nguyện binh nhì (chức nhận ngày 15/12/1787), đào ngũ ở Poulo-Condor (Côn đảo) ngày 19/9/1788, cùng với: Pierre-Marie, lính pháo hạng hai (2e canonier); Lemerle (François), thuỷ thủ (matelot), Maume (Dominique), thuỷ thủ; Lauzy (Charles), thuỷ thủ khuân vác; Le Tousse (Charles), thủy thủ coi buồm; Quermorvant (Francçois), thuỷ thủ khuân vác; Corré (Corentin) thuỷ thủ khuân vác; Terray (Jean-Baptiste) thuỷ thủ nhỏ (Faure, t. 242- 243).

Về Olivier de Puymanel, Faure viết:

“Tàu Dryade tới Côn Lôn ngày 15/9/1788, để lại đây cha Paul Nghị [Hồ Văn Nghị], người thân cận của Bá Đa Lộc và 10 lính thuỷ Nam Hà được đưa [từ Pondychéry] về xứ. Tàu cũng để lại một ngàn súng được mua từ Pháp cho vua Nam Hà. Tàu mất ở đây một lính tình nguyện binh nhì, ông Olivier de Puymanel đào ngũ cùng mấy thủy thủ pháo binh. Người lính tình nguyện trốn thoát ngày (19/9/1788) ở Côn Lôn, chẳng bao lâu sẽ nổi tiếng ở Nam Hà, sẽ trở thành Vệ uý Olivier de Puymanel.” (Faure, t.199).

Đó là những thông tin đứng đắn, có thể tin được; nhưng Faure còn đưa ra những tin hoàn toàn dựng đứng, như: “người [Bá Đa Lộc] không ngần ngại trao cho anh [Olivier] những nhiệm vụ quan trọng của vị Tham mưu trưởng quân đội Nam Hà” (Faure, t. 200); “Sau [khi đã thành lập xong] hải quân, đức giám mục Adran lo tổ chức quân đội Nam Hà, tới lúc đó chỉ là những băng đảng. Người thanh niên Olivier, về mặt này, là đại diện đặc trách và trực tiếp những quyết định của Đức Cha, một loại Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội dưới quyền điều khiển của Đức Cha“ (Faure, t. 221).“Olivier de Puymanel lại hân hạnh được đức cha chọn điều khiển trường võ bị tổng hợp này, ở đó phát xuất những sĩ quan và hạ sĩ quan người bản xứ, đã học về quy luật trận địa, họ sẽ thể hiện giá trị và kinh nghiệm ấy trên chiến trường” (Faure, t. 221-222).

Những lời lẽ biạ đặt này, sẽ được người ta chép lại dưới hình thức này hay hình thức khác, và sẽ đi vào “lịch sử”.

Trở lại với thực tế của Olivier:

1- Trên đường đến Nam Hà, Olivier de Puymanel may mắn đã được gặp linh mục Hồ Văn Nghị. Hồ Văn Nghị, như chúng tôi đã nhiều lần nhắc đến, là người thân cận của Bá Đa Lộc, đã cứu Nguyễn Ánh thoát chết khỏi tay Nguyễn Huệ ngày trước, cho nên ông là người thân tín của cả Bá Đa Lộc lẫn vua Gia Long. Trong suốt thời gian Bá Đa Lộc đem hoàng tử Cảnh sang Pháp, ông đã được vua sai đi về nhiều lần giữa Macao và Ấn Độ, để săn tin hoàng tử và làm những nhiệm vụ khác như mua vũ khí cho vua. Khi tàu Dryade chở hoàng tử và Bá Đa Lộc về đến Pondichéry, linh mục Hồ Văn Nghị cũng đã ở đấy.

Chắc chắn rằng, với chủ đích sang Nam Hà để tìm của, Puymanel đã làm quen với Hồ Văn Nghị trong thời gian ba tháng tàu đỗ ở Pondichéry. Ngoài ra, trước khi rời Pháp, Olivier còn được người anh Gabriel, thay cha, viết thư gửi gấm cho giám mục Bá Đa Lộc; vậy cũng có thể chính vị giám mục đã “gửi gấm lại” Puymanel cho Hồ Văn Nghị. Con đường tiến thân mà người anh linh mục Vitalis mong cầu cho em mình, đã không xa sự thực.

2- Cái may thứ nhì của Olivier, là tàu Dryade, khi đi từ Pondichéry về Côn Lôn, từ 15/8 đến 15/9/1788, lại chở cả linh mục Hồ Văn Nghị cùng với 10 lính thủy Nam Hà và “tàu cũng để lại một ngàn súng được mua từ Pháp cho vua Nam Hà”. 1000 khẩu súng này chắc chắn do Hồ Văn Nghị mua của đại lý Pháp ở Pondichéry về cho Gia Long. Như vậy, ngoài chuyện quen được Hồ Văn Nghị, Puymanel còn may mắn đi cùng tàu với Hồ Văn Nghị về Côn Lôn.

3- Ngày 19/9/1788, Olivier cùng 8 lính khác, đào ngũ và ở lại Côn Lôn.

4- Tại Côn Lôn, đã có sẵn đường dây do Nguyễn Ánh thiết lập từ trước, giao cho Hồ Văn Nghị trông nom, để hướng dẫn và giúp đỡ những thuyền bè ngoại quốc tìm lối vào Gia Định.

5- Vì thế, Puymanel khi đào ngũ, đã có đường tiến thân trực tiếp với vua Gia Long, và chắc chắn rằng: chính Hồ Văn Nghị đã thu nhận Puymanel và những người lính đào ngũ; đã đưa Puymanel về Sài Gòn yết kiến vua Gia Long, như một thanh niên con nhà gia thế, được đức giám mục Bá Đa Lộc bảo lãnh.

 

 

 

 

Phần II: Sự nghiệp

 

Chức vụ và nhiệm vụ của Olivier de Puymanel được Thực Lục và Liệt truyện nhắc đến bằng những hàng:

“Mạn Hoè, Đa Vật, Va Nê E, Ô Ly Vi (tức tên là Tín) và Lê Văn Lăng, đều là người Phú Lang Sa” (LT, II, t. 506). “Đa Vật, Va Nê E, Lê Văn Lăng và Ô Ly Vi, 4 người ấy theo Đa Lộc từ Tây Dương tới Gia Định, xin ở lại làm thân bộc, đều bổ làm cai đội” (TL, II, t. 507). “Ô Ly Vi làm đến vệ uý vệ ban trực hậu quân thần sách” (LT, II, t. 507).

Như vậy, chức vụ đầu tiên của Olivier là Cai đội; nhận chức này ngày nào, hiện chưa biết rõ; theo một vài thư sai phái, thì Olivier giữ chức Khâm sai cai đội. Đó là về chức.

Còn công việc đầu tiên để lại dấu vết là gì?

Qua những chứng từ có được, chúng tôi tạm kê khai những nhiệm vụ sau đây:

1- Nhiệm vụ thứ nhất: Viết thư hỏi tin Quang Trung đại phá quân Thanh, qua lá thư Olivier viết cho M. Létondal, quản thủ tu viện Macao:

Từ Sài Gòn ngày 15/7/1789

Thưa cha,

Con tiếc hoài đã không ở Macao, nơi con có thể làm hết sức mình để xứng đáng được cha tin cậy. Mấy ông kia đã đem tới lá thư cha viết cho con, làm con rất hân hạnh; những câu chuyện các ông ấy kể, lại càng làm con thêm hối tiếc. Mấy ông này đã may mắn đến đây [Sài Gòn] ngày 3/3 [1789], họ lại đi tuốt luốt đến tận Hà Tiên mà không biết. Nhà vua rất ngạc nhiên thấy chiếc thuyền bé mà họ dám leo lên để đi, ngài cũng tiếp đón tử tế nhưng chưa đủ nồng hậu để giữ tình thân. Nhà vua hiện đã lấy lại được ba tỉnh của ông, lại vừa bắt được một tướng ngụy, từ Huế gửi vào, mới đầu ông tha tội, sau rồi có điều nghi ngờ, ông đã sai chém đầu, [chắc nói về Phạm Văn Tham, ra hàng, được tha, sau bị giết vì bị kết tội liên lạc với Nguyễn Huệ]. Nhà vua đang nóng lòng đợi tàu Pháp đem con ông về. Từ lâu bên địch đã biết rằng nước ta phải giúp ông hoàng này và con đồ rằng sự sợ hãi những tàu Pháp từ Macao đến mà ở trên bờ biển nhìn thấy, đã ngăn cản bọn ngụy ở Huế gửi quân xuống đây đầu năm nay, [sau đó đến câu này, không hiểu Puymanel muốn nói gì: comme il avoit coutume de le faire une flotte, pour enlever ledit, le roy n'eut pu y résister]; còn một lý do khác đã ngăn taison [Tây Sơn] là chiến tranh với người Tàu, vì muốn biết rõ chi tiết về cuộc chiến mới đây mà hôm qua Hoàng Thượng bảo con viết thư này, nhân dịp đại úy Antonio Vincenti [sang Macao]; Hoàng Thượng muốn biết những gì đã xảy ra trong cuộc chiến tranh này, những mưu toan của người Tàu, sức mạnh của họ như thế nào, Hoàng Thượng chắc rằng với những điều cha biết về người Tàu, cha có thể cho ngài những tin tức chắc chắn hơn là những điều mà ngài đã biết qua các ngả khác, như thế, cha giúp Hoàng Thượng nhiều lắm mà cũng giúp cả con nữa.

Con xin bày tỏ lòng biết ơn…” (Cadière, Les français au service de Gia Long, Leur Correspondance, BAVH, 1926, IV, t. 363).

Lá thư này cho biết:

- Ngày 15/7/1789, Olivier đã ở Sài Gòn, và đã được vua sai viết thư cho giáo sĩ Létondal ở Macao, để hỏi về việc Quang Trung đánh nhau với quân Thanh.

- Trong thư, Olivier nói đến những chuyện xảy ra từ tháng 3/1789 ở Sài Gòn, và chính anh cũng nhận được thư ông Létondal gửi cho anh vào lúc đó. Như vậy, chắc rằng, chỉ ít lâu sau ngày đào ngũ (19/9/1788), Olivier đã được Hồ Văn Nghị đưa về Sài Gòn yết kiến Gia Long.

- Chúng ta tạm coi lá thư này, là chứng từ về nhiệm vụ đầu tiên Gia Long giao cho Puymanel: viết thư hỏi Macao về việc Quang Trung đại phá quân Thanh.

2- Nhiệm vụ thứ nhì: đặt súng đại bác

Faure cho biết khi tàu Méduse chở Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh về Sài Gòn, qua Côn đảo, đã đỗ lại từ ngày 19 đến 23/7/1789, và có giao súng đại bác mà Nguyễn Ánh mua; Puymanel và các bạn nhận việc bố trí: “Tàu Méduse, đỗ lại ở Côn Lôn từ 19 đến 23/7, để lại những khẩu đại bác để phòng vệ bến tàu, rồi ông Olivier de Puymanel và mấy người lính pháo đã đào ngũ năm trước, từ tàu Dryade, đặt vào vị trí ngay.” (Faure, Monseigneur Pigneau de Béhaine, t. 205).

Nếu lời Faure viết trên đây là đúng, thì có thể Puymanel đi đi về về giữa Côn Lôn và Sài Gòn, trong thời gian từ tháng 9/1788 đến tháng 7/1789, cho nên khi tàu Méduse “chở mấy khẩu súng đại bác” về cho Nguyễn Ánh, thì chính Puymanel và những pháo binh đào ngũ, đã nhận lệnh đặt đại bác vào đúng vị trí phòng thủ bến tàu. Điều này ăn khớp với việc tàu Dryade chở một đội pháo binh từ Lorient đi (thư ông Thévenard, Launay, III, t. 178). Olivier chắc đã học nghề pháo trong thời gian ở trên tàu với đội ngũ pháo binh này.

3- Nhiệm vụ thứ ba: chế tạo các hạng hoả xa

Liệt Truyện, mục từ Trần Văn Học, có ghi một vài việc quan trọng liên quan đến Olivier:

“Năm Đinh Mùi [1787], Học đã đến Tiểu Tây [Ấn Độ], lại đáp tàu nước Tây mang tờ biểu về tâu, về đến Ma Lặc [Malacca] gặp thuyền binh nước Đại Tây [Pháp] cùng nhau đều về, đến đảo Côn Lôn đem việc ấy [việc nước Bồ Đào Nha muốn giúp] tâu lên, vua bèn sai Trương Phúc Luật đến tiếp, bỗng Học đi thuyền nước Tây gặp gió dạt sang Lã Tống [Phi Luật Tân], hơn một năm mới về đến Gia Định, từ đó Học ở lại theo hầu, đem thông ngôn nước Tây, cùng với Ô-Ly-Vi (người Tây) phiên dịch chữ tiếng Tây, và chế tạo các hạng hoả xa, chấn địa lôi, binh khí.

Năm Canh Tuất [1790] đắp thành đất Gia Định, Học nêu đo phân đất và các ngả đường, rồi cùng người Tây là bọn Nguyễn Chấn [Vannier] trông coi chiếc thuyền lớn bọc đồng, theo quan quân đánh giặc.” (LT, II, t. 281-282).

Đoạn Liệt Truyện này đã soi tỏ một số vấn đề:

- Ta có thể chắc chắn rằng, nhiệm vụ thứ ba mà Olivier thực hiện, là cùng với Trần Văn Học phiên dịch chữ tiếng Tây, và chế tạo các hạng hoả xa, chấn địa lôi, binh khí.

- Nhưng khi Trần Văn Học được giao việc đo đạc để đắp thành đất Gia Định (vào khoảng cuối năm 1789) thì Olivier không tham dự, bởi không thấy Liệt Truyện nói gì cả.

- Nhờ việc chế tạo các hạng hoả xa, chấn địa lôi, binh khí. Mà Olivier được tuyển vào đội quân Thần Sách, đúng hơn là ngành pháo binh của quân Thần Sách.

Các ngòi bút thuộc địa gán cho Puymanel việc xây thành Gia Định

Để gán cho Olivier việc xây thành Gia Định, các sử gia thuộc địa dùng nhiều thủ pháp mà chúng tôi đã trình bày cặn kẽ trong những chương trước, ở đây chỉ xin tóm tắt lại:

1- Cadière dựng đứng câu chuyện: “Theo chính sử biên niên đời Gia Long, ông [Olivier] bắt đầu xây thành Gia Định tháng 3-4 năm 1790″ (Xem chương 15, Cadière).

2- Những người khác dựa vào câu của de Guignes: “Các ông Olivier và Le Brun, sĩ quan Pháp, đã cho ông ta [vua Gia Long] một cái bản đồ thành đài.” Và nhà vua vội vã xây ngay, phải sách nhiễu dân chúng nên mới có loạn, khiến “Olivier và Le Brun, hai tác giả công trình này cũng bị vạ lây. Giám mục Bá Đa Lộc, phải đưa hai ông về trốn ở nhà mình mới tránh khỏi tai nạn này.” (Báo cáo của de Guignes gửi Bộ trưởng Ngoại giao ngày 29/12/1791, Faure, t. 214).

Chúng tôi đã chứng minh những lời trên đây của de Guignes đều bịa đặt cả: chẳng hề có loạn ở thời kỳ đắp thành đất Gia Định, trong 10 ngày. Le Brun không thể “vẽ” bản đồ thành bát quái, cũng không thể “cho” Gia Long bản đồ để xây thành bát quái, lại càng không thể cùng Olivier “xây” thành bát quái, vì: Thành bát quái Gia Định đắp bằng đất, bắt đầu từ ngày 19/3/1790 (theo Trịnh Hoài Đức), mà ngày 13/1/1790 Le Brun mới tới Macao, rồi đào ngũ và ở lại, sau mới tìm cách sang Nam Hà. Thời đó, đi từ Macao sang Nam Hà, không phải cứ muốn là đi được ngay, còn phải chờ có chuyến tàu, rồi chờ thuận gió, yếu tố thuận gió vô cùng quan trọng. Vậy Le Brun không thể tới Nam Hà kịp thời để “vẽ bản đồ” hay để “cho” vua bản đồ, và vua đem ra “xây ngay” ngày 19/3/1790. Luận điệu này không thể dùng được.

Về phần Olivier, trước khi đến Việt Nam, anh chỉ là cậu công tử ăn chơi không chịu học hành gì cả, chữ Pháp viết chưa thông, nói chi đến chuyện “kỹ sư”, chuyện “xây thành Vauban”.

Sự chán nản của người lính xa nhà

Lá thư Olivier viết cho hai người bạn Lewet và Roland ngày 16/4/1793, mà anh gọi là “sĩ quan của vua Nam Hà”, khuyên hai người này nên xưng tội, đã nói lên tâm trạng hoang mang, mất niềm tin của những người lính trẻ, phiêu du vào vùng đất lạ, không được tin tức gia đình trong khi đất nước của họ đang lâm vào tình trạng khủng hoảng sau cách mạng 1789:

Ông Olivier de Puymanel gửi các ông Lewet và Roland, sĩ quan của vua Nam Hà ở Sài Gòn,

Vì tôi sẽ đi làm việc ở bên ngoài cả ngày, nên không thể kiếm các anh để báo rằng M. Labousse [giáo sĩ] sẽ đến đây trong ngày, và sẽ trở về thứ bảy hoặc chủ nhật. Vậy tùy các anh có muốn nhân cơ hội này để xưng tội như các anh từng ngỏ ý với tôi.

Các anh chưa biết rằng tôi hết sức thoả mãn về ý tốt này của các anh như thế nào, và tôi tin rằng chỉ trong ít ngày, các anh sẽ cảm thấy sự êm dịu trong lòng mà lương tâm cho ta, tôi đã cảm thấy từ mấy ngày nay rồi, và tin tôi đi, tôi thề vời các anh đó, trạng thái này tốt hơn hết tất cả những gì mà ta thường gọi là khoái lạc.

Tôi cũng xấu hổ vì nhiều khi đã làm gương xấu cho các anh, và tôi muốn sữa lỗi đó, vì tôi tin chắc rằng sự chơi bời dẫn đến sự vô đạo (irréligion) và sự vô đạo quá mức – nếu các anh đã được đọc mấy tờ báo từ Âu châu gửi sang năm nay, các anh sẽ không khỏi khóc nức lên vì buồn, vì xấu hổ, thấy những tội ác dã man mà đồng bào ta phạm phải; nếu so sánh [những kẻ ấy] với những người mà, trước đây ta thấy ở công trường hành hình [Place de la Concorde ngày nay], thì họ đều là những người lương thiện, và nếu ta có thể làm họ sống lại và [tổ chức] một nghị viện với họ, thì sẽ không ai bầu cho việc xé xác hay thiêu sống. Những kẻ Ăn thịt người ngày hôm nay, không bị trừng phạt ở Pháp, đừng có tưởng rằng tình yêu tự do dẫn đến những tàn khốc như thế, đó chỉ hoàn toàn là sự thù oán một đạo giáo thần thánh không có chút tội lỗi nào.

Chúng ta hãy cố gắng làm tròn bổn phận mà đạo này dạy ta, chúng ta đã uổng công hết lòng phụng sự vua Nam Hà, làm sao ông ta có thể đền bù sự hy sinh tính mạng của chúng ta cho ổng, vậy chúng ta hãy hy sinh cho thượng đế và sẽ được trả công gấp trăm lần.

Kẻ hèn phục vụ và tuân lệnh các anh.

Victor Olivier (Cadière, Les français au service de Gia Long, Leur correspondance, BAVH, 1926, IV, t. 365).

Lời thư nói lên sự chán nản của người thanh niên đối với bản thân: sau thời gian sống trác táng là sự “xưng tội”. Lời thư nói lên sự tuyệt vọng về thời cuộc trên quê hương anh, đang ở trong thời đại Kinh Hoàng (La Terreur) sau Cách Mạng 1789. Lời thư nói lên sự cay đắng, liều thân giúp Nguyễn Ánh mà không được “trả công đúng mức”, và hy vọng nếu “giúp” Thượng Đế, thì sẽ được trả công gấp trăm lần! Lời thư thực ngây thơ mà cũng thực tội nghiệp của người con trai 25 tuổi, xa gia đình, không có đường về, không biết tin tức mẹ cha; còn của cải và kho tàng mà anh mơ tưởng ngày đi, thì chưa hề thấy. Trước mắt: anh chỉ là một người lính đánh thuê.

Olivier lập công trong trận đánh Quy Nhơn lần thứ nhất, 1793

Xin nhắc lại, từ tháng 5-6/1792, có nhiều chuyện không hay xảy ra cho Nguyễn Ánh: Một mặt, Dayot thâm lạm ngân quỹ trong chuyến đi Manille làm vua nổi giận đuổi hết lính Pháp. Một mặt, Bá Đa Lộc hay tin Nguyễn Huệ đánh xuống miền Nam, qua ngả Lào, cũng xin đi, lấy cớ về Pháp thăm nhà. Vua cho phép, rồi sau đổi ý. Tháng 6-7/1792, Nguyễn Huệ liên kết với 40 thuyền Tề Ngôi (giặc biển) tấn công miền Bình Khang, Bình Thuận. Cùng lúc ấy, Nguyễn Ánh được cấp báo Nguyễn Nhạc đóng nhiều thuyền chiến đậu ở cửa Thị Nại, sửa soạn chinh phục Gia Định, Nguyễn Ánh bèn quyết định đánh trước.

Về phiá Olivier, Thực Lục việc tháng 7-8/1792 ghi: lấy khâm sai cai đội là Ôlivi làm Vệ Uý ban trực tuyển phong hậu vệ Thần sách (TL. I, t. 286).

Trận Thị Nại tháng 7-8/1792, xảy ra cùng với thời điểm Olivier được thăng Vệ Uý, nhưng chắc Olivier không dự, vì Nguyễn Ánh chỉ dùng quân cảm tử và thuỷ binh, như chúng tôi đã trính bày trong chương 16 viết về Dayot.

Ngược lại, Olivier có tham dự cuộc tấn công Quy Nhơn lần thứ nhất tháng 5-6/1793. Theo thư Le Labousse viết cho Boiret ngày 26/6/1793: “… Nhà vua vừa đi với bộ binh và thủy binh để đánh Qui Nhơn [...] Các ông Dayot, de Rhedon, Vannier d’Auray, cùng đi với tàu của họ. Ông Olivier quê Carpentras, và đội ngũ của ông cùng vài người Âu khác, đi trong đoàn bộ binh…” (Cadière BEFEO, Documents relatifs à l’époque de Gia Long, t. 29).

So với Thực Lục, Le Labousse viết không sai:

Sau khi Nguyễn Huệ mất, Nguyễn Ánh được tin Quang Toản và Nguyễn Nhạc nghi kỵ nhau, bèn quyết định đánh Quy Nhơn. Đây là chiến dịch đánh lớn và đánh lâu, từ tháng 5-6/1793 đến tháng 10/1793, Nguyễn Ánh thắng một số trận, Nguyễn Nhạc cầu cứu Quang Toản, thấy quân cứu viện vào, Nguyễn Ánh cho quân rút về Diên Khánh và đắp thành Diên Khánh. Olivier lúc đó làm Vệ uý trong đội Thần Sách, trực thuộc bộ binh, dưới quyền điều khiển của các đại tướng: Tôn Thất Hội, Võ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành.

Thực Lục ghi lại hai chi tiết đáng chú ý sau đây:

1- Khi vây thành Quy Nhơn: “Vua muốn dùng phép “thả diều phóng lửa” của nước Tây để đánh đốt thành giặc. Nhưng lại lo cho nhân dân trong thành, phần nhiều bị giặc ức hiếp bắt theo, sợ khi “thành cháy vạ lây” có chỗ không nỡ. Sắc cho các quân không nên đánh gấp, để cho dân tự ra” (TL, I, t. 296).

2- Vây Quy Nhơn nhưng ngại không dùng phép “thả diều phóng lửa” sợ chết dân, Nguyễn Vương bèn rút quân và ra lệnh dùng “hoả xa đại bác”:

“Vua lại đem quân về cửa biển Thị Nại, rồi đến cầu Thạch Yến hạ lệnh cho quân các đạo dùng súng hoả xa đại bác (đại bác của người Tây có bánh xe để di động như xe) đánh thành Quy Nhơn. Quân giặc trong thành ấy còn hơn 10.000 người. Nguyễn Văn Nhạc cố chết giữ, đánh mãi không hạ được thành” (TL, I, t. 297).

Ở đây, chúng ta có thể chắc chắn Olivier de Puymanel là một trong những tác nhân về “hoả xa đại bác”. Liệt Truyện cũng xác nhận: Olivier cùng với Trần Văn Học chế tạo các hạng hoả xa, chấn địa lôi, binh khí. Nhưng Vũ Viết Bảo cũng là một trong những chuyên viên về “hoả xa đại bác”. (LT, II, t. 321). Riêng phép “thả diều phóng lửa” của nước Tây thì chưa biết là phép gì, cần phải điều tra kỹ hơn.

Tóm lại, công lao của Olivier trong ngành pháo binh là thực sự và có thành quả, đã được Thực Lục và Liệt truyện ghi lại. Olivier cũng là người Pháp được ghi công nhiều nhất trong thời gian 6 năm, từ 1793 đến khi anh mất, năm 1799.

Việc gán cho Olvier xây thành Diên Khánh

 

Việc này chúng tôi cũng đã trình bày kỹ trong chương 12: Huyền thoại Puymanel và Le Brun xây thành Gia Định và Diên Khánh và chương 13: Tôn Thất Hội, Trần Văn Học, Vũ Viết Bảo, những người giúp vua Gia Long trong việc đắp thành đất Gia Định và Diên Khánh; ở đây chỉ vắn tắt lại mấy nét chính:

Học giả Cadière xác quyết việc Olivier “xây” thành Gia Định bằng câu: “theo chính sử biên niên đời Gia Long, ông [Olivier] bắt đầu xây thành Gia Định tháng 3-4 năm 1790″, câu này hoàn toàn sai. Rồi ông lại xác quyết Olivier “xây” thành Diên Khánh bằng một câu khác của Lavoué: “Nhà vua… mượn ông Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo kiểu Tây phương ở một trong những vùng mà ông vừa chiếm được. Thành phố vừa xây xong thì bốn mươi ngàn ngụy quân đã quyết định trèo lên nhưng vô hiệu” để đưa đến kết luận: “Thành bị bao vây vào tháng 5-6/1794, vậy thành này được xây vào cuối năm 1793, đầu năm 1794″ (Cadière, Nguyễn Suyền, note 26, BAVH, 1926, III, t. 264).

Lập luận của Cadière sai từ đầu đến cuối, bởi vì:

1- Thành Diên Khánh được đắp chính xác vào tháng 10/1793, khi Nguyễn Ánh rút quân từ Quy Nhơn về Diên Khánh, đắp một tháng xong. Tháng 11/1793, Nguyễn Ánh trở về Gia Định (TL, I, t. 299), thành này do Tôn Thất Hội và Vũ Viết Bảo phụ trách (LT, II, t. 78 và t. 321).

2- Thực ra câu của Lavoué đầy đủ là như thế này: “… Vua về lại Gia Định [tức là tháng 11/1793] mà ông đã chiếm. Ông xây thành đắp lũy kiên cố hơn, đóng tàu, vv… và mượn Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo kiểu Tây phương ở một trong những vùng mà ông vừa chiếm được. Thành phố vừa xây xong thì bốn mươi ngàn ngụy quân đã quyết định trèo lên nhưng vô hiệu” (Thư viết ngày 13/5/1795 gửi Boiret và Descourvières, BEFEO, Doc. Rel, Cadière, t. 33). Cadière đã bỏ câu đầu: “Vua về lại Gia Định”, vì nếu để câu này, thì cái chứng mà ông đưa ra là hỏng cả. Bởi vì:

Khi Nguyễn Ánh trở về Gia Định, tháng 11/1793, nếu có “mượn Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo kiểu Tây phương ở một trong những vùng mà ông vừa chiếm được”, thì phải là một thành khác, không phải Diên Khánh, vì Diên Khánh đã đắp xong từ tháng 10/1793 rồi; hơn nữa, Lavoué cũng chỉ nói bâng quơ, chứ không chỉ rõ tên thành là Diên Khánh.

Đại Nam Nhất Thống Chí viết: “Năm Quý Sửu (1793) quân nhà vua tiến đánh Qui Nhơn, lúc trở về, xa giá dừng ở Diên Khánh, xem xét thế đất, sau nhân bảo [đồn] cũ Hoa Bông đắp thành bằng đất, thành mở 6 cửa, đều có nhà lầu, 4 góc thành có núi đất, ngoài thành đào hào, ngoài hào có trại; các cửa đều có cầu treo để qua hào, trước sau có núi sông bao bọc, thật là nơi thiên hiểm” (ĐNNTC, III, t. 93). Lê Văn Định cũng mô tả Diên Khánh là một thành chiến đấu, có ít dân và càng không phải là một “thành phố theo lối Tây phương”. Một số người khác, lại quy câu “thành phố theo lối Tây phương” này vào thành Gia Định, càng sai nữa, vì Gia Định đã đắp xong từ tháng 4/1790.

Để kết luận, chúng ta có thể xác định gần như chắc chắn rằng, Olivier có mặt ở vùng Quy Nhơn-Diên Khánh trong hai năm 1793-1794, đã góp phần đắc lực trong các trận chiến với tư cách là Vệ uý trong đội quân Thần Sách. Nhưng Olivier không hề “xây” thành Diên Khánh vì không phải là chuyên môn của anh, Olivier chuyên về ngành pháo, việc đắp thành đất Diên Khánh là việc của người Việt, chuyên về thành trì Đông phương.

Olivier tham dự trận Diên Khánh 1794

Tháng 11/1793, Nguyễn Ánh rút về Gia Định, để Nguyễn Văn Thành ở lại trấn Diên Khánh, nhưng tháng 12/1793, lại gọi Nguyễn Văn Thành về và sai Đông cung Cảnh (13 tuổi) trấn giữ Diên Khánh cùng các tướng Phạm Văn Nhân, Tống Phước Đạm, Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành và các thầy dạy học Bá Đa Lộc, Trịnh Hoài Đức, Ngô Tòng Châu… Đến tháng 2/1794, Chưởng dinh hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức cũng xin ở lại Diên Khánh để giúp Đông cung. Có lẽ vì biết tin Đông cung (mới 13-14 tuổi) trấn giữ Diên Khánh, nên tháng 4/1794, Trần Quang Diệu và Nguyễn Văn Hưng lại đem đại binh thủy bộ vào đánh. Được tin, Nguyễn Ánh truyền cho Đông Cung phòng bị. Nguyễn Văn Hưng đem 40.000 quân bộ đánh Phú Yên, quân Nguyễn phải rút lui. Tháng 5/1794, thuỷ binh của Trần Quang Diệu tiến vào cửa biển Nha Trang, bộ binh của Nguyễn Văn Hưng cũng tiến đến Bình Khang, họp quân ba mặt vây thành Diên Khánh. Trong nhiều ngày, súng đại bác hai bên bắn ra như mưa, quân Tây Sơn bị thương rất nhiều nhưng thành kiên cố không thể tiến vào được. Nguyễn Ánh phải thân chinh cử thuỷ binh giải vây, với Tôn Thất Hội tiên phong, Võ Tánh tập hậu, Võ Di Nguy, hộ giá. Nghe tin đại binh Nguyễn Ánh đến, Trần Quang Diệu rút về Quy Nhơn, Nguyễn Văn Hưng lui về Phú Yên.

Olivier có dự trận Diên Khánh 1794 này, Thực Lục việc tháng 7/1794, ghi: “Sai Vệ uý Phan Văn Triệu, Ôlivi, Trần Văn Tín, Lê Văn Duyệt, Cao Văn Lý, cùng Cai đội quản Xiêm binh Nguyễn Văn Tổn và Cai cơ Trương Văn Phụng, đều đem quân bộ thuộc theo Đông Cung điều bát [điều khiển trừ khử] đánh giặc.” (TL, I, t. 309). Nhưng Thực Lục không mô tả chi tiết về trận Diên Khánh. Nhờ thư của giáo sĩ Lavoué viết cho quản thủ Letondal ngày 29/5/1794 (Launay, III, t. 233-234), chúng ta biết thêm những chi tiết sau đây, về trận Diên Khánh 1794 như sau:

“Ngày 29/5/1794,

Ngày 28/4, thủy quân [Tây Sơn] hiện ra ở cửa bể Nha Trang. Lúc đó tôi [Lavoué] đang bận nghe các trẻ em ở Lam-toun [?] vùng đạo gần biển, xưng tội; ngày hôm sau, 29, chúng sung sướng được nhận lễ chịu thánh thể đầu tiên.

Có ông Boisserand do tôi mời đến giúp lễ và có một bữa ăn nhỏ tiếp theo sự tái nguyện lễ rửa tội. Xong xuôi, ông Boisserand và tôi lui về gần thành hơn, vì sợ có kẻ báo cho địch quân biết chúng tôi ở gần, đến đêm sợ họ sẽ lẻn vào bắt. Buổi sáng chúng tôi đã leo lên một ngọn núi nhỏ, ở đó nhìn thấy rõ thuỷ quân Tây Sơn mà chúng tôi đoán có đến khoảng 300 thuyền buồm. Thực khó mà điễn tả được nỗi đau đớn của giáo dân khi họ biết chúng tôi sẽ rút lui, họ gào thét, van xin chúng tôi ở thêm với họ một ngày nữa; nhưng xét kỹ lại, chúng tôi thấy nếu chiều theo sự nài nỉ của họ là bất cẩn.

Ngày hôm sau, 30, chúng tôi vào thành và đến ở nhà ông Olivier, ông đã tiếp đãi chúng tôi rất ân cần. Ngày 2/5 chúng tôi được tin bộ binh [Tây Sơn] nghe nói đến 30.000 người và 50 thớt voi; nhưng quân Nam Hà [Nguyễn Ánh] gia tăng luôn… Ngày 15, họ vẫn tiếp tục pháo kích…

Tôi và ông Boisserand cũng không lo gì lắm bởi vì chúng tôi ở trong hố sâu dưới sự che chở của giàn súng đại bác; ở đó chín, mười ngày không dám ra, trừ trường hợp thật cần.

Sáng 16, tôi ra khỏi lỗ một lúc; ông Boisserand cũng vậy; nhưng địch quân lại tiếp tục pháo kích, chúng tôi lại bắt buộc phải trở xuống hầm; suýt nữa thì tôi trúng đạn đại bác 12 [?] đã nẩy lên nẩy xuống cách tôi có hai pied [1 pied=0,3048m] đục thủng tường bếp nhà ông Olivier, may mà không trúng ai.

Ngày 21, chúng tôi lại leo ra, đi về phía các đại đồn của địch, họ công kích ngay; cả hai bên đều chiến đấu can đảm; phiá chúng tôi có hơn 60 người bị thương, 7, 8 người ở lại trận tiền đầy xác quân Tây Sơn.

Sự thất bại này làm cho quân Tây Sơn chưng hửng khiến họ giải vây và rút đi, ngày 23. [Theo Thực Lục, Tây Sơn rút quân vì thấy Nguyễn Ánh kéo đại binh tới giải vây Diên Khánh].

Hôm sau, 24, tất cả các toán quân của ta kéo ra khỏi thành, đi về hướng Bình Khang. Đức ông và Hoàng tử bé cũng đi theo. Ngày 25, tôi được tin là họ đã đến Bình Khang vô sự.

Có ba họ đạo của chúng tôi bị thiệt hại, người thì bị mất nhà, những người khác bị mất đồ dùng, còn rất nhiều người không bị thiệt hại gì cả. Nói chung, những tướng Tây Sơn đã sử sự

rất đàng hoàng, họ cấm cướp bóc” (Launay, III, t. 233-234).

Lá thư này không những nói rõ về trận Diên Khánh mà còn cho biết Olivier đóng tại đây và có nhà ở trong thành; việc này phù hợp với những điều ghi trong Thực Lục: “Sai Vệ uý Phan Văn Triệu, Ôlivi, Trần Văn Tín, Lê Văn Duyệt, Cao Văn Lý… đem quân bộ thuộc theo Đông Cung điều bát đánh giặc.” (TL, I, t. 309).

Mặc dù Trần Quang Diệu đã rút quân về Quy Nhơn, nhưng Nguyễn Ánh thấy lực lượng chưa đủ mạnh để tấn công Quy Nhơn, nên cũng rút về Diên Khánh, sửa sang đắp lại Diên Khánh, để Võ Tánh thay Đông Cung làm trấn thủ và rút quân về Gia Định, đó là tháng 9-10/1794.

 

Trận Diên Khánh 1795

Tháng 10-11/1794, Trần Quang Diệu và Lê Trung lại đem quân thủy bộ đánh Phú Yên. Tháng 1-2/1795, Trần Quang Diệu, cắt đứt đường nước vào thành Diên Khánh, sai quân lăn sát trèo lên thành, bị súng bắn chết rất nhiều, sai đắp lũy cao vây bốn mặt thành. Võ Tánh cố thủ. Nguyễn Ánh gửi thư dặn Võ Tánh kiên quyết giữ, đợi mình chuẩn bị xong ghe thuyền sẽ tiến quân tiếp viện. Tháng 2-3/1795, tình trạng khẩn cấp hơn: Trần Quang Diệu vây chặt Diên Khánh, Lê Trung tiến đánh Phan Rí. Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành không chống nổi, phải lui quân, bị Nguyễn Ánh gọi về Gia Định hỏi tội. Chiến dịch Nguyễn Ánh giải vây Diên Khánh lần này kéo dài từ tháng 4-5/1795 đến tháng 9-10/1795 mới chấm dứt, nhờ triều Cảnh Thịnh có loạn, Trần Quang Diệu rút quân về Phú Xuân.

Tháng 3-4/1795, Nguyễn Ánh “sai Ôlivi sang Hồng Mao (Ấn độ) mua binh khí“; để Đông cung giữ Gia Định, sửa soạn xuất quân giải cứu Diên Khánh (TL, I, t. 318). Trước khi vua đi, trong triều, xảy ra hai việc quan trọng: Dayot làm đắm tàu Đồng Nai và lá sớ của Trần Đại Luật chống Bá Đa Lộc. Thư của giáo sĩ Lavoué gửi M. Létondal, ngày 27/4/1795, cho biết:

“Nhà vua vừa hết sức giận dữ những người Âu đang giúp việc, và bắt bỏ tù hai người: Ông Dayot và phó cai đội của chiếc tàu bị đắm, bị hư hại nặng nề; người ta vừa báo cho vua biết là tàu không còn dùng được nữa, điều đó làm cho vua nổi trận lôi đình… Chính trong lúc đó thì các quan đệ trình lên vua lá sớ chống Đức Giám Mục, vua đọc và làm thinh. Đức Ông được người ta báo tin ngay, giả vờ [như không biết] trong vài ngày nhưng sau thấy vua không nói gì và có vẻ đồng ý với các quan, bèn than thở một cách cay đắng, và người ta đã báo tin ngay cho vua biết, vua bèn gửi cho Đức Ông lá sớ đó…” (Launay, III, t. 302).

Lá thư của Le Labousse viết cho Létondal, Sài Gòn ngày 22/6/1795, có những chi tiết:

“… Ông ta [Nguyễn Ánh] đang ở trong thế kẹt... Tất cả người Âu bỏ đi… Đức Ông đã sửa soạn một chiếc tàu tốt rồi…

Ông sẽ thấy các ông Olivier và Dayot tới Macao. Dayot phải trốn khỏi chiến hạm của mình khi ra hàng ở cảng Saint Jacques. Sự tẩu thoát này sẽ là tổn thất nặng nề cho nhà vua.

Trên tàu của Olivier có Chaigneau, cùng quê với tôi…” (Documents relatifs à l’époque de Gia Long, Cadière, BEFEO, số 12, 1912, t. 35).

Như vậy, có thể tóm tắt tình hình như sau: Trước khi Nguyễn Ánh xuất quân giải vây Diên Khánh thì Dayot làm đắm tàu. Bá Đa Lộc cũng sửa soạn bỏ đi, nhưng chưa thực hiện được.

Khi Nguyễn Ánh đang phải kịch liệt đương đầu với Trần Quang Diệu và Lê Trung ở mặt trận Phú Yên-Diên Khánh, thì Dayot trốn ra Vũng Tàu. Còn Olivier, sau khi đi mua vũ khí ở Ấn Độ về, được Gia Long sai đi làm một dịch vụ khác về phiá Macao, và nhân dịp này, anh ta đã chở Dayot tẩu thoát sang Macao.

Ste-Croix, ngoài việc kể lại thoại Dayot bị “kết án oan”, “bị chịu hình phạt vô lý”, nên phải bỏ đi, như chúng ta đã biết; còn viết một đoạn liên quan đến Olivier, như sau:

“Olivier càng nghĩ một ngày nào đó chuyện này cũng có thể xảy ra cho mình mặc dù anh được ưu đãi, cũng xin từ chức. Dù anh làm việc hết lòng, qua nhiều chiến dịch thắng trận, mà vua không cho của cải gì cả.

Khi Olivier đã nói rõ dự định với vua, vua thấy trước sự mất mát này, ông bảo anh rằng: cho đến nay, có một số trở ngại khiến ông chưa thể tặng cho anh một phần của cải, nhưng ông sẽ lo việc này, Olivier cố nài nỉ, vì anh biết tính cực kỳ hà tiện của ông, cho rằng vua chỉ giả vờ để giữ anh lại. Nhà vua bèn nói: “Nếu ta là vua của nhà ngươi, ta có thể bắt buộc nhà ngươi, như một thần dân, ở lại, không cho đi, nhưng ngươi không phải thế và ta cũng không thể chống lại kế hoạch của ngươi, cũng như ta không thể vô ơn, quên những gì nhà ngươi đã làm cho ta, vậy ta cho ngươi một chiếc tàu nhỏ để ngươi có thể chở cau mua ở các cửa hàng. Ta cũng cho ngươi quyền ra vào tất cả các hải cảng của ta để buôn bán mà không phải trả bất cứ thuế gì”. Olivier đem tàu này chở cau tới Macao, bán được cả thảy 3.000 quan tiền. Anh trở lại Cao Mên với tàu này, mang những thứ hàng hoá dùng riêng cho xứ này, rồi bị bệnh kiết lỵ khi vào cảng, và chết ít lâu sau.” (Ste-Croix, Introduction, La Bissachère, t. 88).

Đoạn này, có thể tin được, và theo bối cảnh mô tả, không thể xảy ra khi Dayot bị kết án, cũng không thể xảy ra vào tháng 6/1795, trước khi Dayot trốn ra Vũng Tàu, vì lúc đó vua đang hành quân.

Tóm lại, Olivier, từ Ấn Độ trở về, chở Dayot trốn đi Macao; nhưng sau đó Olivier không ở lại Macao, mà quay về phụng sự vua. Có thể sau 1795, anh mới trần tình mọi việc và được Gia Long cấp cho một chiếc tàu nhỏ để buôn bán thêm, ngoài việc làm công vụ cho vua, như đối với Barisy sau này.

Cosserat cho biết từ 1795 đến 1799, ông không tìm thấy tin gì khác về Olivier. Nhưng Thực Lục tiếp tục ghi công Olivier trong trận đánh Quảng Nam năm 1797.

Olivier lập công trong trận Đà Nẵng 1797

Kể từ tháng 9-10/1795 đến tháng 5/1797, Nguyễn Vương giữ từ Bình Khang [tức Khánh Hoà] vào Nam. Cảnh Thịnh giữ từ Bình Định ra Bắc. Không có chiến tranh trong hai năm. Tháng 5/1797, Nguyễn Vương đánh Qui Nhơn, đem theo Đông Cung Cảnh, nhưng thấy Quy Nhơn phòng bị kỹ, khó đánh, bèn quyết định đem 100 chiến thuyền ra đánh Đà Nẵng. Trận Đà Nẵng bắt đầu từ tháng 6-7/1797: Nguyễn Văn Trương đánh viện quân của Lê Văn An từ Thuận Hoá ra, ở gò Phú Gia. Võ Tánh đánh nhau với Nguyễn Văn Giáp ở Mỹ Khê. Đông cung Cảnh thắng trận La Qua [huyện Diên Phúc]; vua mật cho Phạm Văn Nhân giữ cửa biển Đại Chiêm [Hội An]. Vương lại sai Phó vệ uý vệ túc trực Nguyễn Văn Khiêm và thuộc nội vệ uý ÔLiVi đến tấn biển Đà Nẵng [chỗ hai dòng sông Cẩm Lệ và Vĩnh Điện chẩy ra biển], đóng thuyền sam bản đánh hoả công, rồi chọn quân cảm tử cưỡi thuyền vào đốt thuyền địch ở vịnh Đà Nẵng. Thống lĩnh Tây Sơn Nguyễn Văn Chân và Thiếu bảo Nguyễn Văn Huấn, một mặt cố giữ Đà Nẵng, một mặt xin cầu viện Quy Nhơn.

Thực Lục ghi việc tháng 6-7/1797, như sau: “Sai Phó vệ uý vệ túc trực Nguyễn Văn Khiêm và Thuộc nội vệ uý Ô Ly Vi đóng thuyền sam bản đánh hoả công, kén quân chiến tâm cưỡi thuyền ấy, đêm phóng lửa đốt được mấy chiến thuyền của giặc, giặc do đó lại cố chết mà giữ để xin quân ở Quy Nhơn” (TL, I, t. 354).

Liệt truyện, mục từ Nguyễn Văn Khiêm cũng ghi: “Năm Đinh Tỵ [1797], Khiêm theo đi đánh Quảng Nam, vào cửa biển Đà Nẵng, Khiêm đem quân lên bộ, ban đêm nín lặng đến sát luỹ giặc để đánh; lại cùng người Tây là Ô Ly Vi làm kế hoả công đốt thuyền giặc“ LT, II, t. 232).

Đây là chiến công cuối cùng của Olivier, vì sau đó anh chuyển sang nhiệm vụ ra nước ngoài.

Nhiệm vụ cuối cùng của Olivier de Puymanel: điều tra vụ tàu Armide, năm 1798

Chiến dịch Quảng Nam Đà Nẵng tuy thắng được vài trận nhưng không làm chủ được tình thế, quân Nguyễn lại thiếu lương thực nên tháng 9-10/1797, Nguyễn Ánh phải rút về Gia Định. Sau thất bại này Nguyễn Ánh nghỉ thêm hai năm để củng cố lực lượng: đóng tàu, mua khí giới, mở rộng quân Thần Sách… trong năm 1798 và đầu năm 1799, Olivier giúp vua việc ngoại giao và mua khí giới.

Tháng 2-3/1798, vua sai Du Hải Quan đi Hạ Châu (Singapore) tìm mua đồ binh khí.

Tháng 11/1798, Gia Long viết thư cho vua Anh và vua Đan Mạch để vận động việc mua vũ khí. Cũng trong năm này, xảy ra việc tàu Armide của Gia Long do Barisy điều khiển từ năm 1792, để đi mua bán ở nước ngoài, bị tàu Anh bắt (xem chương 17: Chính sách đối ngoại của vua Gia Long), vua sai Olivier đi điều tra về vụ này. Olivier gửi thư cho ông Aguiton, thuộc nhà cầm quyền Anh để khiếu nại. Tháng 11/1798, vua lại sai Olivier đi cùng với Barisy sang Ấn Độ kiện vụ tàu Armide, đồng thời vua viết thư cho toàn quyền Anh ở Ấn Độ, đe dọa phải giải quyết vấn đế, nếu không sẽ dùng biện pháp mạnh. Chính phủ Anh nhượng bộ, giao trả tàu Armide.

Tháng 1-2/1799, vua lại sai Vệ uý Ô Li Vi đi thuyền hiệu Thanh Tước đến Hạ Châu (Singapore) tìm mua binh khí (TL. I. t. 374). Chuyến đi này là chuyến đi cuối cùng, nhưng chưa xong, Olivier mất ngày 23/3/1799 vì bệnh kiết lỵ ở tuổi 31, tại Malacca.

Olivier để lại một chúc thư cho Bá Đa Lộc, kèm một di chúc. Hai người có nhiệm vụ thi hành di chúc cũng viết một thư cho Bá Đa Lộc. Cả ba văn bản đều được in lại trong sách của Louvet, La Cochinchine Religieuse (t. 560-563).

Trong lá thư viết ở Malacca ngày 18/5/1799, Jean Daniel và Antoine Neubrone, hai người thi hành di chúc, tường trình cho Giám Mục Bá Đa Lộc, những ngày cuối cùng của Olivier:

“… Người bạn Olivier của chúng tôi đến đây trong trạng thái quá yếu, sau khi chống lại tử thần 33 ngày, ông đã ra đi ngày 23/3 lúc 3 giờ sáng. Ông mất mà không ai biết, bởi ông vẫn ở trong tình trạng yên tĩnh như thế… Ngày 19/3, ông Olivier quá cố còn ký giao kèo 600 đồng cho việc sửa tàu với một người thợ ráp tàu, trả một nửa trước. Con tàu bị nứt một phiá và bị thiệt hại ở trong thân chỗ có kiến trắng bu đầy, chúng tôi đã tường trình với ông Olivier và đồng thời hỏi ông là phải làm gì, nếu Thượng đế gọi ông đi, và ông trả lời như sau:

“Tôi xin hai ông hết sức cẩn thận coi sóc công việc sửa, theo đúng giao kèo ký với thợ ráp tàu; đừng ngừng, ngay cả sau khi tôi chết, vì chẳng ai mua con tàu này trong tình trạng hiện nay và sửa xong, đừng bán, trước khi hỏi cha Bá Đa Lộc, có thể người có ý định khác chăng: nhờ thủy thủ đoàn của tôi canh giữ tàu trong khi chờ đợi.” (Louvet, t. 563)

Sau đó, hai người thi hành di chúc cho biết họ đã phải bán tàu, vì không có cách nào khác… tàu này chắc không phải tàu hiệu Thanh Tước, có thể khi biết mình bị bệnh Olivier đã tìm cách gửi người khác lái về cho vua, mà là tàu vua cho Olivier để đi buôn.

Trong di chúc, Olivier dặn dành những số tiền cho hội thừa sai, cho người nghèo, cho ba gia đình Miên vẫn phục vụ anh và gửi tất cả thuỷ thủ đoàn Miên, Việt về xứ, cấp cho mỗi người 6 quan tiền… Người thanh niên 31 tuổi ấy, dường như gia đình lúc bấy giờ, ngoài Giám mục Bá Đa Lộc, chỉ còn vài người thân Miên, Việt, bên cạnh.

 

 

 

Giám mục Bá Đa Lộc mất sau Olivier bẩy tháng, ngày 9/10/1799 ở Mi-cang [Mỹ Cảng], Bình Định. Giáo sĩ Lavoué mất ngày 26/4/1796 tại Lái Thiêu. Linh mục Hồ Văn Nghị mất ngày 19/2/1801 tại Sài Gòn. Giáo sĩ Le Labousse mất ngày 25/4/1801, tại Nha Trang (Launay, III, t. 373, 372, 480, 481), đó là những chứng nhân gần cận nhất, thuộc vào giai đoạn lịch sử này, đã mất trước khi Gia Long thống nhất đất nước.

Chương 19

laurent barisy (1769-1802)

Laurent-André-Estiennet-Marie Barisy, là một người phiêu lưu mạo hiểm có đời sống thăng trầm như một nhân vật tiểu thuyết kiếm hiệp. Trong đoạn đời ngắn ngủi của anh ở Nam Hà, từ khoảng 1793 đến 1802, khi anh mất, Barisy đã giúp vua rất nhiều trong việc giao thương với nước ngoài: bán gạo và các sản phẩm để mua vũ khí. Trước đây, người ta không biết gì về nguồn gốc Barisy hay Barizy. Alexis Faure cho biết ông đã dò kỹ các sổ ghi quân viễn chinh ở Ấn Độ và Ile de France, và thủy thủ đoàn của những chiến hạm tuần hành trong vùng Ấn Độ Dương nhưng vô hiệu, không tìm thấy tên Laurent Barisy. Cosserat cũng không thấy chỗ nào ghi tên Barisy trước 1798, khi tàu Armide do Barisy điều khiển bị tàu Anh Non-Such bắt. Nhưng từ khi André Salles tìm được một số thư từ và giấy tờ của gia đình Barisy ở Groix và Cosserat biên tập, in trong bài Documents Salles, Laurent Barisy, BAVH, 1939, III, sau khi Salles qua đời, thì một số chi tiết hộ tịch được rõ ràng hơn; sẽ dẫn là Documents Salles, BAVH, 1939, III.

Nguồn gốc gia đình

Dòng họ Barisy gốc ở Groix, một đảo của Pháp trên Đại Tây Dương, gần cảng Lorient, thuộc vùng Morbihan. Ông nội, Jean Jacques Barisy là luật sư và bà nội, Marie-Anne Sainte Le Lidour, đều quê quán ở Groix. Cha, Laurent-André (sinh ngày 15/6/1724, rửa tội ngày 17/6/1724, tại Groix), là sĩ quan thương thuyền của công ty Pháp Ấn, ngày 17/1/1764 kết hôn với Renée Barbotin, tại Port-Louis (hải cảng gần đảo Groix); Laurent-André mất tại Port-Louis ngày 19/1/1785, có ba con: Hellaine, Laurent-Estiennet [tức Laurent Barisy] và Marie-Jacquette.

Theo sổ hộ tịch đạo ở Port-Louis, Laurent-André-Estiennet-Marie, sinh ngày 27/11/1769, rửa tội ngày 28/11/1769, tại Port-Louis. (Nhiều nơi ghi ngày sinh là 28/11/1769, thực ra là ngày lễ rửa tội) (Documents Salles, BAVH, 1939, III, t. 178, 180, 197, và 221)

Về ngày Laurent Barisy bắt đầu đi khỏi xứ Pháp, Salles cho biết: “Một lá thư của ông Lozach, em rể của Estiennet [tức Laurent Barisy] viết từ Lorient ngày 12/10/1788, trong đoạn tái bút có câu: “Barisy sẽ đi Ile de France tuần tới với tư cách trợ tá trung uý (second lieutenant) thương thuyền“ (Documents Salles, BAVH, 1939, III, Notes sur la famille Barisy của Villeneuve, t. 199).

Về việc Laurent Barisy lập nghiệp ở Nam Hà, trong một bức thư, Van Dromme viết:

“… Laurent Barisy định cư ở Nam Hà, với ông Toison [?], Giám Mục Adran, ở đấy trong thời gian Cách mạng, lấy con gái một ông quan, và chính ông cũng được làm quan.

“Ông gả người con gái duy nhất cho sỹ quan thuỷ binh, M. Chaigneau…”

“Bà Barisy không muốn rời xứ mình”. Con gái bà, Hélène Barisy, tức Mme Chaigneau kế, về Pháp với hai con Marie và Jean. Marie sau trở thành Soeur de Saint Vincent de Paul” (Documents Salles, BAVH, 1939, III, t. 189). Vua Khải Định năm 1922 sang Pháp, có tiếp hai gia đình Chaigneau và Barisy (Documents Salles, t. 192).

Gia đình Barisy không được họ hàng “mến mộ”, André Salles, khi đi tìm dấu vết gia đình này ở vùng Lorient, gặp Léonce Modille de Villeneuve, tư giáo trợ tá giám mục (chanoine) ở Monaco, và là người bà con cung cấp cho Salles nhiều thông tin nhất, cũng là người soạn bài Notes sur la famille Barisy, ông đã viết những hàng sau đây:

“Tổ tiên nhà Barisy, mà chúng ta đang tìm kiếm hiện nay, tính tình dữ dội khủng khiếp, mà con cháu cũng thừa hưởng, gây họa cho họ và những người thân của họ.

Tôi nghĩ đã truyền đạt cho ông Salles gần đầy đủ tất cả những gì đáng chú ý trong mớ giấy má lộn xộn ở Groix và ở Port-Louis. Ký tên: Léonce“ (Documents Salles, t. 205).

Villeneuve còn cho biết những thông tin sau đây:

- “Jean Jacques Barisy [ông] chết trước năm 1769. Năm 1779, tôi [Modille de Villeneuve] tìm thấy một bản chia [gia tài] trong đó tên Laurent-Antoine de Barisy [cha] được chỉ định là đại úy hải quân của Công ty [Pháp Ấn]“ (bđd, t. 198).

- “Thực lạ lùng là trong 33 lá thư viết cho gia đình Modille, hai người chú, cả người cha, và các chị em, không ai nhắc gì đến Estiennet [tức Laurent Barisy]“.

- “Từ khi gia đình Chaigneau về lại Bretagne, tôi thấy họ chỉ nhắc đến tên Barisy hai lần”.

- “Người con gái của Estiennet [vợ kế của Chaigneau] bị coi là khó chịu lạ lùng” (Modille de Villeneuve, Chanoine ở Monaco) (Documents Salles, t. 199).

Nếu những thông tin của Modille de Villeneuve trên đây là đúng thì có thể nói: họ hàng có ác cảm với gia đình Barisy và chính Laurent Barisy cũng bị gia đình mình coi như “đồ bỏ”.

Đó là những lý do khiến người thanh niên, ở tuổi 20, đã bỏ nhà ra đi, phiêu lưu trên những vùng đất lạ.

Sang Nam Hà và ở lại phục vụ vua đến lúc mất

Trong lá thư dài, viết ngày 16/4/1801 cho các giáo sĩ Létondal và Marquini, Barisy tóm lược đời mình như sau:

“… Có ít người trong giai cấp đã chịu nhiều thăng trầm trong đời như Barisy: Ở tuổi 17, làm sĩ quan trong quân đội hoàng gia Pháp; chỉ huy lougre Oiseau của vua [lougre là tàu đầu to đuôi nhỏ, thường được dùng vào việc chuyên chở, có lẽ ta gọi là thuyền bàn, nhưng nhiều chỗ Barisy dùng trong nghiã thuyền chiến] ; 18 tuổi, công nhân trên một chiếc tàu chuyên chở với tư cách trợ tá trung uý [employé sur vaisseau de transport comme 2e lieutenant]; 21 tuổi, làm chỉ huy trưởng [commandant] ở đảo Groix, thuộc bờ biển Bretagne; 23 tuổi đi lang thang ở Thổ Nhĩ Kỳ, đào tẩu, bị đầy đọa. Mục kích những việc cậu [hay chú] Flotte, trấn thủ Toulon của vua, bị cắt cổ; chú Boisquenai, tư lệnh ở Lorient, bị lột lon, trục xuất, lưu đày; chú Barisy, tu sĩ, bị tù trong ngục; em rể là Lorach, bị treo cổ, anh họ Le Veyer, bị treo cổ, và sau cùng là tôi [Barisy] lang thang ở Ấn Độ, rơi vào tay chính quyền Mã Lai; sau nhiều cố gắng nhọc nhằn, bám víu được đất Nam Hà, hân hạnh được nhà vua hào hiệp giúp đỡ, mong kiếm cái gì cho tuổi già; lại bị thuyền trưởng Thomas điều khiển tàu Non-Such bắt. Quay trở lại nước Nam, lại được Vua và Hoàng tử che chở, kiếm được chục nghìn đồng (piastres); rồi bị đóng gông, mất hết của cải, chỉ trong khoảng có tám ngày, bị kết tội bỏ thuộc độc, cướp của, giết người, mà không có bằng chứng gì cả.

“Không sao, tôi chẳng sờn lòng…” (Cadière, Documents relatifs à l’époque de Gia Long, BEFEO, 1912, t. 44; và Les français au service de Gia Long, Leur Correspondance, BAVH, 1926, IV, t. 398).

Những lời trên đây cho ta thấy rõ một số vấn đề liên quan đến tiểu sử của Barisy:

1- Những điều anh nói về người thân bị giết trong thời đại Kinh hoàng tại Pháp là có thật; việc bá tước Flotte bị Cách Mạng giết, lịch sử ghi lại như sau:

“Toulon cũng như tất cả những thành phố khác ở Pháp, không thoát khỏi cuộc Tàn sát tháng Chín [1792] (Septembriseurs). Nhiều sĩ quan siêu quần của hải quân là đối tượng của nhóm chính trị cực đoan (clubistes) điên rồ. Bá tước Flotte [cậu của Barisy] thiếu tướng hải quân từ ngày 1/7 năm nay [1792], và là tân chỉ huy trưởng thuỷ quân Toulon, sáng ngày 10/9/1792 bị lôi ra trước cửa Công binh xưởng trước mặt binh lính và thợ thuyền hải quân, họ im lặng nhìn vị thủ lãnh chịu cực hình: người ta lấy kiếm chặt chân tay ông rồi treo cổ ông trên cột đèn đường” (Guéren, Histoire maritime de France, V, t. 355; Doc. Salles, t. 234).

2- Tuy là con nhà “dòng dõi”, nhưng Barisy chắc chẳng học hành gì, anh có văn tài, nhưng Barisy viết tiếng Pháp “tự do” như người ngoại quốc nghe và phiên âm lại, tiếng Pháp của anh nhiều lỗi nhất trong số thư từ mà Cadière sưu tập được. Những chức tước anh kê khai như: sĩ quan trong quân đội hoàng gia, chỉ huy trưởng ở Groix… vì vậy, khó mà có thật. Nhưng chắc Barisy biết tiếng Anh, vì sau này, anh làm việc với công ty Anh và Thực Lục nhiều chỗ ghi Barisy là người “Hồng Mao”. Tuy nhiên, những gì anh viết về đời mình, cho ta những mốc thời gian, để sắp đặt lại trật tự tiểu sử của anh:

Sinh năm 1769. Đến tuổi 17 (1788), làm thuỷ thủ ở Groix. Theo lời tái bút trong lá thư ngày 12/10/1788, của Lozach, em rể Barisy, đã trích dẫn ở trên, thì “Barisy sẽ đi Ile de France tuần tới với tư cách trợ tá trung uý (second lieutenant) thương thuyền“. Vậy tạm coi là cuối năm 1788, Barisy đã phiêu lưu khỏi xứ, trên một tàu buôn. Trong ba năm, 1789, 1790, 1791, Barisy đã phiêu bạt nhiều nơi, và năm 1792, lang thang sang Thổ Nhĩ Kỳ, sau đó qua Ấn Độ, bị bắt ở Mã Lai và cuối cùng đến đất Nam Hà năm 1793; được vua Gia Long tin dùng. Những sự tình này chắc là đúng cả. Barisy được vua và hoàng tử Cảnh hết sức che chở và vua giao cho anh cai quản tàu Armide ngay từ lúc ấy.

Faure cho rằng: Tài liệu Việt, khi thì coi Barisy là capitaine, khi thì lieutenant-colonel, tuỳ theo Barisy điều khiển “trại mộ binh” do giám mục Bá Đa Lộc lập ra, hay “điều khiển một tàu chiến” (Faure, Bá Đa Lộc, t. 223). Những việc “điều khiển trại mộ binh do Bá Đa Lộc lập ra” hay “điều khiển một tàu chiến” là Faure bịa ra cả. Còn về chức tước của Barisy, cần phải nói lại cho đúng: tài liệu Việt luôn luôn đề chức của Barisy là Khâm sai Cai đội Thiềng [Thành] Tín Hầu, đến năm 1801, anh được thêm hai chữ Thuộc nội; chỉ khi dịch sang tiếng Pháp mới có sự thay đổi, khi thì capitaine, khi thì lieutenant-colonel, tùy theo bản dịch. Còn Louvet cho rằng Barisy đến nước Nam cùng với giám mục Bá Đa Lộc, năm 1789, và đã “có thể được giám mục giao cho nhiệm vụ tổ chức lại quân đội An Nam, đặc biệt ngành tiếp vụ” (Louvet, t. 235), câu này cũng hoàn toàn sai.

 

 

Phục vụ Gia Long từ năm 1793

Có ba chứng từ đích xác cho biết Barisy đã phục vụ Gia Long từ năm 1793.

1- Chỉ dụ ngày 17/12/1793 của vua cho M. Barisy:

“Lệnh cho Barisy-man, đang phục vụ dưới trướng, mua tất cả những hàng hoá y thấy tại đây [Sài Gòn] chuyển lên tàu ô đi Malacca và Poulo-Pinang để dùng vào việc mua súng ống và tất cả những khí giới khác mà y thấy. Cẩn thận đi càng sớm càng tốt, trong dịp đang thuận gió mùa này, và phải hết sức đề phòng để tránh mọi tai nạn. Làm xong nhiệm vụ, y phải tức khắc trở về đây”. (Louvet, I, t. 545)

2- Thư Olivier gửi Lefèbvre ngày 10/4/1798, có câu:

“Barisy, thuyền trưởng tàu Armide, bị người Anh bắt, hàng hoá chở trên tàu bị bán hết...” (Archives Lefèbvre de Béhaine, Doc. Salles, t. 232).

3- Thư Olivier gửi Ô. Aguiton, phản đối việc tàu Armide bị bắt (xem chương 17: Chính sách đối ngoại của Gia Long), có những câu:

“… vua đã nghiêm ngặt chỉ thị cho tôi, ngoài những việc khác, còn phải tìm kiếm xem chiếc tàu Armide hiện nay biến thành cái gì, chiếc tàu này do khâm sai cai đội Barisy điều khiển; thời gian dài [không tin tức] của chiếc tàu này làm nảy ý là nó đã bị nạn [...]

Con tàu này, trong 5 năm liên tiếp, vẫn do viên khâm sai cai đội này cầm đầu, đã gặp biết bao tàu chiến khác của tất cả các nước, nó vẫn được nhìn nhận là hoàn toàn trung lập; vậy vì lý do gì mà ngày nay người ta lại nhìn nó như thế? (Louvet I, t. 554-555).

Tháng 4/1798 Olivier viết: Barisy cai quản tàu Armide của vua được 5 năm rồi; vậy có nghiã là: Barisy đã phục vụ vua và quản tàu Armide, từ đầu năm 1793.

Trong lệnh sai phái của vua ngày 17/12/1793, Barisy được gọi là Barisy-man, và vài chỗ khác trong Thực Lục, cũng gọi Barisy là người “Hồng Mao”. Có thể vì Barisy nói được tiếng Anh và làm đại diện cho hãng buôn Anh Abbott-Maitland. Ngoài ra, lệnh phái này còn sai Barisy chất đồ lên tàu ô, vậy ngoài tàu Armide, Barisy còn điều khiển các thứ tàu khác nữa.

Tóm lại, ta có thể chắc chắn rằng: Barisy đến Nam Hà đầu năm 1793, được vua trao cho quản tàu Armide với nhiệm vụ ra nước ngoài bán sản phẩm và mua vũ khí. Tàu Armide, trong 5 năm liên tiếp vẫn do Barisy cai quản, mang cờ hiệu của vua Gia Long, thông thương trên biển, giữ vị trí trung lập trong cuộc tranh chấp giữa Pháp và Anh ở Ấn Độ Dương và những quan toàn quyền ở Madras, Malacca, Batavia, Manille và Tranquebar, đều sốt sắng đón tiếp tàu của vua Nam Hà.” (Thư Olivier gửi Aguiton, Louvet t. 555).

 

 

Vụ tàu Armide bị tàu Anh Non-Such bắt

Vào khoảng tháng 4/1798, tàu Armide bị tàu Anh Non-Such do thuyền trưởng Thomas điều khiển, bắt, rồi “bán chiếc tàu này với cả hàng hoá trên tàu, và giải tán toàn bộ thủy thủ đoàn người Mã Lai và người Việt Nam” (Thư Olivier gửi Aguiton, Louvet, t. 555). “Những lời khiếu nại nhiều lần của thuyền trưởng Barisy lên tướng chỉ huy và lên hội đồng hoàng gia Anh ở Bengale đều vô hiệu” (Thư vua Gia Long gửi toàn quyền Anh ở Ấn Độ, Louvet t. 552-553).

Nhân vụ tàu Armide, chúng ta mới biết được phản ứng tức thời của Gia Long đối với sự xâm phạm vào quyền lợi của Nam Hà, theo trình tự sau đây:

- Tháng 4/1798, tàu Armide bị tàu Anh bắt.

- Barisy khiếu nại nhiều lần với chính phủ Anh ở Bengale không có hiệu quả.

- Gia Long ra lệnh cho Olivier điều tra về vụ này.

- Olivier trở về, báo cáo kết quả.

- Tháng 10/1798, Gia Long quyết định hành động:

1- Ngày 20/10/1798, ra hai chỉ dụ cho Gibsons và Barisy:

a- Chỉ dụ cho M. Gibsons ngày 20/10/1798: “Lệnh cho Gibsons, Cai đội chất trực hầu… điều khiển Loan phi tiên tàu… lái tới Tranquebar [vùng đất Ấn Độ thuộc Đan Mạch, gần Pondichéry] cho Barisy Khâm sai cai đội thiềng tín hầu. Xong nhiệm vụ, bán chiếc tàu này, cùng với những hàng hoá trên tàu để mua hai chiếc tàu khác lớn hơn, chở đầy súng đạn và chiến cụ mà những đại lý của hoàng thượng sẽ chu cấp”

b- Chỉ dụ cho Barisy ngày 20/10/1798: “Lệnh cho Barisy, Khâm sai cai đội thiềng tín hầu..; tức thì sang ngay Ấn Độ, đem theo năm lá thư của vua, trên tàu Loan phi tiên tàu của hoàng thượng. Xong nhiệm vụ, y khởi tố viên trung tá hải quân Anh của tàu Nom-Such tên là Thomas về vụ chiếm tàu Armide của hoàng thượng, đòi phải bồi thường cho sự xúc phạm đến tàu của nhà vua và buộc phải trả lại những thư từ và giấy tờ quan pháp của vua, mà trung tá Thomas đã ăn cắp. Bắt phải hoàn lại giá tiền chiếc tàu Armide và những hàng hoá chứa trên tàu, cả vốn lẫn lời. Trao tất cả số tiền này tận tay những đại lý của hoàng thượng là Hanops và Stevenson, đại thương gia ở Tranquebar, để mua một chiếc tàu, khí giới và chiến cụ khác và chở ngay về đây”.

 

2- Ngày 20/11/1798, Gia Long viết thư cho:

- Vua Đan Mạch, xin cho phép công ty Đan Mạch xuất cảng vũ khí sang Nam Hà.

- Vua Anh, xin coi Gia Long là bạn và ra lệnh cho những nhà buôn Anh ở Ấn Độ bán vũ khí cho Nam Hà, đừng bán cho Tây Sơn.

- Toàn quyền Anh ở Ấn Độ, buộc tội vụ tàu Anh bắt tàu Armide, đòi phải giải quyết vấn đề ngay, nếu không, Gia Long có cách trả đũa bằng võ lực.

Trước thái độ hết sức cứng rắn như vậy, chính quyền Anh đành nhượng bộ, Armide được trao trả về Sài Gòn đúng theo quy luật quốc tế.

Sau vụ Armide, chắc Barisy vẫn tiếp tục buôn bán cho vua. Một bản trích sổ sách cho thấy, Barisy, mua cho vua, trong một chuyến tàu, gồm những thứ: “960, súng trường hạng nhất, 10 đồng một khẩu; 1.120 súng trường có khuyết điểm, giá 8 đồng, 918 súng trường, giá 6 đồng; 6 cặp súng lục, giá 8 đồng; 12 cặp súng lục, thứ tồi, giá 6 đồng; 29 cặp súng lục, thứ rất tồi, giá 5 đồng; 956 viên đạn, 1.167 thương (piques), 71 caty (?); 245 tấm dra (drap), giá 4 đồng”. Bán cho vua tổng cộng 45.800. Đã nhận của vua 32.240 ” (Louvet, t. 557-558)

Ta thấy được đại cương số lượng vũ khí, mỗi lần mua, và câu cuối: “Bán cho vua tổng cộng 45.800 đồng. Đã nhận của vua 32.240 đồng“.

Điều này giải thích tại sao Gia Long có nhiều vũ khí mới để trang bị quân đội. Bởi ngoài Barisy, đại lý của nhà Abbott-Maitland, ông còn những đại lý khác, về phiá Pháp, Bồ, Đan Mạch… Về giá cả vũ khí, chính Gia Long định giá, rồi sai Barisy (hay Gibsons, Januario, Olivier, v.v.) đi mua, nếu mua rẻ hơn, hoặc được tặng hoa hồng mấy phần trăm, họ được giữ cả, ngoài lương cai đội của vua.

Những nhiệm vụ khác, ngoài việc buôn bán

Có thể nói Barisy là người làm đủ thứ việc cho nhà vua. Anh không chỉ chuyên buôn bán, đôi khi vua còn giao cho các nhiệm vụ khác nữa. Thực Lục, việc tháng 2-3/1800, như sau:

“Vua cho là người Hồng Mao quen thủy chiến, sắc cho thuyền trưởng là Khâm sai cai đội Ba La Di tập họp các thuyền buôn lại, khiến dự bị quân nhu và chiến cụ để đợi điều khiển” (TL, I, t. 407).

Để hiểu câu này, xin nhìn lại tình hình chung: Nguyễn Ánh, sau khi tấn công Quy Nhơn lần thứ hai, tháng 5/1797, thất bại; tháng 10/1797, rút quân về Gia Định; nghỉ gần 2 năm để chỉnh đốn mọi việc, mua khí giới, đóng tàu chiến. Tháng 11/1798, Nguyễn Ánh viết thư cho vua Anh, vua Đan Mạch; và giải quyết việc tàu Armide. Tháng 1-2/1799, sai Olivier đi thuyền hiệu Thanh Tước đến Hạ Châu (Singapore) mua binh khí. Puymanel mất trên đường nhiệm vụ ngày 23/3/1799, ở tuổi 31, tại Malacca.

Tháng 4/1799 Nguyễn Ánh đánh Quy Nhơn lần thứ ba. Tháng 7/1799, Võ Tánh chiếm được Quy Nhơn, đổi tên là Bình Định; Nguyễn Ánh rút quân về Gia Định.

Tháng giêng 1800, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng quyết định vây thành Bình Định. Võ Tánh, Ngô Tòng Châu cố thủ. Nguyễn Ánh chuẩn bị giải vây Bình Định, đồng thời cũng phòng thủ Gia Định, sợ quân Tây Sơn vào đánh úp.

Trong bối cảnh khẩn cấp này, Nguyễn Ánh cần đến Barisy, vì thế, Thực Lục mới viết: “Vua cho là người Hồng Mao quen thủy chiến, sắc cho thuyền trưởng là Khâm sai cai đội Ba La Di tập họp các thuyền buôn lại, khiến dự bị quân nhu và chiến cụ để đợi điều khiển”.

Điều này chứng tỏ, khi vua cần đến, Barisy có cả một nhóm “thương nhân bạn” có nhiều thuyền buôn, sẵn sàng tập hợp giúp vua trong việc quân lương, hay phòng thủ. Công tác này của Barisy chắc đã có kết quả tốt, cho nên anh được vua thưởng, vì đến tháng 6-7/1800, Thực Lục viết: “Thả cho thuyền trưởng người Hồng Mao Barisy về nước, cho một chiếc chiến thuyền” (TL, I, t. 413). Tức là vua thưởng cho Barisy một chiếc tàu chiến và để anh được tự do về nước.

Barisy cũng viết về việc này, trong lá thư gửi giáo sĩ Létondal, ngày 11/4/1801, như sau: “Hoàng Thượng đã cho con một chiếc tàu chiến, nhưng con phải sửa chữa lại. Hoàng tử cấp cho con thợ và tất cả những dụng cụ cần thiết. Cái chết của hoàng tử làm con đau đớn quá, chết điếng trong 24 tiếng đồng hồ không biết mình còn sống hay không. 2 giờ sáng ngày 28/3 người ta báo cho con biết là tàu của con đã bị chìm…” (BAVH, 1926, IV, t. 385).

Chiếc tàu này chính là tàu Pélican [lougre Pélican] mà Barisy nói đến trong lá thư viết ngày 16/4/1801, gửi cho Létondal và Marquini mấy ngày sau đó, trong có câu:

“Sự mất mát của tàu Pélican lên đến 18.800 đồng; ngoài ra còn phải kể đến quần áo, đồ đạc, toàn bộ dụng cụ nhà bếp, thư từ, sổ sách, bát đĩa, lương thực… tất cả đều bị chôn vùi…” (BAVH, 1926, IV, t. 398).

Chính chiếc tàu của vua cho (và một số việc khác nữa) đã gây sự hiềm tỵ và thù hận của nhóm người Bồ, khiến Barisy phải chịu tai nạn thêm lần nữa; cho nên trong cùng lá thư này, Barisy đã viết những lời sau: “[Sau vụ tàu Armide] lại được Vua và Hoàng tử che chở, kiếm được chục nghìn đồng (piastres); rồi bị đóng gông, mất hết của cải, chỉ trong khoảng có tám ngày, bị kết tội bỏ thuộc độc, cướp của, giết người, mà không có bằng chứng gì cả” (BAVH, 1926, IV, t. 398).

Sự che chở của vua và hoàng tử Cảnh dẫn đến những hiềm khích của người Bồ

Trong lá thư dài viết ngày 11/4/1801 (BAVH, 1926, IV, t. 373- 394), gửi cho quản thủ Létondal, Barisy viết rất nhiều chuyện, anh kể trận Nguyễn Văn Thành đánh chiếm Phú Yên, kể trận Thị Nại với bản đồ kèm theo, và kể việc anh bị hãm hại: do Botelho người Bồ, vu cáo các tội: ăn cắp quà cáp tặng vua, nhận hối lộ 400 đô la để đưa cho các quan, anh bị đóng gông giam vào ngục, trong khi vua đi đánh trận và hoàng tử bị bệnh nặng. Hoàng tử đã giải oan cho anh trước khi mất. Nhưng Botelho tiếp tục vu cho anh tội bỏ thuốc độc giết thuyền trưởng Henderson. Việc ta toà, nhưng không có bằng chứng, Barisy được trắng án. Botelho bị đánh roi vì tội vu cáo. Căm thù, Botelho ngầm sai người đánh chìm tàu Pélican, Barisy “mất hết của cải, vốn liếng”. Những sự kiện này, theo Barisy, xảy ra chỉ trong khoảng có tám ngày, vào đúng lúc hoàng tử Cảnh mất và vua đi đánh trận vắng.

Vụ Botelho và Barisy, thực ra, bắt nguồn từ sự tranh chấp để chiếm khách hàng giữa những nhà buôn Anh, nhà buôn Bồ và Pháp trong vùng Ấn Độ Dương. Barisy là đại diện của nhà buôn Anh Abbott-Maitland ở Madras (xem thư của Abbott-Maitland gửi vua Gia Long trong chương 17), chuyên bán khí giới cho vua Gia Long, do đó anh bị thương nhân Bồ ghét. Barisy lại là người được vua và hoàng tử che chở, được vua cho một số đặc lợi hơn các nhà buôn khác, nên họ lợi dụng lúc hoàng tử bệnh nặng và vua ở xa để tìm cách triệt hạ Barisy.

Trong thời điểm đó, tại Gia Định, bên cạnh hoàng tử Cảnh, còn có đại tướng Nguyễn Văn Nhơn làm Lưu trấn, và quan Hình bộ Nguyễn Tử Châu xét việc kiện tụng, đều là những nhà lãnh đạo giỏi và thanh liêm, cho nên Barisy đã được xét xử khá công minh. Botelho bị đòn vì tội vu cáo.

Hoàng tử Cảnh mất ngày 20/3/1801, vì bệnh đậu mùa tại Gia Định, ở tuổi 22. Mà theo Barisy, vụ vu cáo này chỉ kéo dài trong khoảng tám ngày. Vậy tất cả đã xảy ra trong khoảng từ ngày 20 đến 28/3/1801. Trong lời Barisy thuật lại chuyện này cho giáo sĩ Létondal, có đoạn:

“Sau khi đã làm cho con bị đóng gông, [Barisy bị đóng gông nặng ba người khiêng, nhưng đến đêm có lệnh tháo gông cho anh] Botelho sung sướng lắm… lên tàu bắn súng đại bác ăn mừng…

Hoàng tử đang ở trong tình trạng hãi hùng, nghe thấy nhiều tiếng đại bác, mới hỏi: “Barisy đi đấy ư?” Lúc đó, đứa bé 10 tuổi đang quạt cho hoàng tử thấy người hỏi ba lần mà không ai dám trả lời, mới khóc mếu thưa rằng: “Làm sao mà ảnh đi được, người ta đã bắt ảnh đóng gông hồi hôm rồi, bởi chưng hoàng tử thương ảnh quá, cả hoàng thượng nữa”.

Bấy giờ hoàng tử mới nổi trận lôi đình, truyền gọi ngay Ong Tân Quon, thủ tướng [tức đại tướng Nguyễn Văn Nhơn, Lưu thủ Gia Định] vào và ra lệnh nghiêm khắc lắm, người ta nói hoàng tử nhắc tên bọn con cả đêm [Barisy và 3 cộng sự]; người giận lắm, gần như mê sảng, nói rằng cha người đã giao chúng con cho người cai quản; rồi người cho gọi cha Liot đến cầu nguyện cho người, và gởi gấm chúng con cho cha, người mất lúc 4 giờ sáng [ngày 20/3/1801]” (Thư gửi quản thủ Létondal ngày 11/4/1801 (BAVH, 1926, IV, t. 384).

Có lẽ nhờ Đông cung trước khi chết, đã gọi tướng Nguyễn Văn Nhơn vào ra lệnh, mà Barisy khỏi bị cùm.

Vẫn trong lá thư gửi quản thủ Létondal ngày 11/4/1801, Barisy đã viết những dòng sau đây về hoàng tử Cảnh:

“Trong khi Đức Vua chiến thắng ngụy quân [ở trận Thị Nại ngày 28/2/1801 ], treo cờ Hoàng triều thay thế cờ của bạo quyền; thì Hoàng tử nằm trên giường đớn đau, dường như chỉ chờ tin này để được mãn nguyện nhắm mắt; đang tuổi thanh xuân, tính tình hiền hoà và có lòng nhân ái, hoàng tử là thần tượng của toàn dân, là con người mà triều đình Nam Hà đặt những kỳ vọng êm ái nhất và thân thiết nhất; là người che chở công khai cho những người Âu vì hoàn cảnh khốn cùng hay vì sự tình cờ dẫn đến vương quốc Nam Hà. Ân nhân của chúng con, và nếu con dám nói một cách chân thật và thực tình, là bạn của chúng con, là người bênh vực đức tin và giáo lý của chúng con. Trời hỡi! Còn đâu sự phán đoán cao minh trên tất cả! Tưởng chừng như đây là dịp có thể nổi loạn chống lại mệnh lệnh của Thượng đế. Con gửi cho cha những bản sao các thư mà hoàng tử đã viết trước khi chết mà một số lớn đã do tàu Generous friend trao lại cho con, một phần khác con còn giữ ở nhà; cha sẽ thấy con đã bị mất mát như thế nào; con đã cay đắng như thế nào khi những kẻ thù đầy ác ý tấn công vào danh dự của con để lôi con ra khỏi trạng thái hôn mê mà con đang bị chôn vùi.” (BAVH, 1926, IV, t. 379-380).

Ngày 20/3/1801, hoàng tử Cảnh mất. Ngày 25/3/1801, Barisy đang sửa soạn tàu để đi Maccala, Bornéo, thì được tin Botelho vu cáo cho mình tội bỏ thuốc độc giết thuyền trưởng Henderson, phải ra toà. Barisy được trắng án. Botelho, bị đòn vì tội khai man, bèn tìm cách đánh chìm tàu Pélican của Barisy ngày 28/3/1801.

Tiếp tục theo quân và viết thư tả những trận đánh cuối cùng của cuộc chiến

 

Sau những đại nạn đã xảy ra cho anh trong tháng 3/1801: Ngày 22/4/1801, Barisy phải lên đường theo quân để chiến đấu (Thư gửi quản thủ Létondal, ngày 11/4/1801, BAVH, 1926, IV, t. 394).

Ngày 27/5/1801, Barisy ở trong đội Tả quân của Lê Văn Duyệt, theo lệnh Phó tướng Nguyễn Công Thái đến Quy Nhơn (Thư gửi Marquini và Létondal ngày 16/7/1801, BAVH, 1926, IV, t. 401). Rồi anh tiếp tục đi theo quân, ngày 16/7/1801, Barisy viết lá thư trên tàu Phụng (Phượng Phi), ở cửa Thuận An, gửi các giáo sĩ Marquini và Létondal, mô tả các trận đánh mà anh đã tham dự, đặc biệt trận Phú Xuân, và những ngày đầu vua Gia Long vào Huế (BAVH, 1926, IV, t. 400-414).

Trận Phú Xuân bắt đầu ngày 9/6/1801 và kết thúc ngày 15/6/1801. Ở cuối thư, Barisy báo tin: đã xin phép vua cho đi Madras để chỉnh đốn những “áp-phe” của mình đang bị “hư hại”.

Thục Lục việc tháng 8-9/1801, ghi: “Sai khâm sai thuộc nội cai đội Ba La Di đi Hạ Châu tìm mua súng đạn” (TL, I, t. 456). Như vậy việc đi Madras của Barisy, còn kèm theo cả công vụ mua súng đạn cho vua.

Sau đó, không có tin gì khác về Barisy; đến ngày 15/6/1802, có lá thư Barisy gửi cho các giáo sĩ Foulon và Marchini từ Sài Gòn, (BAVH, 1926, IV, t. 414-416). Đó là lá thư chót của Barisy còn lưu lại.

Rồi đến ngày 17/9/1803, Giám mục La Bartette gửi cho M. Chaumont ở Paris, một lá thư, trong đó nói về cái chết của Barisy, như sau:

“Tàu Anh còn ở đây (tàu của hãng buôn Anh ở Madras); đang tính toán sổ sách với nhà vua. M. Barisy, là đại diện thương mại của tàu Anh tại đây, đã mất một năm rồi, có vài lộn xộn trong sổ sách. Tôi tin rằng cũng sẽ ổn thoả, không có gì trở ngại.” (Cadière, Doc. Rel. t. 57).

Thư viết ngày 17/9/1803. Vậy Barisy mất vào khoảng tháng 9/1802. Ở tuổi 33.

Barisy có người vợ Việt, và một con gái tên Hélène.

Lá thư của Chaigneau viết cho người anh cả ngày 1/10/1817, trong có câu:

“Chắc anh còn nhớ Laurent Barisy, bạn em từ thủa nhỏ, chuyến đi nào em cũng gặp nó. Khi sang Nam Hà, thấy nó làm đại diện cho một hãng buôn Anh ở Madras buôn bán với nhà vua. Khi vua chinh phục xong cả nước, em bắt buộc phải theo vua về triều, còn Barisy ở lại Sài Gòn. Khi đi về triều bằng đường bộ, nó mất ở giữa đường”. (André Salles, Jean-Baptiste Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I, t.160). Sau đó, Chaigneau cho biết: Vì Barisy là đại diện cho hãng buôn Anh, nên vua đã cho lệnh niêm phong tài sản và giấy tờ của Barisy để trao lại cho công ty Anh ở Ấn Độ, vợ con Barisy không dựa vào đâu được, nên Chaigneau đã đem đứa bé về nuôi. Sau này, khi vợ ông mất (1815), năm 1817, Chaigneau tục huyền, lấy Hélène, con gái Barisy. Theo thư Chaigneau trên đây, thì có lẽ Barisy chưa làm giấy tờ chính thức với vợ, nên khi mất, vợ con không được hưởng gia tài.

Barisy là người trung thành nhất với vua Gia Long và hoàng tử Cảnh, anh thành thật đáp lại sự che chở mà vua và hoàng tử dành cho anh. Barisy để lại hình ảnh một con người tự do, qua những dòng chữ viết rất “loạn”, bất cần từ vựng, chính tả, cú pháp, nhưng thực sự có văn tài; đưa ra những hình ảnh đôi khi thơ mộng, đôi khi đầy tình nghiã. Khi tả các trận đánh, bút anh thực sôi nổi, đầy nhiệt huyết. Lời thư anh kể về các trận Thị Nại, Phú Xuân, bộc lộ tình huống sống động của trận tiền, so với chính sử không sai, mà còn bổ sung cho chính sử nhiều chi tiết về thái độ và hành động của con người. Đối với chúng ta là những tài liệu quý. Chúng tôi sẽ trích dịch trong kỳ tới.

Chương 20

barisy thuật lại các trận đánh và vua gia long vào huế

Về những trận giao tranh lớn giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn, ngoài những điều ghi trong chính sử nhà Nguyễn, có rất ít tư liệu của các chứng nhân khác, vì lý do: các giáo sĩ không tham dự trực tiếp các trận đánh này; còn những tướng lãnh, binh sĩ, không quen viết hồi ký, mà nếu viết cũng bị thất lạc, vì sự bảo tồn di sản văn hoá của chúng ta rất kém. Cho nên, về các trận đánh lớn, ngoài Thực Lục, Liệt Truyện… những lá thư của Barisy có một chỗ đứng riêng, bởi đó là cái nhìn của một người ngoại quốc; tuy Barisy là bầy tôi hoàn toàn khâm phục nhà vua, nhưng anh có một cách trình bầy trận địa rất sống động, chi tiết và cặn kẽ, cho ta biết rõ bối cảnh chiến tranh: Thời đó, hai bên đánh nhau như thế nào, với những vũ khí gì? Sự chỉ huy của vua Gia Long ở mặt trận ra sao? v.v. Ngoài ra, Barisy còn đưa những con số về chiến thuyền, về khí giới, về số quân của hai bên, điều mà Thực Lục thường không ghi rõ. Tất nhiên độ chính xác cần được kiểm chứng, nhưng trong chừng mực nào đó, thư Barisy góp phần không ít vào việc tìm hiểu chiến tranh. Nhưng văn anh rất khó đọc, thường viết liền một hơi, không chấm, phẩy, chia động từ bừa bãi, chữ viết hoa tùy hứng, cho nên dịch không dễ dàng.

Cadière có công sưu tập những lá thư này. Trong tập Documents relatifs à l’époque de Gia Long (BEFEO, 1912, t. 1-82), ông trích một số thư và sửa cho dễ đọc hơn. Trong tập Les français au service de Gia Long, Leur Correspondance (BAVH, 1926, IV, 359-447), ông cho đánh máy đúng như nguyên bản và cho in đầy đủ mỗi lá thư. Vì vậy, tập tư liệu này quý hơn.

Trong phạm vi chương này, chúng tôi không thể dịch hết hai lá thư chính, rất dài; một viết ngày 11/4/1801 gửi cho giáo sĩ Létondal, quản thủ tu viện Macao, trong đó kể trận Chủ Sơn và trận Thị Nại ; một viết cho hai giáo sĩ Marquini và Létondal ngày 16/7/1801, kể trận Phú Xuân và vua Gia Long vào Huế. Ba trích đoạn được lựa chọn sau đây: trận Chủ Sơn, trận Thị Nại, trận Phú Xuân và Gia Long vào Huế. Trước mỗi tường trình của Barisy, sẽ có tóm tắt sự kiện theo chính sử; riêng trận Thị Nại, có thêm lời giáo sĩ Le Labousse và thư Chaigneau, như những nhân chứng khác.

Tóm tắt tình hình

Sau khi Võ Tánh chiếm được Quy Nhơn tháng 7/1799, Nguyễn Ánh đổi thành Bình Định, để Võ Tánh và Ngô Tòng Châu ở lại trấn giữ. Tháng 2/1800 bộ binh của Trần Quang Diệu tiến đánh Thạch Tân (Bến Đá, biên giới Bình Định – Quảng Ngãi), thuỷ binh của Võ Văn Dũng tiến đánh Thị Nại. Võ Tánh đóng chặt cửa thành không tiếp chiến. Trần Quang Diệu đắp lũy dài vây bọc thành Bình Định, chu vi 4.340 trượng, mỗi trượng hai người tuần giữ, bộ binh vây thêm vài vòng. Võ Văn Dũng để hai thuyền đại hiệu Định quốc và hơn 100 thuyền chiến chặn ngang cửa biển Thị Nại, cô lập Võ Tánh và Ngô Tòng Châu trong thành.

Tháng 4-5/1800, Nguyễn Ánh xuất quân từ Gia Định để giải vây Bình Định, quân Nguyễn thắng một số trận, chiếm được Phú Yên, nhưng không thể giải vây được Bình Định. Kể từ tháng 1/1801, cuộc chiến toàn diện bùng nổ khắp các mặt trận. Trận Thị Nại 28/2/1801 có thể coi là trận Xích Bích của Gia Long, làm thay đổi diện mạo chiến tranh cho đến chiến thắng cuối cùng. Trong giai đoạn này, chứng nhân Barisy đã đóng góp một số tư liệu lịch sử quan trọng.

Theo tiến trình thời gian, tháng 4-5/1800, Nguyễn Ánh để hoàng tử Cảnh trấn giữ Gia Định cùng với Nguyễn Văn Nhơn và Nguyễn Từ Châu, xuất quân qua cửa Cần Giờ, đem Minh Mạng, mới 9 tuổi đi theo. Tháng 7-8/1800, thuyền vua đến cửa biển Cù Mông (Bắc Phú Yên, giáp giới Bình Định). Cùng trong tháng này, vua cho Barisy về nước và cấp cho một chiến thuyền (xem chương 19: Barisy). Vua đóng bản doanh ở Cù Mông gần như trong suốt thời kỳ còn lại, cho tới khi khởi hành đi đánh Phú Xuân, ngày 5/6/1801.

Trong thời gian này, Barisy ở đâu? Chúng tôi nghĩ rằng: có thể con người giang hồ Barisy đã không bỏ mặt trận Bình Định Phú Yên, trong thời điểm sôi bỏng này, để “về nước”; theo Thực Lục là “nước Anh” hay “Ấn Độ” vì vẫn coi Barisy là người “Hồng Mao”. Vì thế, rất có thể Barisy đã có mặt ở các trận Chủ Sơn, Thị Nại. Sau chiến thắng Thị Nại ngày 1/3/1801, Barisy mới trở về Sài Gòn, và sau đó, anh bị Botelho vu cáo, trong lúc hoàng tử Cảnh hấp hối.

Cadière dựa vào lá thư Chaigneau viết cho Barisy kể trận Thị Nại, để đoán rằng Barisy ở miền Nam Nam Hà; chúng tôi không tin lắm, vì rất có thể Chaigneau cũng không biết bạn mình ở đâu, nên đã viết thư mô tả chiến thắng.

Trận Chủ Sơn

Khi Nguyễn Ánh xuất quân giải vây Bình Định, cử Nguyễn Văn Thành chỉ huy Tiền quân, tiến đánh Phú Yên, nhưng Nguyễn Văn Thành bị khó khăn ở mặt trận Chủ Sơn (giáp giới Bình Định) không cách nào phá được.

Trận Chủ Sơn, theo chính sử, xảy ra tháng 11 năm Canh Thân và ghi toàn thể công lao vào tay Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt, Đại Nam Nhất Thống Chí tóm tắt như sau:

“Núi Phước An ở phiá Nam huyện Tuy Viễn [Bình Định], có tên nữa là Chủ Sơn, hình thế cao cả, hùng vĩ, chu vi hơn trăm dặm… Năm Canh Thân, quân giặc giữ Chủ Sơn, Nguyễn Văn Thành đánh mãi không được, dò thám [theo Thực Lục, nhờ người Man (Thượng) dẫn đường] biết được rằng ở phiá Tây Nam núi này có đường tắt có thể đánh úp mặt sau của giặc, bèn vẽ điạ đồ và xin quân hội chiến, vua bèn sai Tống Viết Phước và Lê Văn Duyệt đem quân tiến đến Thị Dã. Thành sai Duyệt giữ bảo [đồn] làm chính binh, tự mình đem kỳ binh [quân đánh úp] theo đường tắt đi vượt khe Bột, qua trại Đèn, vòng ra mặt sau của giặc, tung lửa đốt trại sách, quân giặc vội vàng quay lại đánh. Duyệt bèn chỉ huy binh sĩ tiến sát đến đồn giặc, hai mặt tả hữu đánh kẹp lại, quân giặc phải tan chạy” (ĐNNTC, tập 3, t. 16-17).

Đó là thoại chính thức, nhưng Barisy kể hơi khác một chút, anh viết:

“… Nghe nói quân Tây Sơn gửi một phái đoàn đến [điều đình], việc ấy dám lắm vì họ đang ở trong thế kẹt, rất kẹt; họ cầm cự với quân của vua dưới lệnh tướng Ong Tien Quaoun [Ông Tiền Quân chỉ Nguyễn Văn Thành]: tới ngày 21 tuần trăng thứ 11 [ngày 5/1/1801], [Trước đó] nhờ bọn người Man đã tìm được cho vua một lối mòn, đại bác và voi có thể đi qua mà địch quân hoàn toàn không biết. Vua bèn gửi Ong Tong Dong Tag [Ông Tổng Đồn Tả tức Lê Văn Duyệt] với một phần quân đội đến sau lưng địch. Sau 7 ngày đường, đến sáng ngày 21 [5/1/1801], lúc mặt trời ló dạng, Ong Tien Quaoun nhìn thấy hiệu của Ong Tong Dong Tag, bèn tấn công dữ dội vào những đồn dung Thi [Đồng Thị, gần Thị Dã] gồm bẩy đồn thẳng hàng để chặn quân ta không tiến được đến gần.

Lệnh xung phong từ lúc mặt trời mọc, mà đến 10 giờ sáng ngụy quân mới thấy quân vua đã đến sau lưng và hai bên sườn. Giàn súng liên thanh (mouquesterie) sử dụng thuần thục và 20 đại bác nhỏ dã chiến, bắn, trong tầm ngắn của súng lục, chỉ chốc lát, đã quét sạch dọn đường. Những kẻ chạy trốn lãnh đủ thương giáo, lưỡi lê; sự tàn sát thực kinh hoàng; quân Theuk Teuk [Túc Trực] hay quân Cảm tử, không chừa một ai, họ chỉ rời chiến trường khi không còn người để giết” (Thư Barisy ngày 11/4/1801 gửi M. Létondal, BAVH, 1926, IV, t. 374).

Barisy mô tả gần đúng như chính sử, nhưng rõ hơn và sống động hơn. Trừ một chi tiết khác: Vua sai Lê Văn Duyệt đi ngả sau đánh tập hậu, còn chính sử ghi Nguyễn Văn Thành. Có thể Barisy đúng, vì Lê Văn Duyệt can đảm xông xáo, Nguyễn Văn Thành nhát, chưa chắc vua đã giao việc này. Ngoài ra, theo Barisy, nhà vua đích thân điều khiển trận chiến, việc này chính sử không ghi. Sau đó, Barisy viết tiếp:

“Hội đồng chiến tranh của địch, sau thất bại này, tưởng họ có thể kích động tinh thần tướng sĩ và và nhân dân bằng cách đánh những cú lớn; bèn hội tụ những đoàn quân thiện chiến nhất và những quan tướng giỏi nhất, quyết định một trận đánh toàn diện. Ngày 27 của tuần trăng thứ 11 [11/1/1801] đại binh tham chiến, có binh đoàn của tướng thống lãnh thủy binh [Võ Văn Dũng] tăng lực lên tới 223 ngàn người. Nhưng con số này không làm cho đấng quân vương của ta sợ hãi. Quân địch thực sự có lợi trên địa thế. Nhưng vua có giàn súng liên thanh; có đại bác, và trên tất cả là tấm lòng ba quân. Chúa thượng tay cầm gươm, dáng vui vẻ, dạo qua các hàng ngũ. Quân ta hết sức nóng lòng. Bên địch đang rung chuyển, đại bác của họ nổ rền; đàn voi của họ hung dữ tiến gần đến hàng ngũ ta. Vua trầm tĩnh đứng giữa quân hộ vệ, quan sát tình hình. Sự im lặng tuyệt đối ngự trị hàng ngũ quân ta. Khi địch tới gần, vào tới 1/2 tầm súng. Vua hạ lệnh cho các toán quân nhả đạn: 400 khẩu đại bác dã chiến khạc lửa sắt và chết chóc, nhả liên hồi trúng đích, thành một cuộc tàn sát kinh hoàng. Phiá họ có những đồn bên sườn và ở phiá đuôi trợ lực; đại bác của họ bắn trúng làm quân ta thiệt hại nặng. Vua ra lệnh cho quân cảm tử trèo lên đánh giáp lá cà; các quan làm gương trước, chiếm được các đồn; quân sĩ chuyển sang gươm giáo và đại bác kết liễu sự tháo chạy toán loạn: địch quân chạy trốn vào thành luỹ phòng thủ. Thấy địch thua chạy, vua bằng lòng [không cho lệnh truy kích] vì quân nhà cũng thấm mệt: sự tàn sát còn kéo dài trong đêm. Vua đóng ở ngoài tầm đại bác (cách xa 1, 2 lần) của thành trì kiên cố của địch. Ngày 21 tháng 12 [4/2/1801] họ còn ra khiêu chiến, vua không rời vị trí phòng thủ của mình. Bấy giờ họ tiến lên đánh giáp lá cà, rất trật tự và chừng mực. Nhà vua, với kính thiên lý (lunette d’approche) trong tay, thấy ở bên cánh phải của họ rất lộn xộn mà lại bị một cái khe chia cắt với trung tâm, có thể dễ dàng cắt đứt. Bèn tức khắc hạ lệnh cho 22 đội cảm tử xuất phát đánh ngay không để cho họ kịp nhận diện. Gió Đông Bắc quạt khói vào mắt, khiến họ không phân biệt được quân nhà vua; chỉ đến khi nhận được những tràng súng đầu tiên, mới hiểu mình lầm. Họ chống mạnh; nhưng vua ở đâu, là có chiến thắng ở đó. Chiến thắng toàn diện: khi vua xuất trận, giữa quân cấm vệ, lại được hoả lực kinh hồn của giàn súng phòng thủ che chở, thì quân địch phải bại. Địch quân mất 5 trong số những quan tướng giỏi, cả tướng chỉ huy cánh phải. Quân đội nhà vua không tha ai cả, vì thế, sự tàn sát thật là kinh hoàng” (Thư Barisy viết ngày 11/4/1801 gửi M. Létondal, BAVH, 1926, IV, t. 375).

Trận chiến này, chỉ xảy ra có 6 ngày sau trận Chủ Sơn, nhưng không thấy chính sử ghi lại, vậy có thực đã xảy ra hay không? Chiếu vào Thực Lục thì có thể đây là những trận tiếp theo Chủ Sơn, Nguyễn Văn Thành đánh Trường Dã (Đồng Dài), Tống Việt Phước đánh Yên Tượng… chiếm được hết các đồn từ núi Lệ Thạch đến An Hoa, An Lộc… (TL, I, t. 422).

Ta lại biết, khi hành quân ra Bình Định-Phú Yên, Nguyễn Ánh đóng bản doanh ở Cù Mông, gần đấy. Vậy cũng rất có thể Nguyễn Ánh đã trực tiếp điều khiển các trận đánh chăng?

Vẫn theo Barisy, vì chiến bại này, mà quân Tây Sơn chuẩn bị một lực lượng quân tiếp viện ở Cù Mông để đánh Nguyễn Ánh bằng đường biển, nhưng bị Nguyễn Ánh khám phá và giải tán; rồi ông sẽ đánh trước, do đó, mà có trận Thị Nại 1801. Về việc này Barisy viết:

“Từ khi đó, còn nhiều trận đánh khác mà quân chiến thắng của Hoàng Thượng đã tỏ sự can trường của họ. Sau cùng, ngày 1 tháng giêng [13/2/1801], các tướng thuỷ bộ [địch] họp đại hội đồng quyết định tấn công nhà vua bằng đường biển. Họ sửa soạn thuỷ binh trong cảng Cum-ong [Cù Mông] chỉ cách Quy Nhơn 20 dặm: cho lên tàu một đội tiếp viện quan trọng toàn quân thiện chiến. Nhà vua biết rõ dự định của họ, bèn liền tức khắc, cho quân xuống lại hạm đội, dùng rào chặn cửa biển và dùng giàn hoả lực đặt đúng chỗ, tước đoạt ý định của địch quân; nhưng riêng ông, ông đã dự tính chương trình tấn công. Và ông đã thực hiện với sự lớn lao của tâm hồn và lòng can đảm của những Nelson, Duncan, Hood, Rodney, v.v.” (Thư Barisy viết ngày 11/4/1801 gửi cho M. Létondal, BAVH, 1926, IV, t. 375-376).

Liền sau đó là trận Thị Nại 1801.

Trận Thị Nại 1801

Đầu năm 1801, chiến thuật đánh hoả công của Đặng Đức Siêu đã sửa soạn xong. Thực Lục viết:

“Trước là Tư Đồ giặc Võ Văn Dũng dùng hai chiếc thuyền đại hiệu Đinh quốc và hơn trăm chiếc thuyền chiến chặn đóng ngang cửa biển, lại dựng hai bảo [đồn] ở bãi Nhạn Châu bên tả và ở núi Tam Toà bên hữu cửa biển, đặt nhiều súng lớn, dựa thế cao, chẹn chỗ hiểm để chống quân ta. Đến đây các quan làm xong chiến cụ hoả công, vua mật định đêm hôm 16 [28/2/1801] cất quân đánh úp. [...] Lưu Phạm Văn Nhân giữ Cù Mông. Vua bèn thân chinh đem thuỷ quân tiến phát. Trống canh ba qua Tiêu Cơ, bắt được lính đi tuần của giặc, biết được khẩu hiệu, tức thì sai Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương dùng thuyền nhỏ lên trước vào Hổ Cơ đốt đồn thủy của giặc. Lại sai Võ Di Nguy đi thuyền chấp lệnh thẳng tiến, Lê Văn Duyệt đốc quân tiếp theo. Giặc giữ bảo [đồn] cự chiến từ giờ Dần [3-5 giờ sáng] đến giờ Ngọ [11-13 giờ trưa] tiếng súng vang trời đạn bay như mưa. Võ Di Nguy bị bắn chết, Duyệt cứ mặc kệ, càng thúc đánh hăng. Vua thấy sĩ tốt nhiều người tử thương, cho tiểu sai đến dụ cho tạm lui. Duyệt thề chết vẫy quân xông lên, giờ Thân [15-17 giờ chiều] lọt vào được cửa biển, dùng đuốc hoả chiến thừa chiều gió phóng đánh thuyền đại hiệu của giặc. Quân Tây Sơn cả vỡ, chết rất nhiều. Dũng thua chạy. Thuyền Tây Sơn bị đốt cháy gần hết. Quân ta bèn giữ cửa Thị Nại. Người ta khen trận này là võ công to nhất.” TL, I, t. 428-429)

Về Nguyễn Văn Trương, Liệt Truyện viết rõ hơn: “Nguyễn Văn Trương tiên phong, bắt được lính tuần của Tây Sơn, biết khẩu hiệu, Trương bèn cho thuyền nhỏ lẻn vào Tiêu Ki, trèo qua thuyền lớn của địch, đến miếu Tam Toà, chém được đô đốc Trà, đốt rất nhiều thuyền địch.” (LT, II, t. 147).

Tuy nhiên chúng ta vẫn chưa hiểu rõ Tiêu Cơ và Tiêu Ki là đâu, nên khó hình dung trận chiến. Tóm lại, theo Thực Lục: Trận đánh bắt đầu từ nửa đêm 28/2/1801, Nguyễn Văn Trương và Tống Phước Lương biết được mật lệnh của Tây Sơn, lẻn vào Hổ Cơ đốt đồn thuỷ của địch. Võ Di Nguy và Lê Văn Duyệt đánh mặt trước. Võ Di Nguy tử trận. Khoảng 3 đến 5 giờ chiều ngày hôm sau, 1/3/1801, Lê Văn Duyệt mới lọt được vào cửa biển, dùng hoả công đốt thuyền Tây Sơn. Chỗ này của Thực Lục rất đáng nghi ngờ, bởi vì trận đánh xảy ra giữa ban ngày, trái hẳn với những tài liệu khác và rất vô lý nữa. Ngoại trừ khả năng dịch giả Thực Lục dịch sai hoặc cố tình sửa giờ Tý trong nguyên bản thành giờ Ngọ để biến đêm thành ngày.

Trận Thị Nại, theo Le Labousse

Giáo sĩ Le Labousse là một trong những người hiếm hoi viết lại trận Thị Nại, tuy ông không trực tiếp tham dự, nhưng lúc ấy ông ở Khánh Hoà, được những người dự trận kể lại, ông viết:

“… Chiến thắng lừng lẫy nhất, sẽ mở một kỷ nguyên mới trong lịch sử biên niên của Nam Hà, là chiến thắng mới đây nhà vua vừa đạt được trên thuỷ quân của địch ở cảng Quy Nhơn, chỗ bản đồ đề tên là Chine-Chine [Thị Nại]. Chính ở đó, cách đây 7, 8 năm, ông đã đốt thuỷ quân của người anh cả của địch [Nguyễn Nhạc]. Ông vừa tái tạo chiến công này lần thứ hai, hôm 1/3 vừa qua.

Sau đây là vị trí thuận lợi của hải quân bên địch: ngoài chuyện cửa biển rất hẹp, được bảo vệ bằng nhiều thành đồn, không có cách nào vào được; họ còn để ba chiến hạm lớn nhất chặn cửa biển, mỗi chiến hạm có ba giàn đại bác nòng súng rất lớn, những chiến thuyền còn lại được xếp làm sao cho không ai có thể len vào được.

Vì thế nhà vua không đem các chiến hạm lớn đến. Ông để chúng lại ở một vịnh nhỏ bên cạnh [Cù Mông?], và chỉ dùng 26 chiến thuyền ga-le (galères: thuyền vừa buồm vừa chèo) với 100 ghe nhẹ (bateaux légers), nói đúng ra là 100 xà-lúp (chaloupes); [tất cả] chở khoảng bốn nghìn người. Quả là không nhiều để tấn công một hải cảng, lúc đó, cả thuỷ binh lẫn quân lính đồn trú có tới hơn 20.000 người, 60 thớt voi, 40 chiến hạm lớn; 20 chiến hạm nhỏ hơn; 100 chiến thuyền ga-le (galères), và một con số lớn hơn, các ghe chiến khác, trang bị đầy đủ vũ khí. Nhưng sự can đảm trám khuyết những con số.

Vua tiến trước mắt quân địch, đến đêm tới trước cửa cảng, họ đứng vững đợi. Một trăm ghe nhẹ chở quân, cho đổ bộ, khá xa. Trong lúc đó, những chiến thuyền ga-le, nhờ bóng tối và gió thuận chiều phụ giúp, tiến đến những chiến hạm đầu tiên, nhẩy sang đánh giáp là cà và đốt cháy. Quân xuyên sâu vào trong cảng, ném khắp nơi những nắm đuốc và đủ loại các chất cháy. Bấy giờ sự tàn sát trở nên kinh hoàng. Đạn bắn tứ phiá, từ các đồn luỹ, từ các chiến hạm; trận mưa đại bác rú vang rền trên đầu mọi người. Khắp nơi lửa cháy, lửa thiêu hủy ga-le và chiến hạm địch, cái thì nổ, cái thì chìm. Cả hai bên đều chiến đấu kịch liệt. Ngụy quân, tàu đầy lửa mà các giàn súng vẫn kiên trì chống trả, cho tới khi lửa lan vào thuốc súng, tất cả biến mất trong một tiếng nổ chát chúa chung cục. Sau cùng, quân ta, sự khôn khéo kết hợp với sự can đảm, đã thắng, đã thực hiện những sự phi thường. Cho tới bấy giờ, người ta chưa thấy ở Nam Hà trận đánh nào dai dẳng đến thế, đẫm máu đến thế. Nó đã diễn ra từ 10 giờ tối tới 10 giờ sáng hôm sau, địch không còn lại một con tàu nhỏ bé nào. Tất cả đều đã bị đốt sạch.

Những sĩ quan Pháp, các ông Chaigneau, Vannier, và De Forcanz, điều khiển các tàu le Dragon [Long Phi], le Phoenix [Phượng Phi] và L’Aigle [Bằng Phi] cũng đi chiến dịch này.

Mỗi người với tàu của mình, trang bị khí giới, có nhiệm vụ hộ tống vua và đi kèm tất cả những thuyền chiến ga-le.

Nhưng lúc đánh nhau, họ bị giữ lại để hộ tống vua. Khi nghe tiếng đại bác nổ, máu Pháp sôi sục trong huyết quản, vua phải nghiêm cấm mới cản được lòng nhiệt thành của họ. Giữ họ lại bên vua còn khó hơn là thúc quân tiến lên giữa những trận mưa đại bác. Ông de Forcanz đã không dằn lòng trước cơn hăng say chiến đấu; lòng can đảm thúc đẩy, đang đêm lẻn vào cảng một mình đốt hết bẩy tàu chiến trang bị khí giới nhiều nhất.

Các ông Vannier và Chaigneau cũng có thể làm được như thế, nếu nghe theo lòng can đảm, nhưng các ông nhớ ra rằng, mình có nhiệm vụ canh gác cho cả một vương quốc, qua sinh mạng nhà vua.” (Doc. Rel., BEFEO, t. 45-46).

Le Labousse không nói rõ ngày giờ, nhưng ông cho biết đại khái lực lượng hai bên. Ông nhấn mạnh vua không đem theo tàu lớn, như vậy, có thể hiểu những tàu đại hiệu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi đỗ lại ở cửa biển bên cạnh [có phải là Cù Mông chăng?]; nói cách khác, Vannier, Chaigneau, De Forcant, không quản tàu đại hiệu để dự trận. Nhưng tất cả đều xác định vua điều khiển trực tiếp trận này, vậy vua dùng ga-le chứ không đi tàu chiến bọc đồng. Nói chung, lời thuật của Le Labousse có vài chỗ không ăn khớp lắm. Đó là những lời ông viết cho giám đốc Viện Thừa sai Paris, từ Bình Khang ngày 20/4/1801. Năm ngày sau khi viết lá thư này, giáo sĩ Le Labousse mất tại Nha Trang, hôm 25/4/1801.

 

Thư của Chaigneau gửi Barisy ngày 2/3/1801 về trận Thị Nại

“Ngày 19 tuần trăng thứ nhất hay là ngày 2/3/1801

Barisy thân mến,

Ta vừa đốt sạch thuỷ quân của địch không sót một tàu nhỏ nào. Trận chiến đẫm máu nhất chưa từng có ở Nam Hà. Quân địch chống trả tới chết. Quân ta đánh giỏi hơn. Bên ta có rất nhiều người chết và bị thương, nhưng chẳng đáng gì so với thắng lợi mà nhà vua đạt được. Các anh Vannier, Forsanz và tôi cùng tham dự, và cùng trở về bình an vô sự.

Trước kia, khi chưa thấy hải quân của địch, tôi có ý coi khinh, nhưng tôi bảo đảm với anh là tôi lầm: họ có những chiến hạm chở tới 50, 60 đại bác cỡ lớn.

Nhà vua sẽ đi đánh Hoàng Cung [Huế], người chắc chắn ở đó chẳng có sự kháng cự nào. Những người lính Tây Sơn chắc rất mất tinh thần; nhiều người muốn ra hàng, nhưng ta từ chối. Vua cho phép họ sống yên lành ở nhà mà không phải đánh nhau nữa.

Năm nay chúng tôi không về Sài Gòn. Nhà vua gửi tất cả những chiến hạm lớn đi chở gạo cho người.

Thời giờ gấp gáp, tôi không nói được dài hơn…

Xin anh báo tin này cho ông Liot”

J. B. Chaigneau” (Cadière, Doc. Rel. t. 39-40)

Nhận xét kỹ lá thư của Chaigneau, ông cũng chỉ viết rất sơ sài: Các anh Vannier, Forsanz và tôi cùng tham dự, và cùng trở về bình an vô sự. Như vậy có nghiã gì? Một trận tàn sát kinh hoàng như vậy, nhưng ông chỉ nói chung chung kết quả, có thể vì ông không tham dự trực tiếp chăng?

 

Trận Thị Nại, 1801, theo Barisy

 

 

Barisy viết:

“Quân đội địch dưới lệnh của đô đốc Thiuu Phõo [Thiếu Phó Trần Quang Diệu, thực ra thuỷ quân ở dưới lệnh Tư đồ Võ Văn Dũng], gồm có:

 

 

 

Tàu

Đại bác

đạn nặng

Người

9 tàu lớn (vaisseaux)

60 đại bác

24 livres

700

5 tàu

50

24

600

40 tàu

16

12

200

93 thuyền chiến ga-le (galères)

1

36

150

300 ghe đại bác (chaloupes canonnières)

1

50

100 ghe chiến (lugger cochinchin)

70

Tổng cộng: 673 [547]

 

Dinh quân thứ 3 (3e division) [chắc là Trung quân] của vua, gồm có:

 

 

Thuyền

Đại bác

Người

26 ga-le chở

1

200

65 ghe đại bác chở

1

80

Ngày rằm, 15 tháng giêng, theo lệ, tất cả các hạm đội thao diễn tập trận. Một cơn gió Nam thổi mặt nước nối lại như một tấm gương đã khiến vua nẩy ý cho một dinh quân nhổ neo và ngài cũng lên thuyền, dưới lệnh có các tướng: đô đốc Ong Tong Thoui [Ông Tổng Thuỷ tức Võ Di Nguy] mà người Bồ gọi là Bouche-Torte; Ong Yam Koun [Ông Giám quân], không phải ông đi sứ với Đức Giám Mục [chỉ Phạm Văn Nhân, đi với hoàng tử Cảnh và Bá Đa Lộc sang Pondichéry], ông này trước theo ngụy quân, rồi khi vua ở Xiêm về, ra hàng [chỉ Nguyễn Văn Trương]; ông tướng Ong Tong Don Tag [Ông Tổng Đồn Tả tức Lê Văn Duyệt] là một trong những ông tướng Theuk Tuc [Túc trực] tức bộ binh thiện chiến, lính cảm tử. Có các ông Forcans, Vannier và Chaigneau.

Tới 2 giờ rưỡi chiều, đoàn chiến hạm 91 cánh buồm này khởi hành để đi tấn công một quân đội khoảng 50.000 người và 45.000 quân đổ bộ và quân canh gác các đồn phòng vệ cửa biển.

Đến chiều tối, khi đoàn chiến hạm tới đúng tầm súng của đảo Ong Datte [Hòn Đất], hoàng Thượng ra hiệu cho Ong Tong Don Tag [Lê Văn Duyệt] chuẩn bị 1.200 quân Theuk Tuc [Túc Trực] đổ bộ lên bãi cát. 7 giờ, việc đổ bộ bắt đầu dưới lệnh của quan Ong Fo Vé Theuk Tuc [Phó Vệ Uý Túc Trực]. Họ đi trong sự yên lặng hoàn toàn, dọc theo bãi cát, đến gần giàn súng đại bác của đồn địch mà không bị lộ.

Tới 10 giờ rưỡi, [thuyền] Vua đã tiến đến 4/3 tầm đại bác ở các đồn canh cửa biển. Địch vẫn không hay biết, vua gửi đội tiên phong gồm 62 ghe chở đại bác (chaloupes canonnières), với lệnh xung kích ba chiến hạm đầu tiên, leo lên đốt tàu và cắt dây neo, gây hỗn loạn trong hạm đội địch. Gió to và thủy triều lên mạnh, thuận lợi cho dự trình này: Ong Yam Quoun [Nguyễn Văn Trương] thi hành mệnh lệnh. Đúng 10 giờ 30, ông bắn phát súng đại bác đầu tiên. Lập tức Vua hạ lệnh tổng tấn công. 26 thuyền chiến ga-le bắn liên hồi khắp nơi trên bãi cát để quyét sạch. 1.200 lính của ta tay cầm súng đầu có lưỡi lê, tấn công sau lưng những người nấp trên bãi cát, đánh úp tất cả những gì còn lại, chĩa thẳng đại bác về phiá lòng trong bến cảng.

Bấy giờ, Vua ra lệnh cho tất cả ga-le cùng xông vào và tấn công cùng một lúc theo đúng trật tự trận đồ. Lúc đó, sự quần thảo mới trở nên đẫm máu và phải nhìn vua mới biết: Số mệnh của ông phụ thuộc vào trận chiến này. Đồn Tam Toy [Tam Toà] gây mối kinh hãi cho những ga-le của vua, rơi vào tầm đạn của họ là tan tành ngay. Ong Tong Thoui [Võ Di Nguy] trúng đạn đại bác mất đầu. Cái chết này làm cho quân sĩ loạng quạng. Một chiếc ga-le thất trận, Ong Tong Dong Tag [Lê Văn Duyệt] sai người đến chém đầu thuyền trưởng, đốt ga-le và ra lệnh tiến lên những chiến hạm neo ở phía Núi Đông, đốt chứ không chiếm. Lệnh này được thi hành với sự mau lẹ, can đảm và cẩn trọng.

Trong thời gian này, tướng Yam Quoun [Nguyễn Văn Trương], sau khi đã đốt ba tàu đầu tiên ở cửa vào, đã len được vào giữa hai hàng [thuyền] của địch quân, đến tấn công đoạn đuôi những ga-le của họ, đang chuẩn bị đến cứu các hạm đội. Địch quân ngạc nhiên vì bị tấn công ở chỗ họ không ngờ! Đầu thì tê liệt bởi giàn súng đại bác ở trên bãi cát, đã bị ta chiếm được. Họ đâm lưỡng lự. Ong Yam Quoun [Nguyễn Văn Trương] bèn đốt vài ghe pháo của chính mình: những người ở đầu của địch quân, tưởng các tướng lĩnh phiá sau, bán mình, làm phản, theo vua. Lòng cam đảm của họ bắt đầu lung lay. Ong Yam Quoun đã làm một chuyện phi thường: đánh một còn, một mất; ông đã vào quá sâu để có thể lùi. Lính của ông cũng thế, như một đoàn hổ, không còn biết gì nữa. Lửa cháy và tiếng súng đại bác làm cho đêm nay là một trong những đêm kinh hoàng nhất, chỉ có thể cảm thấy mà không thể diễn tả nổi. Tới 4 giờ sáng, lửa cháy trên tất cả các chiến hạm. Đến rạng đông, một phần lớn đã nổ trên không với tất cả thuỷ thủ… Những ga-le và ghe pháo, còn cầm cự được tới 2 giờ rưỡi chiều ngày 16 tháng Giêng, năm Cảnh Hưng thứ 62 [28/2/1801].

Vua bị thiệt hại nặng: 4.000 người chết. Nhưng sự mất mát của địch quân còn lớn lao không thể so sánh được: họ mất ít nhất 50.000 người; tất cả lực lượng thủy binh kinh hồn của họ; tất cả thuyền bè chuyên chở gồm 1.800 cánh buồm; 6.000 khẩu đại bác đủ loại tầm cỡ; vũ khí đạn dược, lương thực vô kể. Vàng, bạc, châu báu của các tướng sĩ tràn đầy, đều làm mồi cho sóng nước” (t. 375- 379).

Lời thuật của Barisy, thực rõ ràng, tuy ta chưa biết anh có hoàn toàn mô tả đúng trận điạ hay không. Anh bắt đầu bằng cách chỉ định giờ xuất phát:

Ngày rằm tháng Giêng, tức ngày 27/2/1801, vua duyệt binh, nhân thấy gió Nam thổi gợn sóng mới nẩy ý đem một dinh quân [chắc là Trung quân] đi chinh phạt. Chỗ này Barisy hơi tiểu thuyết hoá, vì trước anh đã nói là vua có chương trình đánh rồi, và việc sẽ đánh hoả công theo chiến thuật của Đặng Đức Siêu, thì mọi người biết cả.

Theo Barisy, 2 giờ rưỡi chiều, hạm đội bắt đầu khởi hành từ Cù Mông, và theo bản thống kê của Barisy, không hề có chiếc thuyền đại hiệu nào tham dự. Vậy chắc chắn vua đi thuyền chiến ga-le.

Chiều tối, hạm đội đến ngang tầm đảo Hòn Đất (trên bản đồ Barisy là Ile ong Datte), vua ra lệnh cho Lê Văn Duyệt đổ bộ 1200 quân cảm tử lên bãi cát. 7 giờ tối quân bắt đầu đổ bộ.

10 giờ rưỡi tối, thuyền vua tới cửa biển Thị Nại. Vua ra lệnh cho 62 ghe đại bác tiên phong, xung kích ba chiến hạm đầu tiên của địch, chắc là các tàu đại hiệu chắn ngang cửa biển. Đúng 10 giờ rưỡi, giám quân Nguyễn Văn Trương bắn phát súng đại bác đầu tiên, và vua hạ lệnh tổng tấn công. 26 ga-le bắn liên hồi, quét sạch quân đồn trú của Trần Quang Diệu nấp trên bãi cát, để quân cảm tử của Gia Long vừa đổ bộ, xông lên… Sau đó, Barisy tiếp tục ngọn bút sôi nổi của anh. Điều đáng ghi nhận là Barisy cho ta hiểu rõ hơn chiến thuật của Nguyễn Văn Trương: Thực Lục nói đến Tiêu Cơ, Tiêu Ki, thực khó hiểu; Barisy viết rất rõ: Nguyễn Văn Trương (đã tra hỏi quân canh gác bị bắt, biết trước mật khẩu của Tây Sơn) len được vào giữa hai hàng ghe Tây Sơn, tiến đến đốt phá đằng cuối, làm rối loạn quân địch. Tóm lại, sự tường thuật của Barisy rõ ràng, mạch lạc và hợp lý hơn những văn bản khác.

Thực Lục đặt trận này vào đêm 16 rạng ngày 17 tháng Giêng (tức là đêm 28/2 rạng ngày 1/3). Tuy nhiên giờ giấc ghi trong Thực Lục rât đáng nghi ngờ: trận chiến xảy ra giữa ban ngày, ngày 1/3, trái hẳn với những tài liệu khác.

Còn Barisy đặt trận này vào đêm rằm tháng Giêng, rạng ngày 16 (tức là đêm 27/2 rạng ngày 28/2/1801); Barisy có “mơ mộng” chăng? Tuy nhiên về phương diện chiến lược, tấn công đêm rằm tháng Giêng rất đúng, vì gây bất ngờ.

Trận Phú Xuân

Dường như ý muốn thuật lại những giờ phút lịch sử mà anh đã sống qua, chính là động cơ thúc đẩy Barisy viết nhanh và viết nhiều trong khoảng thời gia khá ngắn ngủi, để kể lại những gì anh đã thấy. Lời mở đầu lá thư dài, viết cho các giáo sĩ Marquini và Létondal ngày 16/7/1801, trên tàu Thoai phon Thoai [tàu Thoại Phụng] ngày 16/7/1801, tại Cua Heou [cửa Thuận An], Barisy giải thích:

“Thưa các cha,

Tính cờ một thuyền buồm ở Quảng Đông lại đến bến cảng này [Huế], đúng lúc những đoàn quân chiến thắng của Hoàng thượng đến chiếm. Con cháy bỏng lòng ham muốn thuật cho các cha biết những gì đáng kể đã xảy ra ở đây, từ lúc bắt đầu mở chiến dịch, đã khiến con tìm hết cách giúp ích vị thuyền trưởng thuyền này. Và con nghĩ ông ta đủ biết ơn con, để mang thư này tới tay các cha.

Lá thư cuối cùng con viết ngày 10/5 vừa qua [Cadière cho biết: không tìm thấy thư này] con đã kể cho các cha nghe việc chiếm Đà Nẵng ngày 8/3[1801]: quân đồn trú gồm 30 thớt voi, 84 đại bác đồng đỏ, các kho gạo của địch quân bị cháy cùng nhiều kho quần áo và cả tiền bạc, nhưng đó mới chỉ là sự mở màn trận tấn công lớn của nhà vua”.

Và sau đây là những hàng thư anh kể lại trận Phú Xuân và Gia Long trở về Huế:

“Ngày 28/5 quân đội của Tàa Quoun [Tả Quân] mà tôi [từ đây xin dịch là tôi thay vì con] trực thuộc, theo lệnh của Ong foo Thuoon [Ông Phó Tướng Nguyễn Công Thái] đến Quy Nhơn. Hoàng thượng duyệt quân, có 10.900 người thuộc bộ binh: 27 chiến thuyền ga-le, rất nhiều ghe chở đại bác. Quân ta ở lại Quy Nhơn tới 3/6 mới khởi hành đi Đà Nẵng. Vua lãnh đạo cả quân Thủy Bộ, tôi ở dưới lệnh vua, với tư cách thuyền trưởng tàu mang hiệu kỳ thống lĩnh của vua:

 

 

 

Thoai Phâon Toai [tàu Thoại Phụng]

chở 36 đại bác

15 tàu

chở 18 đại bác [đạn nặng] 12 livres

45 chiến thuyền ga-le

chở 1 đại bác, 36 livres

300 ghe nhỏ đại bác

chở 1 đại bác, 4 livres

 

Trong binh đội này, có 15.000 người thuộc quân đổ bộ, dưới lệnh của các tướng:

Dinh Táa [Dinh Tả]; Dinh Tiên [Dinh Tiền]; Ong Ton Don Tàa [Lê Văn Duyệt]

Ngày 7/6 chúng tôi đến Đà Nẵng, gặp lại thuỷ binh do ông Yam Quoun [tức Giám Quân Phạm Văn Nhơn, khi đánh trận Thị Nại, Phạm Văn Nhơn được lệnh giữ Cù Mông], ông này đã đi đại sứ ở Âu Châu [chỉ việc Phạm Văn Nhơn tháp tùng Hoàng tử Cảnh cùng Bá Đa Lộc sang Pondichéry], gồm có:

 

 

Thao Loan Phi [Long Phi]

32 đại bác

Chaigneau [điều khiển]

Thao Baon fi [Bằng Phi]

26 đại bác

Forsan [de Forcant]

Thoo Fhoan [Phượng Phi]

26 đại bác

Vannié [Vannier]

3 tàu chở 18 đại bác, 12 livres

30 ghe chở 1 đại bác

[Chỗ này Barisy nói rõ hơn về việc phân chia binh đội:

- Phần trên là binh đội đi từ Thị Nại (sau khi chiếm được) với nhà vua: chỉ có một tàu lớn là tàu Thoại Phụng của vua, mà Barisy được ở trên tàu.

- Phần dưới là thủy quân, dưới quyền điều khiển của Phạm Văn Nhơn, đi từ Cù Mông, trong đó có các tàu đại hiệu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi. Điều này xác định một lần nữa: ba tàu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi, đậu ở Cù Mông trong trận Thị Nại.]

Barisy viết tiếp:

4 giờ sáng ngày 9/6, toàn bộ binh đội xuống tàu [ở Đà Nẵng].

8 giờ sáng ngày 11, chúng tôi đến cửa sông Hương, vào tầm súng của đại bác các đồn phòng thủ cửa sông. Quân đội được lệnh chia hai: Tất cả những tàu chiến và 30 ghe chở đại bác họp thành một đội ngũ dưới lệnh ông Yam Quoun [Phạm Văn Nhơn] phong toả cửa Tây, có tên là Cua Heou [Cửa Hậu hay cửa Thuận An]. Cửa Đông có tên là Cua Ong [Cửa Tư Hiền] do vua và các tướng nói ở trên, tấn công; dưới lệnh có 45 chiến thuyền ga-le; 300 ghe chở đại bác, và 15.000 quân đổ bộ.

 

 

5 giờ sáng ngày 12, những chiến thuyền ga-le được lệnh dàn quân làm ba hàng, giữa các hàng là ghe nhỏ chở đại bác, tiến vào Cửa Ông; khi tiến đến giữa tầm đại bác, bị ba đồn phòng vệ khạc lửa vào, họ chịu trận, không chống trả, cho tới khi đạt tới cửa sông; chỗ này đã rất cạn lại còn bị địch lấp thêm nhiều vật liệu khác nhau, nhất là nhiều cọc nhọn và sà ngang; cho nên ga-le và ghe đại bác bị chặn lại, không thể tiến thoái được. Địch quân mừng quýnh, càng bắn dữ; bấy giở vua thấy nguy cơ trước mắt, mới ra lệnh cho quân nhẩy xuống nước lội vào bờ dưới làn súng đại bác đồn địch bắn ra. Những chiến thuyền ga-le dù bị mắc cạn cũng bắn trả dữ dội để những ghe nhỏ chở đại bác may mắn trườn qua chỗ bị ngáng.

Tướng chỉ huy, là chồng của em vua ngụy, đóng trong đồn phòng thủ với 10.000 quân tinh nhuệ, tên là Ong Foo Matthey [Ông Phò Mã Trị (Nguyễn Văn Trị)]. Tính tụ phụ làm tăng tốc sự thua trận của ông. Từ trên thành, nhìn thấy sự thảm bại của đội ngũ chúng tôi; ông tưởng ông chỉ cần ra chụp lấy chúng tôi như ta bắt đàn cừu trong vườn; chẳng may người công dân đại tướng khốn khổ lại bị thọp cổ; ra khỏi thành 500 toises [khoảng gần một cây số], ông đụng đầu với quân Cấm Vệ (Gardes du corp) tức là quân Theuk Teuk [Túc Trực], họ dùng lưỡi lê ở đầu súng đột kích ông một cách quyết liệt. Những toán lính khác, trước ở trên ga-le, tiến đến bên sườn và sau lưng ông. Ông bị bao vây tứ phiá, không có cách nào tiếp cận được với trong thành. Quân của ông cũng nhìn thấy cảnh ấy. Lính của chúng tôi dữ dội xông vào với sự hung hăng kịch liệt. Không có cách nào thoát được, ông kêu tha chết, nhưng người lính say sưa chém giết chẳng nghe thấy gì, kể cả lệnh trên. Phải khó nhọc lắm mới kéo được con mồi ra khỏi tay anh ta. Ông tướng Phò Mã Trị bị bắt sống đem đến trình diện vua, vua truyền sai đóng xích sắt.

Tất cả ngày hôm đó chúng tôi sửa soạn để tấn công những thành đồn khác, phiá trong sông. Bên địch có 7 tàu thuộc đội ngũ 65 tàu từ Bắc đem vào, đã cập bến đêm mùng 10. Những tàu khác thấy đậu ở cách quân chúng tôi hai dặm nhưng chạy nhanh nên thoát được.

Ngoài ra, họ còn có 10 tàu và 14 chiến thuyền ga-le; rất nhiều ghe đại bác, dưới lệnh của Tua Maa Noe [Tư Mã Nguyễn Văn Tứ?], có đầy người. Chúng tôi ở trên đài cao dựng trên cột buồm với kính viễn vọng nên có thể phân biệt được diện mạo những tác nhân chính.

Bấy giờ là 10 giờ sáng. Khi quân tiền vệ của chúng tôi gồm những ghe đại bác dưới sự điều khiển của Vệ uý vệ Phấn Dực [fan Vieuk, chú thích của Cadière, chép theo Cl. E. Maitre]; [chắc là Tống Phước Lương, vì lúc đó ông là Vệ uý vệ Phấn Dực Trung Quân, TL, I, t. 432] bắt đầu tiến vào tầm đại bác của họ. Hạm đội của họ thả neo theo hình lưỡi liềm được giàn đại bác gài chéo nhau che chở. Chiến thuyền ga-le của chúng tôi từ từ tiến vào, vừa đi vừa dò dẫm vì không biết rõ lòng sông; lúc thủy triều xuống, cạn hẳn.

Chúng tôi thấy các ghe đại bác bên địch bắt đầu chuyển động, và phân biệt được 27 ghe đang tiến về phiá chúng tôi. Tướng địch, mà người ta nhận ra nhờ ghe của ông có quốc kỳ lụa đỏ treo trên cột trước, không ngừng phất phới để khích lệ ba quân. Nhưng sự kinh hoàng đã tiến trước vua: ông Vệ uý vệ Phấn Dực không bắn súng báo hiệu, chợt đột kích xông vào tất cả các ghe đại bác của địch cùng một lúc. Bấy giờ chúng tôi sống một trận chiến ngắn nhưng thật đẫm máu: các đồn, tàu và các chiến thuyền ga-le nhất loạt cùng bắn, không phân biệt bạn thù. Nhưng chỉ trong 5 phút, chúng tôi đã thấy cờ vàng phất phới thay thế cờ đỏ. Trong khoảnh khắc này, đoàn chiến thuyền ga-le và ghe đại bác của ta đã đến và chúng tôi xung phong tiến lên tàu, thuyền địch, rồi đổ bộ xông vào thành luỹ đánh giáp lá cà. Tới chính ngọ, một sự im lặng ngự trị toàn thể. Lửa trên các chiến hạm của địch làm thành một cảnh tượng bi tráng. Bãi cát đối diện với chỗ chúng tôi thả neo, người chạy trốn lấp đầy không gian mà tầm nhìn có thể đạt được.

Nhà vua đã ngược dòng sông với toàn bộ quân đội. Ba giờ chiều, người đạt tới bến kế cận cung điện của tổ tiên. 10 [đại biểu] dân tộc quỳ gối trên bờ sông, có vẻ chờ đợi sự phán quyết mà vì vua chiến thắng sẽ tuyên bố. Một sự im lặng trọng đại bao trùm. Hồi tưởng lại những xúc phạm và nhục mạ trong quá khứ, gây mối kinh hoàng, khiến họ không thể yên lòng. Vì thế cho nên, họ đã thực tình kinh ngạc, khi thay vì thấy một kẻ chiến thắng, nổi giận bước xuống thành phố của họ; họ lại nhìn thấy một Henry IV, một người cha khoan dung, và nhân từ. Sự thanh tịnh và lòng tốt khắc trên trán nhà vua là điềm báo cho họ biết những gì sẽ chờ đợi họ trong tương lai. Tất cả quân đội tham chiến, trong sự im lặng sâu lắng nhất, đợi lệnh vua. Đến 6 giờ chiều, Hoàng thượng ra lệnh cho tất cả quân đội phải lên tàu và chính người cũng lên tàu của người để ngủ; sau khi đã chỉ định các đội canh gác tất cả các khu trong thành phố, cấm cướp bóc, vi phạm sẽ bị tử hình.”

 

Vua Gia Long vào kinh đô Huế

“8 giờ sáng ngày 15/6/1801, (tháng thứ 5, Cảnh Hưng thứ 62; năm thứ 27, ngụy triều Wandoé [(Nguyễn) Văn Huệ], còn được mệnh danh là Tais Shon hay Teschon [Tây Sơn], có nghiã là gia đình ở trên núi [Tây]), cháu của vị chúa sau cùng [tức Định Vương Nguyễn Phước Thuần], con người em của chúa [Nguyễn Ánh là con anh của chúa], đặt chân đến kinh đô Nam Hà.

Nhà vua không vào cung điện mà ngồi ở một phòng tiếp kiến bên ngoài, nơi dân chúng có thói quen tụ họp để hy vọng được thấy vua những ngày thiết triều.

Chính ở trong phòng này, 8 giờ sáng, tôi nhìn thấy vua. Vô số quần chúng đủ mọi hạng người, mọi tuổi, quây quần bên ông. Quân canh gác sơ sài, không mang khí giới, đứng cách quân vương khá xa. Thấy tôi, vua gọi lại, hỏi thăm tin tức Chaigneau… (Chaigneau bị đau từ mấy ngày nay), tôi kể chuyện này để thấy tấm lòng của nhà vua.

Sau đó, Hoàng thượng hỏi xem tôi đã thấy các tướng địch chưa. Tôi trả lời chưa. Người ra lệnh dẫn đến cho tôi [có lẽ là dẫn tôi đến]; sau đó người bảo tôi lại thăm các em của vua Ngụy. Tôi đi ngay. Họ ở trong một phòng nhỏ khá tăm tối, không có gì là lịch lãm, điều này càng làm tăng sự tương phản như đập vào mắt giữa quá khứ và hiện tại của họ. Con số những công nương là 5. Một cô trạc tuổi 16 tôi thấy rất xinh đẹp. Một cô nhỏ độ 12 tuổi, con gái công chúa Bắc Hà [Ngọc Hân công chúa], cũng thường thôi; ba cô khác từ khoảng 16 đến 18, da ngăm ngăm nhưng diện mạo dễ coi; ba cậu con trai, một cậu 15 tuổi, da cũng ngăm ngăm, nét mặt tầm thường; hai cậu khác cũng trạc 12 tuổi, con công chúa Bắc Hà, diện mạo khôi ngô, điệu bộ dễ thương.

Sau cuộc đi thăm ngắn ngủi này, tôi được dẫn đến một nhà tù khác, ở đó tôi thấy Mad Theẽu Do’an [Bà Tư Đồ], vợ tướng thủy binh của địch mà nhà vua đã đốt [thuyền, tàu] ở Quy Nhơn [tức Bà Võ Văn Dũng]. Bà này đẹp, vẻ hiền hậu và lịch sự. Mẹ của ông tướng này tuổi khoảng từ 45 đến 50. Bà nói chuyện rất lâu với tôi và kêu than số phận rủi ro của bà.

Trong một nhà tù khác, gần đấy, giam, mẹ của tướng Thieuu Phoo [Thiếu Phó Trần Quang Diệu] thống lãnh quân đội hãm thành Quy Nhơn. [Cadière chú thích lầm là bà Trần Quang Diệu, thực ra bà Bùi Thị Xuân còn đánh trận Trấn Ninh tháng 2/1802, đến khi Trần Quang Diệu bị bắt, cũng không có bằng chứng gì là bà bị bắt cùng chồng]. Bà trạc độ 55 tuổi. Một khuôn mặt cao quý trong sự bất hạnh, bà tỏ ra cương nghị, chính trực mà không kiêu hãnh.

Sau đó đến vợ của ông tướng foo Maatthey [Phò Mã Nguyễn Văn Trị], bà là em gái của vua Ngụy, và cũng là một chiến sĩ. Bà Theuk hauv Dinh [Tư Khấu Định, chú thích Cadière, theo Cl. E. Maitre] vợ của tướng Pháo binh.

Bà Ton Lin Keen [?], vợ của Phó Thống Lĩnh thuỷ quân, vv và v.v. nhiều lắm, trong đầu phải có cuốn lịch sách mới nhớ lại được.

Nhà vua đã thả tất cả nhà cửa của các quan, tướng địch cho cướp bóc. Tôi rất tức giận chuyện này; vì bọn lính đã đập phá tất cả những gì dưới tầm tay của chúng, có những dinh cơ, tuy làm theo lối Tàu, nhưng đối với Paris có thể là một lâu đài tráng lệ, với vườn cảnh, trồng đầy cây lạ, những bình sứ Nhật Bản. Sự trả thù của nhà vua dẫn đến kết quả như thế”. (Thư Barisy viết cho Marquini và Létondal, trên tàu Thoại Phụng, ngày 16/7/1801, BAVH, 1926, IV, t. 400-406).

Barisy là một trong những người, nói đúng hơn, là người duy nhất đã viết kỹ, viết rõ, với văn tài bẩm sinh, về những ngày lịch sử này. Anh không chỉ làm sống lại các trận chiến như bày ra trước mắt, mà còn cho thấy khiá cạnh nhân văn, về con người, về sự ứng xử của họ trước mọi tình thế. Gia Long đạt tới chiến thắng cuối cùng trong những mất mát kinh hoàng không kém các trận điạ, trong năm 1801: hoàng tử Cảnh hiền lành, mất trên giường bệnh; hoàng tử Hy dũng mãnh, biệt hiệu Ông Búa, mất trong khi hành quân, cách nhau hai tháng. Các mãnh tướng: Võ Di Nguy tử trận, Võ Tánh tử tiết. Học giả Ngô Tòng Châu uống thuốc độc. Gia Long đem Minh Mạng chín tuổi, đi theo, trong cuộc hành quân định mệnh từ Gia Định ra Huế, để học nghề làm vua, đúng theo truyền thống các chúa Nguyễn. Chiến thắng của Gia Long nhuốm màu cay đắng. Sự trả thù của ông trên toàn thể gia đình Tây Sơn sau này, mà Barisy, mới chỉ nhìn thấy màn đầu, đã nói lên cái nhỏ của một vì vua lớn.

Chương 21

philippe vannier nguyễn văn chấn (1762-1842)

Philippe Vannier Nguyễn Văn Chấn và Jean-Baptiste Chaigneau Nguyễn Văn Thắng là hai nhân vật đã ở lại Việt Nam lâu nhất, tới đầu đời Minh Mạng. Về hộ tịch của Vannier, André Salles, tìm thấy những chi tiết sau đây:

Philippe Vannier sinh ngày 6/2/1762, tại Locmariaquer (Morbihan), con Francois Vannier và Vincente Joannis. Tại Huế, ngày 12/11/1811, Vannier cưới cô Nguyễn Thị Sen (1791-1878), con một gia đình công giáo ở Phường Đúc [hay Thợ Đúc] gần Huế, do giám mục Véren [Labartette] làm lễ.

Có 7 con. 5 người sinh tại Huế, gồm: Philippe sinh ngày 23/6/1811 (con ngoại hôn, sinh trước đám cưới cha mẹ 5 tháng, sẽ ở lại Việt Nam, sau làm thông ngôn cho vua Minh Mạng. Ngày 17/3/1835, vua Minh Mạng gửi hai tàu đi mua bán ở Singapore, Pinang, Batavia, v.v. còn thấy Philippe làm việc trên tàu). Michel (1812-1889) sinh 12/10/1812. Magdeleine (1814-1902), 11/11/1814. Elisabeth, 9/11/1816. Marie (1822-1882), 17/12/1822. Gia đình trở về Pháp, cư ngụ ở Auray từ ngày 28/12/1825. Các con sinh tại Lorient: Adèle-Louise, 19/7/1827. Eugène-Auguste, 24/3/1831.

Vannier mất ngày 6/6/1842. Bà Nguyễn Thị Sen mất ngày 6/4/1878 tại Lorient.

Khi phái đoàn Phan Thanh Giản sang Pháp, bà Nguyễn Thị Sen lên Paris yết kiến và dự lễ mừng sinh nhật vua Tự Đức (Documents Salles, Philippe Vannier, BAVH, 1935, cả cuốn II, t. 127, 129, 130, 131, 145, 153, 158).

 

Vannier đến Nam Hà

Người ta không biết rõ năm tháng và duyên cớ gì Vannier đến Nam Hà, những điều chính ông viết ra cũng mơ hồ, dường như ông có ý muốn giấu quá khứ của mình: có chỗ ông nói đã đến Nam Hà cùng với Félix Dayot (em J. M. Dayot) năm 1789. Có chỗ lại nói đi cùng với Bá Đa Lộc. Lá thư ông viết cho Bộ trưởng Nội vụ Pháp để xin học cho hai con, năm 1826, cho ta biết một số thông tin sai cũng như đúng về ông. Trong thư, ông tự xưng mình ở ngôi thứ ba (3e personne), có lẽ theo phép nhún nhường Đông phương. Thư không đề ngày, nhưng có thể đoán là viết năm 1826:

“Auray…

“Thưa ngài Bộ trưởng Nội vụ,

“Philippe Vannier ở Auray, nhân viên Hải quân (employé de la Marine Militaire), sau khi dự những chiến dịch dưới lệnh ông Dorvilliers, và các chiến dịch năm 1779, 1780, 1781, dưới lệnh ông de Grasse; đã rời Pháp ngày 28/3/1788. Tới Pondichéry, kẻ tên Vannier (le Sieur Vannier), được Đức giám mục Bá Đa Lộc, Thượng Thư của vua Nam Hà, tuyển mộ, đi tới điểm đầu tiên trong chiến dịch Nam Hà. Họ [Cha Bá và Vannier] đi từ Pondichéry đến Sài Gòn, vùng nhà vua vừa chiếm lại. Nhà vua quen biết 14 sĩ quan và 80 người lính đến giúp ông dựng lại ngai vàng. Sau khi nước này bình an, những người Pháp ở lại lập thân. Tất cả đã qua đời, trừ hai kẻ tên Vannier và Chaigneau.

M. Vannier, từ lúc ấy, giữ một vai trò, càng thêm quan trọng vì ở cạnh vua và được thưởng chức quan cấp bậc đệ bát đẳng [tức Cai Đội], và được vua đặc biệt tin dùng. 34 năm ông ta vừa trải qua ở Nam Hà, đã dùng để làm tăng uy tín của nước Pháp đối với vị quân vương và thần dân của ông. Kẻ tên Vannier đã không uổng công hy sinh cả cuộc đời ở xa xứ như thế nếu y không có hy vọng kết nối mối quan hệ thương mại; rất có lợi cho hai vương quốc; và lại càng chắc chắn rằng các vua Nam Hà [sợ hay ghét; chữ này viết rồi gạch đi] không thể dung thứ người Anh.

Nhà vua già là bạn của người Pháp, đã mất, con ông nối ngôi, M. Vannier, sau khi cưới một người vợ Nam Hà có đạo, sinh được 6 đứa con, muốn cho gia đình đông con có một nền giáo dục Pháp và có đạo, nên đã xin phép vua mới [Minh Mạng] về Âu Châu, và đã được chấp thuận. Trước khi đi, nhà vua bảo phải hứa sẽ gửi con về lại Nam Hà, để chúng đem những kiến thức Âu Châu về, sẽ có ích cho nước ông và làm cho quan hệ thương mại giữa hai nước được dễ dàng.

Vua trước, chỉ biết có gia đình Bourbon, đã có lần nói với kẻ tên Vannier về người chinh phục Bonaparte mà ông so sánh với Timour và với… rằng ông chỉ thiết lập lại quan hệ với nước Pháp nếu dòng họ Bourbon trở lại ngai vàng.

Ông de Kergariou dưới thời Vương Chính Trùng Hưng [Restauration (1815-1830)] đến nước Nam [1817], được M. Vannier, nhân danh vua, tiếp; nhưng M. de Kergariou không được bệ kiến vua vì không đem theo đủ hình thức nghi lễ, không có uỷ nhiệm thư [của vua Pháp].

Trước khi mất, nhà vua đã bảo đảm sẽ gửi M. Vannier về Pháp, với một phái bộ ngoại giao, để cám ơn vua Louis XVIII [Louis XVI], ngày trước đã giúp ông khôi phục lại ngai vàng, với vài người Pháp, đếm trên đầu ngón tay, đã sang đây năm 1788.

Kẻ tên Vannier hy vọng rằng với những năm dài phụng sự ở Nam Hà, cộng thêm những nhiệm vụ đã làm trong hải quân [Pháp], xứng đáng được ngài Bộ Trưởng cấp cho con trai y, 14 tuổi, một chỗ học ở trường Ngôn ngữ Đông Phương [...] và con gái đầu lòng của y, 10 tuổi [thực ra 12 tuổi], một chỗ trong nội trú hoàng gia ở Ste-Denis…”

Ký tên Vannier (Documents Salles, BAVH, 1935, II, t. 143-144)

Thư này Vannier viết với mục đích chính là xin học cho hai con, nên ông phải cố gắng trình bầy những thành tích của mình. Như chúng ta đã biết, đoạn ông “được Đức giám mục Bá Đa Lộc, Thượng Thư của vua Nam Hà, tuyển mộ, đi tới điểm đầu tiên trong chiến dịch Nam Hà. Họ đi từ Pondichéry đến Sài Gòn”, là hoàn toàn sai. Nhưng phần còn lại có những chi tiết đáng chú ý:

- Ông xin về nước và được vua Minh Mạng cho phép. Việc này hoàn toàn khác với những điều được truyền tụng là vua Minh Mạng “bạc đãi, vô ơn, đuổi về”.

- Vannier cho biết: ông đã rời Pháp ngày 28/3/1788. Điều này chắc đúng.

- Vannier cho biết: “Nhà vua quen biết 14 sĩ quan và 80 người lính đến giúp ông dựng lại ngai vàng”. Và “vài người Pháp, đếm trên đầu ngón tay, đã sang đây năm 1788”. Điều này cũng phù hợp với lời Đức Chaigneau viết trong hồi ký, chắc theo lời thuật lại của cha: “Có 14 hay 15 sĩ quan đến giúp Gia Long” (Souvenirs de Huế, t. 18).

- Vannier nói đến sự kiện ông làm “nhân viên Hải quân (employé de la Marine Militaire)” và thạm dự “những chiến dịch dưới lệnh ông Dorvilliers, và các chiến dịch năm 1779, 1780, 1781, dưới lệnh ông de Grasse”. Như vậy chứng tỏ Vannier đã vào hải quân từ năm 17 tuổi; và đến năm 26 tuổi, ngày 28/3/1788 mới rời Pháp. Các tài liệu khác không nói rõ vì lý do gì.

Vannier không thuộc diện đào ngũ, người ta cũng không biết rõ lý do tại sao ông sang Nam Hà.

Nhưng Grimault de Lanoé, một hậu duệ, sau khi xin phép cải chính năm sang Nam Hà của “ông cố” [mon aïeul] đã kể: “Philippe Vannier, sĩ quan thuỷ quân hoàng gia, năm 1786 làm chứng trong một cuộc đấu (súng, gươm) giữa hai sĩ quan thuỷ quân; nhưng người mà ông cố tôi làm chứng không đến, ông cố bèn thay thế, giết địch thủ, bị kết án tử hình, vượt ngục và chạy sang nước Nam, năm 1786” (thư Grimault de Lanoé viết ở Lannion ngày 18/1/1921, trả lời thư André Salles hỏi lý do tại sao Vannier sang Việt Nam, Documents Salles, Philippe Vannier, BAVH, 1935, II, t. 169). Tóm lại, Grimault de Lanoé xác nhận rằng “ông cố” sang “Nam Hà” (có lẽ muốn nói là Ấn Độ) từ năm 1786, vì trốn tội tử hình. Sau đó mới lưu lạc sang Nam Hà. Ngoài ra, trong lá thư gửi Bộ trưởng Nội vụ trên đây, Vannier cũng kể rất mơ hồ về việc sang Nam Hà, và ông chỉ nhận mình là “nhân viên” (employé) trên tàu, chứ không nói là “sĩ quan”, điều này phù hợp với trình độ Pháp ngữ của ông và giải thích tại sao Vannier không có tên trong danh sách binh lính đào ngũ.

 

Chức vụ của Vannier ở Nam Hà

Vannier là người lớn tuổi nhất trong số những người đến giúp vua Gia Long, đi biển ở tuổi 17; Chaigneau đi biển từ tuổi 12. Do đó, họ là hai thuỷ thủ rành nghề biển hơn cả. Không thể xác định rõ ngày Vannier đến Nam Hà, nên chúng tôi dựa vào chứng từ đầu tiên, đó là văn bằng Cai đội, vua cấp cho Vannier ngày 27/6/1790, sau đây:

“Hoàng Thượng biết rằng thân [le sieur] Philippe Vannier, quốc tịch Pháp, đã tỏ lòng nhiệt thành làm nhân viên trong thuỷ quân [Pháp], và đã không quản ngại cả sự xa cách, lẫn sự khác biệt tiếng nói, đến phụng sự nơi đây. Hoàng thượng tin vào khả năng của y, xét thấy xứng đáng được cấp, và với văn bằng này, cấp cho chức Cai đội Chấn Thanh Hầu, giao cho quản một trong những tàu của hoàng thượng là tàu Đồng Nai, dưới quyền điều khiển của Jean-Marie Dagot [Dayot], chỉ huy phân khu có tàu này. Phải cẩn thận tuân mọi lệnh của Dagot, và trong mọi trường hợp phải làm gương tận tụy phục vụ công vụ của Hoàng thượng.

Nếu vì phạm lỗi, không làm tròn nhiệm vụ được giao phó, hoặc coi thường những bổn phận của chức vụ, thì sẽ bị trừng phạt theo luật pháp.

Ngày 15, tuần trăng thứ năm, năm 51, đời Cảnh Hưng (27/6/1790) (Louvet, I, t. 535).

Vannier được nhận chức Cai đội tháng 6/1790 cùng với một số người khác. Ta nên chú ý rằng: Vannier có lẽ là một trong những người hiếm hoi đã không khai man: ông chỉ khai là “nhân viên” (employé) trên tàu Pháp.

Vannier phải tuân lệnh Dayot, quản chiếc tàu Đồng Nai, không biết trong bao lâu, vì, theo Liệt Truyện viết về Trần Văn Học, thì: “Năm Canh Tuất [1790], đắp thành Gia Định, Học nêu đo phân đất và các ngả đường, rồi cùng người Tây là bọn Nguyễn Chấn [Vannier] trông coi chiếc thuyền lớn bọc đồng, theo quan quân đánh giặc. Năm Nhâm Tý [1792], làm đồn Mỹ Tho…” (LT, II, t. 282). Như vậy, có thể hiểu, trong hai năm, từ 1790 đến 1792, Vannier đã được bổ cùng với Trần Văn Học điều khiển thuyền đồng đi đánh trận, rồi sau đó Trần Văn Học tiếp tục vẽ bản đồ các thành phố khác, như Mỹ Tho, và Vannier có thể vẫn tiếp tục trông coi thuyền, tàu đồng.

Trận Thị Nại tháng 7-8/ 1792

Vannier có tham dự trận Thị Nại 1792 không?

Theo Thục Lục, thì trong trận này: “Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Văn Thành đi thuyền Long và thuyền Phụng đánh thẳng vào”. Vậy rất có thể Trần Văn Học và Vannier cũng có mặt, tuy nhiên đó chỉ là giả thuyết, hiện chúng tôi chưa có đủ tài liệu để xác định. Còn những người cho rằng Vannier dự trận này trong ê-kíp Dayot là sai. Bởi vì Dayot, từ tháng 6/1792, sau vụ thậm lạm ngân quỹ, vua không cho đi ngoại quốc mua bán nữa, chuyển sang làm vận tải; và trận Thị Nại 1792 -như chúng tôi đã chứng minh trong chương 16, viết về Dayot- đánh chớp nhoáng có 10 ngày, chỉ gửi các đội cảm tử, họ được lệnh đem lương theo, vua không chỉ định quan tải lương. Như vậy, Dayot không thể dự trận Thị Nại 1792.

Đến khi Gia Long đánh Quy Nhơn lần thứ nhất, tháng 5-6/1793; đây là một chiến dịch lớn và lâu, chắc chắn Dayot phải tham dự vì Dayot ở trong đội tải lương, nhưng không biết Vannier có còn ở dưới quyền Dayot nữa hay không. Lá thư của giáo sĩ Le Labousse viết cho M. Boiret, từ Sài Gòn ngày 26/6/1793, đoạn cuối có câu:

“Nhà vua vừa thống lĩnh đại binh thủy bộ đi đánh Quy Nhơn, thủ đô của Nhạc mà người ta gọi là Hoàng Đế. Các ông Dayot quê Rhedon và Vannier quê ở Auray cũng đi với tàu của họ. Ông Olivier quê ở Carpendras cũng đi với quân của ông ấy và vài người Âu trong bộ binh. Đức Giám Mục chưa nhận được tin gì của vua…” (Cadière, Doc. Rel. t. 28-29).

Có lẽ đó là thông tin duy nhất về Vannier trong chiến dịch Quy Nhơn 1793; không biết Vannier đi trong đội ngũ nào: đội tải lương của Dayot, hay đội thuyền đồng?

Chính thức quản tàu Long Phi từ năm 1800

Về phần Vannier, từ đó cho đến năm 1800, chúng tôi không tìm được tin tức gì thêm. Không biết ông làm những việc gì. Bẩy năm sau, mới thấy ông xuất hiện lại, cùng hai người Pháp, cai quản ba chiếc tàu đồng. Thực Lục việc tháng 2-3/1800, ghi:

“Sai Khâm sai thuộc nội Cai đội Nguyễn Văn Chấn quản tàu đại hiệu Phượng Phi, Nguyễn Văn Thắng quản tàu đại hiệu Long Phi, Lê Văn Lăng quản tàu đại hiệu Bằng Phi, theo Trung quân sai phái đánh giặc (bọn Chấn đều là người Phú Lang Sa)” (TL, I, t. 407).

Và một năm sau nữa, Thực Lục ghi việc tháng 3/1801: “Sai Nguyễn Văn Trương điều bát thuỷ quân tiến ra Quảng Ngãi, Quảng Nam đánh giặc [...] các chúa tàu hiệu Long Phi, Phượng Phi, Bằng Phi, là bọn Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn Văn Thắng, Lê Văn Lăng đều thuộc quyền” (TL, I, t. 432).

Như vậy, trong suốt thời gian Gia Long xuất quân từ Gia Định tháng 4-5/1800, để giải vây Bình Định, đến khi toàn thắng, cuối năm 1802, ba người Pháp này đều dự các cuộc hành quân, khi hộ vệ vua, khi đánh trận, khi tải lương; là ba người cuối cùng đã đi theo đến khi Gia Long thống nhất đất nước, vì lẽ đó mà họ đã được lên chức và trọng đãi suốt đời.

Vannier được lên chức Cai Cơ

Tuy nhiên phải công nhận Vannier lên chức rất chậm, có lẽ vì không phải xông pha, không lập được chiến công. Nhận chức cai đội từ tháng 6/1790, mãi 11 năm sau, khi chiếm được Phú Xuân tháng 6/1801, trong dịp thăng chức các tướng sĩ, Vannier cũng được thăng chức Cai Cơ, cùng với các bạn. Thực Lục việc tháng 7/1801 ghi:

“Cho Khâm sai Thuộc nội Cai đội Nguyễn Văn Thắng [Chaigneau], Nguyễn Văn Chấn [Vannier] và Lê Văn Lăng [de Forçanz] làm Khâm sai Thuộc nội Cai cơ, vẫn quản các thuyền hiệu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi” (TL, II, t. 451).

Vannier lên chức Chưởng Cơ

Sau khi thống nhất đất nước, Gia Long khen thưởng toàn bộ quân đội, và lần này cả ba người Pháp được lên chức Chưởng Cơ. Đây là văn bằng của Vannier:

“Trung quân, Chánh quản, Phụng phi đồng tàu, quản chiếc tàu đồng trang trí chim phượng giương cánh.

Khâm sai Thuộc-nội Cai- cơ, thân Nguyễn Văn Chấn, đã từng vượt biển, chế ngự ba đào, cho rồng mây gặp hội; quản chế chiếc tàu như người cầm cương ngựa, tuyệt hảo thống trị bằng công trạng lớn lao.

Vậy nay truyền tưởng thưởng và tăng chức lên hàng Chánh quản Phụng phi đồng tàu.

Khâm Sai Thuộc nội Chưởng Cơ Chấn Võ Hầu

Cai quản tàu và thi hành mệnh lệnh của thuỷ quân

Với đức độ, nghiêm chính và kỷ luật, sáng trí mau lẹ thi hành mệnh lệnh

Phải tăng tiến trong chiến công và giữ vững chức vụ

Như vậy danh tiếng mới không khỏi bị chôn vùi

Văn bằng này phải được tôn trọng

Gia Long, năm thứ nhất, tháng thứ 11, ngày thứ 12 [6/12/1802]”

(Dịch lại bản dịch của Salles, Documents Salles, Philippe Vannier, BAVH, 1935, II, t. 181)

Vannier giải thích tại sao không trở về Pháp

Sau khi hoà bình trở lại, tại sao Vannier không hồi hương?

Trong một lá thư viết từ Huế ngày 21/8/1805 không rõ tên người nhận, Vannier cho biết:

“Chúng tôi đã chiếm được Bắc Hà, bắt được người cầm đầu quân giặc, và đã xử tử, nên tất cả đều bình yên…

… Tôi định quay về Âu Châu sau khi vua chiến thắng, nhưng cuộc chiến giữa Anh và Pháp gây trở ngại, khiến tôi bắt buộc phải ở lại chờ dịp thuận tiện hơn, vì không muốn của cải của mình rơi vào sự rủi ro của chiến tranh. Ngoài ra tôi thích hợp với nước này; được hưởng ân huệ của vua và rất được trọng nể. Mặc dầu có những lợi điểm như thế, nhưng tôi vẫn không ngừng nhớ đến quê hương, tới gia đình và bè bạn cũ. Đã 18 năm qua tôi không nhận được tin tức gia đình. Nếu anh cho tôi biết tin thì thực quý lắm; bởi vì tài sản của tôi rất lớn lao, có thể giúp đỡ nếu gia đình tôi bị thiếu thốn, nếu như tôi nhận được tin tức của họ thì tôi đã gửi qua Hội truyền giáo rồi. Anh có thể chuyển thư cho tôi qua những tàu Trung Hoa, bằng cách gửi cho cha Marquini, Quản thủ hội truyền giáo ở Macao; hay tới địa chỉ anh Dayot, nhà buôn ở Manille. Đó là một cách anh giúp người bạn cũ, và tôi sẽ không quên được”. Vannier

(Tài liệu văn khố Ngoại giao, do H. Cordier sưu tầm, Taboulet chép lại, I, t. 262-263)

Vannier được thăng chức dưới triều Minh Mạng

Trái với tất cả những lời đồn về sự “vô ơn, bạc đãi, đuổi về” của vua Minh Mạng, sau đây là văn bằng thăng chức cho Vannier của Minh Mạng năm 1924:

“Chánh quản Phụng phi đồng tàu, Chưởng-Cơ, thân Nguyễn Văn Chấn, là kẻ hiền, biết lựa nơi thụ mộc, đến nước ta và tuân thủ luật lệ ở đây như cây hướng dương thân mềm dẻo, tự do như cá trong hồ, đã đi ngàn vạn dặm. Sau khi bình định miền Tây [Nam Hà], đã đi khắp các biển bằng tàu y cai quản. Chiến đấu ở đâu, y cũng là kẻ mạnh nhất. Vì những công trạng này, truyền cho y một đặc ân mới nữa:

Trẫm cho y lên chức Chưởng Cơ

Gia-Nhứt-Cấp

Chấn Thành Hầu

Cần phải chu đáo hơn nữa, luôn luôn thi hành mệnh lệnh của trẫm; luôn lôn cố gắng để được hưởng ân huệ và vinh quang.

Triều Minh Mạng, năm thứ 5, tháng thứ 8, ngày thứ 19 [11/10/1824] (Documents Salles, t. 182).

Khác với Chaigneau, có vẻ bất mãn ngay từ năm 1807, Vannier dường như đã thực sự bằng lòng với cuộc sống mũ áo cân đai được trọng đãi của triều đình, có thể cho đến cuối đời, nếu không xảy ra biến cố tàu Cybère của Pháp do thuyền trưởng Kergariou điều khiển, cập bến Đà Nẵng ngày 30/12/1817.

Trong chuyến đi Á Châu này, Kergariou có phận sự ghé lại Đà Nẵng nhờ Chaigneau và Vannier vận động xin yết kiến vua Gia Long, dâng phẩm vật, để tiến tới một thỏa hiệp thương mại, sau 30 năm không có sự giao thương chính thức giữa hai nước. Sứ bộ ngoại giao sau cùng của chính phủ Pháp gửi tới Nam Hà, xảy ra dưới triều Võ Vương Nguyễn Phước Khoát.

Năm 1748, bộ trưởng hải quân Pháp Maurepas và công ty Pháp Ấn, giao cho Pierre Poivre một nhiệm vụ chính trị và kinh tế với nước Nam. Poivre đến cửa biển Đà Nẵng, ngạc nhiên trước vẻ đẹp của vịnh này và hiện tượng người Hoa buôn bán sầm uất ở Hội An. Poivre được chúa Võ Vương tiếp và đạt được một thoả ước cho phép người Pháp đến buôn bán và mở một thương điếm ở Hội An. Nhưng công ty Pháp Ấn gặp khó khăn và bị đóng cửa khiến thoả ước này không thực hiện được. (Joinville, La Mission de la Cybèle en Extrême-Orient (1817-1818), Introduction, t. X). Kergariou là sứ giả đầu tiên được vua Pháp gửi đến, sau Poivre, tuy nhiên các tàu Pháp vẫn không ngừng vào cửa biển Việt Nam để buôn bán mà không gặp trở ngại gì.

Vua Gia Long không tiếp Kergariou. Lấy cớ là ông ta không mang theo Ủy nhiệm thư của vua Pháp. Đó là lý do chính thức, chiếu luật triều Nguyễn, áp dụng cho tất cả các tàu ngoại quốc, Anh, Pháp hay các nước khác. Từ khi còn chiến tranh với Tây Sơn, Gia Long cũng đã nhiều lần từ chối không tiếp đại diện Anh mang lễ vật đến. Và đối với Pháp, ông cũng không dành riêng cho một biệt lệ nào. Minh Mạng cũng sẽ áp dụng đúng đường lối của cha.

Vấn đề này nằm trong chính sách ngoại giao của Gia Long, sở dĩ ông không nhận đại diện Anh, Pháp, bởi vì, trong những điều ước xin thông thương của họ, thể nào cũng có điều xin một mảnh đất làm nơi xây dựng bản doanh, cơ sở. Ví dụ người Anh xin Cù Lao Chàm, vùng đất chiến lược mà Barrow đã tìm ra. Pháp cũng đòi các cửa bể như Hội An, Đà Nẵng. Làm sao qua mắt được Gia Long hậu ý đó. Cho nên, Gia Long từ chối không tiếp sứ giả. Ông giao việc này cho Vannier quản lý. Đối với chính phủ Pháp, đó là một thất bại của Vannier. Chính phủ Pháp sẽ còn thấy những thất bại sau này của cả Chaigneau lẫn Vannier, khi Chaigneau về Pháp rồi trở lại với tư cách lãnh sự Pháp nhưng không được vua Minh Mạng chấp nhận. Tất cả nhũng thất bại liên tiếp này tứ năm 1817 trở đi, đã khiến Vannier và Chaigneau có những lời lẽ cay đắng oán hờn các vua, trong những thư viết sau này. Chúng tôi sẽ nói rõ hơn trong phần viết về Chaigneau.

*

Câu chuyện Vannier liên quan tới nước Việt, không chỉ ở điểm người lính Pháp này, đến đây, đã phụng sự Gia Long mộc cách trung thành và những điều ông viết khá là trung thực; mà còn ở gia đình ông, một gia đình Pháp-Việt, khiến chúng ta có mối quan tâm sâu sắc hơn. André Salles đã có công sưu tầm nhiều hình ảnh gia đình Vannier, khiến chúng ta có thể nhìn thấy diện mạo của họ trong tập san Đô Thành Hiếu Cổ (BAVH), 1935, II.

Một mặt khác, trong BAVH, 1916, III, Nguyễn Đình Hoè, giám đốc trường Hậu Bổ, tìm dịch được một đoạn hồi ký của Phạm Phú Thứ viết về chuyến đi Pháp với phái đoàn Phan Thanh Giản, trong đó, ông thuật lại chuyện bà Vannier Nguyễn Thị Sen đến thăm phái đoàn, mà chúng tôi dịch lại sang tiếng Việt sau đây.

Phạm Phú Thứ kể lại việc bà Nguyễn Thị Sen đến thăm phái đoàn Phan Thanh Giản ở Paris

Nguyễn Đình Hoè cho biết:

“Tình cờ đọc sách; tôi rơi vào cuốn 2, tập Nhật ký của Phạm Phú Thứ, vị đại thần có mặt trong phái đoàn do Ngài Phan Thanh Giản cầm đầu, được vua Tự Đức gửi đi năm thứ 16 của triều đại [1863]. Những đoạn sau đây tường thuật lại việc gặp gỡ ở Paris giữa các vị sứ giả với Michel Đức Chaigneau, với bà Vannier cùng con trai và con gái của bà:

“Ngày 12 tháng 8 năm thứ 16 đời Tự Đức (24/9/1863), vào giờ Tỵ (giữa 9 và 11 giờ), một người Pháp đến trình diện tại khách sạn của phái đoàn chúng tôi, M. Nguyễn Văn Đức, con trai cựu thuyền trưởng tàu Long Phi, M. Nguyễn Văn Thắng, tiếng Pháp là Sa-nhô (Chaigneau).

Ông này nói với chúng tôi là ông đã trở về Pháp với cha được 37 năm, và cách đây khoảng 20 năm, đã có dịp gặp ba đồng bào ta (Đó là Tôn Thất Thưởng, Trần Viết Xưởng và người thông ngôn Võ Dõng, từ Singapore đến Pháp, trong năm Minh Mạng thứ 21, 1840). Ông ta 58 tuổi và những kỷ niệm của ông về nước Nam còn rõ lắm, nhưng ông nói thêm rằng ông rất yếu, và vì sức khoẻ kém không cho phép ông đi xa. Nếu chỉ nghe theo ý mình, ông đã muốn, đến chào ngay khi nghe tin chúng tôi đến, ông còn chậm trễ chần chờ vì sợ bị buộc tội là tò mò, ông mong rằng thái độ của ông không bị xuyên tạc.

 

Chúng tôi hỏi ông ở đâu và làm gì. Ông trả lời: Tôi về Pháp với cha tôi cùng với cựu thuyền trưởng Nguyễn Văn Chấn, tất cả chúng tôi đều về sống ở Lorient, thành phố bến cảng. Cha tôi mất 11 năm sau. Sau đó tôi dọn đến E-Sơ-Mông [Ermont?] và hiện nay tôi làm tham tá [commis] hay biên tập viên [rédacteur] ở văn phòng Giám đốc Ngân Khố Paris. Uống trà xong, ông ra về.

Chiều tối ngày 23 (5/10/1863), bà Nguyễn Thị Sen, vợ cựu thuyền trưởng tàu Phượng Phi Nguyễn Văn Chấn, đến ra mắt chúng tôi ở khách sạn. Bà đi cùng với cô con gái Marie. Cả hai cùng ở Lorient lên. Khoảng 10 ngày trước, bà Sen đã viết thư cho ông Hà Bá Lý, biết phái đoàn đã đến, bà rất hân hạnh được trình diện với phái đoàn. Ngay khi nhận được thư trả lời, bà cùng con gái lấy tàu lên Paris và ở khách sạn. Vừa vào tới nơi, mắt dưng dưng lệ, bà nói với chúng tôi: bà đến Pháp với chồng từ 37 năm nay. Đếm theo kiểu Tây, bà bảo bà 75 tuổi rưỡi. Bà nói: “Nhà tôi vẫn hứa là sẽ trở lại nước Nam, nhưng ôi thôi, ông ấy đã mất rồi chúng tôi không còn cái hạnh phúc ấy nữa”. Bà thấy mình đã yếu quá rồi, và hơn nữa, các con muốn giữ bà ở lại Pháp, bà không còn dám hy vọng đến chuyến về hết lòng mong đợi nữa. Bà có ba con trai và bảy con gái. Chỉ một người con trai cho bà một đứa cháu nội, hiện nó đang ở nước Nam với những sị quan hay công chức Pháp, năm nay nó 20 tuổi. Hai người con gái của bà đã lấy chồng, nhưng chỉ có Marie, về Pháp lúc 2 tuổi, năm nay 39 tuổi, là có 1 đứa con trai, 17 tuổi, đang đi học.

Hôm nay được các sứ thần, là đồng bào, tiếp, bà nói mình là người sung sướng nhất trên đời. Bà chắp tay cao lên trán để chúc mừng Hoàng đế vạn tuế. Bà bảo: “Dưới thời các vua Gia Long, Minh Mạng, nhà tôi và tôi, đã được các Chúa Thượng ban áo đại trào, cho văn bằng và chúng tôi kính cẩn tôn thờ cất giữ, để kỷ niệm nước Nam tôi”. Trong lúc uống trà, bà còn cho biết bà người Phường Đúc (khu thợ rèn) [chú thích của Nguyễn Đình Hoè: Khu công giáo Thợ Đúc, ở cạnh Les Arènes, trên đất của làng Dương Xuân, gợi lại tên Phường Đúc] ở đó còn cha bà là Nguyễn Văn Dõng và các anh/em bà: Nguyễn Văn Hương, Nguyễn Văn Hữu, Nguyễn Văn Tảng, người sau cùng là Cai đội, trong đội tả quân thuỷ binh; nhưng từ lâu lắm rồi, bà không có tin tức của tất cả gia đình. Bà hỏi trong đám nhân viên của phái đoàn có ai quen biết gia đình bà; Tạ Huệ Kế và Ngô Văn Nhuận trả lời lấp lửng câu hỏi này.

Rồi bà kể cho chúng tôi nghe cách đây 20 năm, có hai đồng bào ta, tên là Liễu (Tôn Thất Thưởng) và Dõng, có nhiệm vụ đi Pháp, đã được chồng bà và bà tiếp, và ông bà đã vô cùng sung sướng được dịp nói về những điều êm dịu trong lòng, những kỷ niệm nơi bà sinh ra đời. Bà hỏi hai người này còn sống không. Chúng tôi trình bầy với bà rằng, những người này, năm Minh Mạng thứ 21 (1840), không có nhiệm vụ chính thức nào, họ chỉ là những đại diện thương mại đi dịch vụ bình thường thôi.

Bà thực tình cảm động khi nhớ lại, đã đi Pháp lâu như thế, bà không còn nói thạo tiếng Việt. Câu chuyện có chút khó khăn, trước mặt cô con gái Marie, thỉnh thoảng cũng biết một vài câu, chữ, nhưng nhất là nhờ các ông Hà Bá Lý và Lý Nại A, cả hai, cũng rất thích cuộc truyện trò lý thú này. Sau đó bà Nguyễn Thị Sen cáo từ chúng tôi…

 

Ngày 25 cùng tháng (7/10/1863), trong dịp lễ sinh nhật Hoàng thượng, ông Nguyễn Văn Đức (Đức Chaigneau), bà Nguyễn Thị Sen cùng con trai Nguyễn Văn Lễ, 51 tuổi, và con gái Marie, đến dự buổi dạ tiệc chính thức do phái đoàn khoản đãi. Các bà cô này, nhân dịp, cả hai, đều đội khăn nhiễu, mặc áo gấm. Bà Sen bảo: “Y phục này chính Đức Kim Thượng đã ban cho chúng tôi tận tay”. (Nguyễn Đình Hoè dịch Phạm Phú Thứ, Quelques renseignements sur les familles de Chaigneau et de Vannier, BAVH, 1916, III, t. 273-275).

Đoạn nhật ký trên đây cho thấy con người Phạm Phú Thứ cùng tài năng và đức độ của ông: Là nhà biên khảo, ông không bỏ sót một chi tiết nào. Chỉ cần có cuộc gặp gỡ trong một (vài) tiếng đồng hồ, ông đã ghi hết chi tiết về gia đình bà Nguyễn Thị Sen. Là một nhà văn, ông ghi cả tinh thần con người bộc lộ qua cử chỉ và lời nói, không cần thêm bớt một lời bình luận nào.

Nguyễn Văn Đức hay Michel Đức Chaigneau, sau này sẽ viết cuốn Souvenirs de Huế, đã hiện ra với lòng ngờ vực, khinh thị các quan, tự coi mình là quan trọng, muốn giữ khoảng cách với phái đoàn; trong lúc các đại thần được vua Tự Đức cử sang Paris để điều đình chuộc lại ba tỉnh miền Đông.

Những lời NguyễnVăn Đức viết ở trang 8, cuốn Souveniers de Huế, phản ảnh đúng con người này: Trách Trịnh Hoài Đức trong Gia Định Thành Thông Chí (qua bản dịch Aubaret) đã không nhắc gì đến “công lao trời biển” của Bá Đa Lộc và những người Pháp trong đó có cha ông, đã đến giúp Gia Long “dựng lại cơ đồ”, và ông tiếc rằng ông đã đọc cuốn sách này sau khi gặp phái đoàn, chứ nếu ông đọc trước, thì thế nào ông cũng “hạch hỏi cho ra lẽ”.

Với sự tinh tường, Phạm Phú Thứ đã nhìn ra con người này, nên vị học giả chỉ ghi vài nét vắn tắt; ông dành tất cả cho bà Vannier Nguyễn Thị Sen, và ông đã ghi lại chân dung người phụ nữ này trong chiều sâu của tâm hồn, chỉ qua vài hàng ngắn ngủi, nhưng sẽ lâu dài tồn tại.

Chương 22

jean-baptiste chaigneau nguyễn văn thắng (1769-1832)

Phần 1: Chaigneau dưới thời Gia Long

 

Chaigneau là người được giới nghiên cứu Pháp trong tập san Đô Thành Hiếu Cổ (BAVH) dành cho những bài nghiên cứu kỹ càng và đúng đắn. Trong số những bài đã viết, đáng kể nhất là ba bài:

- La maison de Chaigneau (Nhà Chaigneau) của Cadière (BAVH, 1917, II, t.117-164).

- Les Diplômes et ordres de service de Vannier et de Chaigneau (Văn bằng và chỉ dụ sai phái của Vannier và Chaigneau), tài liệu André Salles do Cadière dịch và chú giải (BAVH, 1922, II). Những tài liệu này, rất quý, do Salles mua lại của một người đã mua từ vợ Michel Đức, con cả Chaigneau, sau khi ông Đức từ trần.

- Jean-Baptiste Chaigneau et sa famille (JB Chaigneau và gia đình) của André Salles (BAVH, 1923, I, cả quyển), sẽ dẫn là Salles.

André Salles, Thanh tra thuộc địa về hưu, đã sưu tầm tài liệu hộ tịch nhiều đời của các nhân vật chính trong số lính Pháp đến giúp Gia Long. Jean-Baptiste Chaigneau et sa famille được Salles viết xong lúc còn sống, nên đầy đủ nhất, nhưng đôi khi cũng có những lời bình chủ quan nhất, làm giảm giá trị cuốn sách; còn về Vannier, Barisy, Salles mới tìm xong hồ sơ hộ tịch, được Cosserat biên tập, gọi là Documents Salles, và cho in sau khi Salles qua đời, cho nên có tính cách khách quan hơn.

Ngoài ra còn phải kể cuốn Souvenirs de Hué (Cochinchine), Paris, Impérial, 1867, của Michel Đức Chaigneau. Cuốn sách này có giá trị về mặt miêu tả đời sống đương thời tại kinh đô, với những lễ nghi tập tục trong triều; ghi lại những kỷ niệm tuổi thơ của tác giả, đặc biệt lúc tám tuổi, được vào triều, ra mắt vua và hoàng hậu và khi ông theo cha trở lại Việt Nam dưới thời Minh Mạng, được vua gọi vào hỏi về đời sống bên Tây. Riêng phần viết về những gì xẩy ra trước khi Michel Đức ra đời, liên hệ đến Bá Đa Lộc và những người lính Pháp, có nhiều sai lầm, không thể dùng làm tài liệu lịch sử.

Những chi tiết về tiểu sử của Chaigneau mà chúng tôi sử dụng ở đây, phần lớn, rút trong Jean-Baptiste Chaigneau et sa famille của André Salles.

Chaigneau, thời trẻ

Jean-Baptiste Chaigneau, quê Lorient, xuất thân trong một gia đình có truyền thống thuỷ binh. Người cha, Alexandre Georges Chaigneau, vào lính thuỷ từ 13 tuổi, bắt đầu bằng chuyến đi Ile de France tháng 3/1740. Ông cưới vợ 2 lần, người vợ đầu sinh một con; người vợ kế, Bonne-Jacquette Perault, sinh 13 con. Ngày 16/11/1768, Alexandre Georges về hưu với chức vụ đại tá hải quân. Ông mất ở Lorient ngày 13/1/1786. (Salles, t. 7, 10).

Jean-Baptiste Chaigneau sinh ngày 8/8/1769. Salles cho biết không tìm được tài liệu nào về việc học, chỉ biết đến tuổi 12, lúc đó mẹ đã mất được 2 năm, Jean-Baptiste được xung vào lính thuỷ tình nguyện, chắc đã biết đọc, biết viết và biết làm bốn phép tính (Salles, t. 43, 44). Đi biển lần đầu ngày 14/4/1781, trên tàu Necker, đi Ile de France. Sáu tháng sau, tàu này phải “kiên trì chiến đấu” với tàu Petit Amibal ở mạn Mũi Hảo Vọng, và bị tàu Anh bắt ngày 25/10/1781, thủy thủ đoàn bị đưa về đảo Ste-Hélène, vài tháng sau Chaigneau mới được trở về Lorient. Xin nhắc lại: trong thời gian từ 1789 đến 1802, nước Anh cầm đầu cuộc chiến chống lại nước Pháp Cách Mạng, giáo hội Pháp ủng hộ nước Anh. Ngày 18/4/1782, Chaigneau lại theo tàu Ariel trong chiến dịch gần 2 năm, tới ngày 7/3/1784, mới trở về Brest, và bị giải giới.

Ngày 28/8/1784, Jean Baptiste Chaigneau lại khởi hành, cùng với em là Étienne, trên tàu Subtile, trong 43 tháng, tàu này trang bị vũ khí, đi đi về về trong vùng Ấn Độ Dương: Ile de France, Pondichéry, Mahé, Madagascar, Trinquemalay, Batavia, Canton và Manille, tới khi bị giải giới ở Brest ngày 10/4/1788.

Qua sự vụ lệnh của tàu Subtile, ngày 1/7/1787, Chaigneau được ghi tên vào danh sách binh nhì. Ngày 7/9/1787, ở Port-Louis (Ile de France), qua một kỳ sát hạch, được tăng lên binh nhất, nhưng trong hai năm, tất cả những cố gắng để vận động cho Chaigneau vào quân đội hoàng gia đều vô hiệu. Mặc dù ngày 14/11/ 1788, Chaigneau đã qua kỳ sát hạch về thủy đạo (nghiã là “biết cách tìm điểm nhắm, xác định vĩ độ, kinh độ, những biến đổi, định vị trí tàu trên bản đồ”) (Salles, t. 148) và bà bá tước du Bourg đã can thiệp lên ông Bộ trưởng Thủy quân, cũng chỉ nhận được lời hứa suông (Salles, t. 45).

Đến tháng 6/1790, Chaigneau lại làm đơn nữa, được Thévenard, quản đốc quân nhu ở Lorient phò trợ, nhưng Bá tước Bộ trưởng Luzerne vẫn từ chối. Thậm chí ông còn khiển trách việc nhận Chaigneau vào lính tình nguyện (Salles, t. 45 và t. 149).

Như vậy, chứng tỏ việc xin vào quân đội chính quy là rất khó, mặc dầu Chaigneau đi biển từ tuổi 12 và việc xin lên chức sĩ quan càng khó hơn.

Không thể chờ đợi mãi một chỗ trong quân đội chính quy, ngày 9/9/1791, Chaigneau lên tàu Flavie, là tàu buôn tư, đi “vòng quanh thế giới”. Trong tờ khai sự vụ tàu Flavie, ngày 3/6/1793, ghi Chaigneau là sĩ quan (1er enseigne), nhưng anh vẫn không phải sĩ quan thực thụ trong quân đội Pháp, vì tàu Flavie chỉ là tàu buôn tư. Salles cho biết, trong các giấy tờ hộ tịch sau này, Chaigneau không đề bất cứ chức vụ gì trong quân đội Pháp (Salles, t. 46). Người ta cũng không biết gì nhiều về tàu Flavie, chủ tàu là ai, buôn bán gì, đã có những hoạt động như thế nào trong những năm 1791-1794; dường như nó có dự vào cuộc tìm kiếm tàu La Pérouse bị mất tích. Tàu Flavie trở về Macao tháng 3/1794, nó bị chận lại ở đây, vì gặp cuộc đụng độ Anh-Pháp trên biển và bị một tàu Anh đuổi. Tàu Flavie bị giải giới ngày 24/3/1794 ở Macao. Chaigneau 25 tuổi.

Tại sao Chaigneau không trở về Pháp?

Câu trả lời có thể rất hiển nhiên: chế độ Kinh hoàng (La Terreur, 1792-1794) ở Pháp sau cách mạng 1789 đã làm cho những người Pháp ở ngoài nước không muốn trở về. Theo Salles (t.50), có thể vì Chaigneau biết quá ít tin tức về nước Pháp lúc đó, lại nghe các cha cố nói đến việc Nguyễn Vương đang trọng đãi người Pháp ở Nam Hà, và Laurent Barisy, bạn thủa nhỏ, cũng đang ở Sài Gòn với tư cách đại diện cho hãng buôn Anh ở Madras, mua bán cho nhà vua. Chaigneau, quyết định đi Nam Hà, đã lợi dụng ngay những ngày cuối cùng của gió mùa Đông-Bắc sắp chuyển sang Tây-Nam, và đã đến Sài Gòn đầu tháng 4/1794, (Salles, t. 51).

Nhưng Chaigneau không gặp được ai cả, giám mục Bá Đa Lộc đã theo Hoàng tử Cảnh đi trấn thủ Diên Khánh từ tháng 12/1793 đến tháng 8-9/1794 mới trở lại Sài Gòn. Còn Barisy đã nhận được chỉ dụ sai phái của vua ngày 17/12/1793 (Louvet, t. 545) đem hàng hoá, theo gió mùa Đông Bắc, đi Malacca và Poulo-Pinang bán để mua vũ khí cho vua; chỉ có thể trở về theo gió mùa Tây Nam, tức là vào khoảng tháng 5/1794.

Không biết Chaigneau làm gì trong thời gian từ tháng 4/1794, đến tháng 6/1795. Chắc chắn Chaigneau đã giao thiệp với giới giáo sĩ, nhất là giám mục Bá Đa Lộc khi ông trở về Sài Gòn, vì thấy trong thư từ của họ, anh được khen là người tốt.

Tháng 6/1795, Chaigneau xuất hiện trên tàu của Olivier. Olivier đi mua vũ khí ở Macao và chở anh em Dayot vừa trốn khỏi tù (vì làm đắm tàu Đồng Nai). Thư của M. Le Labousse gửi M. Létondal, quản thủ tu viện Macao ngày 22/6/1795, có câu: “Ông sẽ thấy M. Olivier tới Macao với M. Dayot, đã trốn từ tàu của ông ấy khi ra hàng ở Vũng Tàu [...] Trên tàu của Olivier còn có Chaigneau cùng quê với tôi [Le Labousse]. Tôi gửi gấm anh ta cho ông, anh ta là người rất tử tế [...] Tôi mong anh ta tìm thấy ở Macao cơ hội để về Pháp, sợ đi biển lâu, những tính tốt của anh ta sẽ bị đắm chìm như bao nhiêu người khác…” (Cadière, Doc Rel. t. 35).

Trong chuyến đi này, thế nào anh em Dayot chẳng kể chuyện bị “các quan vu cáo” và bị “kết án oan ức”, nhưng Chaigneau vẫn trở về Nam Hà cùng với Olivier sau đó, và anh còn tiếp tục làm “áp-phe” giữa Sài Gòn-Macao trong vài chuyến nữa. Cuối 1796, đầu 1797 Chaigneau trở lại Sài Gòn và sau đó, mới chính thức gia nhập quân đội Nguyễn Ánh, được chức Cai Đội. Nhưng văn bằng thì không tìm thấy (Salles, t. 53). Lúc này Chaigneau 28 tuổi.

Chaigneau phục vụ Gia Long tới năm 1819, thì xin về xứ thăm gia đình ba năm. Khi ông trở lại Việt Nam, năm 1821, với sứ mệnh mới của chính phủ Pháp, thì Gia Long đã mất, ông ở lại triều Minh Mạng 4 năm nữa rồi về Pháp hẳn. Ông mất tại Lorient ngày 31/1/1832 ở tuổi 63 (Salles, t. 102).

Tình trạng gia đình

Chaigneau, từ khi lên tàu Flavie ngày 9/9/1791, không có tin tức gì của gia đình. Sau chiến tranh, quyết định ở lại Huế. Ngày 4/8/1802, mua căn nhà ở làng Dương Xuân, theo bản đồ của Cadière, nhà này ở trên bờ kinh Phủ Cam, khoảng giữa đường Nam Giao (nay là đường Điện Biên Phủ) và chợ Phủ Cam (nay là chợ Bến Ngự). Theo Đức Chaigneau, nhà Vannier và de Forçant ở Bao Vinh.

 

Năm 33 tuổi, Chaigneau cưới cô Hồ Thị Huề con ông Hồ Văn Hưng, một gia đình có đạo ở phường Thợ Đúc, cạnh Phủ Cam, do giám mục Labarlette làm lễ ngày 10/8/1802. Người chị/em gái là Hồ Thị Nhơn sẽ lấy de Forçant, có ba con (Salles t. 103-104).

Từ 1802 đến năm 1815, khi bà Huề mất trong lúc sinh nở, trong 13 năm, họ sinh được 11 con, nhưng 6 đứa trẻ mất sớm, chôn ở Phước Quả. Con cả sinh ngày 25/6/1803, là Michel Nguyễn Văn Đức (1803-1894) sống lâu nhất, tới 91 tuổi; làm công chức trong bộ tài chánh Pháp, có vợ, không con; ông viết cuốn Souvenirs de Hué (Cochinchine), Paris, Impérial, 1867. Từ 1873, dạy tiếng Việt ở trường Sinh ngữ Đông phương (École des Langues Orientales); Đức Chaigneau mất ngày 14/4/1894, tại nhà riêng 88 Avenue de Clichy, Paris (Salles, t. 111). Hai con trai thứ của Chaigneau là Pierre Địu và Francois-Xavier Ngãi, mất ở trạc tuổi 40, cũng không có con. Người con gái Anne Trinh, có một con gái, sau sinh thêm 4, 5 lần nữa đều không nuôi được. Như thế, các con của bà Hồ Thị Huề, không còn ai nối dõi.

Năm 1817, Chaigneau cưới Hélène Barisy làm kế (lai Việt, con gái Laurent Barisy, mất năm 1802; sau người mẹ cũng mất, Chaigneau đem về nuôi). Hèlène hơn Michel Đức ba tuổi. Lễ cưới ngày 15/1/1817 ở nhà thờ Phủ Cam, sinh 2 con tại Huế: Henri Quang, mất trong chuyến về Pháp năm 1819, và Louis Thương, mất ở Sài Gòn, trong chuyến về Pháp năm 1825 vì dịch tả. Tại Pháp, ngày 14/6/1820, sinh thêm bé gái Marie, cũng mất sớm. Trong thời gian ở Việt Nam lần thứ hai (1821-1825) Hélène sinh thêm Jean, con trai duy nhất có con nối dõi dòng Chaigneau. Gia đình về lại Lorient, sinh thêm hai con nữa: Marie, sau đi tu, và Edouard, mất sớm. Hèlène từ trần tại Lorient ngày 17/9/1853 (Salles, t. 118-119).

Thời điểm Chaigneau gia nhập quân đội Nguyễn Ánh

Chúng ta vẫn chưa xác định được chắc chắn thời điểm nào Chaigneau chính thức gia nhập quân đội Nguyễn Ánh.

Lá thư Chaigneau viết ngày 10/6/1798, tại Sài Gòn cho quản thủ tu viện Macao, trong có câu: “Tình trạng của nhà vua vẫn thế. Năm ngoái ông đã để lỡ dịp có thể chinh phục dễ dàng nước ông. Ông đã bất ngờ đến đất địch, họ đang chia rẽ và không phòng bị gì, vậy mà ông không biết lợi dụng hoàn cảnh. Cứ theo chiến dịch cuối cùng này thì con nghĩ nhà vua chẳng bao giờ làm chủ được đất nước ông.” (Cadière, Doc. Rel.; t. 37-38).

Ở đây, Chaigneau muốn nói đến chiến dịch đánh Quy Nhơn lần thứ hai, bắt đầu từ tháng 5/1797 đến tháng 9-10/1797, và phê bình Nguyễn Vương qua chiến dịch đó.

Xin nhắc lại: Nguyễn Vương đến Quy Nhơn, thấy phòng thủ kỹ, không thể đánh được, bèn kéo quân ra Quảng Nam, thắng được vài trận, nhưng thiếu lương và thuyền lương tiếp tế gặp bão; quân sĩ bệnh tật nhiều; nên phải rút quân về. Lúc đó Lê Trung giữ vùng Quy Nhơn; Quảng Nam có Trần Quang Diệu, đều là kiện tướng của Tây Sơn.

Những lời trên đây của Chaigneau chứng tỏ: hoặc ông không dự chiến dịch này, hoặc ông dự mà không biết rõ tình hình. Nhiều người dựa vào lời này để xác định Chaigneau đã dự chiến dịch đánh Quy Nhơn 1797. Chúng tôi không chắc lắm, chiến dịch này chỉ có Olivier là đích thực tham dự và lập công ở Quảng Nam. Còn Vannier không biết lúc ấy ở trong đội ngũ nào. Riêng Chaigneau có thể đã tham dự, hoặc không, vì lời lẽ trong thư không xác định được gì cả. Sau đó Nguyễn Ánh nghỉ 2 năm để chấn chỉnh lực lượng. Tóm lại, không thể biết đích xác thời điểm Chaigneau gia nhập quân đội Nguyễn Ánh.

Tháng 4/1799, trong chiến dịch Quy Nhơn lần thứ 3, lúc này Olivier đã mất (ngày 23/3/1799) chắc chắn Vannier và Chaigneau có tham dự, nhưng chưa được làm thuyền trưởng, nên Thực Lục không ghi tên họ trong các cuộc hành quân.

Phải đến tháng 2-3/1800, mới có ba người Pháp được quản tàu đại hiệu; Thực Lục việc tháng 2-3/1800, ghi: “Sai Khâm sai thuộc nội Cai đội Nguyễn Văn Chấn [Vannier] quản tàu đại hiệu Phượng Phi, Nguyễn Văn Thắng [Chaigneau] quản tàu đại hiệu Long Phi, Lê Văn Lăng [de Forçant] quản tàu đại hiệu Bằng Phi, theo Trung quân sai phái đánh giặc (bọn Chấn đều là người Phú Lang Sa)” (TL, I, t. 407).

Đây là lần đầu tiên, tên của Vannier, Chaigneau và De Forçant được ghi trên danh sách hành quân của Thực Lục. Đúng vào thời gian này, Chaigneau bị bệnh, được gửi đi Malacca điều trị. Đây là giấy phép:

“J. Chaigneau, Khâm sai Cai đội Thuộc nội Thắng Tài Hầu, đã dự nhiều trận đánh, mệt mỏi, hy sinh vì nước, bị mắc chứng bệnh hiểm nghèo; Công Đồng cho phép đi Malacca, trên chiếc thuyền chở hàng (lougre) với khâm sai cai đội Laurent Barisy. Phải trao lá thư của quan tham vụ ngoại giao Nam Hà gửi quan toàn quyền Malacca, thỉnh cầu quan toàn quyền vì lòng nhân từ, tìm thầy thuốc cho. Ngay sau khi khỏi bệnh, phải trở về để phò vua và làm công tác thường lệ. Công đồng báo trước để rõ ý vua”. Công Đồng Chi Ấn [Tức là dấu ấn của Hội đồng các đại thần xét việc công. Định chế Công đồng có từ thời Quang Trung]. Ngày 24, tuần trăng thứ 2, Cảnh Hưng năm 61 [19/3/1800] (Dịch [theo bản Louvet, t. 558-559. Cadière có bản dịch khác trong Les diplômes et ordres de service de Vannier et de Chaigneau, BAVH, 1922, II, t. 140).

Theo giấy phép này của Công Đồng, thì Chaigneau đã dự “nhiều trận đánh”. Như thế, chắc chắn Chaigneau đã tham chiến từ 1799, khi Nguyễn Ánh đánh Quy Nhơn lần thứ ba.

Đầu năm 1800, Chaigneau đi Malacca chữa bệnh và dưỡng bệnh. Theo lá thư Barisy viết ngày 28/12/1800 tại Sài Gòn, trong có câu:“Chúng tôi đang ngập đầu trong chiến tranh” (thư gửi đại tá Despinas ở Pondichéry, Salles, t. 55), thì ta có thể chắc chắn Chaigneau đã về lại Sài Gòn cuối năm 1800 cùng với Barisy và sẽ dự các chiến dịch, kể từ năm 1801 trở đi với tư cách thuyền trưởng tàu Long phi.

Thực Lục việc tháng 3/1801 ghi: “Sai Nguyễn Văn Trương điều bát thuỷ quân tiến ra Quảng Ngãi, Quảng Nam đánh giặc [...] các chúa tàu hiệu Long Phi, Phượng Phi, Bằng Phi, là bọn Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn Văn Thắng, Lê Văn Lăng đều thuộc quyền” (TL, I, t. 432).

Ba người Pháp này, sẽ dự các trận Thị Nại, Quảng Nam và Phú Xuân, như chúng ta đã biết. Ở trận Thị Nại, họ có nhiệm vụ hộ tống vua, nhưng không điều khiển các thuyền Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi, vì vua đi ga-le (xem chương 20). Đến trận Phú Xuân họ ở dưới quyền điều khiển của tướng Phạm Văn Nhơn (xem chương 20). Sau khi vào Huế, trong dịp thăng thưởng quân sĩ, Vannier, Chaigneau và de Forçant đều được lên Cai Cơ.

Nhiệm vụ chuyên chở của các tàu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi

Trong trận Thị Nại 1801, ba tàu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi, đóng ở vịnh Cù Mông; vì Nguyễn Vương dùng thuyền chiến ga-le. Sau đó Chaigneau cho biết vua thường dùng các tàu đại hiệu này để chở quân nhu, tiếp tế. Điều này phù hợp với chính sử và các chỉ dụ sai phái.

Trước hết, Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi không phải lúc nào cũng do Chaigneau, Vannier và De Forçant điều khiển, Liệt Truyện ghi: “Năm Tân Dậu [1801] Nguyễn Khắc Thiệu cùng với lưu thủ Vĩnh Trấn là Nguyễn Văn Thiệu sang Xiêm báo tin thắng trận [Thị Nại], khi về coi hai chiếc thuyền lớn bọc đồng là Bằng Phi, Phượng Phi, chở lương gạo ở Quảng Nam đến quân thứ Quy Nhơn” (LT, II, Nguyễn Khắc Thiệu, t. 344).

Thực Lục việc tháng 12/1801 ghi: “Sai chúa tàu Phượng Phi là Nguyễn Văn Chấn (Vannier) và chúa tàu Bằng Phi là Lê Văn Lăng (de Forcanz) chở 15.000 phương gạo từ Quảng Nam đến quân thứ Thị Nại” (Thực Lục I, t. 474). Hai thông tin này có thể chỉ cùng một nhiệm vụ của Bằng Phi và Phượng Phi mà cũng có thể là hai nhiệm vụ khác nhau trong năm 1801.

Sang năm 1802, tài liệu Salles do Cadières dịch và chú giải, in trong Les diplômes et ordres de service de Vannier et de Chaigneau, BAVH, 1922, II, trình bày những văn bản sau đây:

- Thư sai phái ngày 1/3/1802: Sai Chaigneau tải gạo từ Sài Gòn ra Huế. (t. 143)

- Lệnh cho Chaigneau ngày 19/4/1802: phải sửa soạn tàu, chờ, để cùng Liêm Chánh Hầu [Tôn Thất Liêm] hộ tống Từ Cung từ Gia Định về Huế (t. 145-146).

Liệt Truyện Trần Đại Luật ghi: “Năm Nhâm Tuất [1802], lấy lại được Bình Định, Luật cùng bọn Hoàng Viết Toản đem binh thuyền về Gia Định đón Từ giá về Kinh” (LT, II, Trần Đại Luật, t. 295). Và Thực Lục việc tháng 7/1802 ghi: “Hoàng Văn Toản, Trịnh Ngọc Trí và Tôn Thất Liêm rước Từ cung về kinh” (TL, t. 499). Như vậy, trong lúc Gia Long đánh ra Bắc, (khởi hành từ Huế ngày 20/6/1802, đến Thăng Long ngày 20/7/1802), có nhiều người được chỉ định đi đón Từ Cung về Huế: Từ tháng 4/1802, Gia Long đã chuẩn bị việc đón mẹ về Huế, và đến tháng 7 mới xong, điều này chứng tỏ đường biển từ Gia Định ra Huế còn nhiều khó khăn vì có tàn dư của quân Tây Sơn và giặc biển Tề Ngôi, do đó phải vận dụng thêm Hoàng Viết Toản, Trần Đại Luật.

Tháng giêng năm 1803, một nhiệm vụ chuyên chở khác được giao cho tàu Phượng Phi, ghi trong Thục Lục: “Sai Chưởng Cơ, quản tàu Phượng Phi là Nguyễn Văn Chấn chở súng đồng ở Gia Định đến Kinh” (TL, I, t. 539).

Vậy qua những gì được ghi lại, các tàu đại hiệu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi, không phải lúc nào cũng do Chaigneau, Vannier và De Forçant điều khiển và còn có những nhiệm vụ khác, ngoài sự tham dự các chiến dịch.

Phái đoàn Roberts của Anh đến xin thông thương

Trong thời kỳ từ 1801 đến 1804, nước Anh đến xin thông thương ba lần:

1- Thực Lục tháng 5-6 /1801 ghi: “Nước Hồng Mao sai người đem thư đến dâng phương vật mà xin miễn thuế cảng cho thuyền buôn. Vua hạ lệnh cho lưu trấn Gia Định [Nguyễn Văn Nhơn] viết thư trả lời: đánh thuế theo như thể lệ thuyền buôn Quảng Đông” (TL, I, t. 438).

Lần này không rõ trưởng phái đoàn là ai, nhưng chính sách ngoại giao của Gia Long không thay đổi: không có đặc lệ cho người Âu.

2- Thực Lục tháng 7-8/1803 ghi: “Hồng Mao sai sứ đến hiến phương vật, dâng biểu xin lập phố buôn ở Trà Sơn, dinh Quảng Nam. Vua nói rằng: “Hải cương là nơi quan yếu, sao lại cho người ngoài được!” Không cho. Sai trả vật lại mà bảo về” (TL, I, t. 564). Lần này chính là phái đoàn Roberts đến xin thông thương, vua trả lời thẳng là không cho, nhưng Roberts còn kiên trì xin nữa, truyện sẽ kéo dài trong một năm.

3- Tháng 7/1804, Thực Lục ghi: “Nước Hồng Mao sai sứ đến dâng phương vật, dâng biểu xin thông thương. Lại xin cho người nước ấy ở lại Đà Nẵng, đi lại buôn bán. Vua nói: “Tiên vương kinh dinh việc nước, không để người Hạ lẫn với người Di, đó thực là cái ý đề phòng từ lúc việc còn nhỏ. Người Hồng Mao gian giảo, trí trá, không phải nòi giống ta, lòng họ hẳn khác, không cho ở lại, ban cho ưu hậu mà khiến về, khước từ những phương vật họ hiến”. Rồi sau bọn Hội Thương Trọng (tên quan Hồng Mao) [chỉ Roberts] hai ba lần dâng thư yêu cầu. Cuối cùng vua cũng không cho.” (TL, I, t.602)

Lần này cũng vẫn là phái đoàn Roberts; nhưng Thực Lục ghi như một phái đoàn khác, có thể Roberts không ở lại Việt Nam cả một năm, mà đã đi và sau quay lại; hoặc triều đình không biết rõ việc tàu Anh ở lại nước ta gần một năm trời.

Tóm lại, năm 1803, Roberts xin “lập phố buôn ở Trà Sơn”, năm sau xin “ở lại Đà Nẵng”; cả hai yêu cầu, đều bị vua từ chối. Nhưng giọng văn Thực Lục lần sau có vẻ gay gắt hơn, hẳn là phải có lý do. Chúng tôi sẽ giải thích rõ hơn vụ việc này trong chương viết về Các sứ bộ Anh và Pháp đến Việt Nam thời Gia Long và Minh Mạng. Ở đây chỉ bàn đến việc Chaigneau và Vannier được chỉ định tiếp đón phái đoàn Anh.

Chaigneau và Vannier được lệnh tiếp đón phái đoàn Roberts

Khi sứ bộ Roberts đến Đà Nẵng tháng 7-8/1803, vua đang chuẩn bị ra Bắc để nhận phong của nhà Thanh, sai Phạm Văn Nhơn, Nguyễn Văn Khiêm và Trần Văn Thái giữ kinh thành. Ngày 19/9/1803, vua rời Huế. Ngày 26/9/1803, đến Nghệ An; gọi Phạm Văn Nhơn ra Hà Nội dự lễ. Ngày 29/11/1803, đến Thăng Long; tháng 2/1804, làm lệ thụ phong; Nguyễn Văn Thành nhận sắc, Phạm Văn Nhơn nhận ấn. Ngày 2/3/1804, vua rời Thăng Long; ngày 19/3/1804, về tới Huế. Gia Long đặt tên nước là Việt Nam.

Đúng vào thời điểm này thì có vụ tàu Anh đến Đà Nẵng, trước khi Vua ra bắc. Vua từ chối, không tiếp. Tàu Anh vẫn đỗ lại ở Đà Nẵng trong nhiều tháng. Chaigneau và Vannier được lệnh thư của Công đồng [Hội đồng các quan đại thần] ra tiếp, thông báo cho đại diện Roberts những luật lệ của triều đình, nhận thư, dịch thư và đem thư đệ trình lên vua, trong khi vua đang trên đường ra Bắc. Tàu Anh kiên quyết chờ đợi vua về, để xin tiếp kiến lại, và chỉ nhổ neo ngày 14/8/1804. Khi đi, Roberts để lại một lá thư phản đối xấc xược, lời lẽ đe doạ: “Tôi còn phải báo cho Bệ hạ biết nếu ngài để cho kẻ thù của nước Anh [chỉ Pháp] mở một thương điếm hay dễ dàng buôn bán bất cứ thứ gì, thì ngài nên biết rằng, sự tiếp xúc với họ sẽ chuốc lấy hậu quả là mối hận thù của chính phủ Anh” (dịch theo bản dịch tiếng Pháp in trong La Cochinchine Religieuse của Louvet, quyển II, t. 496-498).

Qua lệnh thư của Công đồng gửi Vannier và Chaigneau, ngày 28/9/1803, chúng tôi xin tóm tắt tiến trình tiếp đón này như sau:

Thuyền trưởng Anh, khi đến Đà Nẵng, đã gửi thư cho Vannier và Chaigneau, báo cho biết là họ có đem thư đệ trình lên vua. Việc này vua Gia Long đã biết từ trước khi khởi hành ra Bắc.

Đến ngày 19/9/1803, Gia Long rời Huế, Công đồng, theo lệnh của vua, viết thư sai phái ngày 29/9/1803, lệnh cho Chấn Tài Hầu [Vannier] và Thắng Đức Hầu [Chaigneau] [trong thư nói rõ: Vannier đi hay không tuỳ ý, còn Chaigneau phải đi, như vậy có thể hiểu Chaigneau biết tiếng Anh] cùng với Thạnh Đức Hầu (chưa biết là ai) ra Đà Nẵng, lên tàu và nói với đại diện Anh như thế này:

“Theo tục lệ ở đây, khi có thuyền tàu ngoại quốc đem thư đến, thì ta gửi người đến xem chữ nghiã thế nào; sau khi đã dịch sang tiếng quốc âm, sẽ trình lên Hoàng Đế biết; và sau đó mới cho phép sứ giả đến chúc tụng”. Phải nói rõ như thế, để cho họ hiểu. Rồi phải lấy thư của Trấn quan [quan trấn thủ Anh ở Pondichéry] dịch sang quốc âm, dịch cẩn thận, rõ và đúng. Còn phải nói thêm như thế này: hiện Hoàng Đế trên đường ra Bắc; mà đường biển lúc này khó khăn. Vậy họ phải cắm neo đợi, ở chỗ đang đỗ [nghiã là không được vào Huế]. Cho phép được mua bán tất cả các thứ, không giới hạn gì. Sau khi dịch xong thư thì trả lại cho họ. Thắng Đức Hầu đem bản dịch đến hành tại [chỗ vua đóng] dâng vua, và đợi thư trả lời.

Ngoài ra, Chấn Tài Hầu và Thắng Đức Hầu còn phải gặng hỏi và bắt họ phải khai chi tiết những điều sau đây: nước Anh còn gửi thêm tàu nào nữa hay không và đến với mục đích gì; để khi Thắng Đức Hầu đến gặp Hoàng đế, phải tâu cho rõ. Sau khi Chấn Tài Hầu và Thắng Đức Hầu tới Quảng Nam và giải quyết xong các vấn đề với tàu Anh, thì phải trình tâu ngay cho các quan phụ chính biết. Nhớ đem theo quân hộ tống, cho ăn mặc quần áo oai vệ, và đem theo văn kiện để trưng dụng phu khuân vác. Y lệnh. Sau khi dịch xong thư, không giữ mà phải trả lại họ; để khi họ đến Kinh, còn đệ trình lên Hoàng Đế. Còn bản dịch sang quốc âm, phải đưa người khẩn cấp mang đến hành tại dâng vua. Thắng Tài Hầu cũng lên đường theo sau, vì đường thì xa, mà hành trình của ông còn xa hơn.

Gia Long năm thứ hai, tháng 8, ngày 13 [28/9/1803] Công Đồng Chi Ấn. (Les diplômes et ordres de service de Vannier et de Chaigneau, BAVH, 1922, II, t. 155).

Đọc lệnh thư này, chúng ta biết rõ lề luật của triều đình khi có phái đoàn đem thư nước ngoài: Lá thư này, trước hết, phải được dịch ra quốc âm cho vua xem trước, sau đó bản chính sẽ trả lại phái đoàn, và nếu họ được vua tiếp, lúc đó sứ giả mới chính thức đưa thư lên triều kiến.

Vài ngày sau lệnh thư này của Công Đồng, Chaigneau nhận được lệnh thư của tướng Phạm Văn Nhơn, đệ nhất phụ chính, ngày 2/10/1803, như sau:

Khâm Sai, Chưởng Thần Võ Quân, Kiêm Giám Thần Sách Quân, Quận Công, Thị Trung Đô Thống Chế [tức Phạm Văn Nhơn]

Thông báo

Việc: Theo lệnh Hoàng Đế, chỉ thị cho Khâm Sai, Thuộc nội, Chưởng Cơ, Chính Quản Long Phi tàu, Thắng Đức Hầu [Chaigneau], kính cẩn tuân theo chỉ thị của Hoàng Đế, vì ân huệ đặc biệt, gửi 15 người lấy trong quân dưới quyền cai quản [của Chaigneau] và một cai đội và 40 người, hộ tống [Chaigneau] đi Đà Nẵng, để liên lạc với những người trên tàu Anh; dịch và viết lại lá thư do nước này gửi đến, mang lá thư dịch dâng lên Hoàng Đế…

Gia Long, năm thứ nhì… [2/10/1803], Thần Sách Túc trực Đô Thống Chế chi chương. (Les diplômes et ordres de service de Vannier et de Chaigneau, BAVH, 1922, II, t. 160).

Tóm lại, qua vụ này, chúng ta biết được tiến trình tiếp đón một tàu ngoại quốc đến xin tiếp kiến, theo quy luật của triều đình. Chaigneau và Vannier đưọc sai đi đón tàu Anh, nhưng Pháp và Anh là hai nước cừu địch, tất cả mọi khó khăn xẩy ra từ đó; phiá Pháp muốn tìm mọi cách ngăn ngừa Anh giao thương với Việt Nam, và phía Anh cũng muốn dùng mọi cách ngăn Pháp vào Việt Nam.

Vì những khó khăn đó, nên tàu Anh kiên trì đợi vua từ Thăng Long về, để sứ giả xin gặp trực tiếp. Ngày 19/ 3/1804, vua về đến Huế, nhưng công việc giao tiếp vẫn không tiến triển, vì bất đồng ngôn ngữ và vì quan điểm hai bên khác nhau: vua không chấp thuận nhượng bất cứ mảnh đất nào cho nước ngoài để mở thương điếm, có thể còn thêm ác cảm từ vụ tàu Anh bắt tàu Armide của vua và Anh bán khí giới cho Tây Sơn. Roberts ở lại Việt Nam đến ngày 14/8/1804, đệ thư nhiều lần, nhưng không đạt kết quả, nên khi đi, đã gửi lại lá thư lời lẽ hết sức xúc phạm. Chúng tôi sẽ dịch lá thư của Roberts và trở lại vần đề này trong chương Các sứ bộ Anh và Pháp đến Việt Nam thời Gia Long và Minh Mạng.

Vannier và Chaigneau bị giảm số quân trong thời bình

và các tàu Long Phi và Phượng Phi không còn hoạt động

Theo tài liệu của Salles, do Cadières biên soạn, in trong Les diplômes et ordres de service de Vannier et de Chaigneau (BAVH, 1922, II), thì văn bằng Chưởng Cơ của Chaigneau ngày 19/12/1802 (t. 150-151), cùng một mẫu với văn bằng Chưởng cơ của Vannier ngày 6/12/1802 (t. 147-148), chỉ khác ở điểm: “Vannier… quản tàu Phượng Phi, điều khiển đội Tiệp Thủy“. còn “Chaigneau… quản tàu Long Phi, điều khiển hai đội Kiên Thuỷ“.

Điều đáng chú ý là: mặc dù được thăng chức Chưởng Cơ, nhưng Vannier chỉ được cai quản một đội Tiệp Thủy, tức là vào khoảng 50 người. Chaigneau được cai quản hai đội Kiên Thuỷ tức là vào khoảng 100 người, trừ khi hai đội của Chaigneau chỉ bằng một đội của Vannier. Quân số này không phù hợp với điạ vị Chưởng cơ, trên nguyên tắc, coi khoảng 5, 6 trăm người. Ngay trong chiến tranh, khi Chaigneau và Vannier còn làm thuyền trưởng, các tàu đại hiệu đều chở 300 quân, tức là họ đã từng có 300 quân trong tay.

Vậy, có thể hiểu: Vannier và Chaigneau, sau chiến tranh, chỉ nhận chức Chưởng cơ “danh dự”, vua không để cho người ngoại quốc cầm quân?

Sự giảm thiểu này, còn tiếp tục nữa, chiếu theo lệnh Chaigneau nhận được ngày 15/1/1803:

“Công Đồng ra lệnh cho Chưởng Cơ Chánh quản Long Phi đồng tàu, phải thi hành: Chỉ giữ lại 50 quan, quân và phi tiêu, trong số cựu quân, để chăm sóc và bảo vệ tàu. Nếu cựu quân không đủ, thì thêm quân mới cho đủ số 50, còn lại bao nhiêu quân mới, cho về nghỉ. Tới ngày lĩnh lương, chỉ trình diện 50 người để lĩnh lương. Y lệnh.”

Gia Long, năm thứ nhất, tháng 12, ngày 22 [15/1/1803] Công Đồng Chi Ấn ((Les diplômes et ordres de service de Vannier et de Chaigneau, BAVH, 1922, II, t. 154).

Theo chỉ thị này của Công Đồng, thì Chaigneau chỉ còn được giữ 50 quân để coi tàu, chứ không phải để làm người hầu như Michel Đức viết trong Souvenir de Huế.

Hai năm sau, một chỉ thị nữa cho Chaigneau ngày 21/2/1805, ghi:

“Công Đồng chỉ thị cho quản Long Phi đồng tàu, Khâm sai, Thuộc nội, Chưởng cơ, Thắng Đức Hầu, một lệnh cần biết: Gửi gấp 35 quân của tàu Long Phi cho tàu Phượng Phi mượn, khi tàu [Phượng] tới Sài Gòn, sẽ cho quân này trở về xứ. Y lệnh”.

Gia Long năm thứ tư, tháng thứ 1, ngày 22 [21/2/1805] (Les diplômes et ordres de service de Vannier et de Chaigneau, BAVH, 1922, II, t. 161)

Theo lệnh này, Long Phi phải cho Phượng Phi “mượn” 35 lính trong số 50 lính, để lái Phượng Phi về Sài Gòn, sau đó Phượng Phi sẽ ở lại đây, và cho 35 người lính này “về xứ” tức là giải ngũ.

Tóm lại, đến 1805, cả Vannier lẫn Chaigneau đều không có tàu để làm thuyền trưởng nữa.

Có thể tất cả những sự giảm thiểu liên tiếp này đã khiến cho Chaigneau bất mãn.

Quyết định trở về Pháp

Ngay từ năm 1806, Chaigneau đã muốn bỏ đi, nhưng đã có vợ con, không biết đi đâu, đành ở lại Việt Nam, những lá thư năm 1807, 1808, 1812 gửi giáo sĩ Létondal, đều nói đến tâm sự này. Năm 1808, ông nhận được tin tức gia đình lần đầu, nhưng trong thư trả lời, ông không dám nói đến chuyện vợ con, có lẽ vì lấy vợ Việt. Mãi đến năm 1817, mới nói, khi đó vợ ông đã mất từ năm 1815, và ông vẫn lần lữa không trở về, viện lẽ có bổn phận với vua; đi thì vua sẽ buồn, vv… và thêm ăiều nữa, là ông rất gắn bó với giáo hội công giáo.

Tháng 9/1817, hai tàu Pháp La Paix và Henri, cập bến Đà Nẵng. Thuyền trưởng tàu Henri đề nghị chở ông và gia đình về Pháp không tốn tiền, nhưng ông vẫn không về, mặc dầu trong thư ông nói “ghê tởm cái xứ đang ở”.

Hai tàu này đi được 6 ngày thì chiến thuyền Cybèle đến Đà Nẵng ngày 30/12/1817, chính thức muốn nối lại giao thương với Việt Nam.

Vannier được gửi ra Tourane đón (Chaigneau đau chân không đi được). Họ gặp nhau thường xuyên để bàn tính mọi chuyện. Thuyền trưởng Kergariou tin tưởng có Vannier vận động, sẽ được vua tiếp. Nhưng phái đoàn Kergariou cũng thất bại, vua Gia Long không tiếp, vì lý do: phái đoàn không có thư của vua Pháp [Louis XVIII, 1815-1824]. Cybèle rời Đà Nẵng ngày 22/1/1818. Chúng tôi sẽ trở lại việc này trong chương Các sứ bộ Anh và Pháp đến Việt Nam thời Gia Long và Minh Mạng.

Vannier viết trong thư ngày 15/6/1819 cho Baroudel, quản thủ tu viện Macao: “Chaigneau và tôi kinh tởm cái nước Nam này, chúng tôi sẽ tìm mọi cách để đi thoát”. Trong thư gửi cho Baroudel ngày 3/6/1819, Chaigneau kể vua Gia Long già yếu rồi, sẽ có nhiều thay đổi trong triều. Cùng dịp ấy, tàu La Rose đến Đà Nẵng (trước ngày 17/6/1819) và tàu Henri cũng trở lại Đà Nẵng ngày 10/7/1819. Một trong hai tàu này đã mang bản sao lá thư ngày 17/9/1817 của quận công de Richelieu, thủ tướng Pháp, viết cho Chaigneau, yêu cầu ông làm phúc trình về tình hình nước Nam, cùng với công văn ngày 26/8/1818: trao tặng Chaigneau và Vannier, Ngũ đẳng Bắc đẩu Bội tinh (Chevalier de la Légion d’honneur).

Theo Michel Đức, thì chính lệnh làm phúc trình cho chính phủ Pháp về tình hình Việt Nam đã thúc đẩy Chaigneau quyết định về Pháp. Rey, thuyền trưởng tàu Henri, vẫn giữ đề nghị chở cả gia đình ông về Pháp không tồn tiền.

Những yếu tố này, kèm thêm vấn đề thừa hưởng gia tài của cha, đã giúp ông quyết định trở về Pháp. Vườn nhà của ông ở Dương Xuân bán cho công chúa Bảo Thuận, con gái thứ năm của vua Gia Long, nhưng không rõ nhà bán cho ai. (Cadière, La maison de Chaigneau, BAVH, 1917, II, t. 128-129), và ngày 21/10/1819, Giám mục Véren [Labartette] làm giấy chứng thực khai sinh cho các con ông. Chaigneau xin phép vua Gia Long về nghỉ 3 năm ở Pháp, được vua chấp thuận.

Ngày 13/11/1819, Chaigneau cùng gia đình lên tàu Henri, gồm 5 con với bà Hồ Thị Huề, là Michel Đức, Joseph Nhàn, Pierre Địu, Francois-Xavier Ngãi, Anne Trinh, cùng hai con với với vợ sau Hélène Barisy là Louis Thương và Henri Quang (mất trên chuyến đi). Ngày 14/4/1820, tàu đến Bordeaux.

Chaigneau hy vọng được thừa hưởng gia tài của cha (giàu vì làm đại tá hải quân cho Công Ty Pháp Ấn) nhưng gia tài này phải chia cho sáu con, và qua các biến động ở Pháp, không còn lại gì.

 

 

Phần 2: Chaigneau dưới thời Minh Mạng

 

Từ 1807 trở đi, giọng Chaigneau viết về Gia Long trong thư rất khác nhau: Đối với các giáo sĩ quản thủ tu viện Macao, Chaigneau mô tả Gia Long là vị vua tàn ác, sách nhiễu dân chúng, triều đình sắp đổ… Thư gửi cho M. Létondal, ngày 6/6/1807, có những câu:

“Chắc cha Bissachère đã kể chi tiết cho cha nghe tình trạng hiện nay ở Nam và Bắc Hà. Dân chúng đói khổ cùng cực. Vua, quan sách nhiễu dân chúng một cách đáng phẫn uất. Công lý là tiền bạc: người giàu tha hồ bóc lột người nghèo mà không bị trừng trị vì họ có tiền trong tay…” (Cadière, Doc. Rel. t. 59).

Thư ngày 12/5/1808, gửi M. Létondal một năm sau, có những câu:

“Về tôn giáo, con nghĩ dưới thời vua này thì các giáo sĩ và giáo dân còn được tạm yên, mặc dù cả vua lẫn quan đều không ưa đạo; bọn đàn bà thì tất cả đều ghét đạo, họ còn làm hại đạo hơn các quan. Con nghĩ triều đình này không được lâu đâu. Đã có nhiều nơi nổi loạn rồi, nhất là ở Bắc… Nhà vua đè nén dân chúng bằng khổ dịch và lao công, không cho ăn, không trả lương, mà lại còn bắt phải trả đủ thứ thuế, không tha cho ai hết. Các quan hà sách và cướp bóc tha hồ… Triều đình này đang khủng hoảng, sẽ đổ…” (Cadière, Doc. Rel. t. 60).

Nhưng khi viết thư cho gia đình, giọng Chaigneau lại khác hẳn. Sau nhiều năm không liên lạc, khi nhận được thư của người anh cả, Alexandre-Jean, báo tin về việc chia gia tài ở Pháp và cần giấy ủy quyền, Chaigneau, trong thư viết uỷ quyền cho anh ngày 27/3/1809, kể về Gia Long như sau:

“Em rất muốn về hôn anh chị và sắp xếp việc gia đình, nhưng em đã đầu quân giúp vua Nam Hà, mặc dù ông cho phép em ra đi, nhưng thấy ông rất buồn và nói rằng: đã theo ông trong lúc khốn khó, lại bỏ ông khi đã hưng thịnh, điều đó làm ông đau lòng. Bởi tất cả tình bạn ông dành cho em và cách ông đối xử với em trong mọi trường hợp, em nghĩ rằng bỏ ông về Pháp bây giờ là vô ơn. Khi em đến nước này giúp ông, ông mới chỉ sở hữu một vùng đất nhỏ tàn tạ, quân ngụy chiếm hết cả nước và đã giết hết tổ tiên của ông. Hiện nay, ông đã làm chủ tất cả Nam Hà, Bắc Hà và một phần Cao Mên…” (Salles, t. 157-158).

Những điều trên đây có hơi quá đáng, khi Chaigneau đầu quân, khoảng 1797, NguyễnVương đã làm chủ toàn bộ miền Nam từ 1788. Nhưng lời thư này, cho thấy, đối với gia đình, năm 1809, Chaigneau bảo: sở dĩ chưa về Pháp vì lòng trung đối với vua. Còn đối với giáo hội, ông trình bầy vua là một kẻ “hôn quân, vô đạo”. Vậy đâu là sự thực?

Tám năm sau, trong thư gửi người anh cả ngày 1/10/1817, Chaigneau cho biết:

- Ông không nhận được tin gia đình, sau thư “uỷ quyền”, mãi tới 12/9/1815 mới có thư trả lời.

- Thuyền trưởng tàu Henry sẵn sàng chở cả gia đình ông về Pháp không tốn tiền.

- Về người vợ kế Hélène Barisy và ngỏ ý về Pháp chơi thăm gia đình với vài đứa con lớn, định để vợ con ở lại, nếu vợ là người Việt, nhưng Hélène là người Pháp [lai], không nơi nương tựa nên xin cho cả gia đình về Pháp (Salles, t. 160).

Trong thư ngày 3/6/1819 gửi quản thủ Baroudel, Chaigneau lại nói giọng khác hẳn:

“… Không thể có tàu Âu châu nào đến nước này, ở đây, mỗi ngày vẫn là những sách nhiễu đến cùng… Con không chịu đựng được nữa và con nóng lòng đợi vài tàu Pháp đến đây để thừa dịp về lại tổ quốc. Nhà vua yếu lắm rồi, không chắc có qua khỏi… sẽ có thay đổi trong chính phủ…” (Cadière, Doc. Rel. t. 62).

Câu “Không thể có tàu Âu Châu nào đến nước này” hoàn toàn sai, vì vẫn có các tàu buôn ngoại quốc đến Đà Nẵng; chỉ khi nào họ muốn xin triều kiến hoặc đòi hỏi những điều kiện “thông thương” không thể chấp nhận được, vua mới không tiếp (xin xem chương sau).

Lá thư của Vannier gửi M. Baroudel ngày 15/6/1819, cũng cùng một giọng như thế, đối với Vannier, sự “ghê tởm” nước Việt, bắt nguồn từ việc vua không tiếp Kergariou, thuyền trưởng tàu Cybèle của Pháp:

“… Dĩ nhiên là con đã hết lòng vận động để cho ông ấy [Kergariou] được yết kiến vua. Nhưng những âm mưu ở trong triều và sự ngờ vực của thái tử đã khiến việc không thành, họ thoái thác vì luật trong xứ, mà Ông này không mang theo thư của vua Pháp gửi vua nước Nam, cũng không có cả thư của Thượng thư Pháp gửi Thượng thư nước Nam, nên không biết tiếp thế nào, v.v. Một ông vua, đã nhờ vào người Âu, nhất là người Pháp, mới lấy lại được xứ sở mà xử sự như vậy, thực là vô ơn! Con thú thật với cha rằng, từ lúc ấy, ông Chaigneau và con ghê tởm cái nước Nam, và chúng con sẽ tìm cách đi thoát, trở về tổ quốc thân yêu của ta. Hơn nữa thái tử đã bắt đầu nói đến việc đàn áp đạo thánh của ta… Sau đó, ông còn truyền đến tai con, cho biết rằng, chỉ vì nể hai chúng con, mà chưa thi hành đó thôi; nhưng sẽ làm; phải làm. Nếu chúng con có công với triều đình, thì sẽ thưởng và cho phép ra đi, điều này, ở nước Nam, có nghiã là đuổi khéo. Sau những lời này, thưa cha, nếu nhà vua qua đời, chúng con rất khó ở lại Nam Hà. Không phải là về mặt chính trị chúng con có gì để than phiền thái tử, bởi vì ông đối xử với chúng con luôn luôn rất tử tế và tỏ ý nể trọng trước mặt tất cả các quan…” (Cadière, Doc. Rel. t. 63).

Những lá thư này cho thấy, Chaigneau và Vannier bị phân chia giữa hai lựa chọn: ở lại Việt Nam hưởng lộc của một viên quan võ hàng tam phẩm (chưởng cơ), hay trở về Pháp, với đàn con đông, chưa biết làm nghề gì sinh sống. Họ đã chọn ở lại Việt Nam. Khi tàu Cybèle đến Đà Nẵng, họ tưởng có thể vận động vua tiếp thuyền trưởng Kergariou, làm một việc hữu ích cho tổ quốc của họ, nhưng không thành, đó là một trong những lý do khiến họ bắt đầu chán ghét vua Gia Long.

Còn Salles thì đưa ra lập luận: Chaigneau thấy triều đình Gia Long “thối nát”, đã “can đảm” làm một thứ “Đại Sư” (Grand Maître) đứng ra can gián vua, nên bị đình thần ganh ghét. Lập luận này khó đứng vững, bởi vì nếu Salles đọc kỹ những chỉ thị sai phái Chaigneau và Vannier do chính ông sưu tầm, thì sẽ thấy vị trí của hai người này trong triều: họ chỉ là quan võ hàng tam phẩm, có danh mà không có quyền, không có quân đội, không có tàu để cai quản, không phải là “đại thần” có quyền sinh sát trong triều, có thể can vua, mà bị ganh ghét. Những “Grand Maître” trong triều lúc đó phải là Đặng Đức Siêu, Trịnh Hoài Đức… chưa kể Minh Mạng đã thay cha cầm quyền. Việc Kergariou nhờ Chaigneau và Vannier vận động xin vào yết kiến vua mà không được, lại càng chứng tỏ họ không có quyền hành gì cả. Vua Gia Long vẫn giữ vững chính sách ngoại giao từ 1790: không cho bất cứ nước Âu châu nào, kể cả nước Pháp, được có đặc quyền hơn các nước khác ở Á Châu; trong việc buôn bán, và không cấp cho họ bất cứ mảnh đất nào để xây thương điếm vì ông đã quá rõ tình hình Ấn Độ và Trung Quốc.

Chaigneau về Pháp lần thứ nhất

 

Không xin được yết kiến vua, Kergariou và tàu Cybèle rời Đà Nẵng ngày 22/1/1818.

Dù bực bội về chuyện vua không tiếp sứ giả Kergariou, tuy vậy gần 2 năm sau vụ tàu Cybèle rời Việt Nam, Chaigneau mới quyết định về Pháp.

Ngày 15/6/1819 Vannier viết thư cho Baroudel, có câu: “Chaigneau và con kinh tởm cái nước Nam này, chúng con sẽ tìm mọi cách để đi thoát”. Nhưng ông cũng vẫn ở lại. Và khi Chaigneau đi được một năm, trong thư viết cho Baroudel ngày 13/7/1820, Vannier kể tại sao chưa về cùng:

“… Ông Chaigneau đã đi năm ngoái, được vua cho phép về Pháp nghỉ 2 năm. Ông ta về với cả gia đình, con chắc ông ấy không trở lại nữa. Chỉ còn một mình con trong số những người Pháp giúp nhà vua lấy lại ngai vàng. Chưa kể, nếu con có thì giờ đòi được hết tiền nợ ở Nam Hà và Bắc Hà, thì con cũng đã đi với gia đình rồi, nhưng thôi để năm sau vậy, [vì con] đã lấy 80.000 francs tiền lời, trong vụ [mua] vũ khí, được chở trên một con tàu 800 tô-nô, tàu này sẽ khởi hành từ Bordeaux tháng giêng sắp tới và sẽ đến đây vào khoảng tháng 5, nếu không có trở ngại vì chiến tranh với Anh.

Hoàng đế nước Nam đã từ trần vì bệnh ngày 2/2/ vừa qua. Ngày 27/5 đã chôn với đại lễ. May mà cái chết của ông không gây cuộc loạn nào. Nếu người nối nghiệp cứ cư xử như thế này thì sẽ được quần thần tin tưởng kể cả những người không theo ông khi vua còn sống. Từ khi lên ngôi, ông chưa nói gì, chưa làm gì, về đạo của ta… Còn về phiá con, riêng con, con chẳng có gì phải than phiền ông cả, ông vẫn luôn luôn niềm nở và nói chuyện thân mật với con…” (Cadière, Doc. Rel., t. 63-64).

Như vậy, lý do khiến Vannier chưa về, là vì sự buôn bán vũ khí đang dang dở, không thể bỏ đi ngay được. Ở lại Việt Nam, không những được hưởng lộc quan võ hàng tam phẩm mà không phải làm gì, trừ thỉnh thoảng đón khách ngoại quốc; thời gian còn lại làm việc buôn bán vũ khí để làm giàu, còn gì lợi hơn?

Chaigneau về Pháp, có thể vì hai lý do: Thứ nhất, nhận phần gia tài của cha. Và thứ hai, vì ông đã thấy một con đường công danh tại Pháp. Xin giải thích:

Chính quyền Louis XVIII (1814-1824), muốn trở lại Viễn đông, vùng đã bị bỏ quên trong nhiều thập niên, vì nội tình chính trị ở Pháp, mới nghĩ đến hai người Pháp đang làm quan dưới triều Gia Long, cho rằng họ có thể làm trung gian cho Pháp trở lại Việt Nam. Vì thế, quận công de Richelieu, thủ tướng Pháp, viết thư ngày 17/9/1817 cho Chaigneau, yêu cầu ông làm bản phúc trình về tình hình Việt Nam, và ngày 26/8/1818, ra văn kiện trao tặng Chaigneau và Vannier, Ngũ đẳng Bắc đẩu Bội tinh (Chevalier de la Légion d’honneur). Lá thư và huân chương đã đến Việt Nam rất chậm, Chaigneau và Vannier chỉ nhận được khi hai tàu La Rose đến Đà Nẵng (trước ngày 17/6/1819) và Henri trở lại Đà Nẵng ngày10/7/1819.

Vì tin tưởng vào sự trong đãi của chính phủ Pháp qua hai giá trị “thực tiễn” này mà Chaigneau quyết định về nước. Ngày 13/11/1819, gia đình ông lên tàu Henri, ngày 14/4/1820, tàu đến Bordeaux.

Về tới Bordeaux, việc khẩn cấp là phải viết ngay bản phúc trình về tình hình Việt Nam. Đáng lý việc này phải làm trong 6 tháng ở trên tàu, nhưng Chaigneau không quen chữ nghiã, ông định sẽ lên Paris phúc trình miệng. Nhưng Bộ ngoại giao đang chờ những thông tin của Chaigneau, vì thế, ông Tỉnh trưởng Gironde phải phái hai người thư ký “thông minh” đến nghe Chaigneau đọc rồi viết lại, tại chỗ, với sự cộng tác của ông tham vấn trong toà tỉnh trưởng để hệ thống hoá bản phúc trình (Salles, t. 255-256).

Bản phúc trình của Chaigneau

Bản phúc trình được Salles sưu tầm, chú giải, in dưới tựa đề: Le mémoire sur la Cochinchine de Jean-Baptiste Chaigneau (Hồi ức của Chaigneau về nước Nam), BAVH, 1923, II, t. 257-283- nói về nhiều vấn đề: Điạ lý, chính trị ba miền. Dân số và khí hậu. Chính thể. Hệ thống quan lại, hành chánh: xã, tổng, huyện. Tổ chức quân đội. Tình hình tiền tệ. Thuế khoá. Pháp lý. Dân cư. Phong tục. Tôn giáo. Chăn nuôi. Gia súc. Thương mại. Sản phẩm xuất cảng và nhập cảng. Chiều kích các tàu vào cửa Đà Nẵng và Sài Gòn và giá thuế tương ứng ở mỗi cửa biển. Những sản phẩm cấm xuất cảng. Tình trạng kỹ nghệ.

Salles cho biết ông tìm thấy bản phúc trình này trong Văn Khố Ngoại giao (Asie, Mémoires et Documents. Indes Orientales, Chine, Cochinchine, tập 21, t. 228-254), là một bản sao, không có chữ ký, không đề ngày tháng và tên tác giả (Le mémoire sur la Cochinchine de Jean-Baptiste Chaigneau (Hồi ức của Chaigneau về nước Nam), BAVH, 1923, II, t. 253).

Qua nội dung, ta thấy đây không thể hoàn toàn là “tác phẩm” của Chaigneau, mà chỉ là một bản văn ghi một số điều Chaigneau biết và kể lại, thí dụ như về binh bị, về sản phẩm xuất nhập cảng, v.v. phần còn lại dường như là sao chép những thống kê đã thấy ở các tài liệu khác (ví dụ sách của Montyon, Barrow, v.v.). Duy trong phần Nhận xét tổng quát (Réflexions générales) (BAVH, 1923, II, t. 278- 283), Chaigneau đưa ra hai lời khuyên đáng chú ý:

- Việc buôn bán với Việt Nam cũng có những trở ngại: tuy giá thành mua ở đây rất rẻ, nhưng điều kiện chuyên chở quá xa. Người dân ở đây không quen dùng sản phẩm của người Âu quá đắt và không tiện dụng đối với họ. Ví dụ họ rất thích gương, nhưng một cái gương tốt quá đắt, chỉ có người giàu mới mua nổi, v.v.

- Chính phủ Pháp nên chiếu cố đến Việt nam, vì nhiều mối lợi: khi đánh nhau với Anh có chỗ dựa hậu cần và là cửa ngõ vào nước Tàu. Nếu Pháp không chú ý đến việc này thì những nước cừu địch [Anh, Hoà Lan, Tây Ban Nha] sẽ làm. (BAVH, 1923, II, t. 280).

Chaigneau nhận chức mới và trở lại Việt Nam

Đến Bordeaux, Chaigneau đưa gia đình về nhà chị/em, bà de Rosières ở Albi (gần Toulouse), rồi một mình ông đi Paris vào khoảng 10 hay 12/5/1820. Ông đến Paris cuối tháng 5 và ở tới 5/8/1820, được yết kiến vua Louis XVIII, nhận huân chương Saint-Louis.

Sau vinh dự ấy, Chaigneau không có cách gì sinh sống ở Pháp, di sản của cha chỉ là chiếc lâu đài đổ đổ nát ở nhà quê, vì thế, ông đã nhận ngay nhiệm vụ quay trở lại nước Nam.

Chaigneau trở lại nước Nam, với một bản chỉ thị định rõ các chức vụ cao cấp của ông: Đại lý nước Pháp (Agent de France) tại triều đình Huế, Lãnh sự Pháp (Consul de France) đối với kiều dân Pháp ở Việt Nam, và Khâm sai (Commissaire du Roi) để thay vua Pháp ký các thỏa ước với VN; lĩnh lương 12.000 francs một năm. Sẽ có người cháu Eugène Chaigneau, 22 tuổi, làm thư ký riêng cho ông (Michel Đức con trai ông không đủ khả năng tiếng Pháp để làm việc này), lương 1.500 francs một năm. Nghi định được vua Louis XVIII ký ngày 12/10/1820.

Chaigneau đi cùng vợ con (thêm bé gái Marie mới sanh) -trừ Pierre Địu và François Xavier Ngãi, được học bổng ở lại Pháp- Tất cả lên tàu La Rose rời Bordeaux ngày 1/12/1820, cùng các giáo sĩ Olivier, Gélan, Taberd và Gagelin.

Chaigneau đến Huế ngày 17/5/1821, vua Gia Long mất đã hơn một năm (ngày 3/2/1820, vì bệnh thuỷ thũng (hydropique, thư Labartette ngày 10/6/1820, Launay, III, t. 436). Ông có vẻ xúc động về cái chết của vua, trong thư viết cho anh ngày 19/10/1821, có câu: “Tôi thương tiếc ông [Gia Long], thương tiếc ông rất lâu, vì đó là một người chính trực”.

Ngày 16/7/1821, Chaigneau mua ngôi nhà ở Chợ Được; sau bán lại cho Minh Đức Hầu, chồng công chúa Bảo Thuận (người đã mua vườn nhà cũ ở Dương Xuân của ông năm 1819) ngày 25/10/1824, (Cadière et Cosserat, La maison de JB Chaigneau, Consul de France à Huế, BAVH, 1922, tập1, t. 1, t. 9 và t. 23), trước khi gia đình ông ra Đà Nẵng để về Pháp vĩnh viễn, năm 1824.

Ngay hôm sau khi đến Huế, ngày 18/5/1821, Chaigneau đã đệ trình lên vua Minh Mạng thư của vua Louis XVIII, ủy nhiệm ông trong chức vụ: Đại Lý (Agent) của Pháp, cùng nhiều quà cáp, gồm: một đồng hồ mạ vàng, 2 đế bạch lạp mạ vàng, 2 bình đồng mạ vàng, 16 bức khắc những trận đánh lớn, 1 khẩu súng pít-ton, 2 khẩu súng lục, một cái gương lớn (Taboulet, I, note 2, t. 310).

Thư vua Louis XVIII gửi vua Minh Mạng

Sau đây là thư Louis XVIII gửi Minh Mạng, viết ngày 12/10/1820, giới thiệu Chaigneau là Đại Lý (Agent) của nhà vua:

“Quốc vương tối cao, tối thượng, vạn năng, đại độ, rất thân ái…

Quả nhân cảm thấy hết sức thoả mãn khi biết tin ngài đã đón tiếp tử tế những người Pháp đến đây buôn bán. Lối xử sự của ngài đối với họ chứng tỏ ngài vẫn giữ những kỷ niệm cũ về tình bạn giữa vua Pháp và vua Nam Hà. Về phiá quả nhân cũng vậy… Trong chiều hướng đó, quả nhân uỷ nhiệm, bên ngài, với tư cách Đại Lý (Agent), thân J.B.Chaigneau, sĩ quan thủy quân của quả nhân và là quan Nam Hà. Lý do duy nhất đã hướng dẫn quả nhân trong sự lựa chọn này vì y đã được ngài biết đến và đã biết cách dung hoà sự quý mến và tin cẩn của ngài. Quả nhân không nghĩ là ngài sẽ nghe hết những thỉnh nguyện và những giãi bầy mà y đưa ra trong trường hợp y đại diện cho thần dân của quả nhân để xin ngài một đặc ân liên quan đến việc thương mại hoặc bất cứ việc gì khác, và quả nhân tin rằng chắc chắn họ sẽ luôn luôn được hưởng sự công bằng và nhân hậu của ngài.

Quả nhân vội vàng nằm lấy cơ hội này để tỏ tình bạn chân thành với ngài…

Viết tại điện Tuileries, ngày 21/10/1820

Bạn thân mến của ngài,

Louis”

(Dịch theo bản Louvet, II, t. 502-503).

Theo Cadière, thư này được Vannier và Chaigneau dịch sang chữ Nôm, còn giữ trong hồi ký của Nguyễn Đức Xuyên (Cadière, Les français au service de Gia Long, BAVH, 1920, I, t. 144). Salles bình phẩm rằng: Vua Minh Mạng “không biết cư xử”, ngay hôm đầu đã “sỉ nhục” Chaigneau, bằng cách mượn một người Việt “không có trình độ” đến dịch thư của vua Pháp, chứng tỏ vua bị ảnh hưởng của bọn triều thần “nham hiểm” (Salles, J.B. Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I, t. 86).

Taboulet viết một câu hỗn xược: “Vì không có thông ngôn người Nam Hà, lá thư của Louis XVIII, được Chaigneau và Vannier dịch. Minh Mạng lấy cái thú quỷ quyệt (se fit un malin plaisir) viết thư trả lời vua Pháp bằng tiếng Việt [chữ Nôm]” (Taboulet, I, note 3, t. 310).

Qua nhưng điều trên đây, chúng ta thấy cách xử sự của vua Minh Mạng:

Biết rõ khả năng học vấn của Vannier và Chaigneau, nên ông phải dùng một dịch giả chuyên môn, người Việt. Việc Minh Mạng viết thư trả lời bằng quốc âm, nếu có thật, là một sự khai phóng: vua không dùng chữ Hán, là chữ chính thức, mà dùng chữ Việt! Chúng ta đã biết một sự lạ: thời ấy bệnh đậu mùa mỗi năm giết hại nhiều người, Minh Mạng sai Despiau đi Macao mua thuốc chủng đậu cho dân (thư Vannier ngày 13/7/1820, Doc. Rel. t. 63) và việc chủng đậu đã thành công (thư Labartette ngày 13/6/1821, Doc.Rel, t. 65). Sự vua viết thư trả lời vua Pháp bằng chữ Nôm là sự lạ thứ nhì của Minh Mạng.

Điều đáng chú ý ở đây, là, Louis XVIII chỉ uỷ thác Chaigneau trước Minh Mạng như một Đại Lý (Agent) của nước Pháp mà thôi; nhưng trong nội bộ Pháp, Chaigneau còn có hai chức nữa là Lãnh Sự (Consul) và Khâm sai (Commissaire du Roi), những điều này được quy định trong Bản chỉ thị (Les instructions de Chaigneau) riêng, ra tháng 10/1820 (Octobre, 1820).

Chỉ thị cho Chaigneau

 

Sau đây là câu đầu bản chỉ thị:

“Ông Chaigneau được chứng nhận làm Đại Lý của nước Pháp bên cạnh Quốc vương nước Nam, bằng thư uỷ quyền của vua [Louis XVIII] gửi quốc vương nước này [vua Gia Long]. Ngoài ra, ông ta còn được phong chức và quyền Lãnh sự đối với kiều dân Pháp ở nước Nam. Sau cùng, ông ta nhận tước vị và đặc quyền Khâm sai của vua để ký kết một thoả ước thương mại giữa nước Pháp và nước Nam.

Bản chỉ thị này, dùng để hướng dẫn cách xử lý của ông Chaigneau dưới những quan hệ khác nhau:

1- Chức Đại lý của nước Pháp là chức duy nhất mà Chaigneau phải dùng đối với chính phủ nước Nam…

2- Chức Lãnh sự… dùng để làm những thủ tục hành chánh và pháp lý cho kiều dân Pháp…

3- Bản thoả ước mà Ông Chaigneau điều đình, với tư cách là Khâm sai của vua…

Tóm lại, theo Chỉ thị, đối với triều đình Huế: Chaigneau là Đại lý (Agent); đối với kiều dân Pháp tại Việt Nam: Chaigneau là Lãnh Sự (Consul); và Chaigneau là Khâm sai (Commissaire du Roi) để thay vua Pháp ký các hiệp ước với VN.

Trong ba chức này, chỉ có chức Agent là chính thức, được Louis XVIII giới thiệu với Minh Mạng qua uỷ nhiệm thư. Và Chỉ thị cũng yêu cầu Chaigneau, chỉ được xưng một chức ấy ra với vua Minh Mạng, tức là gián tiếp bảo phải giấu hai chức Lãnh sự và Khâm sai đi.

Vậy chính phủ Việt Nam không biết đến các chức Lãnh Sự và Khâm Sai mà Pháp đơn phương cấp cho Chaigneau. Đó là một mánh lới của chính phủ Pháp, vì biết rằng nếu Chaigneau nói ra thì sẽ bị Minh Mạng gạt ngay; và điều đó cũng giải thích những khó khăn của Chaigneau sau này.

Ngoài những điều quy định quyền hạn, nhiệm vụ của ba chức Đại lý, Lãnh Sự và Khâm Sai, bản Chỉ thị còn ghi những khoản bắt buộc Chaigneau phải làm:

Bổn phận phải ký một thoả ước đòi bảo đảm an ninh và bảo quản tài sản của người Pháp, để người Pháp sống trong điều kiện của một người chính quốc: được tự do đi lại, buôn bán ở Việt Nam với giấy thông hành, không phải đóng thuế nhập khẩu; nhưng Pháp kiều sẽ ở dưới quyền quản lý pháp luật của viên Consul chứ không phải của triều đình Huế. Và không có điều khoản gì trao đổi lại, về phiá Pháp.

Ngoài ra còn có một đoạn nữa, cũng rất đáng chú ý:

“Ông Chaigneau sẽ phải thu lượm và ghi lại trong bản báo cáo hàng ngày, để mỗi khi có dịp, gửi bản sao về Bộ [Ngoại giao] tất cả mọi thông tin có thể có được về những biến cố xẩy ra, không chỉ ở nước Nam, mà còn ở Trung Hoa, Phi Luật Tân và các thuộc địa Anh, Hoà Lan, đặc biệt các đảo Sumatra và Java, mà hình như đang có sự tranh chấp dữ dội giữa hai phe cầm quyền ở đây. Ông Chaigneau phải chỉ ra và chuyển về Bộ, những báo cáo đặc biệt những phần khác nhau của thống kê nước Nam, về luật pháp, cai trị, kỹ nghệ, nghệ thuật, phong tục, lực lượng quân sự trên bộ cũng như trên biển, v.v.”

(Les instructions de Chaigneau, Arch. Aff. Etrang, Consulat de Hué et de Tourane, fol.13-17, in lại trong A. Cordier, Le Consulat de France à Hué, p. 257-264, in lại trong Taboulet, I, t. 306-307).

Tóm lại, chức vụ duy nhất của Chaigneau được chính phủ Pháp giao phó bên cạnh Minh Mạng là Agent của nước Pháp. Chữ Agent này có thể dịch là Đại Lý hay Đại Điện, nhưng còn có một ẩn nghiã là Gián điệp. Những điều ghi trong Chỉ thị mà chúng tôi vừa trích dịch trên đây, xác nhận vai trò điệp viên của Chaigneau bên cạnh vua Minh Mạng.

Andé Salles lờ hẳn bản Chỉ thị này, khi viết chân dung Chaigneau.

Phản ứng của vua Minh Mạng khi Chaigneau trở lại

Thực Lục, tháng 5/1821, chép việc Chaigneau về lại như sau:

“Thuộc nội chưởng cơ quản thuyền Phi Long là Nguyễn Văn Thắng từ Tây Dương đến, dâng cái hàn thử biểu. Vua nhân hỏi: “Ngươi lại muốn về sao?” Đáp: “Thần chịu ơn dầy của nước, không biết lấy gì báo đáp. Nay tuổi già, xin làm tôi trọn đời”.

Vua nói: “Người ta ở đời quý ở chỗ lập công danh mà thôi. Ngươi theo đòi Tiên đế, hưởng lộc mấy chục năm, tuy là người ngoại quốc, cũng đã là thần tử bản triều. Nếu quả thực có thể trọn tiết làm tôi, thì lưu danh nghìn đời trong sử sách, há chẳng hay sao! Nếu trở về nước Tây thì chẳng qua chỉ là một thường dân mà thôi”.

Có người Phú Lãng Sa dâng quốc thư và sản vật địa phương (gương to), cùng đến với Thắng, đậu thuyền ở Đà Nẵng. Đem dịch thư ra thì là xin thông thương. Vua giao đình thần bàn, rồi hạ lệnh cho ty Thương Bạc đưa thư trả lời nhận cho, và biếu nhiều phẩm vật (100 cân da voi, 30 cân da dê, 10 tấm da hổ, 100 tấn da trâu, 500 tấn da hươu, 200 tấm sa nam, 200 tấm the nam, 100 tấm lụa Cao Bộ, đường phèn, đường phổi mỗi thứ 1.000 cân, 10.000 cân đường cát, 2 cây ngà voi, 2 cỗ sừng tê), giao cho ngưòi ấy mang về nước. (Đệ nhị quyển, Quyển VII i)

Qua những lời trên đây của Thực Lục, ta thấy vua Minh Mạng không quan tâm đến việc Chaigneau ở Pháp về. Những lời trao đổi của nhà vua với Chaigneau có tính cách thân tình, vua tôi; và trong câu trả lời, Chaigneau cũng rất kính cẩn: “Thần chịu ơn dày của nước, không biết lấy gì báo đáp. Nay tuổi già, xin làm tôi trọn đời”. Chaigneau không nhắc đến các chức Lãnh sự, Khâm sai của mình, đã đành, mà dường như ông cũng không dám nói đến cả chức Đại lý của mình nữa. Bởi vì đoạn sau, có một câu rất đáng chú ý: “Có người Phú Lãng Sa dâng quốc thư… cùng đến với Thắng [Chaigneau], đậu thuyền ở Đà Nẵng”, như vậy rõ ràng Thực Lục không biết Chaigneau là “Đại lý của vua Pháp”, hoặc biết, qua thư của Pháp hoàng, nhưng cho là không đáng kể, cho nên mới ghi như vậy.

Ta có thể đoán chắc rằng, mặc dù đã nhận chức Đại lý của vua Pháp, Chaigneau vẫn không dám “sử dụng” chức mới của mình trước Minh Mạng, lại càng không dám “điều đình”, “thương lượng”, “đòi hỏi “, “ký kết”, hiệp ước gì cả, như chính phủ Pháp mong muốn. Vì Chaigneau biết trước là không thể “yêu cầu “ những điều như thế đối với Minh Mạng.

 

Sự thất bại của Chaigneau

 

Để đánh đổ lập luận của người Anh cho rằng Gia Long đã “trăn trối” cho con phải “đề phòng, đừng để mất một mảnh đất nào cho Pháp”, và Minh Mạng đã làm trái lời cha khi “xử tệ” với Chaigneau, André Salles đã dành nhiều trang (Salles, t. 83-87), để “chứng minh” mối thiện cảm của Gia Long với Pháp, dặn con phải “trung thành” với Pháp, qua những lời Vannier và Chaigneau kể lại:

Chaigneau, trong bản báo cáo ngày 19/10/1821 gửi Bộ Ngoại Giao, kể lại rằng: “Ông [Minh Mạng] đã rơi lệ khi nhìn thấy tôi, tôi nghĩ tình cảm đó phát xuất từ lời khuyên của cha ông”. Rồi Chaigneau “mô tả” cảnh Gia Long “khuyên” con, “trăn trối” cho con về việc phải đối xử tốt với ông và nước Pháp. Salles còn kể thêm những chuyện khác, rút từ thư Chaigneau gửi cho các giáo sĩ như việc Gia Long “dặn” Lê Văn Duyệt: “Nếu con ông làm gì sai trái, thì phải phản đối ngay”, v.v.

Tóm lại, những điều được người ta đưa vào miệng Gia Long và Lê Văn Duyệt thì nhiều lắm, nhưng thường không có cơ sở. Khi lên ngôi Minh Mạng đã 29 tuổi, dày kinh nghiệm nội trị và ngoại giao, tự quyết đoán mọi việc, chắc không cần phải ai dạy bảo.

Còn Chaigneau khi viết thư cho các giáo sĩ nói xấu Gia Long và Minh Mạng thì ông không ngần ngại điều gì, đó cũng là một khía cạnh của con người ông.

Điều Gia Long chính thức dặn dò Minh Mạng được ghi lại trong Thực Lục; chỉ là: “Đấy là cơ nghiệp gian nan của trẫm, nay giao cho con, con nên cẩn thận giữ gìn”, “Nay việc lớn của thiên hạ đã định rồi. Ta cũng sắp chết, không nói gì, chỉ có một việc là ngày sau phải cẩn thận, chớ nên gây hấn ngoài biên”. (TL, I, t. 1001).

Trở lại việc tìm hiểu sự thất bại của Chaigneau trong khi thi hành các chức vụ mới, Salles giải thích rằng: sự khó khăn của Chaigneau là do lỗi ở viên quan ty Thương Bạc, không biết phân biệt các chức vụ khác nhau của Chaigneau, và lại tham lam nghĩ rằng Chaigneau vừa làm Lãnh sự, vừa làm quan của triều đình Huế, thì ông ta sẽ mất nguồn lợi đến từ kiều dân Pháp và Âu châu, vì thế nên tìm hết cách đạp đổ (Salles, t. 85-86). Điều này thực là vu khống cho quan Thương Bạc: chính phủ Pháp đã dặn Chaigneau giấu các chức vụ Lãnh sự và Khâm sai, không nói với Minh Mạng, thì làm sao quan Thương Bạc lại biết mà ganh tỵ, đạp đổ?

Nhưng Diard, nhà thực vật học, đi cùng tàu với Chaigneau từ Batavia đến Đà Nẵng ngày 17/5/1821, ở lại Việt Nam 6 tháng, được phép của vua Minh Mạng cho đi khắp nơi nghiên cứu thực vật; đã viết cho Nam tước Cuivier, trong Tham chính viện (Conseil d’Etat), ba lá thư trình báo về chuyến đi Nam Hà. Những thư này có hai chỗ đáng chú ý:

Trong đoạn viết về Minh Mạng, Diard cho rằng nhà vua rất “kiêu kỳ”, muốn “hạ thấp người Pháp”, lấy cớ rằng tàu chở quà và thư Minh Mạng trả lời Louis XVIII, chỉ là tàu buôn, không xứng đáng đem thư của ông, nên ông đã không đích thân viết thư trả lời mà để cho quan Thượng Thư viết.

Trong đoạn viết về Chaigneau, lời lẽ của Diard khá gay gắt, ông buộc tội Chaigneau nhút nhát, rất sợ Minh Mạng, không dám ăn nói, hành động, lại quá nhu nhược, không dám nhân danh Khâm sai của vua Pháp để điều đình bất cứ điều gì, đến quà của vua Pháp cũng không dám đòi hỏi đại lễ để bệ kiến. (Peyssonnaux, Vie, Voyages et travaux de Médard Diard, BAVH, 1935, I, cả cuốn, t. 74-75).

Ý kiến của Diard về việc nhận thư không có đại lễ, chứng tỏ ông không biết rõ luật tắc của triều đình: việc Chaigneau vội vàng đem thư về cho vua đọc trước, để biết nội dung là việc phải làm, sau đó lá thư sẽ được tiếp đón một cách chính thức đúng theo nghi lễ.

Còn việc Diard trách Chaigneau nhút nhát, sợ Minh Mạng, không dám “điều đình”gì cả, thì quá đúng. Minh Mạng nghiêm khắc hơn vua cha, các quan rất sợ ông; ngoài ra, những điều ghi trong Thực Lục ở trên cũng phù hợp với lời Diard: Đối với Minh Mạng, Chaigneau chỉ là bầy tôi, thần phục. Diard trách Chaigneau không nhân danh chức Khâm sai, vì Diard không đọc bản Chỉ thị, đã cấm Chaigneau không được khoe chức Khâm sai, thì Chaigneau lấy tư cách gì mà “điều đình”? Nhất là những điều Pháp đòi hỏi, Chaigneau đã biết trước là Minh Mạng sẽ không chấp nhận. Vậy sự thất bại của Chaigneau đến từ những toan tính phức tạp của chính phủ Pháp.

Chúng ta còn có thể nhìn vấn đề dưới một góc cạnh khác:

Sự phân biệt ba chức Đại lý tại triều đình Huế, Lãnh sự Pháp đối với kiều dân, và Khâm sai để thay vua Pháp ký các thỏa ước với Việt Nam, của Chaigneau, cho thấy rõ mưu tính của chính phủ Pháp: đối với chính phủ Việt Nam, Pháp chỉ gửi một viên Agent sang, và như trên đã nói, chữ Agent này, ngoài nghiã Đại lý hay Đại diện, còn có nghiã là Gián điệp, và chính trong nghiã gián điệp này, mà Chaigneau có bổn phận phải làm phúc trình tất cả những gì xẩy ra, không những ở Việt Nam mà cả ở vùng Đông Nam Á nữa. Việc này, thứ nhất, vượt quá khả năng của ông, vì lúc ấy mọi phương tiện giao thông không dễ dàng, Chaigneau lại không phải là người tháo vát, và không thông thạo chữ nghiã; và thứ nhì, Minh Mạng cũng chẳng thiếu gì phương tiện để khám phá ra “sứ mệnh thần lén” đó. Còn chức “Lãnh sự bí mật”, dành cho kiều dân Pháp, có thể gọi là “lãnh sự chui”. Những điều này chứng tỏ: chính phủ Pháp không hề có ý định đặt quan hệ ngoại giao song phương với Việt Nam, tức là hai bên trao đổi Lãnh sự; mà chỉ đặt một Đại Lý để làm Gián điệp bên cạnh vua Minh Mạng.

 

Sử gia Pháp tôn vinh Chaigneau là Lãnh Sự Pháp đầu tiên ở triều đình Huế

Câu chuyện còn khôi hài hơn nữa là hầu hết các tác giả thuộc điạ, sau này, đều coi Chaigneau là Lãnh sự Pháp ở Việt Nam: từ Louvet, 1885 trở đi, đến Maybon, Salles, Cadière, Taboulet… kể cả Cadière, cứ đem cái chức “Lãnh sự chui” của Chaigneau ra để trưng ông là lãnh sự Pháp đầu tiên ở Việt Nam.

Trường hợp Cadière đáng chú ý hơn cả, bởi ông là học giả, thận trọng hơn những người khác, và có uy tín hơn người khác. Khi ông viết bài La maison de JB. Chaigneau, Consul de France à Huế (Nhà của Chaigneau, Lãnh sự Pháp tại Huế), ông đã làm những việc:

- Xác định một cách “chính thức”, trên tựa của bài viết: Chaigneau là Lãnh Sự Pháp.

- Xác định Chaigneau là lãnh sự Pháp đầu tiên ở Việt Nam.

- Xác định ngôi nhà của Chaigneau ở Chợ Được là “sứ quán” Pháp tại Huế.

Một việc làm như vậy, cần phải dựa trên một cơ sở vững vàng. Vậy cơ sở gì đã khiến cho tất cả các ngòi bút thuộc địa đều đồng nhất với nhau. Có hai trường hợp:

Hoặc là, họ không đọc kỹ hồ sơ (điều này khó tin).

Hoặc là, họ đọc mà cố tình xuyên tạc, bởi vì, đối với Minh Mạng, Chaigneau chỉ là Agent, chứ không hề là Consul.

Chức Consul, do phiá Pháp đặt ra và “bí mật” trao cho Chaigneau. Trong lịch sử bang giao quốc tế, chưa hề có một thứ Lãnh sự nào “lén lút”, theo hướng một chiều như thế cả. Nếu có Lãnh sự Pháp ở Huế thì cũng phải có Lãnh sự Việt ở Paris.

Chaigneau, vì không được vua Pháp giới thiệu là Lãnh sự với vua Minh Mạng và theo những gì mà chúng ta biết, thì Gia Long và Minh Mạng chưa hề chấp nhận một sự trao đổi ngoại giao chính thức thường trực nào với một nước Âu Châu. Chức Lãnh sự của Chaigneau, như vậy, chỉ là một ảo chức. Sứ mệnh của Chaigneau, như vậy, chỉ có thể là thất bại.

Việc các giáo sĩ vào lậu

Trong thư gửi giáo sĩ La Bissachère ngày 1/11/1823, (Cadière, document LXII, dẫn theo Salles, t.90), Chaigneau kể lại việc linh mục Thật (người Việt), thân tín của Chaigneau, đã làm lễ rửa tội cho các con ông, sau bội giáo, trở thành “con quỷ được phóng thích”, đã tố cáo Chaigneau làm những việc:

Đi cùng tàu La Rose với Chaigneau ở Pháp về năm 1821, có ba giáo sĩ: Olivier, Taberd và Gagelin [thực ra là bốn, nhưng một người mất ở dọc đường]. Ba, bốn ngày sau khi tàu cập bến Đà Nẵng, họ được đưa lậu lên bờ, “mặc đồ Việt, được giấu kỹ trong một thuyền nhỏ”, với sự trợ giúp của Chaigneau. Tháng 3/1822, tàu Cléopâtre lại bí mật đưa giáo sĩ Imbert lên bờ, Chaigneau tin rằng những việc này không ai biết, không ngờ linh mục Thật đã trình báo tất cả.

Trong thư ngày 30/10/1823, Chaigneau báo cho Bộ Ngoại Giao biết: Vì những nghi kỵ bao quanh khiến ông không thể tiếp tục làm đại diện cho nước Pháp được nữa, vả lại cũng sắp hết hạn 4 năm đã hứa, ông muốn trở về sống ở Pháp, để các con có một tương lai bảo đảm. Trong thư viết ngày 1/11/1823, cho La Bissachère, Chaigneau nói thêm: “Tôi hy vọng không phải ở thêm một năm nữa ở cái xứ thổ tả này (ce maudit pays). Không có cách nào chịu được, tôi muốn phát khùng.” (Salles, t. 91).

Lời đồn tam ban triều điển

Đầu tháng 10/1824, Chaigneau và Vannier xin nghỉ. Đơn được chấp thuận ngày 8/10. Ngày 11/10 vua cấp cho hai ông các bằng cấp khen thưởng và lên chức.

Ngày 25/10, bán nhà. Ngày 15/11 hai gia đình rời Huế, tuy chưa biết chắc có tàu ở Đà Nẵng đi Sài Gòn. Salles thuật lại những yếu tố này với câu hỏi: Tại sao vội vã thế? Rồi ông giải đáp: Vì “Vua nước Nam đã gửi cho Chaigneau một cái khay trên có một chiếc thuyền nhỏ và một dây lụa, có nghiã là ông phải đi, hoặc phải thắt cổ”.

“Thông tin” này, Salles rút ra từ bà Chaigneau (Hélène Barisy), nói với người anh em họ xa là ông Louis de Modille de Villeneuve, ông này nói lại với con trai là trợ giám mục Léonce de Modille de Villeneuve, và ông Léonce viết thư cho Salles ngày 3/1/1921, kể rằng: “Cha tôi, hồi ở Lorient có quen một bà cô tên Chaigneau [Hélène Barisy] có những thói tật lạ, trở thành đề tài hiếu kỳ, bà ta kể rằng vua An Nam đã gửi một cái khay…”.

Hai cha con Chaigneau và Michel Đức,” không nói đến chuyện “cái khay” này. Các giáo sĩ cũng không. Michel Đức chỉ nói đến sự “nóng ruột” muốn được ra đi sớm. Tuy nhiên Salles vẫn lợi dụng lời đồn thoát thai từ “bà cô” để bàn rộng về “tam ban triểu điển” (vua cho chọn ba thứ: lụa, gươm, và thuốc độc để tự xử) mà các vua Nguyễn thường dùng với đối thủ, theo lời đồn hoặc theo những thông tin không bảo đảm. Salles cho rằng, cớ “tam ban triều điển” là chính, khiến Chaigneau và Vannier đã “vội vàng rời Huế” và kết tội vua Minh Mạng “đối xử tàn tệ” với họ. Công trình nghiên cứu của Salles về Chaigneau, trong cuốn BAVH, 1923, I, cho tới đây, khá đúng đắn, rất tiếc, vì những phán đoán hồ đồ này, mà bị giảm giá trị.

Việc Chaigneau và Vannier xin về, được Thực Lục, tháng 10/1824, ghi như sau:

“Chưởng cơ Nguyễn Văn Chấn và Nguyễn Văn Thắng dâng sớ xin về nước. Vua bảo bầy tôi rằng: “Bọn Chấn là người Phú Lãng Sa, năm trước về với ta, có công đánh giặc, cho nên Đức Hoàng khảo Thế Tổ Cao Hoàng Đế [Gia Long] ta cho làm đến chức ấy, bổng lộc theo phẩm cấp, lại còn cho hậu thêm. Trẫm từ nối ngôi đến nay, đãi họ cũng không bạc, sao họ lại xin về?”. Sai đình thần hỏi, hai người đều nói rằng chịu ơn dầy của triều đình đã lâu, chỉ vì già yếu nên muốn quay đầu về núi mà thôi”. Vua cho rằng đi làm quan xa nhớ quê hương là thường tình của người ta, bèn cho về. Cho phẩm phục và 6.000 quan tiền”. (TL, II, t.373).

Chaigneau và Vannier đợi ở Đà Nẵng ba tuần mới có thuyền đi Đồng Nai, (từ 17/11/1824 đến 11/12/1824), đến Sài Gòn ngày 24/12/1824. Hai ông đã đi trước, không biết có hai tàu chiến Thétis và l’Espérance do Bougainville làm tư lệnh sẽ đến vịnh Đà Nẵng ngày 12/1/1825 và tàu Courrier de la Paix sẽ đến Đà Nẵng ngày 18/1/1825.

Chaigneau bị ốm nặng từ ngày 7/1/1825. Và trong tháng hai, hai con trai của ông, Joseph Nhàn và Louis Thương bị chết vì bệnh dịch tả. Ngày 4/4/1825, hai gia đình lên tàu Courrier de la Paix, về Pháp, đến Bordeaux ngày 6/9/1825.

Chaigneau về Lorient ở ngôi nhà cũ, đã mua ngày 12/7/1821. Gia đình Vannier cũng sống gần đấy. Ông lên Paris, thăm Hội Truyền Giáo Hải Ngoại và Bộ Ngoại Giao, nhưng Bộ Ngoại Giao tiếp đón lạnh nhạt, vẫn trách ông không hoàn thành nhiệm vụ. Năm 1826, ông được lương hưu 1.800 francs (một năm).

Tháng 10/1827, vua Minh Mạng gửi cho hai cựu thần một lá thư dài (viết ngày 24/12/1826) và gửi cho mỗi người một món quà gồm những bình men Huế và tơ lụa, khiến hai bà vợ hết sức vui mừng và công chúng Lorient thán phục. Nhưng Salles vẫn cho là một “thủ đoạn” của vua Minh Mạng, “giả bộ tử tế”, và vẫn bới chuyện trong thư không nói đến các chức tước khác mà chỉ đề gọn hai chữ Chưởng Cơ. (Salles, t. 101),

Năm 1830, chính phủ Pháp bãi lương hưu của ông. Hai năm sau, Chaigneau mất tại Lorient ngày 31/1/1832, ở tuổi 63.

Chương 23

các sứ bộ anh pháp đến việt nam

Vấn đề giao thương với người Âu bắt đầu từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh, thế kỷ XVII, ngoài Bắc, người Âu đã đến buôn bán ở Phố Hiến (Hưng Yên) và trong Nam, Hội An cũng là một hải cảng sầm uất. Các chúa Trịnh Nguyễn cho phép người Bồ, Hoà Lan… mở thương điếm tại Phố Hiến, Hội An, tương đối dễ dàng. Nhưng từ khi Gia Long thống nhất đất nước, Anh và Pháp nhiều lần đến xin “thông thương”, Gia Long và Minh Mạng đều dứt khoát từ chối, chúng ta cần tìm hiểu hiện tượng này.

Thời Võ Vương Nguyễn Phước Khoát (1738-1765), Pháp gửi Pierre Poivre đến Nam Hà xin thông thương và được chúa tiếp đãi tử tế, cho mở thương điếm:

“Năm 1748, bộ trưởng hải quân Maurepas và công ty Pháp Ấn, giao cho thương gia Pierre Poivre một nhiệm vụ chính trị và kinh tế ở Nam Hà và nước Nam.

Poivre xâm nhập cửa biển Đà Nẵng mà ông nhận diện được các lối vào, ông ngạc nhiên trước vẻ đẹp của vịnh này, có núi rừng bao quanh và ông thông báo có đông người Hoa ở Hội An, gần như độc quyền buôn bán.

Poivre được chúa Võ Vương tiếp và đạt được một thoả thuận cho phép người Pháp đến buôn bán trong xứ và tự do mở một thương điếm ở Hội An. Nhưng công ty Pháp-Ấn lụn bại và đóng cửa khiến giao ước của Poivre không thực hiện được” (Joinville, La Mission de la Cybèle en Extrême-Orient (1817-1818), Introduction, t. IX).

Đấy là lần cuối cùng chúa Nguyễn cho phép người Âu mở thương điếm. Sau đó, cục diện chính trị quốc gia và quốc tế thay đổi, nước ta lâm vào cảnh nội chiến và Châu Âu tìm mọi cách chiếm hữu thuộc điạ, chinh phục dần dần Á Châu.

 

Trong sự bành trướng thuộc địa này, thương điếm của các công ty Anh-Ấn, Pháp-Ấn… chỉ là bề mặt, bên trong là một bộ chỉ huy tại chỗ, nghiên cứu các chính sách xâm lăng: Ấn Độ rồi Trung Hoa lần lượt rơi vào. Gia Long, nhìn thấy nước Anh đối xử với Ấn Độ, sớm biết những âm mưu này, vì vậy ngay khi vừa thống nhất đất nước, ông đã nhất quyết không nhượng cho Anh, Pháp một mảnh đất nào của Việt Nam để họ làm thương điếm, chỉ cho họ quyền ra vào buôn bán như các nước Tàu, Nhật… Chính sách này được áp dụng một cách triệt để dưới thời Gia Long và Minh Mạng, vì lẽ đó mà chúng ta không bị rơi vào hoàn cảnh liệt cường xâu xé như nước Tàu. Tất cả các sử gia thuộc địa đều đổ lên đầu Minh Mạng tội “bế quan toả cảng”, và sử gia ta cứ y như thế, chép lại mà không khảo sát. Thực ra đó chỉ là chính sách bảo vệ lãnh thổ của Minh Mạng: vua không cấm tàu Anh Pháp vào buôn bán, mà chỉ không cho họ lập “bộ chỉ huy” trên chính đất nước ta.

Để hiểu rõ chính sách ngoại giao của Gia Long và Minh Mạng, chúng tôi viết chương này, về việc những phái đoàn Anh, Pháp, được gửi đến Việt Nam dưới thời Gia Long và đầu triều Minh Mạng.

Sứ bộ Roberts, 1803-1804

 

Trong thời kỳ nội chiến giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn, nước Anh bán khí giới cho Tây Sơn, nhưng đến năm 1801, thấy Nguyễn Ánh có cơ phục hồi lại nhà Nguyễn, nước Anh xoay chiều phái người đến xin thông thương. Thực Lục tháng 5-6 /1801 ghi: “Nước Hồng Mao sai người đem thư đến dâng phương vật mà xin miễn thuế cảng cho thuyền buôn. Vua hạ lệnh cho lưu trấn Gia Định [Nguyễn Văn Nhơn] viết thư trả lời: đánh thuế theo như thể lệ thuyền buôn Quảng Đông” (TL, I, t. 438). Như vậy, Nguyễn Vương đã trả lời rất rõ ràng: tất cả mọi nước Âu, Á, đến Việt Nam buôn bán, đều phải đóng thuế nhập khẩu như nhau, triều đình không miễn thuế cho nước nào cả.

Hai năm sau, khi Gia Long đã thống nhất đất nước, tháng 7-8/1803, công ty Anh-Ấn gửi Roberts làm đại diện đến dâng lễ vật và xin yết kiến. Về việc này Thực Lục tháng 7-8/1803 ghi: “Hồng Mao sai sứ đến hiến phương vật, dâng biểu xin lập phố buôn ở Trà Sơn, dinh Quảng Nam. Vua nói rằng: “Hải cương là nơi quan yếu, sao lại cho người ngoài được!” Không cho. Sai trả vật lại mà bảo về” (TL, I, t. 564).

Vua Gia Long nhận được lá thư đầu tiên của Roberts viết lúc ông ta mới đến Đà Nẵng, trong lá thư này đã đề nghị “xin lập phố buôn ở Trà Sơn, dinh Quảng Nam”. Trà Sơn có lẽ là Sơn Trà ngày nay. Nhưng theo một chú thích của Louvet (có thể ông đã đọc bản chính lá thư này): Roberts xin lập thương điếm ở Cù Lao Chàm, còn theo Kergariou (được Vannier kể lại): người Anh muốn mua Cù Lao Chàm. Việc này rất có thể đã xảy ra, vì ngay từ năm 1793, khi phái đoàn Macartney, sứ thần Anh đầu tiên đến Trung Quốc, đã ngừng lại ở Đà Nẵng từ 14/5 đến 16/6/1793, dưới triều vua Cảnh Thịnh, họ đã vẽ bản đồ vịnh Đà Nẵng và mô tả Cù Lao Chàm như một nơi có vị thế chiến lược quan trọng để đặt “thương điếm” và làm địa điểm giám sát vùng biển Đông (xem chương 4, Barrow). Vì thế, Gia Long mới nói rằng: “Hải cương là nơi quan yếu, sao lại cho người ngoài được!” Không cho!”

Roberts đến Đà Nẵng khi vua đang sửa soạn ra Bắc tháng 9/1803 nhận lễ tấn phong của nhà Thanh. Bị từ chối đề nghị, nhưng Roberts vẫn kiên trì ở lại. Vua giao việc này cho Công Đồng xét xử, và Công Đồng đã quyết định gửi Vannier và Chaigneau ra Đà Nẵng tiếp và nói cho phái đoàn Anh biết luật lệ của triều đình (xem chương 22). Tàu Anh đợi đến khi vua về lại Huế ngày 19/3/1804. Từ tháng 3/1804 đến tháng 7/1804, Roberts vẫn một mực dâng thư xin triều kiến nhưng vẫn bị từ chối. Việc tháng 7-8/1804, Thực Lục ghi: “Nước Hồng Mao sai sứ đến dâng phương vật, dâng biểu xin thông thương. Lại xin cho người nước ấy ở lại Đà Nẵng, đi lại buôn bán. Vua nói: “Tiên vương kinh dinh việc nước, không để người Hạ lẫn với người Di, đó thực là cái ý đề phòng từ lúc việc còn nhỏ. Người Hồng Mao gian giảo, trí trá, không phải nòi giống ta, lòng họ hẳn khác, không cho ở lại, ban cho ưu hậu mà khiến về, khước từ những phương vật họ hiến”. Rồi sau bọn Hội Thương Trọng (tên quan Hồng Mao) [chắc chỉ Roberts] hai ba lần dâng thư yêu cầu. Cuối cùng vua cũng không cho” (TL, I, t. 602). Cuối cùng, tức là hơn một năm sau, ngày 14/8/1804, tàu Anh mới nhổ neo, Roberts để lại lá thư phản đối sau đây:

 

Hải cảng Touran [Đà Nẵng] ngày 14/8/1804,

Tâu Bệ Hạ,

Tôi vô cùng cám ơn các quan chức đã được lệnh Bệ Hạ chu cấp lương thực cho chúng tôi trong suốt thời gian chúng tôi ở đây. Tôi rất tiếc là Bệ Hạ đã không lấy quyết định giao ước hữu nghị và thương mại với Công ty Anh-Ấn Khả kính, điều này rõ ràng đem đến sự mở mang và thịnh vượng cho quý quốc. Cách Bệ Hạ đối xử với Công ty Anh-Ấn Khả kính, theo tôi, không thân thiện như Công ty Khả kính đối xử với Bệ Hạ. Khi tới Touran tôi đã bị giữ lại gần ba tuần, lấy cớ là phải giải thích chủ đích của phái đoàn, điều mà tôi đã làm trong những lá thư viết từ Touran, tháng 12, năm ngoái [1803] [theo chú thích của Louvet: lá thư này xin lập thương điếm ở Cù Lao Chàm]. Còn về quà cáp biếu Bệ Hạ, để chứng tỏ lòng thân thiện của Công ty Khả kính và của Ngài Toàn Quyền cao quý của chính phủ Anh ở Ấn Độ, thì đã được nhận một cách không mấy hữu hảo, tôi biết việc này, qua bài phúc trình của Công ty Khả kính cho các cơ quan hữu trách ở Ấn Độ.

Sự nhất quyết từ chối những đề nghị và đòi hỏi mà tôi đã có hân hạnh trình lên Bệ Hạ, [tức là xin Cù Lao Chàm để mở thương điếm] đáng lý phải được xét xử một cách thân thiện, bởi vì có lợi cho quý quốc, là rất đáng giận. Để trả lời những khát vọng ôn hoà của Công ty Khả kính, Bệ Hạ chỉ cho phép các tàu Anh đến các hải cảng của Bệ Hạ trong cùng điều kiện với các tàu ngoại quốc khác, là một sự xúc phạm. Cái phép này, luôn luôn có, không có giá trị gì hết, và không thể coi là biểu hiện ước muốn trao đổi với Công ty, mà ngược lại, nó cho thấy Bệ Hạ đã lạnh lùng bác bỏ các đề nghị mở cửa của Công ty. Lối hành xử hách dịch, kiêu kỳ, xấc xược của Bệ Hạ trong mọi trường hợp, là cách trả lời tệ hại cho những đề nghị tiện lợi của Công ty Khả kính, Bệ Hạ đã không cho phép một buổi tiếp kiến riêng nào.

Đáng lý ra, Bệ Hạ phải bằng lòng với những ý định thân thiện và lợi ích rút ra từ việc giao thiệp với Công ty. Sự quyết tâm rõ ràng tránh tất cả mọi giao hảo với nước Anh của Bệ Hạ, theo ý tôi, là không tương hợp với việc Bệ Hạ nhận những hàng hóa và những đơn đặt hàng.

Tôi thấy cách xử sự của Bệ Hạ vụng về, thiếu khôn ngoan và không chắc chắn. Nếu ngài muốn thương lượng hữu nghị với dân tộc Anh, chúng tôi vẫn sẵn sàng thiết lập sự giao hảo có lợi cho hai nước. Chước duy nhất là [Bệ Hạ] gửi một đại biểu tới Ngài Toàn Quyền cao quý ở đồn William. Điều này vẫn còn có thể làm được.

Như tôi không thể tin rằng Bệ Hạ từ chối không cho tàu Anh đến các hải cảng của bệ hạ như những tàu khác, mà có thể, Bệ Hạ sợ chúng tôi sẽ hành xử chống lại luật lệ quý quốc, tôi xin báo cho Bệ Hạ biết rằng, bất cứ sự phạm pháp nào của người Anh cũng bị trị tội, nếu có chứng cớ hợp thức, và sẽ báo cho chính phủ Nam Hà biết.

Tôi còn phải báo cho Bệ hạ biết nếu ngài cho phép kẻ thù của nước Anh [chỉ Pháp] mở một thương điếm hay dễ dàng buôn bán bất cứ thứ gì, thì Bệ Hạ nên biết rằng, sự tiếp xúc với chúng sẽ chuốc lấy hậu quả là mối hận thù của chính phủ Anh.

Tôi không mong cơ sự sẽ đến nỗi như vậy, mà mong Bệ Hạ sống lâu trong hoà bình và thoả ý.

Tôi hân hạnh, v.v.”

(Dịch theo bản dịch tiếng Pháp, in trong La Cochinchine Religieuse của Louvet, quyển II, t. 496-498).

Lá thư hỗn xược và đe dọa của Roberts cho chúng ta những thông tin đáng chú ý sau đây:

1- Là đại diện Công Ty Anh-Ấn, nhưng Roberts xử sự như là đại diện của nước Anh, điều này chứng tỏ Công Ty Anh-Ấn chính là não bộ chính sách thuộc địa của Anh ở ngoài nước.

Câu: “Bệ Hạ chỉ cho phép các tàu Anh đến các hải cảng của Bệ Hạ trong cùng điều kiện với các tàu ngoại quốc khác, là một sự xúc phạm”, tỏ sự trịch thượng và xúc phạm của chính quyền Anh đối với chính quyền Việt Nam.

Câu: “Nếu ngài muốn thương lượng hữu nghị với dân tộc Anh, chúng tôi vẫn sẵn sàng thiết lập sự giao hảo có lợi cho hai nước”, chứng tỏ công ty Anh-Ấn là chính quyền Anh.

2- Câu: “Sự quyết tâm rõ ràng tránh tất cả mọi giao hảo với nước Anh của Bệ Hạ, theo ý tôi, là không tương hợp với việc Bệ Hạ nhận những hàng hóa và những đơn đặt hàng”. Ý muốn nói đến việc Nguyễn Vương vẫn nhận những hàng hoá của công ty Abbott-Maitland, mà Barisy là đại diện. Nói vậy là nhận vơ vì Abbott-Maitland là công ty tư, buôn bán với Nguyễn Vương từ 1793, cùng điều kiện với những nhà buôn của các nước châu Âu khác, như Bồ, Đan Mạch… họ không hề xin đất để lập thương điếm (xem chương 17, Chính sách đối ngoại của Gia Long).

3- Những lời hỗn xược trong lá thư này đã khiến Gia Long nổi giận và sử gia triều Nguyễn ghi lại trong Thục Lục: “Người Hồng Mao gian giảo, trí trá, không phải nòi giống ta, lòng họ hẳn khác, không cho ở lại.” Và cũng vì vậy mà Gia Long càng thêm cứng rắn đối với việc Anh, Pháp xin “thông thương”.

Dư luận thời ấy về việc sứ bộ Roberts

 

Giám mục La Bartette trong thư ngày 17/9/1803 gửi cho M. Chaumont ở Paris, nói về cái chết của Barisy, có câu: “Tàu Anh còn ở đây (tàu của hãng buôn Anh ở Madras) đang tính toán sổ sách với nhà vua. M. Barisy, là đại diện thương mại của tàu Anh tại đây, đã mất một năm rồi, có vài lộn xộn trong sổ sách. Tôi tin rằng cũng sẽ ổn thoả, không có gì trở ngại” (Cadière, Doc. Rel. t. 57). Vị giám mục lầm tàu của Roberts thuộc công ty Anh-Ấn với tàu của công ty Abbott-Maitland. Hoặc có thể, công ty Anh-Ấn cũng là chủ nhân công ty Abbott-Maitland?

Sainte-Croix viết đại ý như sau: Chính quyền Anh ở Bengale được tin vua nước Nam vừa toàn thắng, vội gửi sứ giả sang để ký kết buôn bán có lợi cho công ty của họ và tống cổ nước Pháp ra ngoài. Họ xin lấy một hải cảng để đậu tàu và mở thương điếm. Roberts giám đốc công ty Anh ở Quảng Đông được gửi sang nước Nam, mang theo nhiều quà cáp đến Quin-Hône [Qui Nhơn]. Trong khi đợi vua tiếp, thì ông ta đem quà cáp đút lót các quan và rêu rao nếu buôn bán với Anh thì sẽ có lợi. Roberts không muốn các thừa sai Pháp ở trong triều cản trở, đã khôn khéo bảo họ rằng chính phủ Anh đã giúp đỡ các thừa sai Pháp tỵ nạn sang Anh sau cách mạng 1789, vì vậy, trong vụ này, các thừa sai Pháp ủng hộ Anh, kẻ thù của Pháp.

Các quan đã dàn xếp cho vua tiếp Roberts lần đầu, đã nhận một phần quà cáp mà ông ta tốn kém không biết bao nhiêu mà kể. Việc sắp thành, thì lúc đó, các ông Vannier và Chaigneau, đang làm quan tại triều, đến. Vua không biết rõ sức mạnh của nước Anh, chỉ nghe phong thanh có người Âu đến xin thông thương… Vua hỏi Chaigneau, ông ấy phải quỳ gối hai giờ đồng hồ theo lối Annam, thì thầm vào tai vua, để các quan khỏi nghe thấy. Sau vua quay ra hỏi ông Roberts lý do tại sao lại muốn buôn bán với nước Nam, ông này trình bày một cách giả dối khiến vua đổi hẳn thái độ, hỏi thẳng: vậy cũng như đã đến chiếm Ấn Độ chứ gì? Sau đó vua trả lại quà cáp và hạ lệnh cho nước Anh được giao thông giống như điều kiện đã cho các nước khác. (Tóm tắt Relation Bissachère, t. 97-102).

Sự “tường thuật” của Sainte-Croix có nhiều chỗ ba hoa: Roberts không “hối lộ” được các quan và cũng không nhờ các “thừa sai” Pháp ở trong triều ủng hộ để được vua tiếp lần nào cả. Gia Long biết rõ tình thế hơn ai hết: thấy Anh xâm lược Ấn Độ, và chính tàu Armide của vua cũng bị tàu Anh chiếm năm 1798 (xem chương 17, Chính sách đối ngoại của Gia Long).

 

Montyon nói đến sự thất bại của phái đoàn Hastings năm 1778, sang vào lúc loạn lạc, nên không thành, và về việc phái đoàn Anh đến năm 1804, vua không tiếp: “Năm 1778, nước Anh sau khi làm chủ được một phần đất Ấn, đã tìm cách buôn bán với nước Nam, nhưng không thành [...] Từ khi Gia Long lên ngôi, Công Ty Anh-Ấn lại muốn xây dựng một dự trình xin cho các tàu buôn Anh được hưởng điều kiện thương mại có lợi, đã bí mật gửi người đến điều đình; nhưng hoặc vì do mưu mô của vài sĩ quan Pháp được hoàng đế tin cậy [chỉ Vannier, Chaigneau], hoặc do sự nghi ngại sức mạnh của Anh, quà đem đến để thương thuyết không được vua nhận, vì thế người của Công Ty Anh-Ấn cũng không đề nghị được gì.” (Montyon, I, t. 169).

Barrow thì chắc chắn rằng Gia Long sẵn sàng giao thương với nước Anh, nhưng vì trong phái đoàn Anh không ai biết một chữ tiếng Việt, mà bên cạnh vua còn có những người Pháp, họ tha hồ dèm pha, nói xấu… Kết quả hiển nhiên là phải như vậy: trong triều chỉ còn thông ngôn là thừa sai Pháp, làm sao biết được, họ chỉ dịch cho vua những gì mà họ muốn, chúng ta thừa biết họ đối với Anh như thế nào! (Barrow, t. 325-327).

Đọc những lập luận trên đây, không những chúng ta biết thêm được bối cảnh của câu chuyện, (dù đôi lúc các tác giả cũng viết bừa), mà còn thấy rõ hơn sự cạnh tranh và ganh tỵ triệt để giữa Pháp và Anh trong việc “buôn bán” này. Kể từ ngày 25/3/1802, Anh Pháp đã ký hiệp ước hoà bình Amiens, nhưng không vì vậy mà “mối thù “giữa hai nước đã giảm. Sự tranh chấp từng miếng đất làm thuộc địa, giữa hai nước vẫn dữ dội, và Roberts là một vụ điển hình.

 

Kergariou kể việc Gia Long chuẩn bị chiến tranh với nước Anh

Kergariou, thuyền trưởng tàu Cybèle của Pháp, trong nhật ký hành trình (sẽ nói ở dưới), kể việc Vua Gia Long phòng bị chiến tranh với Anh, việc này do Vannier thuật lại với Kergariou về tình hình Việt Nam, những điều này có thể tin được:

“… ông [Gia Long] rất sợ người Anh, lo ngại họ sẽ xâm lấn hải cảng Đà Nẵng mà họ đã tìm cách mua lại [mà không được]. Năm 1812, một chiến hạm Anh xuất hiện ở Đà Nẵng và ở lại 15 ngày. Viên thuyền trưởng đến để đòi số tiền 300.000 đồng còn lại của hãng buôn Abbott và Maitland ở Madras. Tất cả sổ sách này đã thanh toán xong, [vua đã trả] cho viên thuyền trưởng một chiến hạm khác đến đây từ năm 1807. Nhà vua thấy sự đòi hỏi vô lý này, không trả, và gửi bản sao sổ sách xong xuôi cho phó vương Bengale và những người cầm đầu khác ở Ấn Độ. Viên thuyền trưởng Anh nhổ neo đi và hăm dọa rằng, sẽ trở lại đòi nợ với đoàn chiến hạm phủ kín mặt biển và sẽ đổ bộ 20.000 người. Từ đó, nhà vua áp dụng mọi biện pháp phòng vệ cần thiết, cho xây những pháo đài ở Đà Nẵng, người ta cảm thấy rằng, đối với ông, thà mất ngai vàng còn hơn chịu thần phục người Anh.

Năm 1813, họ đã đợi người Anh, nhưng người Anh không tới và trong hơn hai năm, cả nước đều ở vị trí phòng thủ” (La Mission de la Cybèle en Extrême-Orient (1817-1818), t. 127-128).

Về việc này, Thực Lục tháng 7/1812 ghi: “Tàu của người Hồng Mao là Ốc Luân đậu ở vụng Trà Sơn, dâng biểu nói năm trước nhà vua mua súng đạn của trưởng tàu là Áp Bột Miệt Lăng [công ty Abbott-Mailland] giá bạc hãy còn thiếu, xin trả cho. Quản tàu vụ là Nguyễn Đức Xuyên đem việc tâu lên. Vua nói: “Người Di Địch chỉ biết có lợi, khó nói nhân nghiã được. Giá hàng mua năm trước còn ở sổ kia. Gần đây Kê Lê Mân đến xin thêm giá, ta cũng không thèm so đọ, đã cho đủ số rồi. Nay lại tham lam không chán, sở dục biết làm sao cho no được? Bèn sai Đức Xuyên làm thư nghiêm trách, và sao cả sổ mua hàng cho xem. Ốc Luân được thư xấu hổ và sợ, đi mất” (TL; I, t. 841).

Kergariou viết thêm nơi trang 151: “… ở nước Nam, có những nơi mà mạch mỏ bạc nổi cao sát mặt đất, những chỗ này được canh gác kỹ lắm, vua không muốn khai thác và cũng không cho ai khai thác. Lý do vì vua sợ sự giầu có này được bên ngoài biết đến và nếu khởi công khai mỏ, bọn người Anh sẽ kiếm cách xâm chiếm. Hoàng đế rất nghi ngờ lòng tham lam và gian trá của người Anh, người quả quyết chống lại đến cùng, kể cả việc phải phá huỷ, hay để bị phá những thành trì ở ven biển, rồi rút vào đợi quân địch ở chân núi và hẻm núi.”

Những điều này chắc chắn do Vannier kể cho Kergariou biết. Thực Lục, năm 1813, tuy không trực tiếp nói đến việc phòng thủ nước Anh, nhưng ghi lại các việc sau đây: sai đắp thành đất trấn Vĩnh Thanh (là một thành đài cực kỳ kiên cố ở miền Nam). Đắp đài Điện Hải và bảo An Hải ở bên trái và bên phải cửa biển Đà Nẵng (những thành đài này sẽ được Minh Mang kiện toàn, Thiệu Trị xây thêm và đã gây trở lực lớn cho liên quân Pháp Y Pha Nho, khi họ đánh Đà Nẵng năm 1858). Đổi cửa Eo thành cửa Thuận An. Xây đài Trấn Hải. Tuyển binh từ Quảng Bình vào Nam đến Gia Định. Vua thân chinh ra Thuận An xem đài Trấn Hải và ra Đà Nẵng xem đài Điện Hải. Cho dựng đài hoả hiệu ở núi Chu Mã và núi Quy Sơn. Đúc súng. Định 9 điều lệ nghiêm ngặt cho việc án thủ đài Trấn Hải, cũng là điều lệ chung cho việc phòng thủ những nơi hiểm yếu. Điều số 8 như sau: “Trấn thủ Thuận An có tin báo về việc ngoài biển (về người Tây Dương) hoặc thấy hiệu lửa ở đài hoả hiệu Quy Sơn cửa biển Tư Dung, tức thì một mặt sắp quân phòng bị, một mặt phái người chạy tâu.” (TL, I, t. 857, 859, 860, 862).

Nhũng điểm này chứng tỏ Gia Long chuẩn bị phòng thủ quân Tây Dương là có thật.

Tàu Cybèle đến Đà Nẵng năm 1817

 

Từ khi Bá Đa Lộc đại diện Nguyễn Ánh ký hiệp ước cầu viện với de Montmorin tại Versailles ngày 28/11/1787, nhưng sau đó Louis XVI, đổi ý, không thực hiện hiệp ước này; nước Pháp rơi vào cuộc cách mạng 1789, Louis XVI lên đoạn đầu đài và Pháp vào thời kỳ sóng gió loạn lạc thay đổi chính quyền trong 30 năm, đến thời kỳ Vương Chính Trùng Hưng (Restauration), dòng Bourbon trở lại cầm quyền, Louis XVIII mới nghĩ đến việc trở lại Viễn Đông, và năm 1817 gửi chiến hạm Cybèle do A. de Kergariou điều khiển đến Việt Nam.

Achille de Kergariou sinh tại Quimper (Bretagne), ngày 1/5/1775. Mất tại Ploumoguer (Finistère) ngày 12/12/1820. Từ 1787 gia nhập hải quân, là sinh viên sĩ quan hạng 3. Đến 1792, trở thành sĩ quan. Sau nhiều năm kinh nghiệm, 1814, được thăng thuyền trưởng chiến hạm Cybèle, đi vùng Terre-Neuve [miền Đông Canada] trước khi đến Việt Nam.

Tàu Cybèle khởi hành từ Brest, sau 106 ngày vượt biển không ngừng, đến Pondichéry ngày 1/7/1817, rồi ghé Malacca, Manille, Cavite, Macao, đảo Hải Nam và đến Đà Nẵng ngày 30/12/1817. Vì không đem theo quốc thư, nên Kergariou không được vua Gia Long tiếp, Kergariou rời Đà Nẵng ngày 22/1/1818, đi dọc theo bờ biển phiá Nam, đỗ lại ở Champello [Cù Lao Chàm], Vung-Chao [Vũng Chào, Phú Yên], đảo Tray [Hòn Tre, Nha Trang], Phanry [Phan Rí] và Cap St-Jacques [Vũng Tàu]. Sau đó đi Poulo-Condore [Côn Đảo] rồi trở lại Malacca ngày 11/2/1818. Ngày 19/10/1818, Cybèle trở về Brest, hoàn thành công tác 19 tháng. Tuy nhiệm vụ chính trị thất bại, Kergariou đã hoàn thành việc kiện toàn những bản đồ bờ biển miền Nam do Dayot vẽ ngày trước.

Về việc tàu Kergariou đến Đà Nẵng, Thực Lục, tháng 12/1817, ghi:

“Tàu của Phú Lãng Sa đậu ở Đà Nẵng, đưa thư cho Nguyễn Văn Thắng nói vua nước ấy lấy lại được nước, sai treo cờ ở thuyền đi đến các cửa biển để các nước láng giềng biết, xin dâng sản vật địa phương, đến Kinh chiêm yết. Vua lấy cớ không có quốc thư mà khước từ. Sai Dinh thần Quảng Nam khoản đãi hậu, rồi bảo đi. Lại sắc cho trấn thủ Đà Nẵng rằng nếu thuyền người Phú Lãng Sa có treo cờ bắn súng mừng 21 tiếng thì ở trên đài Điện Hải cũng bắn trả lời đúng số ấy. Từ sau có thuyền buôn nước ngoài vào cửa biển, bắn súng dẫu nhiều, trên đài chỉ bắn ba tiếng làm hiệu.” (TL, I, t. 959-960).

Nhật ký hành trình của Kergariou

 

Kergariou để lại cuốn nhật ký hành trình, lưu trữ trong văn khố bộ Hải Quân. Pierre de Joinvillle sưu tầm, chú thích, viết thành luận án tiến sĩ văn khoa, xuất bản năm1914, tại Paris với tựa đề La Mission de la Cybèle en Extrême-Orient (1817-1818), journal de voyage du capitaine A. de Kergariou (Sứ mệnh của tàu Cybèle ở Viễn Đông, nhật ký hành trình của đại uý A. de Kergariou), sẽ dẫn là Kergariou. Nhờ cuốn sách này mà chúng ta có đầy đủ tài liệu vế chuyến đi của tàu Cybèle đến Việt Nam năm 1817-1818.

Cuốn sách này có hai điểm đáng chú ý:

1- Ghi lại các việc hàng ngày, với đầy đủ chi tiết, khiến ta có thể biết rõ mọi diễn biến, trong thời gian từ 30/12/1817, khi tàu đến Đà Nẵng tới 22/1/1818, ngày tàu nhổ neo, đi dọc theo bờ biển phiá Nam.

2- Trong phần Chứng từ (Pièces Justificatives), in những bức thư trao đổi giữa Kergariou và Vannier, Chaigneau, và Quyết nghị của Công Đồng. Những văn bản gốc này, tự chúng đã nói lên sự thực. Vì vậy, trước hết, chúng tôi dịch những lá thư trong phần Chúng từ để độc giả thấy rõ trình tự các sự việc đã xảy ra.

Tới Đà Nẵng ngày 30/12/1817, Kergariou viết ngay lá thư đầu tiên gửi Chaigneau và Vannier, báo tin mình đã tới nơi, và nhờ hai người này giúp để xin gặp vua Gia Long.

 

Lá thư thứ nhất của Kergariou gửi Vannier và Chaigneau

“… Hoàng đế Louis XVIII, đấng cứu thế (Le Désiré), quốc vương Pháp và Navarre [Navarre xưa là miền nam Pháp và bắc Y Pha Nho] đã lên lại ngôi cao của tổ tiên, người lo lắng cho hạnh phúc của thần dân và đang hàn gắn những vết thương do từ quá lâu [nước Pháp] không có chính quyền. Người ra lệnh, lá cờ Pháp, cờ hoa huệ ngày xưa, đã quá lâu vắng bóng, phải trở lại trên biển cả. Khi nhìn đến những vùng đất xa xăm, con mắt người chú ý đến Nam Hà, một đất nước giống như chúng ta, đã bị những nỗi bất hạnh lớn, đã chịu những cuộc nổi loạn kỳ dị. Người đã thấy, cầm đầu đất nước này là một quốc vương chính thống, cũng giống như người, đã gặp phận rủi ro, nhưng cũng nhờ kiên gan mà đã thành công…

Tôi được hân hạnh đặc giao nhiệm vụ trên tàu Cybèle của vua, trở lại vùng biển Á Châu, phô trương chiến hạm của vua, phô trương lá cờ Pháp (và trong cuộc hành trình, tôi có nhiệm vụ chính thức bố cáo rằng Vua Louis XVIII, Cứu thế, đã khôi phục lại ngôi báu của tổ tiên, người đặc biệt dặn dò tôi ở lại bờ biển Nam Hà, cố gắng xin được yết kiến nhà vua với mục đích duy nhất là gửi lời khen tặng của vua Pháp và bảo đảm sự nể trọng và quý mến của Pháp hoàng đối với nhà vua, bằng cách chính thức thông báo cho nhà vua biết là hoàng đế đã tức vị, được củng cố bởi lòng nhân đức, cùng sự kính trọng và tình yêu của thần dân…” (Kergariou, t. 227-228). Sau đó, Kergariou hỏi ý kiến Chaigneau và Vannier về việc quà cáp biếu Gia Long, nên tặng những thứ gì, và nhờ hai người này kiếm cho một người thông ngôn.

Lá thư đầu tiên của Kergariou viết về “sứ mệnh” của chuyến đi, lời lẽ hoa hòe, khoa trương, được tóm tắt lại trong Thực Lục, chứng tỏ Kergariou không có một “nhiệm vụ” đích thực nào cả, hoặc vua Louis XVIII sai ông ta đi, mà không sửa soạn gì. Cũng nên nói thêm: Sở dĩ có lời “rao” này, vì trước đây Gia Long đã từng nói: chỉ giao thiệp lại với Pháp nếu dòng họ Bourbon trở lại làm vua. Sự phô trương này chỉ là mặt tiền.

Mặt hậu, không nói ra, nhưng đã dặn Kergariou không được tự mình điều đình gì về hiệp ước 1787 (tức là hiệp ước Versailles do Bá Đa Lộc ký, xin cầu viện, nhưng Pháp không thi hành, bây giờ Pháp muốn “đòi” các đất đã hứa nhượng trong bản hiệp ước 1787, là Hội An và Côn Lôn). Đó là mặt hậu.

Tất nhiên dù chỉ nói “mặt tiền” ra thôi, thì cũng bị thất bại rồi: triều đình không tiếp một viên thuyền trưởng chỉ muốn đến “chào vua” mà không đem quốc thư, và Vannier không có thẩm quyền gì trên quyết định của triều đình.

Thư trả lời của Chaigneau và Vannier

Thưa ông,

Tối nay chúng tôi nhận được thư ông viết ngày 30/12 vừa qua ở Đà Nẵng. Chúng tôi báo tin ngay cho quan Thương Bạc [tức Nguyễn Đức Xuyên, phụ trách các bộ: Ngoại Giao, Tàu Vụ và Tượng binh] ông cho biết, trước khi tâu vua, cần phải biết rõ mục đích nhiệm vụ của ông; vì vậy, chúng tôi vinh hạnh đợi lá thư ông sẽ viết để thông báo chi tiết những quà cáp gửi đến có phải của vua Pháp hay của ai khác, và nếu có thư nào của chính phủ Pháp gửi chính phủ Việt Nam. Trong khi chờ đợi, vị quan này sẽ gửi cho ông viên thông ngôn của ông ấy, bởi vì chúng tôi không có thông ngôn.

Chúng tôi ky vọng rằng…

J.B. Chaigneau, P.Vannier

Huế ngày 3/1/1818 (Kergariou, t. 230)

 

Thư thứ 2 của Kergariou gửi Chaigneau và Vannier

Thưa các ông,

Tôi vừa hân hạnh nhận được lá thư mà các ông đã gửi cho tôi qua người thông ngôn-đưa thư của ông Bộ trưởng Ngoại giao [Nguyễn Đức Xuyên]. Tôi hy vọng các ông đã nhận được thư thứ hai của tôi vì thư đầu chỉ có mấy dòng ghi (note) vội để các ông biết tôi đã đến [note này không thấy in lại].

Tôi hy vọng lá thư này sẽ làm thoả mãn hầu hết những đòi hỏi của ngài Bộ trưởng Ngoại giao.

Về những phẩm vật mà tôi đã nói với các ông, tôi nghĩ có bổn phận phải trả lời rằng những quà cáp mà tôi được giao phó tặng Vua [nước Nam] đến từ Vua Pháp và nhân danh Vua Pháp, tôi cố gắng làm cho chúng thích hợp.

Tôi không có thư gì cho chính phủ nước Nam; sau khi các ông đã đọc thư tôi, các ông sẽ thấy nhiệm vụ của tôi ở các vùng biển này đều giống nhau và thư uỷ nhiệm cũng như sự bảo đảm nhiêm vụ của tôi chính là hiệu kỳ của Vua nước ta. Vả lại, sự chú ý, quan tâm đặc biệt mà Hoàng đế đã gửi theo chiến hạm Cybèle, là một kỷ niệm hữu nghị hơn là những phẩm vật gửi đến Vua nước Nam. Một thần dân [như tôi] không được phép dò xét những ý định của quân vương, mà phải thi hành những ý định ấy!… Người đã thực sự sai tôi ngừng lại ở đây và cố tìm cách xin tiếp kiến Hoàng đế nước Nam, để nhân danh người, mạnh mẽ nói lên những điều mà tôi đã thông báo ở hầu hết các vùng bể này.

Quà cáp, tôi nghĩ, gồm có, một đồng hồ treo, một khẩu súng săn và một cặp súng lục của xưởng chế tạo hoàng gia ở Versailles.

Tôi hy vọng…

A. de Kergariou

6/1/1818 (Kergariou, t. 231-232)

Lá thư của Chaigneau và Vannier trên đây chỉ tuân theo thủ tục ngoại giao của triều đình: hỏi rõ mục đích chuyến đi của Kergariou, vì lá thư đầu nói hàm hồ quá. Nhưng khi Kergariou cho biết không có quốc thư, đáng lẽ Gia Long có thể từ chối ngay, nhưng vì vua vẫn giữ cảm tình riêng với nước Pháp, cho nên đã cho lệnh đón tiếp Kergariou, như sau:

Thư của Vannier gửi đại uý Kergariou

Thưa ông,

Sau khi nhận được những thư ông viết cho chúng tôi ngày 1 tháng này, tôi đã hân hạnh báo tin cho Ngài Bộ Trưởng [Nguyễn Đức Xuyên]; chúng tôi đã dịch những thư này sang tiếng Việt và tâu lên Hoàng Thượng. Người tức khắc ra lệnh cho tôi và quan Thượng thư Bộ Lễ [Phạm Đăng Hưng] đến đây, mời ông xuống đất liền để chúc mừng ông đã đến nơi bình an và thảo luận công chuyện; về phần tôi, trước hết, tôi cũng mong được lên tàu để chào ông và trình bày sự kính trọng của tôi, nhưng nếu chưa làm được, lúc này, thì cũng mong ông thứ lỗi.

Tôi hân hạnh…

P. Vannier

Tourane [Đà Nẵng] ngày 10/1/1818. (Kergariou, t. 232)

Việc Gia Long gửi Thượng thư Bộ Lễ [Phạm Đăng Hưng] đi với Vannier ra Đà Nẵng đón Kergariou (Chaigneau bị thương chân nên không đi được, t. 105), cùng với Dinh thần Quảng Nam, chứng tỏ vua muốn tiếp phái đoàn Pháp, vì Phạm Đăng Hưng là một trong những vị đại thần đầu triều, uyên bác, có uy tín như Đặng Đức Siêu, Trịnh Hoài Đức, Lê Văn Định… Trong hơn 10 ngày tiếp xúc, đàm đạo, hai bên đãi tiệc lẫn nhau, Phạm Đăng Hưng đã dùng hết cách, vừa hạch hỏi, vừa giúp đỡ Kergariou tìm lối thoát: nếu có một chứng từ gì của vua Pháp xác nhận nhiệm vụ của Kergariou, khiến triều đình chấp nhận được mà tiếp, nhưng quả thật Kergariou không có giấy tờ gì cả, còn tin Kergariou đem đến rao là Pháp Hoàng đã lên ngôi, thì vua Gia Long đã biết trước rồi. Sau cùng là quyết nghị dưới đây của Công Đồng:

 

Quyết định của Công Đồng

(Viết cho Vannier)

Ông biết rằng hôm nay chúng tôi đã nhận được lá thư của ông tâu Hoàng Thượng tất cả những gì đã xảy ra ở Đà Nẵng với viên thuyền trưởng chiến hạm Cybèle của Pháp hoàng; người này đã nói với ông rằng ông ta được vua Pháp gửi tới để báo tin cho Vua nước Nam biết: vị vua đích thực của nước Pháp đã lấy lại được ngôi báu của tổ tiên. Ở đây, dù rất xa nước Pháp, nhưng trước khi chiến hạm đến, đã có những tàu Pháp khác tới buôn bán, đã báo cho Hoàng Thượng biết tin mừng này rồi, và Hoàng Thượng đã rất vui mừng.

Hôm nay, chúng tôi thấy rằng viên thuyền trưởng Pháp này được gửi tới đây mang ít phẩm vật của Pháp hoàng biếu Vua nước Nam và báo tin cho Hoàng thượng biết Pháp hoàng đã lấy lại ngôi tôn của tổ tiên. Tất cả những thông tin này, chúng tôi đã tâu lên Hoàng thượng, và người dụ rằng những nước xa xôi nhất, muốn đến chào người, người không cản, và người đã ra lệnh triệu tập tất cả các quan họp lại để bàn và quyết định về việc viên thuyền trưởng Pháp tới đây, xem ông ta có thể hay không thể đến chào Hoàng Thượng và dâng lễ vật.

Sau khi đã luận bàn, các quan tâu vua rằng: theo luật xưa và nay, thì khi sứ thần hay phái viên của bất cứ nước nào đến, các quan phải tháp tùng vua trong đại lễ và giới thiệu với vua những sứ thần này cùng với thư ủy quyền và lễ vật của họ. Luật ngày nay cũng thế.

Vị thuyền trưởng chiến hạm Pháp đến đây không có thư gì của vua Pháp; nên chúng tôi không biết giới thiệu ông ta như thế nào trước Hoàng Thượng.

Đó là lời tâu của các quan lên Hoàng Thượng, người bảo họ nói như vậy có lý, và người đã tức khắc ra lệnh cho các quan được gửi ra Đà Nẵng tiếp viên thuyền trưởng chiến hạm Pháp, phải báo cho ông ta biết quyết định của Công Đồng và nói với ông ta rằng, vì luật của nhà nước không cho phép, nên vua, dù rất phiền lòng không tiếp được ông ta, nhưng luật quốc gia là vậy, vua cũng bắt buộc phải tuân theo. Từ bây giờ, ông thuyền trưởng, khi thấy thuận gió, hoặc thấy cần đi, thì cứ tự do quay về.

Huế, ngày 8, tuần trăng thứ 12, Gia Long năm thứ 16, tức ngày 14/1/1818.

Tôi xin chứng nhận bản dịch này đúng với bản gốc.

P. Vannier. (Kergariou, t. 233-234)

Những việc Kergariou kể lại trong hồi ký

Những điều Kergariou kể lại trong hồi ký cho ta biết rõ hơn chi tiết mọi việc xảy ra:

“Khi chúng tôi cùng ngồi, ông Vannier làm thông ngôn cho quan đại thần [Phạm Đăng Hưng] cho biết họ được vua nước Nam giao cho nhiệm vụ đến chào và chúc mừng chúng tôi đã đến đây bình an, đồng thời cũng có nhiệm vụ hỏi tôi có đem theo thư của vua Pháp hay thủ tướng Pháp không.

Tôi trả lời mơ hồ, bằng cách nhắc lại những điều tương tự trong các bức thư tôi đã viết cho các quan Pháp [Vannier, Chaigneau]. Về điểm đó, ông đại thần ở Huế [Thượng thư bộ Lễ Phạm Đăng Hưng] đã có những nhận xét, những bắt bẻ, cuộc nói chuyện kéo dài, trước một cử tọa đông đảo, tôi cố gắng đối đáp với sự giúp đỡ của ông Vannier.

Cuối cùng, sau hàng ngàn câu hỏi của quan đại thần Bộ Lễ, hầu như giống nhau và có vẻ như vô nghiã, tôi đề nghị với ông Vannier, vì không có thư của Hoàng Đế hay của Bộ trưởng, đưa cho ông quan bản trích lục những chỉ thị của tôi liên quan đế nước Nam, và tôi sẽ chứng nhận và ký tên ở dưới, để gửi cho Hoàng Thượng và Công Đồng.

Mới đầu, ông không chịu; ông lại hỏi nếu tôi có mang theo chỉ dụ của vua Pháp sai sang xin triều kiến vua nước Nam không.

Tôi trả lời là tôi quả có lệnh về việc này. Ông bảo tôi có thể cho ông xem cái chỉ dụ ấy, ông sẽ sai dịch và tâu vua. Tôi trả lời là không thể được; rằng tôi được sai đi nhiều nước, những lệnh này chứa trong nhiều tập sách, tôi không thể giao phó cho ai, cũng không thể dịch ra được, bởi vì trong đó có các khoản không dính líu đến nước Nam. Tóm lại, tôi không thể trái lệnh vì bất cứ cớ gì. Và tôi lại đề nghị một lần nữa, là tôi sẽ trích lục lệnh này ra và đóng dấu của tôi. Không hiểu sao tôi lại nẩy ra cái ý này, và đã thành công (trong lúc đó).

Ông quan có vẻ dịu đi; hình như những con dấu có ảnh hưởng tới họ; về sau, tôi thấy rõ họ đặt giá trị vào đó. Như thể danh dự của họ. Ngoài ra, ông Vannier còn nói thêm một bằng chứng về nhiệm vụ của tôi là việc tôi xin vào triều, bởi vì nếu không có lệnh đó thì tôi không dám bỏ chiến hạm đi xa trong thời gian dài như vậy, ở một nước ngoài.

Ông Vannier, hết sức nhiệt thành phục vụ vua [Pháp], đề nghị tôi viết một lá thư [giả], thì mọi sự sẽ xong xuôi; tôi từ chối và ông Vannier cũng thấy là phải.” (Kergariou, t. 97-98-99).

Kergariou kể: “Dinh thần Quảng Nam, người cao lớn, chẳng nói chẳng rằng gì cả, chỉ nhai trầu và hút thuốc. Tất cả đều do Lễ Bộ điều khiển” (t. 105).

Lễ Bộ là người sắc sảo, ông quan sát rất kỹ khi tôi nói chuyện với Vannier như để tìm hiểu những điều chúng tôi nói, không có gì lọt qua mắt ông được: “Ông có thể lập lại một câu hỏi đến 20 lần, cùng với sự bắt bẻ. Nhìn các dấu đóng ở đầu và cuối bản trích lệnh vua của tôi, so sánh và thấy đồng tiền ở hai dấu ấn, cái tròn, cái vuông, ông tỏ ý nghi ngờ ngay. Lại phải giải thích nữa. Cuối cùng ông cũng ưng thuận gửi văn kiện này về triều với điều kiện tôi phải cho ông Vannier xem bản gốc và cho biết có thực sự đúng như thế không [...]

Ông Vannier bảo rằng giống nhau y hệt. Lễ Bộ mới vui vẻ nhận văn bản của mình và nói sẽ gửi về cho Hoàng Thượng và viết thư chứng nhận sự thành thực của tôi…” (Kergariou, t. 112-114).

Kergariou viết: “… ông Vannier nói với tôi rằng tất cả giấy tờ giao dịch của ngoại quốc đều được giữ gìn cẩn thận trong các văn khố, để có thể so sánh, tuỳ nơi, tuỳ thời; từ những thư mà tôi viết cho ông ấy tới cái note nhỏ báo tin tôi đến, chỉ là một mảnh nháp viết vội, ông ấy cũng phải trình ra để lưu lại” (Kergariou, t. 112).

Kergariou cũng cho biết trong bữa tiệc các quan khoản đãi phái đoàn, ngoài đũa, bát, còn có khăn giải bàn, dao và nĩa của Anh (Kergariou, t. 122).

Rồi Kergariou nói về việc rời Đà Nẵng đi xuống miền Nam: “Tôi muốn đi dọc theo bờ biển nước Nam một cách chính xác trong vòng thời gian ngắn, tôi bèn yêu cầu ông Vannier cho tôi những lời khuyên, mà, là lính thuỷ, ông biết rõ. Ông đã làm việc cùng ông Dayot trong hơn ba năm, và mới đây ông cũng vừa đi vài chuyến. Chúng tôi lấy tập địa đồ của ông Dayot, dò theo, xem lại tất cả mọi chi tiết và không bỏ qua địa điểm quan trọng nào. Ở thời kỳ ông Dayot vẽ các bản đồ bờ biển nước Nam này, ông ấy chưa thạo tiếng Việt mấy, nên có nhiều tên ghi sai. Ông Vannier đã cho biết tất cả những điạ điểm chính ở bờ biển bằng tên Việt và tôi đã sửa lại”. (Kergariou, t. 151-152).

Bộ bản đồ của Dayot gồm có:

*

Số 2: Bản đồ sông Sài Gòn.

Số 3: Bản đồ thành phố Sài Gòn.

Số 4: Phần bờ biển Nam Hà từ Vũng Tàu đến le faux Cap Varelle [?], theo chú thích số 2, trang 204, Cap Varelle giả ở phiá nam Cap Varelle [Đèo Cả, mũi Đại Lãnh] 70 dặm.

Số 5: Phần bờ biển Nam Hà kể từ le faux cap Varelle [?].

Số 6: Bản đồ vịnh và cảng Camraigne [Cam Ranh] với con sông chảy qua.

Số 7: Bản đồ vịnh Nha Trang.

Số 8: Bản đồ bờ biển Nam Hà từ đảo Shala [?] tới cap Varelle [Đèo Cả, mũi Đại Lãnh].

Số 9: Bản đồ những hải cảng Quan-Dai [Xuân Đài], Vung Lam [Vũng Lấm] và Vung Chao [Vũng Chào].

Số 10: Bản đồ hải cảng Cù Mông, hải cảng Qui Nhơn.

Số 11: Bản đồ hải cảng Đà Nẵng, rút ở tác phẩm của lord Macartney.

Số 12: Bản đồ một phần sông Sài Gòn, từ tỉnh Sài Gòn ra tới cửa biển, của phó đô đốc de Rosily, và bản đồ cảng Candiu [Cần Giờ?] (bản in).

Số 13: Bản đồ một phần biển Đông vẽ theo nhận xét của phó đô đốc de Rosily, 1798 (bản in).

Số 14: Bản đồ vịnh Manillle và vùng chung quanh, theo nhận xét của phó đô đốc de Rosily, 1798 (bản in). (Kergariou, t. 152-153).

Kergariou dù thất bại trong sứ mạng chính trị, cũng không uổng công đến Việt Nam, vì ông đã đi thám sát bờ biển Việt Nam, bằng tập bản đồ của Dayot, đã kiểm soát kỹ càng những địa danh nào viết sai tên, được Vannier chỉnh đốn lại, và Kergariou đã xác định bản đồ Dayot có giá trị lớn. Sau này, những tàu buôn, tàu chiến của Pháp, đều dùng bản đồ Dayot để đến, hoặc để xâm phạm bờ cõi nước ta.

 

 

Vụ tàu Cléopâtre

Dưới thời Vương Chính Trùng Hưng (Restauration), ngoài chiến hạm Cybèle, còn có những tàu buôn như La Paix và Henry của các hãng Balguerie-Sarget và Philippon gửi tới VN trước. Đến 1819, hai hãng này còn có hai tàu ba cột buồm đến Đà Nẵng. Sau đó, Philippon ngừng hẳn, Balguerie-Sarget tiếp tục gửi các tàu: Larose, Neptune, Courrier de la Paix, đến Việt Nam từ 1820 đến 1826. Chính quyền Pháp muốn làm tiếp công việc Kergariou đã mở đầu, năm 1822, lại sai chiến hạm Cléopâtre, do đại uý Courson de la Ville-Hélio điều khiển, đến Đà Nẵng.

Cléopâtre cập bến Đà Nẵng ngày 20/2/1822, Chaigneau đang giữ chức Đại Lý của chính phủ Pháp tại Huế, kiêm Lãnh sự “bí mật” đối với kiều dân Pháp (xem chương 22, Chaigneau II). Courson de la Ville-Hélio báo cho Chaigneau biết ý muốn đến “chào vua”. Dĩ nhiên lần này Chaigneau cũng không vận động được gì hơn Vannier và Kergariou lần trước.

Salles kể lại rằng: Ngày 4/3/1822, vua Minh Mạng ra chỉ dụ sai Chaigneau đi đón Cléopâtre, với tư cách là quan của triều đình. Courson de la Ville-Hélio ngỏ ý muốn “đến chào nhà vua với tư cách đại tá hải quân hoàng gia Pháp”, nhưng, theo Salles, “ông Lãnh sự đã hết sức cố gắng, mà cũng không thuyết phục được vua tiếp, thậm chí, nhà vua còn bắt ông trở lại Đà Nẵng bằng đường bộ với “một đoàn quân từ Huế” như để đề phòng tàu Pháp tấn công!” Rồi Salles kết luận: “Chính sách thân thiện của Minh Mạng với Pháp là như thế đó!” (Salles, 87).

Chúng ta có thể tin việc này là thực, bởi Minh Mạng không những tiếp tục con đường chính trị của cha, mà ông còn là nhà kiến trúc lớn, xây dựng nhiều thành trì kiên cố ở khắp nơi trong nước (mà Cardière nhận là thành Vauban do Pháp xây, xem chương 15, Cadière); việc bảo vệ bờ cõi là điểm quan yếu của ông: cửa biển Đà Nẵng trở thành một pháo đài không xâm phạm được, cũng là nhờ Minh Mạng. Khi Pháp đưa chiến hạm Cléopâtre đến để thị uy, Minh Mạng sai Chaigneau đem quân ra đón, là một hành động chính trị rất cao.

Chiến hạm Cléopâtre rời Đà Nẵng ngày 10/3/1822. Từ Paris, Bộ trưởng ngoại giao, trong thư ngày 7/12/1822, khiển trách Chaigneau đã không thuyết phục được Minh Mạng hết nghi ngờ nước Pháp (Salles, t. 88).

Sứ bộ John Crawfurd

 

Sáu tháng sau khi tàu Cléopâtre nhổ neo, tàu John Adam của Công Ty Anh-Ấn cập bến Đà Nẵng ngày 14/9/1822, với John Crawfurd, đại diện hầu tước de Hastings, toàn quyền Ấn Độ.

Chính quyền Anh, sau vụ Roberts, năm 1804, bỏ đi với lá thư cực kỳ vô lễ, khiến vua Gia Long nổi giận, đã tìm cách trở lại dưới triều Minh Mạng, và đổi thái độ: John Crawfurd không xin đất để mở thương điếm như trước, mà chấp nhận được quyền tự do buôn bán như các quốc gia khác ở Á Châu, nên được Minh Mạng tiếp đãi tử tế, cho về Kinh, tuy vẫn không được gặp vua.

Thực Lục, tháng 9/1822, ghi: “Tổng đốc Manh Nha Hố (tên đất) nước Anh Cát Lợi là Hà Sĩ Định [Hastings] sai Cá La Khoa Thắc [John Crawfurd] mang thư đến dâng phương vật (500 khẩu súng tay, một đôi đèn pha lê lớn). Thuyền đến Đà Nẵng. Dinh thần Quảng Nam dịch thư dâng lên. Trong thư chỉ xin thông thương, cũng như các ngoại quốc khác, không dám xin lập phố để ở. Sai đưa đến Kinh. Cá La Khoa Thắc thành khẩn xin yết kiến.

Vua nói: “Hắn là người của Tổng Đốc phái đi, không phải do mệnh của quốc vương”. Không cho. Những phẩm vật dâng biếu, cũng không nhận. Sai hữu ty bàn định điều lệ về các nước đến buôn, làm thư của Thương Bạc bảo cho biết [sau đó Thực Lục ghi một danh sách rất dài tên các sản vật nhập khẩu và chiều kích các tàu thuyền của các nước vào các cảng, kèm với giá thuế phải đóng, theo từng miền, từng nước].

Thưởng cấp cho rồi bảo về (thưởng tổng đốc Hà Sĩ Định ngà voi ba đôi, quế 10 cân, kỳ nam, trầm hương đều 5 cân, sừng tê bịt vàng 4 toà, đường phèn 300 cân; thưởng Cá La Khoa Thắc, ngà voi một đôi, quế 2 cân, sừng tê 1 toà, trầm hương 2 cân: thưởng người trong thuyền, bò, dê, lợn, đều 10 con, gà vịt đều 100 con, gạo trắng, gạo đỏ, đều 50 bao, gạo nếp 20 bao. Các thứ thưởng cho viên tổng đốc thì Cá La Khoa Thắc từ không dám lĩnh) (TL, II, t. 226).

Tuy không tiếp, nhưng thái độ của Minh Mạng rất cởi mở, vì Crawfurd trong thư chỉ xin thông thương, cũng như các ngoại quốc khác, không dám xin lập phố để ở. Crawfurd được dễ dàng đến Huế với vài người tuỳ tùng, hai ngày sau mới gặp Chaigneau và Vannier, khi hai người này đến đón, dẫn Crawfurd lại thăm quan Tượng binh [Nguyễn Đức Xuyên], từ đó gặp gỡ luôn, trong các cuộc thương thuyết, hoặc được dẫn đi chơi trong kinh đô để thấy sự kiên cố của hoàng thành (Salles, t. 89).

Theo Cadière, Crawfurd xếp thời gian này vào đầu tháng 10/1822. Ngày 3/10/1822, Chaigneau mời tất cả phái đoàn Anh và kiều dân Pháp tại Huế đến dự tiệc ở nhà ông. Sau bữa tiệc, cả đoàn đi thăm phố chợ. Vannier ở khá xa nhà Chaigneau: Ở làng Minh Hương gần Bao Vinh (Cadière, La Maison de JB Chaigneau, Consul de France à Huế, BAVH, 1922, I, t. 30).

Cadière dịch lời Crawfurd kể: “Ngày 4/10: Ông Chaigneau tiếp đón chúng tôi hôm qua trong dinh cơ của ông ở bên bờ sông. Bữa ăn hoàn toàn Pháp. Ở nhà ông Vannier hôm trước, chúng tôi cũng được tiếp như thế. Tất cả người Pháp ở chung quanh khu chợ đều được mời đến dự tiệc trong hai dịp này. Một ông bác sĩ già đã làm việc trên tàu của ông de Suffren, cháu ông Chaigneau và hai con trai của ông; các giáo sĩ Pháp ở xa, cách 15 dặm, nên chúng tôi không gặp. Vợ ông Chaigneau là con một người Pháp rất đàng hoàng, bà đã theo chồng sang Pháp cách đây ba năm. Bà Vannier người Việt, nét mặt thanh tú, dáng dỏng cao, xinh đẹp như người miền nam châu Âu. Cả hai ông và vợ đều mặc y phục Việt; họ phải theo tục lệ ở đây: tất cả những người ngoại quốc nào muốn ở đây luôn cũng phải ăn mặc như vậy; ngay cả người Tàu, nhất định không chịu, rồi cũng phải theo; vì đó là tự ái dân tộc Việt. Họ cho rằng y phục ngoại quốc, dù thế nào chăng nữa, cũng rất buồn cười, khêu gợi lòng hiếu kỳ, sẽ trở thành rất bực bội… Hai chủ nhân đã tiếp chúng tôi hết sức lễ độ, hiếu khách, hoà nhã chân thành khó có thể hơn được. Tôi vẫn giữ lòng biết ơn đối với sự ân cần mà họ dành cho chúng tôi.” (Cadière, La Maison de Chaigneau, Consul de France à Huế, BAVH, 1922, t. 30-31), và Cadière viết thêm câu: “… sự khen ngợi này, không có gì khả nghi, đến từ ngòi bút của trưởng phái đoàn Anh vừa cướp chỗ [supplanter] của Pháp ở Việt Nam”. (BAVH, 1922, t. 31).

Trích đoạn trên đây cho thấy rõ sinh hoạt của người ngoại quốc ở Việt Nam đầu thời Minh Mạng: Không có chuyện “bế quan toả cảng”, thuyền tàu ngoại quốc ra vào và kiều dân Pháp sinh sống bình thường, tuy phải theo phong tục nước Việt. Pháp rất bực bội và ganh tỵ với phái đoàn Crawfurd. Tuy Crawfurd được tiếp đón lịch sự nhưng cũng không xin được bệ kiến vua, vì không mang thư của Anh hoàng, nhưng triều đình thoả thuận cho người Anh tự do buôn bán như người Hoa, ở Sài Gòn, Đà Nẵng, Hội An, Huế, trừ Hà Tiên và Kẻ Chợ tức Hà Nội. Sứ mệnh coi như thành công và Crawfurd có cảm tưởng triều đình đã dịu bớt nghi ngờ nước Anh.

Sự kiện này được coi là thành công của chính phủ Anh, càng làm cho Pháp khó chịu về sự thất bại của Chaigneau. Cadière cho rằng Anh đã “cướp” chỗ của Pháp ở Việt Nam. (Cadière, La Maison de Chaigneau, Consul de France à Huế, BAVH, 1922, t. 31).

Sau vụ Crawfurd, Chaigneau và Vannier càng thêm chán nản. Ngày 9/12/1822, linh mục Taberd viết cho một người bạn: “Hai ông này chán ở đây rồi, muốn trở về Pháp”. Chaigneau cũng viết cho linh mục Baroudel ngày 23/5/1823: “Tôi sẽ lấy tàu Larose về Pháp trong kỳ gió mùa sắp tới” (Salles, t. 90).

Tàu Thétis

 

Ba năm sau vụ tàu Cléopâtre và sau khi Chaigneau, Vannier đã về Pháp vĩnh viễn, Pháp gửi chiến hạm Thétis chở 44 đại bác và 300 thuỷ binh do Bougainville điều khiển, đến Đà Nẵng từ 12/1/1825 đến 17/2/1825, với nhiệm vụ “thuần tuý hoà bình và che chở việc buôn bán”. Bougainville cũng được tiếp đãi đúng mức, nhưng cũng không được gặp vua. Ông kể lại trong hồi ký: thuỷ thủ đoàn được dân chúng tiếp đãi niềm nở, tuy nhiên khi ông xin được tiếp kiến để dâng thư của Pháp Hoàng Louis XVIII, vua nước Nam từ chối không nhận, lấy cớ là thư của Pháp Hoàng viết bằng tiếng Pháp và hiện nay, sau khi Chaigneau và Vannier đi rồi, trong triều không còn ai biết tiếng Pháp để dịch thư nữa.

Đó chỉ là lý do có tính cách ngoại giao của Minh Mạng, sự từ chối này bắt nguồn từ một nguyên nhân khác, Thực Lục, tháng 1-2/1825, ghi: “Nước Phú Lãng Sa sai người đem quốc thư và phẩm vật đến xin thông hiếu. Tàu đến Đà Nẵng, dinh thần Quảng Nam đem việc tâu lên.

Vua bảo rằng: “Nước Phú Lãng Sa cùng nước Anh Cát Lợi thù nhau. Năm trước, nước Anh Cát Lợi nhiều lần dâng lễ, trẫm đều từ chối không nhận, nay chẳng lẽ lại cho Phú Lãng Sa thông hiếu! Song nghĩ khi Đức Hoàng Khảo ta bước đầu bôn ba từng sai Anh Duệ Thái Tử [hoàng tử Cảnh] sang nước họ, cũng có ơn cũ, nếu vội cự tuyệt thì chẳng phải là ý mến người xa”. Liền sai làm thư của Thương Bạc [liền sai quan Thương Bạc viết thư] và thưởng cho mà khiến về. Quốc thư cùng lễ vật thì không cho trình dâng” (TL, II, t. 388).

Như thế, trước bối cảnh nước Tàu bắt đầu bị liệt cường xâu xé, chính sách ngoại giao của Minh Mạng rất rõ: Không muốn gây sự cạnh tranh giữa hai cường quốc Anh-Pháp, nhưng kiên trì giữ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, không cho ai một tấc đất nào, dù chỉ là để làm “thương điếm”.

Lời đầu

và lời cuối cho một cuốn sách

Là người ngoại đạo đối với sử học, khi định viết cuốn sách này, những gì biết được về thời Gia Long của tôi không quá những điều đã học trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, còn những kiến thức thu lượm được qua sự đọc về sau, cũng chưa xoá nổi cái án mà người Việt dành cho nhà vua qua công thức: “Gia Long cõng rắn cắn gà nhà”.

Hơn 50 năm sống ở Pháp, cho phép tôi nhìn người Pháp một cách công bằng hơn, tức là nhìn họ như một thực thể con người, không phải là bọn “thực dân tàn ác”, cũng không phải là một dân tộc “cao” hơn, giỏi hơn chúng ta về mọi mặt, một sự “cao sang” của người Âu, người da trắng, mà chúng ta muốn mà không đạt nổi, đã biến thành cách lập ngôn “như Tây”.

Ở Pháp, tôi mới hiểu ra rằng: Chỉ khi mặc cảm thấp hèn của người dân thuộc địa bị tiêu diệt đi rồi, ta mới có thể nhìn người Pháp một cách bình thường, và điều tra lại lịch sử Pháp-Việt một cách thẳng thắn hơn. Cuốn sách này nằm trong mục đích đó.

Đề tài là tìm lại công trạng đích thực của những người Pháp đến giúp Gia Long, có nghiã là phải tìm xem những người Pháp ấy đã sống, đã tham dự vào các sự kiện lịch sử xảy ra trong thời kỳ Gia Long khởi nghiệp như thế nào, họ đã để lại những công trình gì, họ đã lập được bao nhiêu chiến công? Sự khảo sát này sẽ phải đi từ chính những gì mà những người trong cuộc viết lại qua thư từ, hồi ký, để so sánh với những điều mà các sử gia thuộc địa thuật lại sau này, trong quá trình soạn sử từ hơn 100 năm nay.

Bộ sách chứa đựng nhiều tài liệu quan trọng, có thể làm nền cho việc nghiên cứu là toàn bộ tập san Đô Thành Hiếu Cổ (Bulletin des Amis du Vieux Huế, BAVH) do linh mục học giả Cadière làm chủ bút, với sự cộng tác của nhiều tác giả khác nhau, trong hơn 20 năm, đã tạo nên một thứ “học viện” về vấn đề này, với những bài nghiên cứu, chủ yếu loạt bài Les français au service de Gia Long (Những người Pháp giúp Gia Long) do vị linh mục chủ bút chủ xướng và thực hiện. Tập san này chia làm hai phần:

1- Phần nghiên cứu: sưu tập, dịch và in lại nhiều tài liệu gốc, rút ra từ những văn khố.

2- Bình luận hoặc trình bày lịch sử theo quan điểm thuộc địa.

Phần một, về tài liệu gốc, có giá trị cơ bản.

Phần hai, dù được viết dưới dạng phân tích và tổng hợp một cách khoa học, nhưng mấu chốt vẫn dựa trên những điều do các ngòi bút đi trước như La Bissachère, Sainte-Croix, Alexis Faure, Louvet… viết ra, và những người này, đã dựng nên một số điều, lấy sự bịa đặt làm cơ sở. Tuy nhiên, những bịa đặt này của họ, không thể đi xa được, nếu không có sự tiếp tay của các nhà nghiên cứu, sử gia như Maybon, học giả như Cadière.

Cho nên, có thể nói, từ thập niên 20 thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu thuộc điạ, đã xây nên một thứ huyễn sử, trong đó, Bá Đa Lộc có công tột đỉnh: đứng đầu tổ chức, mua súng ống, tàu chiến, mộ các “sĩ quan” và binh lính Pháp về giúp Nguyễn Ánh thống nhất đất nước. Các “sĩ quan” này, không những đã lập chiến công rực rỡ mà còn làm tàu chiến, dựng nền pháo binh và tổ chức quân đội theo lối Tây phương, xây dựng những thành trì kiến trúc kiểu “Vauban” trên toàn thể nước Việt, dưới thời Gia Long và Minh Mạng.

Hơn 100 năm qua, chẳng những chúng ta chấp nhận huyễn sử đó, không một lời bàn lại mà còn khuếch trương thêm trong sách sử Việt. Chỉ riêng Trần Trọng Kim, khi viết về giai đoạn này, đã theo sát Thực Lục hơn cả, nên ông ít bị sai lầm. Còn những ai tiếp nhận lập luận và thông tin do các tác giả thực dân đưa ra mà không so sánh với những điều ghi trong quốc sử, hoặc coi thường quốc sử, thường mắc những sai lầm nghiêm trọng.

Bởi vì, từ sự so sánh này, sẽ nảy ra những khác biệt vô cùng quan trọng, giữa những con người đích thực và những con người trong huyễn sử. Những tài liệu gốc, do chính tay Bá Đa Lộc và những người lính Pháp viết ra, để lại cho chúng ta hình ảnh:

- Một Bá Đa Lộc, thất bại nặng nề, trong sự cố sức vận động chính phủ Pháp đem quân giúp Nguyễn Ánh, mục đích dẫn đường cho Pháp vào Việt Nam, để khi Gia Long tại vị, sẽ có một chính quyền thân đạo; để khi hoàng tử Cảnh nối nghiệp cha, sẽ có một ông vua thân Pháp, học trò của mình.

- Những người lính Pháp vô học, vì hoàn cảnh xung lính tình nguyện, nhưng không kham nổi chính sách khắc nghiệt trên các tàu chiến thời đó, nên đã đào ngũ, đã trôi giạt đến Nam Hà, mà họ tưởng là một nước giàu có, họ tưởng Nguyễn Ánh là một thứ tiểu vương Ấn Độ, vàng bạc châu báu đầy người; nhưng rồi họ sớm thất vọng, phần lớn đều đã bỏ đi.

- Trong số rất ít người còn lại, chỉ Olivier de Puymanel là có công hợp tác với các chuyên viên Việt, chế tạo các hạng hoả xa, chấn địa lôi, và làm kế hoả công đốt thuyền địch; chỉ Vannier, Chaigneau và de Forçant là được quản ba thuyền bọc đồng, Phượng Phi, Long Phi và Bằng Phi, trong hai năm cuối của cuộc chiến: 1801-1802.

Nhưng khi các sử gia thuộc điạ thuật lại công trạng của Bá Đa Lộc và những người lính này, thì như có một ngọn đũa thần: đức cha Bá Đa Lộc thoát khỏi vị trí thầy tu để trở thành vị “nguyên thủ”, “người cha tinh thần”, đã “cầm đầu” cuộc chiến.

Những người lính vô học đào ngũ, trở thành những vị “sĩ quan”, những “kỹ sư”, những “kiến trúc sư”, những nhà lãnh đạo, tổ chức và huấn luyện quân đội, xây dựng những thành quách “Vauban” ở Việt Nam…

Sự biến đổi có tính cách thần thoại đó, không chỉ ngừng ở các sách nghiên cứu có tính cách thuộc địa của một miền như tập san Đô Thành Hiếu Cổ, mà nó đã đi và bộ nhớ kinh viện của các từ điển như Larousse. Khi tra chữ Gia Long, chúng ta sẽ thấy những dòng sau đây: “Nguyễn Ánh, sinh ở Huế (1762-1820), Hoàng đế An Nam (1802-1820). Ông chiếm lại đất nước bằng sự giúp đỡ của nước Pháp và xây dựng nên triều đại nhà Nguyễn” (Petit Larousse en couleurs, Paris, 1980, t. 1248).

Vì thế, việc điều tra lại sự thật, là cần thiết; có thể, ngay bây giờ, chưa đem lại hiệu quả, nhưng 5 năm nữa, 10 năm nữa, 100 năm nữa, nếu chúng ta kiên trì trong sự tìm kiếm lại sự thực lịch sử, không chỉ trong giai đoạn Gia Long, mà tất cả những giai đoạn khác, từ thời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, đến thời Pháp thuộc, sang chiến tranh Đông Dương, và cuộc chiến Việt Nam, 1954-1975.

Việc làm chúng tôi vừa thử nghiệm với Gia Long chỉ là bước đầu, với những dò dẫm, khám phá, cố gắng tìm kiếm một số sự kiện chúng ta tưởng rằng như thế, mà thực sự không phải thế. Còn lại, là cả một không gian và thời gian lịch sử mênh mông trước mắt chúng ta, chưa hề được khám phá và tháo gỡ để hiểu đâu là sự thực.

Nhờ các bộ chính sử biên niên của nhà Nguyễn, về bốn triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, mà chúng ta có những tài liệu đáng tin cậy về phiá Việt, để có thể đối chiếu với những tài liệu của Pháp. Việc viết lại sử về các thời đại này, tuy khó, nhưng còn có thể làm được. Sau khi vua Tự Đức mất, nước ta mất dần quyền tự trị, các sử gia của triều đình Huế, không còn tự do để ghi lại những sự thật mà người Pháp thực dân không muốn đưa ra. Vì vậy, công việc nghiên cứu sử, sau thời Tự Đức, đã là khó khăn gấp bội.

Khi Nguyễn Quốc Trị tìm lại lịch sử Nguyễn Văn Tường, ông đã gặp những khó khăn đó: Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất thuyết, vì cực lực chống Pháp, nên đã bị bôi nhọ bằng đủ cách, không chỉ trong tài liệu và sử sách của Pháp, mà còn cả trong chính sử Việt Nam. Nguyễn Quốc Trị đã tìm tòi và đưa ra ánh sáng, trình bày các tư liệu gốc đã bị các ngòi bút thực dân che đậy, xuyên tạc, không chỉ trong trường hợp Nguyễn Văn Tường – Tôn Thất Thuyết, mà còn cả về các vua quan nhà Nguyễn.

Tựu trung, sự vắng mặt một nền nghiên cứu sử học có hệ thống về triều đại nhà Nguyễn, trong khoảng 100 năm nay, cộng thêm sự chôn vùi và bôi nhọ nhà Nguyễn do chính quyền cộng sản gây ra, đã tạo ra một thế hệ người Việt không biết rõ sử của nước mình, từ cuối thế kỷ XVIII đến ngày nay, tức là gần ba thế kỷ. Lỗ hổng không thể lấp nổi này, hiện nay quá trễ với một số người, nhưng còn có thể cứu vãn với một một số người khác, nếu chúng ta kịp thời hành động. Để làm gì?

Để biết rõ đời sống người Việt trong khoảng hơn 200 năm nay.

Để biết những gì đã thực sự xảy ra trong lịch sử. Biết công lao đích thực của nhà Nguyễn, đặc biệt, Gia Long vừa lên ngôi đã phải ngăn ngừa tham vọng Anh, Pháp xâm chiếm lãnh thổ, Minh Mạng đã xây dựng và bảo toàn bờ cõi, Thiệu Trị đã bị tàu Pháp đánh lén, chấm dứt hy vọng “ngoại giao và thông thương”, Tự Đức đã chống trả với Pháp trong gần ba mươi năm, trong những điều kiện như thế nào.

Để biết những gì người Việt thực sự đã làm, mà người Pháp thực dân tìm cách cướp công.

Để biết những khó khăn của triều Nguyễn, trong việc giữ gìn xứ sở được toàn vẹn trong gần 100 năm, khi làn sóng Âu Châu tràn sang chiếm hữu Á Châu, khiến những nước lớn như nước Tàu cũng bị liệt cường xâu xé.

Lịch sử không chỉ nằm chết trong những ngày tháng bất động, ai thắng, ai thua, mà lịch sử còn là đời sống con người, là vua Gia Long nói gì, là Bá Đa Lộc nói gì, là người dân cửa biển Đà Nẵng phản ứng thế nào khi thấy tàu ngoại quốc tiến vào bến cảng?

Lịch sử còn là Gia Long đối phó như thế nào khi tàu Việt bị tàu Anh bắt giữ.

Lịch sử còn là sự tiếp đãi một tàu ngoại quốc dưới thời Gia Long, Minh Mạng như thế nào, và những sự kiện này đã bị sử gia thực dân xuyên tạc ra sao?

Lịch sử còn là tìm hiểu việc các sứ bộ Anh Pháp đến xin “thông thương”, mà chúng ta ngây thơ tưởng họ chỉ xin “buôn bán” mà các vua “bế quan toả cảng” không cho. Thực ra, sự “thông thương” của họ có nghiã là “xin” một mảnh đất, một thành phố, để đặt “bản doanh” trên nước Việt.

Lịch sử còn là việc Minh Mạng đã bắt đầu thay đổi chính sách ngoại giao, năm 1839, đã gửi phái đoàn sang Âu Châu quan sát và học hỏi, nhưng khi họ trở về thì Minh Mạng đã mất đột ngột vì ngã ngựa, nên chương trình bị bỏ dở.

Lịch sử còn là sự điều tra xem những gì đã xảy ra, khi hai tàu chiến Pháp Gloire và Victorieuse do Lapierre và Rigault de Genouilly điều khiển, đến Đà Nẵng, 15/4/1847, đã tấn công lén, đã tiêu diệt 5 thuyền chiến bọc đồng của triều đình, rồi bỏ trốn, khiến vua Thiệu Trị phẫn uất mà chết, trong những tháng sau đó. Nhưng phiá Pháp, câu chuyện được trình bày ngược lại: Tàu Pháp đến để “cứu” Giám mục Lefèbvre (đã được vua Thiệu Trị trả tự do từ trước); đậu ở Đà Nẵng, bị 5 tàu đồng Việt “tấn công” và đã chuốc lấy thảm bại!

Lịch sử bắt buộc chúng ta phải điều tra lại tất cả những gì được các sử gia thực dân đưa ra, những gì của chính người Việt chép lại, rồi phải xem xét, đọc lại những bàn định, những kế hoạch, trong triều Thiệu Trị, phải khảo sát những chi tiết nhỏ xảy ra tại hiện trường, để đối chiếu với những gì mà thuyền trưởng Lapierre công bố trên báo chí thời đó, để che giấu, lấp liếm sự thật.

Điều tra, như vậy để làm gì?

- Điều tra để tìm lại sự thực lịch sử, dĩ nhiên, nhưng không chỉ lịch sử trận Đà Nẵng 15/4/1847. Trận Đà Nẵng chỉ là một yếu tố trong lịch sử, mà lịch sử bao gồm hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn, yếu tố… mọi yếu tố đều phải soi rạng, chiếu kỹ, đến cùng.

Bởi nếu không điều tra, chúng ta sẽ phải đời đời chấp nhận, những “sự thực” của sử gia thực dân, như: vua Gia Long nhờ nước Pháp mới lấy lại được ngai vàng, Olivier de Puymanel là thủy tổ xây dựng nên các thành trì Vauban ở Việt Nam, v.v.

- Điều tra để rút kinh nghiệm quá khứ, cho hiện tại và tương lai.

- Điều tra bởi vì công việc các sử gia nhà Nguyễn, trong suốt chiều dài hơn một thế kỷ, đã không được tiếp nối, trong thời kỳ Pháp thuộc, hoặc có, nhưng dưới sự giám định của chính quyền thực dân. Không được tiếp nối, sau hiệp định Genève, 1954, bở vì, miền Bắc thuộc chính quyền cộng sản với hậu quả của nó như chúng ta đã biết; và miền Nam trong 20 năm tương đối tự do, nhưng không đủ phương tiện và thời gian để dựng lại môt nền sử học có cơ sở. Sau đó, cả nước rơi vào thể chế toàn trị.

Sự ghi chép sử hàng ngày, hàng tháng của chúng ta đã dừng lại ở thời Tự Đức, tức là nửa sau thế kỷ XIX. Trong gần hai thế kỷ, chúng ta không có một nền nghiên cứu sử học liên tục theo lối biên niên hay phân tích tổng hợp.

Cho nên, những người nghiên cứu lịch sử sau này, sẽ không thể có những tài liệu, dù chính thống nhưng đúng đắn như Thực Lục, Liệt Truyện… để làm mốc dựa vào và điều tra thêm. Nhưng tệ hại hơn nữa, là họ sẽ không có tài liệu nào về phiá chính thống, có thể tin được để mà sử dụng. Với những hồi ký nhiều tập của Võ Nguyên Giáp, chúng ta khó rút ra được một sự thực lịch sử đáng tin cậy, về trận Điện Biên Phủ: Ai lập chiến thuật, quân lực hai bên, vũ khí, con số, tình hình các mặt trận… đã chính xác xảy ra như thế nào?

Bởi vì, người ta không thể viết lịch sử bằng những thông tin tuyên truyền; cho nên, khi một bên chỉ đưa ra những thông tin phóng đại, thì người viết sử bắt buộc phải dùng những thông tin “ít tuyên truyền lộ liễu” hơn, tức là họ sẽ dùng những tư liệu bên kia, của Pháp, trong chiến tranh Đông Dương và của Mỹ, trong cuộc chiến Việt Nam 1954-1975.

Và kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng, khi chỉ có tài liệu của một bên, thì sẽ đưa đến những khó khăn, sai lầm, không thể lường được, vì lịch sử sẽ được viết, theo những điều mà người ta cho phép công bố.

Sau cùng, lịch sử là môn học và nghiên cứu vô cùng lôi cuốn, là một cuộc điều tra không ngừng, về dữ kiện và về con người, về sự man trá và chính trực của con người, là kho tàng chứa những kinh nghiệm cứu nước, giữ nước và xây dựng đất nước.

Sở dĩ ngày nay, học trò không muốn học lịch sử vì người ta đã đánh chết lịch sử bằng phương pháp chôn vùi sự thật, mà lịch sử là sự đào bới sự thực. Tất cả những oan khuất của con người, trong những thế hệ đã qua, đều nằm trong da thịt của lịch sử, sẽ được hết lớp này, lớp khác thay phiên nhau đào lên, để cởi mở, giải thoát, bởi vì sự nghiên cứu lịch sử giúp chúng ta dựng lại con người toàn diện, dựng lại một đất nước toàn diện, dựng lại một nền văn minh toàn diện, dù cho nó đã bị lấp liếm, cướp đoạt, cả trăm năm, bởi những thông tin ngụy tạo.

Thụy Khuê

Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XXXXXVua Gia Long và người Pháp 5

Vua Gia Long và người Pháp 5 Chương 18 Olivier De Puymanel (1768-1799) Phần I: Khởi hành Olivier de Puymanel và Laurent Barisy là ha...