Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2024

XXXXXVua Gia Long và người Pháp 4

Vua Gia Long và người Pháp 4

Chương 15: Học giả Cadière và tập san Đô Thành Hiếu Cổ

Léopold Cadière

Linh mục Léopold Cadière, chủ bút tập san Đô Thành Hiếu Cổ Bulletin des Amis du Vieux Huế (BAVH), là một trong những học giả Pháp nổi bật nhất trong giới nghiên cứu lịch sử và văn hoá Việt đầu thế kỷ XX tại Hà Nội. Những công trình nghiên cứu của ông như: Le mur de Đồng Hới (Luỹ Đồng Hới) in trong tập san Trường Viễn Đông Bác Cổ Bulletin de l’École Française d’Extrême Orient (BEFEO), số 6, 1906, (t. 87-254), hoặc Le quartier des Arènes – Jean de la Croix et les premiers Jésuites (Khu vực Hổ Quyền – Jean de la Croix và những linh mục dòng Tên đầu tiên), BAVH, 1924, IV, (t. 307-332), đã góp phần xây dựng nên tên tuổi và uy tín của ông và sự kính trọng của người Việt đối với tập san Đô Thành Hiếu Cổ, qua những bài nghiên cứu về Huế và những gì liên quan đến cố đô, trong quá trình văn hoá và lịch sử.

Về đề tài những người Pháp đến giúp Gia Long, Cadière bắt đầu bằng tập tài liệu Les documents relatifs à l’époque de Gia Long (Tài liệu liên quan đến thời Gia Long) in trên BEFEO, số 12, 1912. Đây là tập tài liệu gốc, có giá trị, gồm một số thư từ của các thừa sai và lính Pháp viết trong thời kỳ này, do ông sưu tập.

Từ 1917 đến 1926, học giả Cadière bắt đầu cho đăng trên tập san Đô Thành Hiếu Cổ (BAVH) loạt bài Les français au service de Gia Long (Những người Pháp giúp Gia Long) chủ yếu do ông viết, thêm vài bài của Cosserat và Salles.

Cùng năm 1917, H. Cosserat, đại diện thương mại, viết bài: Notes biographiques sur les français au service de Gia Long (Ghi chú tiểu sử những người Pháp giúp Gia Long), BAVH, 1917, III, t. 165-206), cũng là một bài nghiên cứu nghiêm túc, tuy thiếu sót, về tiểu sử những người lính Pháp mà ông sưu tầm được. Cosserat gạt bỏ những điểm bịa đặt hoặc tôn sùng thái quá của Faure, chỉ giữ lại những điều có thể tin được.

André Salles, thanh tra thuộc địa về hưu, cho in trên BAVH, 1923, I, một hồ sơ đầy đủ về Jean-Baptiste Chaigneau và gia đình do chính ông sưu tầm qua con cháu Chaigenau. André Salles là người đã theo dõi hoạt động của Phan Văn Trường tại Pháp và tìm cách triệt hạ nhóm “Người An Nam Yêu Nước” mà chúng tôi đã có dịp nói đến khá nhiều trong cuốn Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc. Ngoài ra Salles còn sưu tầm về Philippe Vannier (BAVH, 1935, II) và Laurent Barisy (BAVH, 1939, III) do Cosserat cho in và trình bày, sau khi ông mất.

Năm 1926, Cadière đưa ra một tập tài liệu gốc, trong loạt bài Les français au service de Gia Long, tựa đề Leur correspondance (Thư từ), gồm 31 lá thư của những quân nhân Pháp, in trong BAVH, 1926, IV, cả cuốn. Chính những lá thư này đã giúp chúng ta xác định trình độ học vấn của những người lính Pháp, được tôn lên làm kỹ sư, kiến trúc sư.

Ngoài ra còn phải kể đến những bài nghiên cứu giá trị của các tác giả khác, liên quan đến triều đại Gia Long, như bài của Sogny, chánh mật thám (Chef de la Sureté de l’Annam) tựa đề: Les associés de gauche et de droite au culte du Thế Miếu (Bài vị tả hữu ở Thế miếu) (BAVH, 1914, II), dịch những bài vị các đại tướng và đại thần, thờ trong Thế Miếu. Bài của Võ Tá Liêm, trước là Tá Lý sau là Thượng Thư Bộ Binh, tựa đề Capitale de Thuận Hoá (Kinh đô Thuận Hoá) (BAVH, 1916, III), viết về lịch sử xây dựng kinh đô Huế mà Gia Long là tác giả. Bài của Colonel Ardant du Pisq: Les fortifications de la citadelle de Huế (Kinh thành Huế) (BAVH, 1924, III) xác định lại một lần nữa Thành Huế do vua Gia Long thực hiện. Và BAVH, 1933, I, cả cuốn, dành cho đề tài La citadele de Huế (Thành Huế) BAVH, do Cosserat chủ biên và viết bài giới thiệu, lại xác định lại một lần nữa chính vua Gia Long chủ trì việc xây thành Huế.

Qua những loạt bài này, chúng ta có thể rút ra hai nhận xét sau đây:

1- Tập san Đô Thành Hiếu Cổ, do Cadière chủ trương, đã có một cố gắng lớn, tìm lại dấu vết của những lính Pháp đã đến Việt Nam cuối thế kỷ XVIII. Bên cạnh vị học giả, còn có André Salles, thanh tra thuộc địa, sau khi về hưu, tìm đến hậu duệ của Chaigneau và Vannier ở Pháp, để có những giấy tờ liên quan đến tổ tiên và con cháu của họ. Salles, dù có những suy diễn một chiều, vẫn cung cấp được những chứng từ đáng tin cậy; không phải là thứ “tài liệu dựng đứng” như Bissachère, Ste-Croix hay những xác quyết vô căn cứ của Faure…

2- Đi đôi với loạt bài của Cadière và Salles, còn có những bài nghiên cứu đứng đắn đi ngược với chủ trương bóp méo lịch sử, thí dụ, về kinh thành Huế, ngoài bài của Võ Tá Liêm, còn có các bài của Ardant du Pisq, Cosserat… bác bỏ luận điệu cho rằng người Pháp có bất cứ một công trạng gì, trong việc xây thành Huế.

Chúng tôi ghi lại tên tất cả những bài viết về vấn đề Gia Long trên tập san Đô Thành Hiếu Cổ trong phần Phụ Lục 1, dưới đây.

Học giả Cadière

 

Học giả Cadière tập trung vào lối viết của một nhà nghiên cứu, trong ba bài đầu tiên của loạt Les français au service de Gia Long (Những người Pháp giúp Gia Long), bài đầu tiên, ông tìm lại dấu vết những người Pháp này trên đất Huế, với việc nghiên cứu và xác định vị trí dinh cơ của Chaigneau; bài thứ hai tìm lại ngôi mộ của de Forcant, bài thứ ba, ông sưu tầm, dịch và chú giải những chỉ dụ sai phái, văn bằng, vua ban cho họ, với một chủ đích sâu xa: nâng họ lên điạ vị quý tộc, hiểu theo nghiã Tây phương, xứng đáng với vai trò “khai quốc” đối với nhà Nguyễn. Cadière muốn “chứng minh” rằng chính vua Gia Long đã nhận thấy công lao rất lớn của họ, đã trọng thưởng và đưa họ lên địa vị cao cấp trong hàng ngũ quý tộc.

Trong số những người này, Chaigneau, được con cháu còn giữ nhiều tư liệu nhất và André Salles, cựu thanh tra thuộc địa, đã xuống Lorient, nơi Chaigneau và Vannier cư ngụ khi trở về Pháp, tìm lại được. Ngoài ra Michel Đức, con trai Chaigneau, cũng viết cuốn Souvenirs de Huế, (Paris 1867), 47 năm sau khi về Pháp, với ý định vinh thăng cha, làm đẹp quá khứ, nhưng trí nhớ có nhiều sai lầm. Nhờ những tư liệu phụ trợ như vậy và chính bản thân vị học giả cũng sao lục được nhiều thư từ của quân nhân Pháp và các giáo sĩ liên quan đến thời đại này, cho nên cách đóng góp của ông, ở khiá cạnh tập hợp tư liệu, là đáng quý. Cadière đã tìm lại vị trí dinh cơ cũ của Chaigneau ở Huế, với một độ chính xác đáng trân trọng.

Trở lại với bài thứ ba trong loạt bài Les français au service de Gia Long, Cadière dịch và chú giải chức vụ, của những người Pháp này, người đầu tiên là Bá Đa Lộc.

Điểm lý thú là vị học giả chỉ ra nguồn gốc tên vị giám mục ghi trong Thực Lục là Bách-Đa-Lộc (có thể đọc là Bá) và ông giải thích như sau:

“Chúng ta thấy ở đây tên của Giám mục Adran viết sang chữ Hán. Ba chữ được dùng, bằng từ Hán Việt là Bách-Đa-Lộc, đọc sang tiếng Tàu là Pe-to-lou, những chữ này được người Tàu dùng để phiên âm chữ Pierre, dưới dạng La tinh là Pétrus, đọc là Petrous, hoặc dưới dạng Bồ Đào Nha là Pedro [...] Vậy đức Giám mục Adran được người Việt gọi dưới tên rửa tội, là Pierre. Trong nhà dòng ngoài Bắc, tên Pierre được gọi là Phê-rô, trong Nam gọi là Vê-rô [...] Nhưng Vê-rô là tiếng bình dân, không đủ sang trọng, không thể viết trong văn bản chính thức, thường dùng chữ Hán, cho nên người ta dùng từ Bách-Đa-Lộc” (Cadière: Les français au service de Gia Long: III- Leurs noms, titres et appelation annamites (Những người Pháp giúp Gia Long, tên, chức vụ và tên Việt), BAVH, 1920, I, t. 138).

Và trong phần giải thích và dịch những tên gọi đức giám mục, học giả Cadière cũng là người giải thích rõ nhất: “Chữ Grand Maitre mà người ta dùng để gọi đức giám mục, tiếng Việt là Thầy Cả, “Maitre Grand”. Ngày nay [đầu thế kỷ XX] chữ này dùng để gọi những thầy tu; nhưng có lẽ Gia Long và triều đình dùng để gọi đức giám mục, khi nói chuyện với ông, vua gọi ông là “Maitre”, chắc tiếng Việt là: Thầy” (Bđd, t. 142-143).

Về những người lính Pháp, Cadière cũng dịch các chức vụ của họ, nhưng có một số vấn đề, chúng tôi xin tóm lược như sau:

Họ đều là lính, binh nhì, binh nhất, đào ngũ, nhưng khi đầu quân cho Gia Long, thì do họ khai man hay vì một lý do nào khác, họ được nhận văn bằng cai đội (thất phẩm hay bát phẩm) ngày 29/6/1790, tức là được cai quản khoảng 40-50 người lính; đó là trường hợp của Vannier, Dayot, Barisy, Isle-Sellé, Lebrun, Despiaux, Guillon, Guilloux, được Louvet tìm thấy văn bằng.

Riêng Olivier de Puymanel, đầu quân trước và có lập công trong ngành pháo binh, nên tháng 7-8/1792 được thăng từ Cai đội lên Vệ Uý (tòng tam phẩm) ban trực tuyển phong hậu vệ Thần sách (TL, I, t. 286). Tháng 6/1795 Puymanel bỏ đi Macao rồi lại trở về, làm một số nhiệm vụ khác cho vua, và mất năm 1799, ở Malacca. Vannier, Chaigneau và de Forcant, đến tháng 7/1801, mới được lên Cai cơ (tứ phẩm) và tháng 6/1802, được thăng Chưởng cơ (tòng nhị phẩm). Đó là ba người ở lại trong quân đội và có chức cao nhất. De Forcant mất năm 1811, còn Chaigneau và Vannier đều lấy vợ Việt, có nhiều con và ở lại, được hưởng phú quý, Gia Long cấp cho 50 lính thuỷ hầu cận, nhưng ông cũng thận trọng, không cho họ cầm quân và cũng không cho thuyền hiệu để cai quản. Đó là những người làm việc lâu nhất cho Gia Long.

Khi Cadière, dịch tước vị của các quân nhân này sang tiếng Pháp, thì có vấn đề: Thí dụ: Văn bằng cai đội của họ, được Louvet sưu tầm và in trong cuốn La Cochinchine Religieuse, Pièces justificatives (Chứng từ) (t. 532- 565), cùng với một số tư liệu khác, từ năm 1885. Những bản trong sách của Louvet, dịch sang tiếng Pháp, nhưng vẫn để nguyên chức vụ tiếng Việt, ví dụ văn bằng của Dayot ghi: Khâm sai cai đội quản chiến tàu nhị chích trí lược hầu; của Vannier ghi: Cai đội chấn thanh hầu, v.v.

Như trên đã nói, vì khai man là sĩ quan trong quân đội Pháp, nên họ được vua cho chức tương đương Cai đội là ngạch chót trong ngành quan võ, tức là hàng thất phẩm (về sau có thêm bát phẩm, cửu phẩm). Nếu tìm một từ tương đương trong tiếng Pháp để dịch văn bằng của họ, thì có lẽ nên dùng chữ Chevalier. Nhưng Cadière lại dịch là Marquis (ông trực dịch chữ hầu, trong Trí lược hầu, Chấn thanh hầu…), Marquis de Trí Lược hay Marquis au Jugement rempli de Prudence.

Vần đề đặt ra ở đây là ý nghiã các tước này của Pháp và Việt hoàn toàn khác nhau. Phía Pháp là thứ tự quý tộc: duc, marquis, comte, vicomte, baron, chevalier; ta dịch là công, hầu, bá, tử, nam, hiệp sĩ. Phiá Việt cũng có những chữ công, hầu… nhưng không dùng trong nghiã như thế, vì Việt không có quý tộc theo nghiã của Pháp, còn trật tự quan lại Việt xếp theo phẩm: nhất, nhị, tam, tứ… cửu phẩm.

Do đó, khi Cadière dịch tước vị của những Cai đội này thành Marquis, thì ông đã gây hiểu lầm: Người Pháp hiểu Marquis (Hầu tước) là hàng quý tộc cao quý hạng nhì sau Duc (Công tước), nếu so sánh với ta là hàng nhị phẩm quan võ, tức chưởng dinh, thống chế, đề đốc…

Chúng tôi không nghĩ là ông cố ý khi dịch như vậy, và ông dịch như vậy cũng không phải là sai. Tuy nhiên sự sử dụng tước Marquis này sau đó, của ông và nhiều người khác trong suốt loạt bài Les français au service de Gia Long, và cả những bài khác, những văn bằng, những chỉ dụ, sai phái, trong có ghi chút chức tước, đều được dịch đi dịch lại, in đi, in lại, viết đi, viết lại, một cách kiêu hãnh và thích thú, quá mức bình thường, trải dài trên nhiều số tập san Đô Thành Hiếu Cổ; đại để như thay vì viết Võ Tánh, chúng ta cứ ngâm nga dài dài: khâm sai chưởng Hậu quân, Bình Tây tham thặng đại tướng quân, Dực vận công thần, đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, thượng trụ quốc, thái uý, quốc công, tên thụy là Trung Liệt.

Tóm lại công việc của học giả Cadière, là xây dựng một nền móng cao quý, sang trọng cho Bá Đa Lộc và những người Pháp này, qua tước vị, dinh cơ, di cảo, hình ảnh, trang phục, văn bằng, bài vị, v.v. nhất là Chaigneau, Vannier, hai người đã sống ở Huế lâu nhất trong suốt thời kỳ Gia Long trị vì, sang những năm đầu Minh Mạng. Công việc của Cadière và Salles, có tính cách nghiên cứu hơn là tuyên truyền như Maybon, đi vào chiều sâu hơn và có tác động kín đáo sâu sắc hơn. Đó là bộ mặt thứ nhất của học giả Cadière.

Học giả Cadière và bài diễn văn đọc trước Thống Chế Joffre

Linh mục Cadière còn một bộ mặt thứ nhì, lộ rõ trong một bài viết ngắn, cô đọng, trình bày rõ ràng và đầy đủ quan điểm của ông; đó là bài diễn văn chào đón thống chế Joffre, được in dưới cái tên rất khiêm nhường là “Notes sur le corps du génie annamite” (Ghi chú về công binh Việt Nam), trong tập san Đô Thành Hiếu Cổ (BAVH, 1921, t. 283-288). Nếu ta không để ý thì có thể bỏ qua dễ dàng vì cái tựa “Notes sur le corps du génie annamite” không ồn ào này. Tuy nhiên, đây là bài tuyên ngôn vô cùng quan trọng, nó phản ảnh lập trường của ông và qua đó là lập trường của tập san Đô Thành Hiếu Cổ, về mục đích mà tập san này quy định.

Bài diễn văn đọc trước Thống Chế Joffre, nhân dịp ông sang Đông Dương và lại thăm hội Đô Thành Hiếu Cổ ngày 3/1/1922.

Joffre, xuất thân trường Polytechnique, sĩ quan công binh, chuyên về chiến lũy, được gửi đến Bắc Kỳ năm 1885. Lập chiến công đầu tiên năm 1887, khi còn là đại úy công binh, dưới quyền đại tá Brissard, trong cuộc tấn công chiến lũy Ba Đình của Đinh Công Tráng (1842-1887). Ba Đình (Thanh Hoá) là một trong những căn cứ quan trọng nhất của quân Cần Vương, có luỹ tre kiên cố và hào cắm chông bao bọc. Thành đất, rộng 400m, dài 1200m, cao 3m, chân rộng từ 8 đến 10m. Mặt thành đặt các rọ tre chứa đất nhào rơm, để các khe hở làm lỗ châu mai đặt súng chiến đấu. Trong thành có hệ thống hào để vận chuyển lương thực và khí giới. Hoàn toàn làm theo mẫu đồn luỹ của ta, khác hẳn đồn lũy Tây phương.

Năm 1914, Joffre thắng trận La Marne, cứu Paris, trở thành anh hùng của Pháp trong đại chiến thứ nhất. Joffre khởi hành cuộc viễn du thế giới, từ Pháp tháng 11/1921, đi Hoa Kỳ trước, đến Việt Nam ngày 1/1/1922, trước khi vào Hà Nội, có ghé Ba Đình là nơi ông đã lập chiến công.

Bài diễn văn đăng trên tập san Đô Thành Hiếu Cổ (1921, t. 283-288) và Thống Chế Joffre lại thăm hội Đô Thành Hiếu Cổ ngày 3/1/1922; vậy có lẽ bài này đã được đăng trước khi đọc, trừ khi tập san BAVH số 1921, ra vào năm 1922.

Lịch trình loạt bài nghiên cứu về những người Pháp – bắt đầu trên tập san BAVH năm 1917, với bài của Cadière và chấm dứt năm 1939, với di cảo của Salles – kéo dài 22 năm. Năm 1921, là năm Cadière đưa ra những nét lớn của hoạt động này và bài diễn văn của ông đọc trước Thống Chế Joffre có thể coi là bài “tổng quan”, xác định những nét chính và giới thiệu những đề tài, những mục đích của một công trình nghiên cứu dài hơi do nhiều người đóng góp.

Bài diễn văn có mục đích xác định công trạng những người Pháp giúp Nguyễn Ánh khôi phục lại ngai vàng, đặc biệt trong địa hạt công binh, đồn luỹ mà thống chế là một ngôi sao sáng. Cadière vinh thăng Puymenel, như một anh hùng công binh, ngầm ý so sánh Puymanel với thống chế Joffre. Vì sự quan trọng đó mà chúng tôi dịch toàn bài và cho in nguyên văn tiếng Pháp trong phần phụ lục 2. Phần in đậm là do chúng tôi.

Bài diễn văn của Cadière đọc trước Thống Chế Joffre

 

Kính thưa Thống Chế,

Khi được thành lập tháng 11/1913, Hội của chúng tôi đã đặt mục tiêu nghiên cứu quá khứ Kinh đô nước Nam, và tìm hiểu tất cả kỷ niệm của người người Âu cũng như người bản xứ về Huế.

Trong số kỷ niệm này, những gì đáng quý nhất đối với người Pháp chúng ta, là những kỷ niệm nhắc nhở tới những vị sĩ quan Pháp đã đến đây vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, cứu nguy Gia Long và đã giúp ông hoàng này lấy lại được vương quốc.

Hôm nay chúng tôi góp nhặt được một số tài liệu, chứng tỏ ảnh hưởng của những người Pháp, những bậc tiền bối của chúng ta, ở triều đình An Nam. Ảnh hưởng này là điều không thể chối cãi được. Một trong những người bạn đồng song của chúng tôi, ông Maybon, đã tóm tắt ảnh hưởng ấy qua những hàng sau đây:

“Không thể chối cãi được rằng họ đã góp phần rộng lớn vào chiến thắng của Gia Long. Chưa nói đến sự đóng góp của họ vào những chiến công quan trọng, như việc tiêu diệt hạm đội Tây Sơn năm 1792, và những cuộc hành quân khác dẫn đến chiến thắng Huế, năm 1801, mà ta không thể không khâm phục óc tổ chức của họ trong những điều kiện không mấy thuận lợi: họ đã xây dựng một ngành hải quân theo lối Tây phương, thành lập các thủy thủ đoàn; huấn luyện quân lính, đưa kỷ luật vào quân đội, thành lập cấp chỉ huy; đúc đại bác, dạy cho người Việt cách dùng trái phá, lập đội pháo binh dã chiến mà sự lưu động khiến quân Tây Sơn khiếp sợ; họ đã xây dựng các thành đài” (Maybon, Histoire moderne du pays d’Annam, t. 279).

Thưa Thống Chế, tóm lại, họ đã làm cho nước Nam những điều mà thống chế đã làm cho nước Pháp chúng ta, trong những năm dài đầu chiến tranh, ở đây, cũng như ở Pháp, chiến thắng đã đến để đền công cho bao cố gắng nhọc nhằn.

Ảnh hưởng này được thể hiện trên nhiều phương diện. Cá nhân, trực tiếp hoặc gián tiếp. Ở đây tôi chỉ xin ghi lại khía cạnh đặc biệt mà vị tướng lãnh công binh như ngài lưu tâm, tôi muốn nói đến sự phòng thủ các đồn luỹ.

Trước hết, chúng ta thử xem những người đã tạo ra cái ảnh hưởng này. May mắn nhờ sự khám phá của một trong những cộng sự viên nhiệt thành nhất và có kiến thức nhất của chúng tôi, ông A. Salles, cựu thanh tra thuộc địa, đã cho phép tôi được trình ngài đọc trước, chân dung của ba người vinh hiển nhất đã giúp Gia Long: J.B. Chaigneau, Ph. Vannier, và Jean-Marie Dayot. Những chân dung này, mới được ông Salles tìm thấy trong gia đình của các vị sĩ quan này, sẽ được tạp chí Đô Thành Hiếu Cổ cho in cùng với nhiều tư liệu khác về gia đình của những người Pháp đến giúp Gia Long.

Như tôi đã nói, ảnh hưởng của những người Pháp trên triều đình An Nam là cá nhân và trực tiếp.

Trước hết là sự huấn luyện kỹ thuật, và điều lạ lùng là do một vị giám mục – đúng là ông đã làm bá chủ giai đoạn này, bằng hành động, bằng thiên tài, bằng đạo đức cũng như bằng lòng yêu nước [Pháp] ngời sáng của ông – đức giám mục Bá Đa Lộc đã giữ vai trò khởi thuỷ. Một tác giả đương thời nói: “Ông dịch cho học trò ông – tức là Gia Long – nhiều tác phẩm tiếng Pháp sang tiếng Nam (Cochinchinois) chủ yếu là những sách chiến lược và sách xây thành luỹ. Ông dịch [đúng] đến nỗi người có học và có khả năng nhất của nước này là nhà vua cũng phải chịu” (Relation de Bissachère, Introduction của Ste-Croix, do Maybon in, trang 91). Chính Dayot đã bảo cho Renouard de Sainte-Croix biết những thông tin này. Độ hai mươi năm sau đó, năm 1819, Vannier và Chaigneau cũng cho một người du lịch Anh đến Huế biết rằng: “[Giám mục Bá Đa Lộc] dịch sang tiếng nước này [chữ Nôm] những mục từ ích lợi nhất của Bách khoa toàn thư và soạn trong thổ âm này [chữ Nôm] nhiều bản hiệp ước cho Hoàng đế sử dụng”. (Trích Annales maritimes et Coloniales, Biên niên hàng hải và thuộc địa, 1823, tome 2, page 578).

Công trạng của giám mục Bá Đa Lộc có lẽ giới hạn ở đó: Ông cung cấp những sách nền móng cho sự nghiên cứu. Tất cả những lý giải kỹ thuật phải dành cho các chuyên viên: Chaigneau, Vannier, nói được tiếng Việt, nhưng nhất là Olivier.

Thưa Thống Chế, chúng tôi mong muốn được trình ngài bộ sưu tập những tác phẩm liên quan đến nghệ thuật xây dựng và bảo vệ thành trì đồn luỹ, do giám mục Bá Đa Lộc dịch sang chữ Nôm. Có lẽ một ngày nào đó, ta sẽ tìm lại được trong văn khố Hoàng cung hay của các Bộ. Ngày hôm nay, chúng tôi chỉ có thể trình ngài một kiểu mẫu được giữ trong Nội-Các, đó là “Đồ thị quân sự (bao gồm) tất cả các bộ phận chính của một thành đồn, với tất cả các khẩu súng đại bác (để phòng thủ và tiến thủ) của một chiến lũy do J.E. Duhamel, kỹ sư của Vua, năm 1773, dựng theo kỹ thuật xây dựng của Thống Chế Vauban”. Bản đồ này ghi bằng chữ Hán, thỉnh thoảng có vài chữ nôm, tên các bộ phận được vẽ. Thực hiếm, Thư viện quốc gia không có. Nó là một trong những cẩm nang dùng để đào tạo nên Gia Long; là một trong những cẩm nang này mà một giáo sĩ thời đó, ông Le Labousse đã viết: “Gia Long có trong cung nhiều sách Pháp viết về việc xây dựng đồn lũy, v.v. Ông ta lật từng trang để xem các đồ bản và tìm cách bắt chước” (Nouvelles lettres édifiantes, Tome III, trang 187). Một trong những cẩm nang này đã dùng để thiết lập đội ngũ kỹ sư An Nam mà chúng tôi sẽ nói tới. Tất cả các thành luỹ ở Bắc kỳ và ở nước Nam đều xây dựng theo những hình vẽ và những bài bố trên đồ thị đồ này.

Thêm vào công việc giáo dục binh bị, còn có giáo dục xây dựng. Chính Olivier de Puymanel, là một trong những người đầu tiên đến Nam Hà, năm 1788, lúc đó chưa đầy 20 tuổi, nhưng đã “kết hợp nhiều giá trị với hoạt động thành một kiến thức hoàn hảo về việc xây chiến luỹ và thuật dụng binh”, trên bình diện này Olivier giữ vị trí hàng đầu. “Ông được thăng chức cao nhất là Kỹ sư trưởng các Công binh xưởng” (Relation Bissachère, Introduction, trang 82). Chức vụ của ông tiếng Việt gọi là Vệ Uý, dịch là “Colonel”, trong nhóm quân Thần Sách, tức pháo binh và công binh. Theo chính sử biên niên đời Gia Long, ông bắt đầu xây thành Gia Định tháng 3-4 năm 1790. Thành hình bát giác, tường bằng đá Biên Hoà, trổ tám cửa, cao 6 mét (Đại Nam Thực Lục đệ nhứt kỷ, quyển IV, trang 31). Có lẽ ông được Le Brun một người Pháp giúp. “Quả là có một bản đồ thành Sài Gòn do đại tá Olivier vẽ. Rút nhỏ bản đồ lớn do kỹ sư Le Brun vẽ theo lệnh Vua nước Nam”. (Schreiner, Abrégé de l’Histoire d’Annam, page 104, note 1.) Rủi thay chúng tôi không có bản đồ này trong thư viện.

Khoảng 1793, “Nhà vua mượn Ô. Olivier, sĩ quan Pháp, xây cho ông một thành phố theo kiểu Tây phương ở một trong những vùng mới chiếm được. Thành phố này vừa xây xong thì bốn mươi ngàn ngụy quân đã đột kích trèo lên nhưng vô hiệu”. (Documents relatifs à l’époque de Gia Long, par L. Cadière, pp. 31-34). Vị giáo sĩ cho chúng ta thông tin này cũng bị vây hãm trong thành, cùng với giám mục Bá Đa Lộc tháp tùng hoàng tử Cảnh, lúc đó thống lĩnh quan quân. Ông cho biết thành bị hãm trong 24 ngày vào khoảng cuối tháng tư 1794, và quân địch bắn hơn chín trăm sáu mươi quả pháo đại bác. Chín trăm sáu mươi phát đại bác trong 24 ngày! Thưa Thống chế, đó là cuộc chiến [của người] quân tử, tuyên chiến trước khi nhất tề xạ kích (guerre en dentelles), nếu so sánh với những trận mưa trái phá mà Thống Chế đã nhận được [trong đệ nhất thế chiến].

Tôi xin kể thêm một đoạn nữa của một tác giả đương thời nói về công trạng của viên sĩ quan công binh 20 tuổi này đối với triều Nguyễn: “Ô. Olivier củng cố đồn lũy bằng những chiến hào tốt có trang bị đại bác điều khiển theo lối Tây phương, cách đánh nhau rất mới này đã làm cho quân Tây Sơn sợ hãi, thua chạy, mỗi lần gặp quân nhà vua vì họ không thể nào chịu được hoả lực vượt trội do ông Olivier điều khiển, nên họ thường bị dụ vào những hào hố và bị chận lại, bởi dân tộc này không có ý niệm gì.” (Relation de Bissachère, trang 83).

Những công trình của [Olivier] người đồng bào chúng ta, có còn tồn tại không? Than ôi! Tôi sợ rằng tất cả đều đã biến mất.

Thành Sài Gòn, là cái chắc: Bác sĩ Finlayson trong phái đoàn Crawfurd của Anh đến Sài Gòn năm 1822 cho biết: “Thành đã được xây cách đây ít năm, theo lối Tây phương. Thành, có một bờ lũy xiên đúng kiểu, một cái hào đầy nước, một tường thành cao, chế ngự vùng lân cận. Thành hình vuông, mỗi cạnh dài khoảng nửa dặm. Nhưng xây chưa xong, người ta chưa đục lỗ để súng và cũng chưa đặt súng đại bác trên tường. Đường [hào] ngoằn ngèo quá ngắn, cửa chính toạ trên trục thẳng; các cửa đều đẹp và trang trí theo kiểu Tàu” (Voyage de Bengal à Siam et à la Cochinchine, dans bibliothèque universelle des voyages, 1835, p.337).

Cái thành còn dang dở này, hình vuông, không phải là thành đài hình bát giác do Olivier xây. Hơn nữa, trong khi Lê Văn Khôi khởi loạn, ở cả miền Nam, năm 1833-34 Minh Mạng bắt buộc phải tấn công thành Sài Gòn. Ông ta đã phá nó? Dù sao chăng nữa thì Hội điển, quyển 209, xếp việc xây thành ở Sài Gòn vào năm 1836. Hay chỉ là một sự trùng tu. Tất cả đều đã bị phá sau khi Pháp chiếm.

Tôi không biết nếu ở Nha Trang có còn dấu tích thành do Olivier xây. Hội điển ghi năm 1814, Gia Long thứ 13, xây thành Khánh Hoà [Hội điển, quyển 209]. Đó là một thành xây lại ở chỗ khác, hay là cũng ở nguyên chỗ thành cũ đã phá đi, tôi thiếu tài liệu về việc này.

Theo Hội điển [quyển 209] các thành trì rải rác hiện nay trên nước Nam, xây từ khi Gia Long lên ngôi, trải dài từ 1804 đến 1844, gồm có:

 

Thời Gia Long:

Thanh Hoá, thưa Thống Chế, là nơi ngài đã rạng danh, được xây năm 1804.

Huế, 1805.

Quảng Ngãi và Hải Dương, 1807.

Thái Nguyên và Vĩnh Long 1813.

Khánh Hoà, 1814.

Bình Định, 1817.

 

Thời Minh Mạng:

Hưng Hoá, 1821.

Sơn Tây, 1822.

Quảng Bình và Ninh Bình, 1823.

Bắc Ninh và Cao Bằng, 1824.

Định Tường, 1824.

Quảng Yên, 1827.

Nghệ An, 1831.

Hưng Yên, 1832.

Nam Định, Hà Tĩnh và Quảng Nam, 1833.

An Giang (Châu Đốc), Hà Tiên và Lạng Sơn, 1834.

Hà Nội, 1835.

Gia Định (Sài Gòn), 1836.

Phú Yên, Bình Thuận và Quảng Trị, 1837.

Biên Hoà, 1838.

 

Sau cùng, thời Thiệu Trị:

Tuyên Quang, 1844.

 

Tôi [Cadière] tin rằng chúng ta có thể xác quyết, mặc dù không có một tài liệu chính xác nào minh định, rằng những thành trì xây dựng dưới thời Gia Long, nhất là kinh thành Huế, đều làm dưới sự chỉ đạo tối cao của các sĩ quan Pháp lúc đó đang còn giúp Gia Long như Chaigneau, Vannier, và de Forsant. Nhưng họ đã được đội ngũ công binh người An Nam trợ giúp, đội ngũ này do chính họ hoặc do Olivier đào tạo. Hiện nay chúng ta biết rất ít thông tin về đội ngũ này, nhưng chắc văn khố của Bộ Chiến Tranh hay Bộ Công Chánh còn giữ những tư liệu quan trọng, chính đội ngũ này đã xây tất cả các thành trì dưới thời Minh Mạng và Thiệu Trị. Nếu ngày nào có một chuyên viên nghiên cứu về việc này thì thực là bổ ích, tại chỗ và trên các đồ thị, công trình của đội ngũ công binh An Nam này, khảo sát xem học trò có theo đúng sự dạy bảo của các thầy Pháp, và nếu bỏ thì tại sao, vì ngu dốt hay vì quên, hay là vì muốn chứng tỏ họ có sáng kiến, đã thay đổi tùy theo hoàn cảnh đất đai hay sự đòi hỏi của lúc đó.

Một kết luận thoát thai từ tất cả những điều tôi vừa nói, đó là tất cả những thành trì trên nước Nam này, nói chính xác, là tác phẩm của người Pháp, hoặc trực tiếp thực hiện hoặc gián tiếp bằng cách đào luyện đội ngũ kỹ sư An Nam.

Thưa Thống Chế,

Ông đến Bắc kỳ và Trung Kỳ, nhân danh một sĩ quan Công binh, ông đã từng xây dựng những chiến luỹ, đã can đảm và vinh quang chiến đấu. Tôi hy vọng rằng sự làm sống lại, trong giây phút ngắn ngủi, những người đi trước ông, những người đã chiến đấu, đã xây dựng, đã đào tạo học trò, sẽ làm ông toại nguyện.”

L. Cadière

Chủ bút BAVH

Thực là kinh ngạc khi đọc bài diễn văn trên đây. Khó có thể hiểu tại sao một người có kiến thức sâu rộng, có đạo đức nghề nghiệp của một học giả như linh mục chủ bút tập san Đô Thành Hiếu Cổ lại có thể viết một bài như thế. Chưa cần xét đến óc thực dân, cao ngạo, khinh mạn người Việt, bao trùm lên toàn bài, hãy nói đến những lỗi khổng lồ một công trình khoa học không thể có, mà chúng tôi xin lần lượt phân tích từng điểm một, sau đây.

Sự “xác định” công trạng người Pháp giúp Nguyễn Ánh lấy lại ngai vàng

Mở đầu là một xác quyết vô bằng chứng: những vị sĩ quan Pháp đã đến đây vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, cứu nguy Gia Long và đã giúp ông hoàng này lấy lại được vương quốc. Rồi tới ngay đoạn văn “nổi tiếng” của Maybon, được khắp nơi trích dẫn: “Không thể chối cãi được rằng họ đã góp phần rộng lớn vào chiến thắng của Gia Long [...] Họ đã xây dựng một ngành hải quân theo lối Tây phương, thành lập các thủy thủ đoàn; huấn luyện quân lính, đưa kỷ luật vào quân đội, thành lập cấp chỉ huy; đúc đại bác, dạy cho người Việt cách dùng trái phá, lập đội pháo binh dã chiến mà sự lưu động khiến quân Tây Sơn khiếp sợ; họ đã xây dựng các thành đài” (Maybon, Histoire moderne du pays d’Annam, t. 279).

Lời Maybon, như chúng tôi đã trình bày trong chương trước, chỉ là những xác định vô bằng, rút ra từ những “thông tin” của Ste-Croix, qua lời kể của Dayot. Mà Dayot là một kẻ phạm tội thâm lạm ngân quỹ và làm đắm tàu, bị kết án, phải trốn đi, tự vinh thăng mình và Puymanel, bôi nhọ Nguyễn Ánh, để chạy tội. Ở đây, chúng tôi xin trích lại những lời của Ste-Croix trong bài Introduction, mà hai vị học giả dùng làm nền tảng:

“… Olivier, người Pháp, về giúp, trở thành kỹ sư trưởng.[...] Những chiến thắng của vua Nam Hà một phần là nhờ ông, ông đã vẽ bản đồ các thành quách, đã sáng tạo nhiều công binh xưởng. Ông được thăng tước vị hạng nhất, là Kỹ sư chỉ huy trưởng đứng đầu các công binh xưởng và Tư lệnh một quân đoàn gồm 3000 cấm vệ của vua do ông thành lập và huấn luyện theo kiểu Tây phương.[...] Hoạt động của những người Pháp giúp vua Nam Hà đi đôi với những đại bác và súng ống mà nước Pháp cho họ, đã góp phần không nhỏ vào việc nhà vua dần dần làm chủ lại xứ sở trong một thời hạn khá ngắn. Ô. Olivier làm kiên cố đồn lũy bằng những chiến hào trang bị súng đại bác điều khiển theo lối Tây phương, và lối đánh nhau này rất mới lạ ở Nam Hà, làm cho quân Tây Sơn khiếp đảm thua chạy mỗi lần gặp quân nhà vua, chúng không thể chống lại hoả lực mạnh mẽ do Ô. Olivier điều khiển và thường bị kéo vào những hào hố mà dân tộc này không có ý niệm gì” (Ste-Croix, Introduction, Bissachère, t. 82-83).

Maybon và Cadière tận dụng lời Ste-Croix dưới nhiều hình thức khác nhau, hoặc xé lẻ từng câu để dùng riêng, hoặc quy tụ thành ý chủ lực cho bài viết, như trường hợp bài diễn văn này.

Sau khi đã trích dẫn nhận định của Maybon như một ý thức chủ đạo, Cadière khoanh tròn điạ hạt mà bài diễn văn đánh vào: đó là “ảnh hưởng” của những người Pháp trên triều đình Gia Long và qua đó là dân tộc Việt Nam. Ảnh hưởng đó như thế nào? Ông viết:

“Ảnh hưởng này được thể hiện trên nhiều phương diện. Cá nhân, trực tiếp hoặc gián tiếp. Ở đây tôi chỉ xin ghi lại khía cạnh đặc biệt mà một vị tướng lãnh công binh như ngài lưu tâm, tôi muốn nói đến sự phòng thủ các đồn luỹ.”

Ông vừa khoanh tròn địa hạt thêm một lần nữa, chỉ nói đến việc phòng thủ các đồn luỹ mà thôi, vì đó là địa hạt và cũng là chiến công của Thống Chế Joffre.

Ngôi sao mà Cadière muốn trình diện với Thống Chế hôm nay, khi ngài tới đất Huế này, là một anh hùng, một vị tiền bối của Thống Chế, đó là Olivier de Puymanel!

Và cũng là cơ hội hy hữu để học giả vinh danh một vị anh hùng bằng một vị anh hùng khác.

Cadière “chứng minh” Đức Giám Mục Bá Đa Lộc “dịch sách” cho Gia Long

Vinh danh Puymanel, thì không thể không vinh danh người “sáng lập” ra sự nghiệp đồ sộ này: tức Đức Giám Mục Bá Đa Lộc.

Theo linh mục Cadière, đức giám mục “đã làm bá chủ giai đoạn này”, “bằng hành động, bằng thiên tài, bằng đạo đức cũng như bằng lòng yêu nước [Pháp] ngời sáng của ông”. Và ông trích dẫn “một tác giả đương thời” nói”: “Ông dịch cho học trò ông – tức là Gia Long – nhiều tác phẩm tiếng Pháp sang tiếng Nam (Cochinchinois) chủ yếu là những sách chiến lược và sách xây thành luỹ.” (Relation de Bissachère, Introduction của Ste-Croix, do Maybon in, trang 91)”. Tác giả “đương thời” này chính là Ste-Croix! Và linh mục Cadière hãnh diện nhỏ to: “Chính Dayot đã bảo cho Renouard de Sainte-Croix biết những thông tin này”. Sau đó ông nhấn mạnh thêm: “Độ hai mươi năm sau đó, năm 1819, Vannier và Chaigneau cũng cho một người du lịch Anh đến Huế biết rằng: “[Giám mục Bá Đa Lộc] dịch sang tiếng nước này [chữ Nôm] những mục từ ích lợi nhất của Tự điển Bách khoa và soạn trong thổ âm này [chữ Nôm] nhiều bản hiệp ước cho Hoàng đế sử dụng”.

 

Gia Long không bao giờ là học trò của Bá Đa Lộc cả!

Chúng ta thừa biết vì Ste-Croix nhầm Nguyễn Ánh với hoàng tử Cảnh, cho nên y mới viết câu: “Ông dịch cho học trò ông – tức là Gia Long – nhiều tác phẩm tiếng Pháp sang tiếng Nam (Cochinchinois) chủ yếu là những sách chiến lược và sách xây thành luỹ.” Dù chấp nhận sự lầm lẫn này, thì câu của Ste-Croix vẫn ngớ ngẩn: hoàng tử đi theo Bá Đa Lộc từ 3 tuổi, thì cần gì giám mục Bá phải dịch sách tiếng Pháp sang tiếng Việt cho hoàng tử đọc? Thế mà linh mục Cadière chép lại câu văn ngớ ngẩn này và khoe rằng do Dayot mách Ste-Croix mới biết! Vậy trình độ của Ste-Croix như thế nào, và những người chép lại Ste-Croix nữa?

Sau khi đã “dẫn chứng” một câu ngớ ngẩn như vậy, học giả đưa ra “chứng” thứ nhì: lời của hai ông Vannier và Chaigneau nói với một du khách người Anh đến Huế: “[Giám mục Bá Đa Lộc] dịch sang tiếng nước này [chữ Nôm] những mục từ ích lợi nhất của Bách khoa toàn thư và soạn trong thổ âm này [chữ Nôm] nhiều bản hiệp ước cho Hoàng đế sử dụng”, mà theo vị học giả là trích ở Annales maritimes et Coloniales, 1823.

Chúng tôi tin rằng, dù lấy ở đâu, thì câu này cũng chỉ chép lại lời Barrow, người Anh đến Nam Hà năm 1793 (lúc đó các ông Vannier Chaigneau chưa đến Việt Nam), trong cuốn A Voyage to Cochinchina (Chuyến đi Nam Hà), in năm 1806, Barrow viết:

“Adran còn dịch sang chữ Hán một bản nghiên cứu chiến lược để dùng trong quân đội”.

“Nhờ giám mục Adran dịch một số mục từ trong Bách Khoa toàn thư sang chữ Hán, mà ông biết được khoa học và nghệ thuật Âu châu, đặc biệt ông chú trọng đến thuật hàng hải và thuật đóng tàu” (Barrow, II, t. 229), Câu này chúng tôi đã trích dịch trong chương 6: Chân dung vua Gia Long, và đã viết lời bình luận như sau:

“Việc Adran dịch sang chữ Hán một bản nghiên cứu chiến lược để dùng trong quân đội, không biết Barrow lấy ở đâu, vì không thấy nơi nào nói đến [...] Còn câu “giám mục Adran dịch một số mục từ trong Bách Khoa toàn thư sang chữ Hán” có thể đã rút ra từ chúc thư của Bá Đa Lộc do Le Labousse viết: “Đức Cha tặng vua [...] bốn quyển Bách Khoa Toàn Thư…” (Launay, III, t. 384), đây là nơi duy nhất nói đến Bách Khoa Toàn Thư, chính Le Labousse cũng không nói gì đến việc dịch sách, mà Sử Ký Đại Nam Việt cũng không. Nhưng câu này của Barrow cũng sẽ được Faure, Maybon và những người tôn vinh Bá Đa Lộc chép lại và phóng đại lên sau này”. Học giả Cadière cũng không đi ra ngoài thông lệ đó.

Sau khi đã “chứng minh” Bá Đa Lộc “dịch sách”, và “cung cấp những sách nền móng cho sự nghiên cứu”. Linh mục Cadière mạnh dạn tuyên bố:

“Thưa Thống Chế, chúng tôi mong muốn được trình ngài bộ sưu tập những tác phẩm liên quan đến nghệ thuật xây dựng và bảo vệ thành trì đồn luỹ, do giám mục Bá Đa Lộc dịch sang chữ Nôm”.

Đến đây thì ta không biết Bá Đa Lộc đã “dịch” Bách Khoa toàn thư và các sách chiến lược sang tiếng Tàu hay tiếng ta? Chúng tôi lại nhớ đến lời Faure than phiền: sách dịch của Giám mục bị giấu đi và cờ hiệu tiên phong giám mục cầm quân đánh Tây Sơn, cũng bị ai lấy mất? Nhưng Faure có thể viết như vậy, người ta chờ đợi ở học giả Cadière một sự thận trọng hơn.

Để lập luận được vững vàng, vài dòng sau, Cadière viết: “một giáo sĩ thời đó, ông Le Labousse viết: “Gia Long có trong cung nhiều sách Pháp viết về việc xây dựng đồn lũy, v.v. Ông ta lật từng trang để xem các đồ bản và tìm cách bắt chước.” (Nouvelles lettres édifiantes, Tome III, trang 187). Ở đây, linh mục cũng lại trích dẫn kiểu cắt xén như Maybon; nguyên văn câu của Le Labousse như thế này: “Trong cung có nhiều sách về kiến trúc, thành đài. Nhà vua thường dở từng trang để xem những đồ thị và cố gắng bắt chước, khỏi cần đọc những lời giải thích bằng tiếng Pháp vì ông không hiểu được” (Thư Le Labousse 14/4/1800, Taboulet I, t. 268).

Linh mục Cadière đã cắt câu “khỏi cần đọc những lời giải thích bằng tiếng Pháp vì ông không hiểu được”. Vì chính câu này chứng minh giám mục không dịch sách cho Gia Long, nhất là về thành đài, vì nếu có, linh mục Le Labousse đã không viết như thế.

Trong thư ngày 12/7/1796, gửi M. Boiret, Le Labousse viết:

“Mặc dù những nghiã cử của Đức Giám Mục đã thu phục được lòng nhiều ông quan, nhưng người không bao giờ đến nhà một vị quan nào trong bảy năm người ở xứ này. Trong suốt thời gian dài này, người đến cung vua, chưa chắc được 10 lần. Trong 2, 3 năm đầu, người đến chầu vua ngày mồng một tết, và từ hơn hai năm nay, người chỉ đến một lần sau cùng mới đây, để khỏi bị cắt đứt [liên lạc]” (Launay, III, t. 309-310).

Trong một thư khác, gửi cho Hội Truyền giáo Paris, viết từ Bình Khang năm 1801, về cái chết của linh mục Hồ Văn Nghị, linh mục Le Labousse viết:

“Nhà vua, trong những lúc cùng quẫn nhất, đã may mắn có ông [Nghị] bên mình để cống hiến cho vua những thức cần thiết nhất. Vì vậy vua rất quý mến ông. Và cũng chính ông, mà Đức Giám Mục, bất cứ việc gì gửi tới triều đình, đều nhờ cậy ông”. (Launay, III, t. 480)

Những dòng của Le Labousse trên đây, chứng tỏ Bá Đa Lộc không gần gũi vua như người ta thêu dệt nên. Sau khi Trần Đại Luật dâng sớ xin “chém đầu Bá Đa Lộc” năm 1795, thì vị giám mục lại càng thận trọng hơn nữa. Vậy, việc giám mục “dịch sách”, “viết thư”, làm “cố vấn” làm mọi việc cho vua, không thể có được, nếu một năm hay hơn một năm giám mục mới gặp vua một lần. Chức phận ông giới hạn trong việc: là một trong những thầy dạy hoàng tử Cảnh.

Gia Long có quần thần biết tiếng Pháp như Trần Văn Học, Hồ Văn Nghị, làm thông ngôn hoặc coi việc phiên dịch cho vua; Tôn Thất Hội, nhà kiến trúc, Trần Văn Học thông thạo việc vẽ đồ thị và thành luỹ… ấy là chưa kể đến các quan trấn thủ văn võ kiêm toàn, cũng là những kỹ sư đắp các thành lũy bát giác, lục giác, tứ giác ở miền Nam như Nguyễn Cửu Đàm (luỹ Bán Bích), Nguyễn Văn Xuân (đồn Tân Châu, đồn Châu Giang), Lưu Phước Tường (đồn Châu Đốc, trấn Vĩnh Thanh)… được Trịnh Hoài Đức ghi lại trong Gia Định Thành Thông Chí.

Sử ký Đại Nam Việt viết: “Vốn vua chẳng biết chữ bên Tây, nên phải cậy các quan cắt nghiã mọi đều. Nhứt là các tờ đã vẽ hình tượng các khí giái [giới] và những cách đắp lũy xây thành, đóng tàu hay là các đều [điều] khác thể ấy [như thế], thì vua chỉ xem những sự ấy lắm. Vả lại nhiều sách và địa đồ đã mua bên Tây, thì người chăm học mà hiểu hầu hết” (SKĐNV, t. 57-58).

Cadière trình bày bản “cẩm nang dạy vua Gia Long xây dựng thành trì”

 

Sau khi đã “chứng minh” Bá Đa Lộc dịch Bách Khoa Toàn Thư và những “bộ sách xây dựng thành trì” cho vua, Cadière trình bày trước Thống Chế một “chứng cớ độc đáo” sau đây:

“Ngày hôm nay, chúng tôi chỉ có thể trình ngài một kiểu mẫu được giữ trong Nội-Các, đó là “Đồ thị quân sự (bao gồm) tất cả các bộ phận chính của một thành đồn, với tất cả các khẩu súng đại bác (để phòng thủ và tiến thủ) của một chiến lũy do J.E. Duhamel, kỹ sư của Vua, năm 1773, dựng theo kỹ thuật xây dựng của Thống Chế Vauban”. Bản đồ này ghi bằng chữ Hán, thỉnh thoảng có vài chữ nôm, tên các bộ phận được vẽ. Thực hiếm, Thư viện quốc gia không có. Nó là một trong những cẩm nang dùng để đào tạo nên Gia Long”.

Nói khác đi, linh mục Cadière tìm thấy trong Nội Các (thư viện hoàng gia Huế) một đồ thị do kỹ sư Duhamel của vua Louis XV, vẽ một thành đài, xây năm 1773, tại Pháp, theo kỹ thuật xây dựng của Thống chế Vauban. Bản đồ này có ghi chú chữ Hán và có vài chữ Nôm; ông vội vàng kết luận: Nó chính là một trong những cẩm nang dùng để đào tạo nên Gia Long!

Và ông viết tiếp: “Một trong những cẩm nang này đã dùng để thiết lập đội ngũ kỹ sư An Nam mà chúng tôi sẽ nói tới. Tất cả các thành luỹ ở Bắc kỳ và ở nước Nam đều xây dựng theo những hình vẽ và những đồ thị trên bản đồ này”.

Hồ đồ đến thế là cùng!

1- Một bản đồ thành đài xây năm 1773 ở Pháp theo lối Vauban mà học giả tìm thấy trong thư viện Nội Các ở Huế, trước năm 1922, thì nào đã biết nó là của ai? Của Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, hay của các quan trong bộ Công? Mà dám quyết đoán: Nó chính là một trong những cẩm nang dùng để đào tạo nên Gia Long!

2- Rồi học giả lại kết hợp cái bản đồ thành đài 1773 Duhamel đó với câu này của Le Labousse: “Trong cung có nhiều sách về kiến trúc, thành đài. Nhà vua thường dở từng trang để xem những đồ thị và cố gắng bắt chước, khỏi cần đọc những lời giải thích bằng tiếng Pháp vì ông không hiểu được”, mà học giả đã khôn khéo cắt bỏ câu chót: “khỏi cần đọc những lời giải thích bằng tiếng Pháp vì ông không hiểu được”, để “đưa” nó vào danh sách các cẩm nang mà đức giám mục dịch sang tiếng Nôm cho vua đọc! Trích dẫn như thế thực không trung thực chút nào.

3- Việc kỹ sư Duhamel xây thành kiểu Vauban ở Pháp năm 1773, thì có dính líu gì đến việc binh nhì Puymanel, đến nước Nam năm 1788, để học giả có thể bạ vào mà kết luận: Tất cả thành đài xây ở Việt Nam đều làm theo kiểu Vauban? Đều do “kỹ sư” Puymanel xây hoặc “học trò” của ông ấy xây? Học giả có điều tra xem Puymanel học nghề kỹ sư và kiến trúc sư lúc nào, trường nào chưa, mà có thể xây được thành đài? Và dạy được học trò?

Tất cả những ai đã học kỹ sư, kiến trúc sư, đều biết việc xây dựng một thành đài, dù theo kiểu Đông hay Tây, đều không dễ lắm, khiến một binh nhì vô học có thể làm được.

Gia Long tự học là một chuyện, nhưng bên cạnh nhà vua là một hệ thống các quan đại thần, có học, có chuyên môn, trợ giúp; những nhà kiến trúc lớn của Gia Long, thường là các quan trấn thủ, văn võ kiêm toàn.

4- Một cái bản đồ thành đài kiểu Vauban tìm thấy trong Nội Các, đủ để học giả kết luận: nó dùng để thiết lập đội ngũ kỹ sư An Nam. Và “tất cả các thành luỹ ở Bắc kỳ và ở nước Nam đều xây dựng theo những hình vẽ và những đồ thị trên bản đồ này”, thì thực tình là học giả coi thường ngành kỹ sư, kiến trúc quá đáng.

 

Cadière “xác định” Olivier de Puymanel xây thành Gia Định

 

Chuyện Cadière dựa vào câu nói bâng quơ của Lavoué: “vua… mượn Ô. Olivier… xây cho ông một thành phố theo lối Tây phương” để “xác định” Olivier xây thành Diên Khánh, còn những người khác dựa vào câu này để chỉ thành Sài Gòn, chúng tôi đã nói đến trong chương 12, không cần trở lại nữa.

Ở đây xin lưu ý độc giả một “xác định” khác, rất lạ lùng, Cadière viết:

“Theo chính sử biên niên đời Gia Long, ông [Puymanel] bắt đầu xây thành Gia Định tháng 3-4 năm 1790. Thành hình bát giác, tường bằng đá Biên Hoà, trổ tám cửa, cao 6 mét (Đại Nam Thực Lục đệ nhứt kỷ, quyển IV, trang 31). Có lẽ ông được Le Brun một người Pháp giúp. “Quả là có một bản đồ thành Sài Gòn do đại tá Olivier vẽ. Rút nhỏ bản đồ lớn do kỹ sư Le Brun vẽ theo lệnh Vua nước Nam”. (Schreiner, Abrégé de l’Histoire d’Annam, page 104, note 1.) Rủi thay chúng tôi không có bản đồ này trong thư viện”.

Nguyễn Quốc Trị là người đầu tiên nhặt ra câu: “Theo chính sử biên niên đời Gia Long, ông bắt đầu xây thành Gia Định tháng 3-4 năm 1790”. Bởi vì, những ai tìm hiểu việc đắp thành Gia Định, đều đã “soi kính hiển vi” Thực Lục, mà không tìm thấy câu “bất hủ” này. Vậy có hai khả năng:

- Học giả Cadière viết vội nên nhầm chăng? Khó tin. Vì ông và ông Maybon đều than phiền Thực Lục lờ không đả động gì đến công lao của Puymanel, Dayot.

- Học giả Cadière thấy những “chứng từ” mà ông đưa ra về công trạng của Puymanel không đủ thuyết phục, nên phải chêm vào câu này, để chứng tỏ Thực Lục cũng viết như thế, chăng? Chắc thế. Sau đó, ông viết: “Có lẽ ông được Le Brun một người Pháp giúp”. Rồi thêm vào câu:”Quả là có một bản đồ thành Sài Gòn do đại tá Olivier vẽ. Rút nhỏ bản đồ lớn do kỹ sư Le Brun vẽ theo lệnh Vua nước Nam” do ông Schreiner đưa ra.

Tóm lại, Cadière không mấy tin tưởng vào công lao của “kỹ sư” Le Brun, mặc dù ông tin là có bản đồ Sài Gòn lớn do “kỹ sư” vẽ, của ông Schreiner; còn Taboulet thì thượng Le Brun lên thành “nhà kiến trúc đô thị đầu tiên của Sài Gòn”. Chúng ta đâm hoang mang, không biết ông Le Brun là kỹ sư, hay kiến trúc sư, hay ông học cả hai trường kỹ sư và kiến trúc?

Linh mục Cadière dành tất cả thiện cảm cho “đại tá Olivier”, và để xác định công lao của “đại tá”, linh mục học giả không ngần ngại viết những dòng dựng đứng: “Thực Lục ghi Olivier xây thành Gia Định”.

Nhưng điều tệ hại hơn nữa, là sự, học giả nhận vơ tất cả những thành trì khác, xây sau Gia Định đều trực tiếp hay gián tiếp là công lao của Olivier de Puymanel.

Cadière “xác định”: Kinh đô Huế và tất cả thành trì trên nước Nam này, đều do Puymanel và những người Pháp xây

Cadière dùng danh sách trong Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (Hội Điển) để kê khai tên 31 thành trì, phần lớn xây dưới thời Minh Mạng. Lúc đó chỉ còn Chaigneau và Vannier, là hai thủy thủ chuyên nghiệp, chẳng biết gì đến việc xây dựng, vậy mà ông cho họ quyền “chỉ đạo tối cao” việc xây thành Huế: “nhất là kinh thành Huế, đều làm dưới sự chỉ đạo tối cao của các sĩ quan Pháp lúc đó đang còn giúp Gia Long như Chaigneau, Vannier, và de Forsant”, để rồi ông xác định: “chính đội ngũ này đã xây tất cả các thành trì dưới thời Minh Mạng và Thiệu Trị”. Chưa hết, ông còn yêu cầu các nhà nghiên cứu Pháp phải: “khảo sát xem học trò có theo đúng sự dạy bảo của các thầy Pháp, và nếu bỏ thì tại sao, vì ngu dốt hay vì quên”. Để đi đến kết luận:

“Tất cả những thành trì trên nước Nam này, nói chính xác, là tác phẩm của người Pháp, hoặc trực tiếp thực hiện hoặc gián tiếp bằng cách đào luyện đội ngũ kỹ sư An Nam”.

 

Đoạn văn trên đây đã góp phần chôn vùi giá trị của học giả Cadière.

Bởi nếu Thực Lục không ghi rõ tên ai xây thành Gia Định, thì về Huế, Thực Lục, ghi rất rõ:

“Ngày Ất Tỵ, xây dựng đô thành. Vua cho rằng thiên hạ đã định, muốn mở rộng đô thành để làm nơi bốn phương chầu hội. Bèn đến xã Kim Long, phiá đông đến xã Thanh Hà, xem khắp hình thế các nơi. Sai Giám thành là Nguyễn Văn Yến ra bốn mặt ngoài đô thành cũ Phú Xuân đo cắm để mở rộng thêm. Vua thân định cách thức xây thành, sắc cho bộ Lễ chọn ngày lành tế trời đất, cáo việc khởi công, phái các quân mở đường sá, làm đất cát, sai bọn Phạm Văn Nhân, Lê Chất và Nguyễn Văn Khiêm trông coi công việc. Quân nhân mỗi tháng cấp tiền một quan, gạo một phương. Dân cư tám xã Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phái, An Vân, An Hoà, An Mỹ, An Bảo, Thế Lại, có ruộng đất bị mở vào thì theo giá văn tự trả tiền lại…” (TL, I, t. 552).

Trên tập san Đô Thành Hiếu Cổ, 1916, số III, (t. 277-288) do học giả làm chủ bút, cũng đã đăng bài của nghiên cứu của Võ Liêm, Tá Lý, rồi Thượng thư bộ Binh, tựa đề La Capitale de Thuận Hoá (Huế) (Kinh đô của Thuận Hoá (Huế). Trong đó Võ Liêm đã chứng minh rõ ràng và chi tiết, lịch sử kinh thành Huế, do vua Gia Long thực hiện. Ông viết:

“Vào tháng thứ ba, năm thứ ba của triều đại, 1804, chính Hoàng đế đã khảo sát những nơi chốn từ vùng đất làng Kim Long tới làng Thanh Hà, để mở rộng và dựng lại kinh thành. Ngài hạ lệnh cho vị Giám thành Nguyễn Văn Yến, đóng cọc ra ngoài thành cũ để xác định giới hạn hoàng cung. Hoàng Đế tự tay đo lường các kích thước cần thiết để xây tường thành” (t. 279-280).

Trung tá Ardant du Pisq trong bài Les fortifications de la citadelle de Huế (Kinh thành Huế), BAVH, 1924, III, (t. 221-247), sau khi trích đoạn văn của Michel Đức, con trai Chaigneau: “Thành Huế, theo kiến trúc Vauban, mà sự xây dựng do những người Pháp điều khiển, bên ngoài rất giống một thành chiến Tây phương, trừ những cửa rộng trên có mái Tàu, làm lạc ảo giác của người ngoại quốc khi đến gần (Souvenirs de Huế, Paris 1867, t. 144)”, ông đặt ngay câu hỏi: Ai vẽ đồ thị thành đài này? Có phải Olivier de Puymanel không? Sau khi đã duyệt qua những tác giả như Bastide, Faure, tâng công Puymanel, ông viết: Olivier mất năm 1799, mà công việc xây thành Huế đến 1805 mới bắt đầu. Tiếp đó, ông bác bỏ lập luận cho rằng người Pháp xây thành Huế, trước khi đào sâu vào việc Gia Long lựa chọn vị trí, bài bố đất đai, phong thủy, khơi sông, đắp cầu, cho toàn bộ hệ thống kiến trúc kinh thành.

Đến số BAVH, 1933, I và II, đặc biệt về kinh đô Huế, Cosserat lại nhấn mạnh một lần nữa về sự kiện này. Sau khi chép lại chú thích của Võ Liêm, rút trong Hội điển, về tổ chức của bộ Công dưới thời Gia Long và Minh Mạng, để giải thích phận sự của Giám thành trong việc xây dựng các thành đài, Cosserat viết:

“…Người ta nhận thấy dưới thời Gia Long và Minh Mạng các quan trong bộ này [Công] như Giám thành Nguyễn Văn Yến, Giám thành Đỗ Phúc Thạnh, cũng như Phó đội Nguyễn Học, Đội trưởng Nguyễn Thông, Trương Viết Suý, đã được vua chỉ định để vẽ bản đồ, như những bản đồ xây kinh đô Thuận Hoá (Huế), bản đồ xây lũy Trấn Ninh, v.v.”

Hai trích đoạn mà tôi vừa nêu ra ở trên, như ta thấy, tuyệt đối chính xác và không cho phép bất cứ ai có thể nghĩ rằng có những người Âu nhúng vào việc xây thành Huế. [...]

Thành Huế cũng như tất cả thành đài khác xây sau đó ở vương quốc này, ngày nay không còn nghi ngờ gì nữa, là sản phẩm hoàn toàn Việt Nam, được thực hiện tất cả dưới sự kiểm soát và điều khiển của người Việt Nam”. (H. Cosserat, La citadelle de Huế, cartographie, BAVH, 1933, I và II, t. 3-4).

Những ai còn cho rằng thành Huế là các “sĩ quan Pháp” xây nên đọc Võ Liêm, Ardant du Pisq và Cosserat trong tập san Đô Thành Hiếu Cổ.

Nhưng người ta ít đọc Võ Liêm, Ardant du Pisq, Cosserat, vì đó là những tác giả không “nổi tiếng”. Người ta đọc và tin học giả Cadière.

Chính điểm gian dối cuối cùng này của vị học giả, sẽ được người ta chép lại, rồi ghép với chữ Vauban, để xác định tất cả thành trì Việt Nam xây trong thế kỷ XIX, đều do người Pháp xây, đều làm theo kiểu Vauban cả!

*

Linh mục Cadière đọc diễn văn trước Thống chế Joffre, một sĩ quan công binh thực thụ, tốt nghiệp trường Polytechnique, là trường đào tạo nên những kỹ sư hàng đầu của Pháp sau hai năm học thêm ở một trường chuyên ngành. Ông muốn kéo Puymanel, một người không có học, không có thành tích, lên ngang hàng với thống chế Joffre, anh hùng dân tộc của Pháp trong thế chiến thứ nhất, có công trong cuộc đánh phá chiến lũy Ba Đình của Đinh Công Tráng (1842-1887) năm 1887. Ông đem Maréchal Joffre so sánh với Puymanel, để dễ dàng đưa Puymanel vào lịch sử, như một người đã xây tất cả các thành đài “kiểu Vauban” ở Việt Nam.

Ảnh hưởng của Cadière và Maybon rất rộng, dàn trải gần 100 năm nay, được tiếp sức bằng một sử gia đến sau là Taboulet “tài ba” không kém, khiến những người nghiên cứu Việt Nam chép lại, không hồ nghi, không đặt vấn đề.

Học giả Cadière, với tập san Đô Thành Hiếu Cổ, đã góp phần xây dựng nên huyền thoại những người Pháp đến giúp Gia Long, từ chân tơ kẽ tóc. Trước hết qua ngôn ngữ, bằng việc dịch các văn bằng, chỉ dụ, ông kín đáo đưa họ lên hàng quý tộc, tước vị Hầu tước – Marquis. Kín đáo, tìm lại dinh cơ của họ, tôn vinh gia thế của họ qua những thế phả tô vẽ của Salles. Kín đáo so sánh Puymanel với Thống chế Joffre, kỹ sư tốt nghiệp trường Polytechnique. Kín đáo trình bày Bá Đa Lộc như người thầy tư tưởng của Gia Long, người đã đưa văn hoá, học thuật và kỹ thuật tân tiến của Tây phương vào Việt Nam qua việc “dịch” Bách Khoa Toàn Thư và “dịch những tác phẩm viết về nghệ thuật xây dựng và bảo vệ thành trì đồn luỹ”, nhưng những “bộ sách” này, chưa kiếm ra được!

Đó là thượng sách của Cadière. Nhưng học giả còn dùng cả hạ sách nữa:

Ông không ngần ngại tung tin thất thiệt: Thực Lục ghi Olivier xây thành Gia Định và cũng không ngần ngại xác định: “… Kinh thành Huế, làm dưới sự chỉ đạo tối cao của các sĩ quan Pháp: Chaigneau, Vannier, và de Forsant”, “chính đội ngũ này đã xây tất cả các thành trì dưới thời Minh Mạng và Thiệu Trị”.

Ông còn đòi hỏi các nhà nghiên cứu Pháp phải: “khảo sát xem học trò có theo đúng sự dạy bảo của các thầy Pháp, và nếu bỏ thì tại sao, vì ngu dốt hay vì quên”.

Sau cùng ông buông một lời kết: “Tất cả những thành trì trên nước Nam này, nói chính xác, là tác phẩm của người Pháp, hoặc trực tiếp thực hiện hoặc gián tiếp bằng cách đào luyện đội ngũ kỹ sư An Nam”.

Với những xác định hống hách và gian lận như thế, về mặt tình cảm, học giả Cadière đã tự xoá tên mình trong ký ức mến yêu và kính trọng của người Việt.

Về mặt học thuật, với những kiến thức và tư liệu nắm trong tay, đáng lẽ ông phải chỉ ra những sai lầm bịa đặt trong toàn bộ bài viết của những tác giả thực dân để thiết lập lại sự thực lịch sử, thì ông lại tòng phạm với họ, để tạo cho sự xuyên tạc lịch sử có một nền móng vững chắc hơn.

Thực ra, những lính Pháp đào ngũ đến giúp Gia Long cũng chỉ là những người trẻ tuổi, lẩn trốn một công việc nặng nhọc, ít lương và bị đối đãi tàn nhẫn, ở trên tàu cuối thế kỷ XVIII; họ phiêu lưu tìm cách kiếm ăn và nếu có thể, làm giàu; họ không có tham vọng “đi vào lịch sử”. Olivier de Puymanel và các bạn đồng hành đều vô tư, không có gì đáng trách.

Đáng trách là những người đã dùng họ để biện minh cho chính sách thực dân có một chính nghĩa, càng đáng trách hơn nữa khi những người đó lại là những trí thức có uy tín. Hơn ai hết, học giả Cadière, biết rõ rằng những sự thực dù có bị chôn giấu, niêm phong, một trăm năm, một ngàn năm, rồi cũng sẽ có người khai quật, mở ra. Việc ông và ông Maybon làm, cách đây gần 100 năm rồi, nhưng đối với người Việt chỉ như mới hôm qua, và chúng tôi, hết thế hệ này đến thế hệ sau, sẽ còn đào bới lại để đưa những sự thực này ra ánh sáng.

Thụy Khuê

(Còn tiếp)

Kỳ tới: Con số những người lính Pháp đến giúp Gia Long

Phụ lục 1

Về đề tài liên quan đến Gia Long, tập san Đô Thành Hiếu Cổ tập hợp nhiều tác giả với những loạt bài nghiên cứu khác nhau, như:

- Sogny: Les associés de gauche et de droite au culte du Thế Miếu (Bài vị tả hữu ở Thế miếu), BAVH, 1914, II (t. 119-145)

- Võ Tá Liêm: Capitale de Thuận Hoá (Kinh đô Thuận Hoá), BAVH, 1916, III, (t. 277-288)

- Cadière: Les français au service de Gia Long: I- La maison de Chaigneau (Nhà Chaigneau), BAVH, 1917, II (t. 117-164).

- Cosserat: Notes biographiques sur les français au service de Gia Long (Ghi chú tiểu sử những người Pháp giúp Gia Long), BAVH, 1917, III, t. 165-206)

- Cadière: Les français au service de Gia Long: II- Le tombeau de de Forcant (Mộ của de Forcant) BAVH, 1918, II, (t. 59-77)

- Cosserat: Les Actes de décès de Chaigneau et de Vannier (Giấy khai tử của Chaigneau và Vannier), BAVH, 1919, IV) (t. 495-500)

- Cadière: Les français au service de Gia Long: III- Leurs noms, titres et appelation annamites (Những người Pháp giúp Gia Long, tên, chức vụ và tên Việt), BAVH, 1920, I, t. 137-176.

- Salles: Les français au service de Gia Long: IV: Les tombes de JB.Chaigneau et P.Vannier au cimetier de Lorient, BAVH, 1921, t. 47-57). Cosserat: V-Une fresque de Vannier (BAVH, 1921, t. 239- 242)

- Cadière: Notes sur le corps du génie annamite (Ghi chú về công binh Việt Nam) (BAVH, 1921, t. 283-288).

- Cadière và Cosserat: Les français au service de Gia Long: VI- La maison de JB. Chaigneau, Consul de France à Huế (BAVH, 1922, I, t. 1-31). Cadière: VII-Les Diplômes et ordres de service de Vannier et de Chaigneau, Vannier (Văn bằng và chỉ dụ sai phái Vannier và Chaigneau), BAVH, 1922, II, t. 139-180. Salles: VIII-Les diplômes et ordres de service de Vannier et de Chaigneau; description des documents (mô tả tư liệu) (BAVH, 1922, III, t. 245-254).

- André Salles: Jean-Baptiste Chaigneau et sa famille (JB Chaigneau và gia đình) BAVH, 1923, I, cả quyển.

- Chaigneau: Notices sur la Cochinchine (Trình báo về nước Nam), BAVH, 1923, II, t. 257- 283; do Salles sưu tầm, chú giải, in dưới tựa đề: Le mémoire sur la Cochinchine de Jean-Baptiste Chaigneau (Hồi ức của Chaigneau về nước Nam), BAVH, 1923, II, t. 253-283.

- Lt-Colonel Ardant du Pisq: Les fortifications de la citadelle de Huế (Kinh thành Huế), BAVH, 1924, III, (t. 221-247)

- Cadière: Les français au service de Gia Long: IX- Despiau commercant (Despiau nhà buôn) BAVH, 1925, III, t. 183-185. Cosserat: X-L’acte de baptême du Colonel Olivier (Giấy rửa tội của đại tá Olivier) BAVH, 1925, III, t. 188)

- Cadière: Les français au service de Gia Long: Nguyễn Ánh et la Mission, documents inédits (Nguyễn Ánh và Hội thừa sai, tài liệu chưa in), thư nôm của Nguyễn Ánh gửi hội thừa sai, BAVH, 1926, I, t. 1-49.

- Sogny: Les Plaquettes des dignitaires et des mandarins à la Cour d’Annam (Thẻ bài của những vị chức sắc và quan lại nước Nam), BAVH, 1926, III, t. 233-254)

- Cadière: Les grandes figures de l’Empire d’Annam Nguyễn Suyền (Những khuôn mặt lớn của đế quốc An Nam) tài liệu của Bréda, Cadière bình luận và chú giải, BAVH, 1926, III, t. 255-280)

- Cadière: Les français au service de Gia Long: Leur correspondance (Thư từ): 31 lá thư của những quân nhân Pháp. BAVH, 1926, IV, cả cuốn.

- La citadele de Huế (Thành Huế) BAVH, 1933, I, cả cuốn.

- Documents Salles: Philippe Vannier, BAVH, 1935, II, t. 121-191

- Documents Salles: Laurent Barisy, Cosserat trình bày, BAVH, 1939, III, t. 173-236.

Phụ lục 2

 

NOTES SUR LE CORPS DU GÉNIE ANNAMITE[1]

 

Monsieur le Maréchal,

Notre Société s’est proposée, lors de sa fondation, en novembre 1913, d’étudier le passé de la Capitale de l’Annam et de rechercher tous les souvenirs, tant indigènes qu’européens, qui concernent Huế.

Parmi ces souvenirs, ceux qui nous sont le plus chers, à nous Français, sont ceux qui nous rappellent les officiers venus, à la fin du XVIIIe siècle et au commencement du XIXe, au secours de Gia-Long, et qui ont aidé ce prince à reconquérir son royaume.

Nous avons réuni aujourd’hui quelques documents, qui prouvent l’influence exercée par ces Français, nos devanciers, à la cour d’Annam. Cette influence est un fait indéniable. Un de nos collègues, M. Maybon, la résume dans les termes suivants:

«Il est incontestable qu’ils ont contribué, dans une très large mesure, aux victoires de Gia–Long. Sans parler de la part qu’ils prirent à d’importantes opérations, comme la destruction de la flotte Tây-Sơn en 1792, et à celles qui aboutirent à la prise de Huế, en 1801, on ne peut qu’admirer l’oeuvre d’organisation qu’ils réalisèrent dans des conditions fort peu favorables: ils ont construit une marine européenne et formé des équipages; ils ont instruit les soldats, introduit dans l’armée la discipline, établi des cadres; ils ont fondu des canons, appris aux Annamites l’usage des bombes, créé une artillerie de campagne dont la mobilité frappait les Tây-Sơn de stupeur; ils ont élevé des citadelles»[2].

En un mot, Monsieur le Maréchal, ils ont fait en Annam ce que vous avez fait pour nous en France, pendant les longues années du début de la guerre, et ici comme là-bas, la victoire est venue récompenser tant d’efforts.

Cette influence s’est exercée de plusieurs façons. Elle a été personnelle et directe; elle a été indirecte. Je ne retiendrai ici que ce qui est de nature à intéresser plus particulièrement l’officier du Génie, je veux parler de la défense des places.

Tout d’abord, voyons les hommes qui ont exercé cette influence. Les trouvailles heureuses d’un de nos collaborateurs les plus zé1és et les plus avertis, M. A. Salles, ancien Inspecteur des Colonies, me mettent à même de vous donner la primeur des portraits des trois plus illustres soutiens de Gia-Long: J. B. Chaigneau, Ph. Vannier, et Jean-Marie Dayot. Ces portraits, récemment découverts par notre collègue dans les familles des descendants de ces officiers, seront publiés par les Amis du Vieux Huế, en même temps que de nombreux documents et des notes sur les familles des Français venus au service de Gia-Long.

L’influence exercée par les Français dans le royaume annamite a été personnelle et directe, ai-je dit.

I1 y a eu d’abord un travail de formation technique, et, chose curieuse, c’est un évêque —il est vrai qu’il domine toute cette époque, aussi bien par son activité et son génie que par son patriotisme éclairé et par ses vertus — c’est un évêque, Mgr. Pigneau de Béhaine, évêque d’Adran, qui a joué en cela le rôle initial. Un auteur contemporain nous dit: «Il a traduit pour son élève (c’est de Gia–Long qu’il s’agit) plusieurs ouvrages français en Cochinchinois, principalement sur la tactique et les fortifications, et il en a fait sans contredit le Cochinchinois de ses états le plus instruit et le plus capable»[3]. C’est Dayot qui avait donné ces renseignements à Renouard de Sainte-Croix. Quelques vingt ans plus tard, en 1819, Vannier et Chaigneau donnaient les mêmes indications à un voyageur anglais qui parut à Huế: «[L’évêque d’Adran] traduisit dans la langue du pays les articles les plus utiles de l’Encyclopédie, et composa dans le même idiome différents traités à l’usage de l’Empereur»[4].

Là sans doute se bornait l’oeuvre de l’évêque d’Adran: il fournissait les manuels d’étude. Toutes les explications techniques devaient être réservées aux spécialistes: Chaigneau, Vannier, qui parlaient annamite, mais surtout à Olivier.

Nous aimerions pouvoir vous montrer, Monsieur le Maréchal, la collection de ces ouvrages relatifs à l’art de la construction et de la défense des places, traduits en annamite par l’évêque d’Adran. Peut-être, un jour, les retrouvera-t-on dans des archives du Palais ou des Ministères. Nous pouvons aujourd’hui vous en montrer un spécimen, conservé au Nội-Các C’est la «Carte militaire [comprenant] toutes les principales parties d’une place fortifiée, avec toutes les pièces d’artillerie qui [servent à l’attaque et à la défense] d’une place dressée sur les mémoires du Maréchal de Vauban par J. E. Duhamel, ingénieur du Roi, 1773». Cette carte porte en caractères chinois ou parfois en caractères démotiques les noms des pièces dessinées. Elle est très rare, et la Bibliothèque nationale ne la possédait pas. Elle fut un des manuels qui servirent à la formation de Gia-Long; un de ces manuels dont un missionnaire de l’époque M. Le Labousse, écrivait: «Gia-Long a dans son palais plusieurs ouvrages français qui traitent de construction, de fortification, etc. Il les feuillette continuellement pour en voir les planches et tâcher de les imiter»[5], un de ces manuels qui servirent à la formation du corps d’ingénieurs annamites que nous allons mentioner; c’est d’après les figures et les plans contenus sur cette carte que furent élevées toutes les citadelles du Tonkin et de l’Annam.

A ce travail d’éducation militaire, s’ajouta un travail de construction. C’est Olivier de Puymanel, arrivé l’un des premiers en Cochinchine, en 1788, qui, à peine âgé de 20 ans, mais «joignant beaucoup de valeur et d’activité à une parfaite connaissance des fortifications et de l’art militaire», joua, sous ce point de vue, le premier rôle. «Il fut élevé au premier grade comme chef ingénieur à la tête des arsenaux»[6]. Son titre annamite était celui de Vệ-Úy traduit par «colonel», dans les troupes Thần-Sách ou de l’Artillerie et du Génie. D’après les Annales de Gia-Long, il commença la construction de la citadelle de Saigon en mars-avril 1790. C’était un ouvage de forme octogonale, et les murs, en pierres de Biên-Hòa percés de huit portes, avaient 6 mètres de hauteur[7]. Il fut peut-être aidé dans ce travail par un Français, Le Brun. Il existe en effet un «Plan de la ville de Saigon fortifiée en 1790 par le colonel V. Olivier. Réduit du grand plan levé en 1795 par ordre du Roy de la Cochinchine par Le Brun, ingénieur»[8]. Nous n’avons pas ce plan, malheureusement, dans notre bibliothèque.

Vers 1793, «le Roi engagea M. Olivier, officier français, à lui faire une ville à l’européenne dans une des provinces nouvellement conquises. Elle était à peine achevée lorsque les rebelles y accoururent au nombre de quarante mille hommes, résolus de l’escalader mais leurs efforts furent inutiles»[9]. Le missionnaire qui nous donne ce renseignement subit le siège, ainsi que l’évêque d’Adran, lequel avait accompagné là le prince Cånh, général en chef des troupes fidèles. Il nous apprend que le siège dura 24 jours, vers 1a fin d’avril 1794, et que les ennemis envoyèrent plus de neuf cent soixante boulets. Neuf cent soixante boulets en 24 jours! C’était une guerre en dentelles, en comparaison des pluies d’obus que vous avez vues, Monsieur le Maréchal.

Je citerai encore un passage d’un auteur contemporain qui montre les services rendus à la dynastie des Nguyễn par cet officier du Génie de 20 ans: «M. Olivier fortifiait les postes de l’armée par de bons retranchements garnis de canons manoeuvrés à l’europénne, et cette manière si nouvelle en Cochinchine de faire la guerre, rendit les Tây-Sơns extrêment timides étant battus toutes les fois qu’ils se présentaient devant les troupes du Roy, et ne pouvant soutenir la supériorité des feux dirigés par M. Olivier et souvent attirés et arrêtés par des fortifications dont ces peuples n’avaient aucune idée»[10].

Est-ce que ces travaux de notre compatriote subsistent encore? Hélas, je crains que tout ait disparu.

Pour la citadelle de Saigon, c’est un fait absolument certain: La mission anglaise de Crawfurd passa à Saigon en 1822, et son médecin, Finlayson, nous dit: «La forteresse a été construite depuis peu d’années, sur les principes de la fortification européenne. Elle est munie d’un glacis dans les règles, d’un fossé plein d’eau, d’un haut rempart, et commande la contrée environnante. Elle est de forme carrée et chacun des côtés a environ un demi-mille de longueur. Mais elle n’est pas encore achevée; on n’a pas encore fait d’embrasures ni monté de canons sur les murs. Le zig-zag est fort court, et le passage de l’entrée principale est en droite ligne; les portes sont belles et ornées dans le style chinois»[11]. Cette citadelle inachevée, de forme carrée, n’est pas la citadelle de forme octogonale bâtie par Olivier. Bien plus, pendant la révolte de Lê-Văn-Khôi qui souleva, en 1833-34, toute la Basse-Cochinchine, Minh-Mạng fut obligé de prendre d’assaut la citadelle de Saigon. La fit-il démolir? Toujours est-il que le Recueil général d’administration place en 1836 la construction d’une citadelle à Saigon[12]. Peut-être ne s’agit-il que d’une restauration. Tout fut démoli après l’occupation française.

Je ne saurais dire s’il existe encore à Nha-Trang des vestiges de la citadelle élevée par Olivier. Le Recueil général d’administration place en 1814, 13e année de Gia-Long, la construction de la citadelle de Khánh-Hòa[13]. S’agit-il d’une reconstruction totale à un autre endroit, ou au même endroit après démolition, les données me manquent actuellement pour répondre à cette question.

Les citadelles qui jalonnent actuellement le pays annamite ont été construites, d’après le Recueil général d’Administration, à partir de l’avènement de Gia-Long, et s’étagent de 1804 à 1844.

Nous avons, sous Gia-Long:

Thanh-Hóa où vous êtes illustré, Monsieur le Maréchal, en 1804.

Huế en 1805.

Quảng-Ngãi et Hải-Dương en 1807.

Thái-Nguyên et Vĩnh-Long en 1813.

Khánh-Hoà en 1814.

Bình-Định en 1817.

Sous Minh-Mạng:

Hưng-Hóa en 1821.

Sơn-Tây en 1822.

Quảng-Bình et Ninh-Bình en 1823.

Bắc-Ninh et Cao-Bằng en 1824.

Định-Tường en 1824.

Quảng-Yên en 1827.

Nghệ-An en 1831.

Hưng-Yên en 1832.

Nam-Định, Hà-Tĩnh et Quảng-Nam en 1833.

An-Giang, Châu-Đốc, Hà-Tiên et Lạng-Sơn en 1834.

Hanoi, en 1835.

Gia-Định (Saigon), en 1836.

Phú-Yên, Bình-Thuận et Quảng-Trị en 1837.

Biên-Hòa en 1838.

Enfin, sous Thiệu-Trị:

Tuyên-Quang en 1844.

Je crois que nous pouvons affirmer, bien qu’aucun document précis ne nous l’indique, que les citadelles construites sous Gia-Long, et principalement la citadelle de Huế l’ont été sous la haute direction des officiers français qui étaient alors encore au service du roi d’Annam: Chaigneau, Vannier, de Forsant. Mais ils étaient déjà secondés par un service du Génie purement annamite, qu’ils avaient formé, ou qu’Olivier avait formé. C’est ce service, sur lequel nous sommes encore fort mal renseignés, mais sur lequel les archives des Ministères de la Guerre et des Travaux publics doivent renfermer de précieux documents, c’est ce service qui a élevé toutes les citadelles bâties sous Minh-Mạng et Thiệu-Trị. Il serait intéressant qu’un spécialiste étudie un jour, sur le terrain même et à l’aide des plans, l’oeuvre du service annamite du Génie, et qu’il examine si les élèves ont suivi comme il faut les indications de leurs instructeurs français, s’ils les ont abandonnées, par ignorance ou oubli, ou si, faisant preuve d’initiative, ils les ont modifiées suivant les circonstances du terrain ou les besoins du moment.

Mais une conclusion ressort de tout ce que j’ai dit, c’est que tous les travaux de fortification qui existent en pays annamite, sont à proprement parler l’oeuvre des Français, soit d’une façon directe et effective, soit d’une façon indirecte, par la formation d’un corps d’ingénieurs annamites.

Vous êtes venu au Tonkin et en Annam comme officier du Génie, Monsieur le Maréchal, vous y avez construit des ouvrages militaires, vous y avez combattu avec courage et avec gloire. J’espère que cette résurrection, trop brève à mon gré, de ceux qui vous ont précédé ici, qui se sont battu, qui ont construit, qui ont formé des é1èves, vous aura été agréable.

L. CARDIÈRE.

Chú thích:

[1] Explications données à Monsieur le Maréchal Joffre, lors de sa réception aux Amis du Vieux Hué, le 3 janvier 1922. — Nous publions ces notes uniquement pour prendre date, et annoncer une étude plus approfondie et pluS documentée.

[2] Histoire moderne du pays d’Annam, p. 279.

[3] Relation sur le Tonkin et la Cochinchine, de M. de 1a Bissachère. Introduction de Renouard de Ste-Croix publiée par M. J. B. Maybon, p. 91.

[4] Extrait des Annales maritimes et Coloniales, 1823, tome 2, p. 578

[5] Nouvelles lettres édifiantes, tome VIII, p. 187.

[6] La relation sur le Tonkin et la Cochinchine. p, 82.

[7] Đại-Nam thật lục đệ nhứt kỷ livre IV, folio 31.

[8] D’après Schreiner: Abrégé de l’histoire d’Annam, p. 104, note 1.

[9] Documents relatifs à l’époque de Gia-Long, par L. Cadière, pp. 31-34.

[10] Relation de M. de la Bissachère, p. 83.

[11] Voyage de Bengal à Siam et à la Cochinchine, dans Bibliothèque universelle des voyages, 1835 p. 337.

[12] Hội-điển livre 209

[13] Hội-điển livre 209.

Chương 16 - I -

con số người pháp trong quân đội nguyễn vương

Có bao nhiêu người Pháp trong quân đội Nguyễn Vương? Đó là một câu hỏi mà chúng ta có thể tìm thấy nhiều lời giải đáp khác nhau, tuỳ theo vị trí, quan niệm và mục đích của người trả lời, vì vậy, phải tìm cách phân tích và nhận định, để thử tìm ra một con số gần gụi với sự thực hơn cả.

Đại Nam Liệt Truyện, trong bài viết về Bá Đa Lộc, ghi công trạng của 7 người:

“Về đồ đệ [của Bá Đa Lộc] có những tên: Mạn Hoè [Manuel], Đa Vật [Chỉ Dayot hoặc Chaigneau], Va Nê E [Vannier], Ô Ly Vi (tức tên là Tín) [Olivier de Puymanel] và Lê Văn Lăng [de Forcant] đều là người nước Phú Lãng Sa; còn tên Gia Đố Bi [Santiago] và Ma Nộ E [Emmanuel] đều là người nước Y Pha Nho. Khi trước Đa Lộc tiến Mạn Hoè có thể dùng được, trải bổ làm Khâm sai Cai cơ coi đội trung nông [trung khuông]. Năm Nhâm Dần [1782] Tây Sơn vào lấn Gia Định, các tướng chống lại, bầy trận ở sông Thất Kỳ, thuyền giặc thừa cơ có gió xông vào trận, quân ta đều rút lui, Mạn Hoè một mình đi chiếc thuyền lớn Tây dương bọc đồng cố sức đánh, giặc bốn mặt vây đánh, Mạn Hoè tự liệu không thoát, bèn tự đốt mình chết. Sau truy tặng Hiệu Nghiã công thần, được liệt vào thờ ở đền Hiển Trung ở Gia Định. Gia Đố Bi và Ma Nộ E cũng theo Đa Lộc xin gắng sức theo làm việc. Năm Quý Mão [1783], sai vượt biển sang Lã Tống [Luzon, đảo lớn nhất của Phi Luật Tân, chỉ thủ đô Manille] cầu giúp binh, giữa đường gặp binh thuyền của Tây Sơn bị giết chết.

Đa Vật, Va Nê E, Lê Văn Lăng và O Ly Vi, bốn người ấy theo Đa Lộc từ Tây Dương tới Gia Định, xin ở lại làm thân bộc, đều bổ làm Cai đội. Đa Vật cho tên là Chấn, Va Nê E cho tên là Thắng, đều cho họ là họ Nguyễn, trải theo đánh dẹp [trên] 2 chiếc thuyền lớn là: Long Phi, Phượng Phi, rồi làm đến Chưởng cơ. Minh Mạng năm đầu, vì già xin về nước, vua y cho.

Lê Văn Lăng làm Chưởng cơ, Ô Ly Vi làm đến Vệ úy Vệ ban trực hậu quân Thần sách.” (LT, Tập II, mục từ Bá Đa Lộc, t. 506-507).

Nhà sử học và văn bản học Trần Kinh Hoà trong bài giới thiệu Quốc sử di biên của Phan Thúc Trực, có nhận định sau đây về Thực Lục và Liệt truyện: “…những quyển nội dung rất đầy đủ nhất, thu lượm được sự kiện lịch sử được nhiều nhất, thì là Thực Lục chính biên kỷ thứ hai [tức] Đệ Nhị kỷ (Thực Lục triều Minh Mệnh); [rồi đến] thứ hai là kỷ thứ nhất [tức] Đệ Nhất kỷ (Thực Lục triều Gia Long)” sau đó đến Thực Lục triều Thiệu Trị và Tự Đức (Trần Kinh Hoà, Quốc sử di biên, Nxb Văn Hoá Thông tin, 2009, t. 12).

Thực vậy, khi so sánh với các tài liệu gốc, phiá Pháp, Thực Lục và Liệt Truyện có độ chính xác rất cao. Tuy nhiên, trong đoạn văn mà chúng tôi vừa trích dẫn trên đây, trừ đoạn viết về Mạn Hoè, những câu khác có nhiều sai lầm, tại sao? Xin tạm giải thích:

Câu: “Về đồ đệ [của Bá Đa Lộc] có những tên: Mạn Hoè [Manuel], Đa Vật [Chỉ Dayot hoặc Chaigneau], Va Nê E [Vannier], Ô Ly Vi (tức tên là Tín) [Olivier de Puymanel] và Lê Văn Lăng [de Forcant]“. Thực ra, trong những người này, chỉ có Mạn Hoè là đồ đệ của Bá Đa Lộc.

Còn về Đa Vật; chữ này chắc phiên âm chữ Dayot, người được vua trọng vọng nhất, nhưng vì y làm đắm tàu, trốn đi từ năm 1795, các sử thần đã dùng chữ này để chỉ Chaigneau, người đến sau, “thay thế” Dayot.

Trong ba người còn lại: Va Nê E [Vannier], Ô Ly Vi [Olivier de Puymanel] và Lê Văn Lăng [de Forcant], thì Vannier đến từ Pondichéry, nhận chức Cai đội ngày 27/6/1790. De Forcant, không biết từ đâu đến, chỉ thấy xuất hiện trên thư của các giáo sĩ khoảng 1800, và được lái tàu Bằng Phi.

Riêng Olivier de Puymanel, tình nguyện binh nhì, khởi hành cùng với Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh, từ Lorient, trên tàu Dryade, ngày 27/12/1787. Tàu này, sau khi ghé Pondichéry để giám mục và hoàng tử lên bờ, sẽ đến Côn Lôn từ 15 đến 19 /9/1788; tại đây, Olivier đào ngũ và ở lại. Vì vậy, chỉ có mình Olivier de Puymanel có thể coi là đã “nghe lời” vị giám mục đến giúp Nguyễn Ánh, nhưng theo thư y gửi cho gia đình, thì y đến đây tìm của.

Tuy nhiên, hoặc Bá Đa Lộc nhận họ là “đồ đệ” của mình để giới thiệu với vua. Hoặc Bá Đa Lộc Lộc là cha đỡ đầu cho tất cả những người Pháp đến Nam Hà; vì thế mà các tác giả Liệt truyện coi họ là đồ đệ của Bá Đa Lộc.

Còn Gia Đố Bi và Ma Nộ E, tức Santiago và Emmanuel, hai giáo sĩ Franciscain, năm 1783 về Phi Luật Tân, định cầu viện cho Nguyễn Ánh, bị Nguyễn Nhạc bắt, nhưng không bị giết, sau được thả về; nhưng trong một thời gian dài, giám mục Bá Đa Lộc không biết tin tức của họ nên tưởng họ bị giết (thư Bá Đa Lộc gửi M. Descourvières ngày 5/12/1783, Launay, t. 76-81). Vì vậy, Liệt Truyện đưa tên họ vào danh sách những người tử nạn vì giúp vua.

Tóm lại, Liệt Truyện chỉ ghi tên những người đã theo vua đến chiến thắng hoặc bị chết trong chiến trận hay vì nhiệm vụ. Con số là 7 người. Những người bỏ đi, hoặc phản bội, không được ghi tên.

 

Tài liệu của Louvet

 

 

Trong cuốn La Cochinchine Religieuse, I, (Leroux, Paris, 1885) của Louis-Eugène Louvet, phần Pièces Justificatives (Chứng từ), Louvet tìm được 7 văn bằng cai đội vua ban cho: JM Dayot, Philippe Vannier, Julien Girard de L’Isle Sellé, Théodore Lebrun, Jean-Marie Despiaux, Louis Guillon và J. Guilloux. Và thư sai phái, có ghi chức cai đội của 3 người: Barisy, Januario Phượng (người Bồ?) và Gibsons (người Anh?).

Tổng cộng là 10 người Âu, chính thức có văn bằng, còn lưu lại.

Những văn bằng này làm theo một kiểu mẫu giống nhau, cùng ghi ngày 27/6/1790, nội dung thay đổi chút ít tuỳ theo phận sự từng người. Vậy có thể hiểu, đã có một buổi lễ vào ngày 27/6/1790, vua cho những người này “nhậm chức” và “tuyên thệ”.

Vì không có bản dịch từ nguyên bản chữ Hán; chúng tôi xin dịch lại bản đã được dịch sang tiếng Pháp, có ghi là do Puymanel dịch, in trong La Cochinchine Religieuse của Louvet. Thí dụ văn bằng của Dayot, được viết như sau:

 

Văn bằng do vua Nam Hà cấp cho M. Dagot [Dayot]

“Hoàng thượng xét sự trung thành và nhiệt tâm trong công việc của Jean-Marie Dagot, quốc tịch Pháp, người đặc biệt chú ý đến thiện chí mà y đã chứng tỏ khi đến từ rất xa để phục vụ trong ngành thủy binh của người, Hoàng thượng xét thấy y xứng đáng được chọn, và với văn bằng này, cấp cho y chức Khâm sai cai đội quản chiếu tàu nhị chích trí lược hầu, quản chiếu hai tàu Đồng Nai và Le prince de Cochinchine. Hoàng thượng hy vọng khi thời cơ đến, Jean-Marie Dagot, sẽ kịp thời chứng tỏ lòng can đảm và trí thông minh để điều khiển các tàu được giao phó, và nghiêm khắc áp dụng quân lệnh, y sẽ xứng đáng được tin cậy. Nếu vì lỗi, không làm tròn nhiệm vụ quan trọng này, thì y sẽ bị nghiêm trị theo luật pháp.

Ngày thứ 15, tuần trăng thứ 5, năm Cảnh Hưng thứ 51, tại Sài Gòn, ngày 27/6/1790″.

 

Văn bằng cấp cho Vannier, có câu:

“…với văn bằng này, cấp cho y chức Cai đội chấn thanh hầu, giao cho y quản một trong những tàu của hoàng thượng là tàu Đồng Nai, dưới quyền điều khiển và phải tuân mọi lệnh của Jean-Marie Dagot, chỉ huy phân khu có tàu này.”

Văn bằng cấp cho Isle-Sellé, có câu:

“…với văn bằng này, cấp cho y chức Cai đội long hưng hầu, giao cho y quản chiếc tàu Le prince de la Cochinchine, dưới quyền điều khiển và phải tuân mọi lệnh của Jean-Marie Dagot, chỉ huy phân khu có tàu này”.

Trong văn bằng cấp cho Le Brun có câu: “Hoàng Thượng xét thấy tài năng của Théodore Lebrun, quốc tịch Pháp, với bằng văn bằng này, cấp cho y chức Khâm sai cai đội thanh oai hầu, quản chiếu việc công thự (bản tiếng Pháp dịch là capitaine ingénieur)”.

 

Như vậy trong 7 văn bằng chỉ có Dayot và Le Brun là được chức Khâm Sai, tức là cao hơn những người khác một bực. Rồi chúng ta sẽ thấy, Dayot trốn đi, vì làm đắm tàu và Le Brun bỏ đi, vì không làm được công việc “kỹ sư” mà anh ta đã nhận.

 

Con số 369 người của Alexis Faure

 

Alexis Faure trong cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine (sẽ dẫn là Faure), mục Pièces justificatives (Chứng từ) (t. 235-249), đã làm một số việc sau đây:

1- Kê khai tên các tàu Pháp hoạt động ở vùng biển Ấn Độ và Trung Hoa trong khoảng 1785-1790, gồm có 12 tàu: Résolution, Vénus, Dryade, Méduse, Subtile, Astrée, Duc de Chartres, Nécessaire, Dromadaire, Pandour, Mulet và Marsouin.

2- Ghi tên họ và chức vụ những người bị đuổi hoặc đào ngũ trên những tàu này, tổng cộng 369 người (trang 248 ghi 369; trang 210 ghi 359; nhưng 369, đúng với số tổng cộng).

3- Ghi hải trình của những tàu này trong 5 năm (1785-1790). Qua hải trình được ghi lại, ta thấy chỉ có ba tàu Dryade, Méduse và Pandour là ghé Việt Nam thường xuyên. Các tàu còn lại, làm dịch vụ ở vùng khác. Vậy mà, Faure tổng kết như sau:

“Tổng cộng những mất mát trên các chiến dịch của các tàu là: Résolution: 33 người, Vénus: 54, Dryade: 21, Méduse: 126, Subtile: 48, Astrée: 15, Duc de Chartres: 1, Nécessaire: 16, Dromadaire: 4, Pandour: 31, Mulet: 12, Marsouin: 8. Tổng cộng: 369.

Như thế, theo con số ghi nhận vai trò của họ trong thuỷ thủ đoàn của 12 tàu trên đây, thì con số thuỷ thủ Pháp đã bỏ hiệu kỳ để theo Giám Mục Adran đến Nam Hà là 369. Nhưng còn phải thêm vào danh sách trên đây, một phần lớn thủy thủ của tàu Revanche, Espérance, Ariel và Flavie, năm 1794, cũng bị giải giới ở Macao để khỏi bị Anh bắt, họ cũng đi qua Nam Hà với vũ khí và hành lý. Trong số này có một sĩ quan, Chaigneau (Jean Baptiste) enseigne ở trên tàu la Flavie, đến muộn, cũng không kém phần hữu ích cho cuộc tranh đấu mà ông đã theo đuổi đến cuối đời” (Faure, t. 248).

Như trên chúng tôi đã nói: trong 12 tàu trên chỉ có 3 tàu là có dịch vụ ghé qua Việt Nam, còn những tàu kia hoạt động ở những vùng khác trên Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, thì làm sao những người đào ngũ trên các tàu ấy có thể “đến” Việt Nam được? Không lẽ họ đi bộ hay bơi tới Việt Nam để theo Giám mục Adran để tổ chức quân đội Nam Hà” chăng?

Nhưng chưa hết, con số 369, dưới mắt Faure vẫn chưa đủ, còn phải kể thêm cả thủy thủ đoàn của bốn tàu bị giải giới nữa, thành ra bao nhiêu?

Đó là lối lập luận của Faure.

 

Dò kỹ danh sách và chức vụ của 369 người này, ta thấy:

- Một bác sĩ giải phẫu, Dominique Desperles, ở tàu Pandour, và môt phụ tá giải phẫu, Pierre Georgeault, tàu Mulet. Còn tất cả chỉ là hạ sĩ (quartier maiîre), thủy thủ, lính tình nguyện, làm các công tác khác.

- Một người tên Magon de Médine là đại uý hải quân (lieutenant de vaisseau), đào ngũ từ tàu Pandour, nhưng không thấy tên trong số những người được nhận chức cai đội ngày 27/6/1790 và cũng không thấy dấu vết ở đâu cả. Tuy nhiên, Faure vẫn đưa tên Magon de Médine vào danh sách các sĩ quan được Bá Đa Lộc chọn cùng với Puymanel, Le Brun, Guillon, Guilloux, Tardivet, Malespine, Dayot (Faure, t. 210).

Trong danh sách 369, có 3 người sau này sẽ nổi tiếng:

Olivier de Puymanel, tàu Dryade, tình nguyện binh nhì (volontaire de 2e classe), chức có từ 15/12/1787, đào ngũ ở Poulo-Condor [Côn Đảo] ngày 19/9/1788.

Théodore Le Brun, tàu Méduse, tình nguyện binh nhất (volontaire de 1è classe), chức có từ 1/1/1789), xuống Macao ngày 13/1/1790.

Jean-Baptiste Chaigneau, tàu Subtile, tình nguyện binh nhì (volontaire de 2e classe, chức có từ 1/7/1787, được hứa sẽ lên binh nhất tháng 12/1787), nhưng sau đó đổi sang tàu Flavie, và năm 1794, tàu này bị giải giới ở Macao, Chaigneau không thuộc dạng đào ngũ. Ông không được tàu Flavie cho lên chức sĩ quan (enseigne) như Michel Đức con ông ghi lại trong hồi ký, chúng tôi sẽ nói rõ việc này trong chương viết về Chaigneau.

Vì những người lính này đều thuộc diện lính tình nguyện, nên chúng ta cần tìm hiểu thế nào là lính tình nguyện.

Lính tình nguyện

Những người đến Nam Hà, được biết đến, đều thuộc dạng lính tình nguyện (volontaire). Vậy trước hết, lính tình nguyện là gì?

Faure định nghĩa: “Những lính tình nguyện trong thủy quân thời trước là những thanh niên, con nhà khá giả, trình độ học vấn tự do (ayant reçu une instruction libérale) thích viễn du, lên tàu nhà nước làm lính ăn ở trên tàu, được trợ cấp mỗi ngày 1 franc để trả tiền ăn. Những người lính tình nguyện này, sau một thời gian đi tàu, qua những cấp bậc liên tiếp, có thể tiến đến chức học viên (élève) hay chuẩn uý thuỷ quân (aspirant de la marine), với tư cách sĩ quan. Danh sách thủy thủ tàu Dryade xếp Olivier de Puymanel vào loại đào ngũ, là không đúng, vì lính tình nguyện thời đó, không bị buộc phải tại ngũ trong thời gian hạn định; đã đi, giao kèo có thể bãi, theo ý muốn của người tình nguyện, nếu anh ta không nợ nần gì nhà nước. Ta sẽ thấy, sau này, lính tình nguyện Le Brun bỏ tàu ở Macao, cùng trong một diều kiện, mà không bị coi là đào ngũ trong danh sách thuỷ thủ” (Faure, note 2, t. 199-200).

 

Thực ra Le Brun bị xếp vào danh sách đào ngũ hai lần; một lần trên tàu Vénus (Faure, t. 241) và một lần trên tàu Méduse (Faure, t. 243). Faure không đọc kỹ hồ sơ do chính ông thiết lập.

Thấy ý nghiã mơ hồ của câu “trình độ học vấn tự do (ayant reçu une instruction libérale” do Faure đưa ra, chúng tôi vào Internet, Website của Hải Quân Pháp, tìm định nghiã Volontaire de la marine, thì thấy ghi: “từ 17 đến 26 tuổi, không bắt buộc bất cứ trình độ học vấn nào” (âgé de 17 à 26 ans, aucun niveau scolaire n’est requis). Vậy Faure đã biến câu “aucun niveau scolaire n’est requis” thành “ayant reçu une instruction libérale”, để dễ thăng những người lính tình nguyện binh nhì, binh nhất lên làm kỹ sư, kiến trúc sư, chăng?

Nhưng đối với chúng ta câu “không bắt buộc bất cứ trình độ học vấn nào” rất đáng chú ý, nó giải thích sự kiện, khi đọc thư của những người như Olivier de Puymanel, Barisy, Chaigneau, Vannier… do Cadière sưu tầm đăng trong bài Les français au service de Gia Long: Leur correspondance (Thư từ), BAVH, 1926, IV, ta thấy tiếng Pháp của họ đầy lỗi, viết như người mới học. Và Faure chỉ nói sau “một thời gian” đi biển có thể lên sĩ quan, mà ông không nói rõ là bao lâu. Jurien de la Gravière (đô đốc) cho biết: sau sáu năm phục vụ mới xin được ủy ban xét để thăng thiếu uý (sous-lieutenant) trong quân đội chính quy, hoặc phải đợi đến tuổi 23 (thay vì 25) mới có thể xin làm thuyền trưởng đi trường kỳ (capitaine au long cours) (Jurien de la Gravière, Souvenir d’un amiral, 1872, t. 15; Taboulet, I, t. 244).

Xét về điều kiện sáu năm này, chỉ có một mình Chaigneau là có, vì ông đi biển từ tuổi 12, nhưng Chaigneau, có lẽ vì kém quá, không trúng các kỳ sát hạch để lên chức, nên vẫn ở mức độ binh nhì, và sau này khi phục vụ Nguyễn Ánh, ông ở chức cai đội trong 7 năm, Vannier ở chức cai đội trong 11 năm. Như vậy đủ biết vấn đề trình độ rất quan trọng trong quân đội.

Con số của Bá Đa Lộc: 40 người Âu trong bộ binh của Nguyễn Ánh

Một thư giám mục Bá Đa Lộc viết không đề ngày, in trong Montyon II, t. 143, có câu sau:

“Trong tám ngày nữa, vua sẽ đi đánh Quy Nhơn [...] ông chỉ mang theo một nửa quân đội. Bộ binh của ông có 40 người Âu, trong đó có một người được lãnh trọng trách cai quản 600 binh; còn thuỷ binh, có hai chiến thuyền Tây phương trang bị đầy đủ vũ khí. Tôi tin rằng, nếu chiến dịch này thành công, ta sẽ có cơ gửi những giáo sĩ ra Phú Yên, Nha Trang Bình Khang, và Bình Thuận”. (Montyon, II, t. 143).

Phần chót lá thư được Launay in lại, ghi thư Bá Đa Lộc gửi M. Boiret ngày 18/7/1792, (Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine, III, t. 284).

Thư này viết tám ngày trước khi Nguyễn Ánh khởi binh đánh Thị Nại năm 1792. Vậy có thể Nguyễn Ánh xuất quân ngày 26/7/1792. Thực Lục cho biết, trong trận này “Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Văn Thành đi thuyền Long [Long Phi] và Phụng [Phượng Phi], đánh thẳng vào.” (TL, I, t. 287). Tấn công chớp nhoáng trong lúc Nguyễn Nhạc đi săn vắng, và thắng lớn, rồi rút về Gia Định.

Thư Bá Đa Lộc nói: có hai chiến thuyền Tây phương trang bị đầy đủ vũ khí, nếu đối chiếu với Thực Lục, thì chắc là hai tàu Long Phi và Phượng Phi chở hai đại tướng Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Văn Thành.

Bá Đa Lộc còn viết: Bộ binh của ông có 40 người Âu, trong đó có một người được lãnh trọng trách cai quản 600 binh. Ông không nói đến thuỷ binh. Như vậy, năm 1792, theo Bá Đa Lộc, bộ binh của Nguyễn Ánh có 40 người Âu; và có một người được lãnh trọng trách cai quản 600 binh, tuy ông không nói rõ tên, nhưng ta chắc là Olivier de Puymanel, vì Thực Lục, việc tháng 7-8/1792 có ghi: “Lấy cai đội Ôlivi (người Tây) làm Vệ Uý ban trực tuyển phong hậu vệ Thần sách” (TL, I, t. 286), mà chức Vệ uý, thời đó có thể cai quản tới 600 quân. Tóm lại, theo Bá Đa Lộc, có 40 người Âu, trong bộ binh của Nguyễn Ánh, năm 1792.

Con số của Vannier: 14 sĩ quan và 80 binh sĩ

 

Trong lá thư Vannier viết từ Auray (Lorient) cho Bộ trưởng Nội vụ (không đề ngày, có lẽ vào khoảng 1825-1826, khi ông mới trở lại Pháp) mục đích xin cho con gái 10 tuổi vào trường hoàng gia ở Ste-Denis, trong thư, có câu sau đây:

“Nhà vua quen biết mười bốn sĩ quan và tám mươi binh sĩ giúp ông lấy lại ngai vàng” (ce prince trouva dans les connaissances de quatorze officiers et quatre-vingts soldats des secours tels qu’ils l’aidèrent à remonter sur son trône) (Documents d’André Salles, Philippe Vannier, BAVH 1935, II, document 54, t. 143).

Trong thư Vannier cũng cho biết ông được nhận chức quan võ, hàng bát phẩm, như vậy rất phù hợp với văn bằng vua cho ông chức Cai đội chấn thanh hầu.

Khi nói đến con số 14 sĩ quan mà vua “quen biết”, có thể Vannier nhớ đến con số 14 người được nhận chức cai đội, trước và sau ông, cùng làm việc với ông.

Trong số đó, Louvet thu thập được cả thẩy 7 văn bằng và 3 chỉ dụ sai phái, tổng cộng là 10.

Chúng ta thử kiểm lại con số của Vannier:

Văn bằng do Louvet tìm thấy, gồm có: JM Dayot, Philippe Vannier, Julien Girard de L’Isle Sellé, Théodore Lebrun, Jean-Marie Despiaux, Louis Guillon, J. Guilloux.

Chỉ dụ sai phái: Barisy, Januario Phượng (người Bồ), và Gibsons (người Anh).

Ngoài ra còn có những người như: Puymanel (đến trước), Félix Dayot (đến sau), Chaigneau (đến sau) và de Forcanz (chưa rõ đến từ bao giờ). Tổng cộng đúng 14 người.

Như vậy con số 14 người, do Vannier nhớ lại hơn ba mươi năm sau, là chính xác hơn cả.

Con số của Cosserat: 17 người

 

H. Cosserat, đại lý thương mại là một trong những nhà nghiên cứu trung thực của Pháp, đã đúc kết trong bài Notes bioghaphiques sur les français au service de Gia Long, BAVH, 1917, III (165- 206), một loạt chân dung những người Pháp này. Ông dùng tư liệu của Louvet, trong cuốn La Cochinchine Religieuse (Leroux, Paris, 1885), của Faure, trong cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine (Challamel, Paris, 1891), và của Cadière trong bài Les documents relatifs à l’époque de Gia Long (BEFEO) số 12, 1912 (t. 1- 82), và những thư từ trong Archives của Hội Thừa Sai Paris về giai đoạn này.

Cosserat liệt kê được 17 người: Manoè (Mạn Hoè, Manuel), Joang (Jean), Etienne Malespine, Dominique Desperles, Magon de Médine, Emmanuel Tardivet, Guillamne Guillon, Julien Girard de l’Isle Sellé, Théodore le Brun, Alexis Olivier de Puymanel, Jean-Marie Despiau, Jean-Marie Dayot, Félix Dayot, Laurent Barisy, De Forcant, Philippe Vannier, Jean-Baptiste Chaignau.

Trong 17 người này có 4 người thuộc tàu Pandour, là: Etienne Malespine, tình nguyện binh ba; Dominique Desperles, bác sĩ giải phẫu. Magon de Médine, đại úy (sĩ quan duy nhất có tên trong danh sách đào ngũ) và Emmanuel Tardivet, tình nguyện binh nhất, Cosserat chép lại của Faure (t. 210), và ông cho biết ông không tìm được dấu vết gì, chúng tôi thấy nên loại cả 4 người này. Vì theo Vannier chỉ có 14 người được nhận theo diện sĩ quan mà thôi. Và cũng nên nói rõ, vì họ khai là sỹ quan, thực ra họ cũng chỉ là lính. Giám mục Bá Đa Lộc biết rõ việc này, nhưng ông lờ đi.

Con số của Tạ Chí Đại Trường: 140 sĩ quan và 80 lính Pháp

 

Tạ Chí Đại Trường là người phóng đại công trạng của Bá Đa Lộc và những người Pháp đến giúp Nguyễn Ánh, quá đáng hơn cả những ngòi bút thuộc địa.

Ông dành trọn tiết 12, tựa đề: “Tiếp viện của Bá Đa Lộc” (Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, t. 200- 208), để vinh thăng “sự trở về” của Bá Đa Lộc. Và để mô tả cuộc trở về “trọng đại” này, ông Tạ viết:

“Viên thuyền trưởng, hầu tước De Rosily Meros cho bắn 15 phát súng [...] Luôn thể ông cũng tỏ một cử chỉ bặt thiệp: “Tôi tưởng có bổn phận phải thêm vào cho sứ bộ nhỏ bé này 2.000 cân thuốc súng để cho cậu Hoàng tử không có dáng trở về tay không và để làm vui lòng Giám Mục đã tỏ vẻ ước muốn chúng lắm” (Trích lại của G.Taboulet, Le traité de Versailles, BSEI, XIII, t. 103)”.

Không biết “2.000 cân thuốc súng” này, Taboulet lấy ở đâu ra? Vì không thấy đâu ghi cả. Bá Đa Lộc không nói đến, Faure không đả động, cả Maybon cũng không. Ông Taboulet viết sử theo lối “tiểu thuyết” như vậy hay là ông Tạ “tiểu thuyết hoá lời ông Taboulet thành một “sự thực sống động” như thế: bao gồm cả lời tuyên bố và cử chỉ bặt thiệp của “hầu tước De Rosily Meros”?

Tiếp đó, Tạ Chí Đại Trường lấy lại những ngụy biện của Maybon (t. 267- 268) mà chúng tôi đã nói đến trong chương 14, để “chứng minh” Bá Đa Lộc đã có những nguồn tài trợ từ khi đến Ile de France (TCĐT, t. 201-202), và còn dùng thêm một loạt “chứng từ” khác của Gaide, Imbert, là những tác giả khó tin được, để viết những câu như thế này:

“Từ năm 1779, Nguyễn Ánh đã đặt ở Côn Lôn, những viên quan mang chứng minh thư của “P.J.G Giám mục d’Adran” giới thiệu với các thuyền trưởng Tây phương, mời họ vào bến”. Và: “Chính ở Côn Lôn, tháng 9/1788, chiếc tàu La Dryade, trong sứ mệnh dò tình hình Nam Hà đã thả lại Hồ Văn Nghị và 1.000 khẩu súng mua cho Nguyễn Ánh”.

Để đi đến kết luận: “Bá Đa Lộc gom góp tiền bạc khí giới lương thực chất lên các tàu ông thuê ở Ile de France và cả ở Pondichéry nữa nhờ sự giúp đỡ của các nhà buôn như ta đã biết. “ (LSNCVN, t. 203).

Những điều này, chúng tôi đã chứng minh là sai trong chương 14.

Còn vụ “chứng minh thư” rút trong bài viết của Gaide (Note historique sur Poulo-Condore, BAVH, 1925, II (t. 88), thì xin vắn tắt: Gaide viết lại chuyện Hồ Văn Nghị (nhưng không biết nên gọi là một ông quan): linh mục Hồ Văn Nghị có chỉ dụ của vua, được toàn quyền cai quản và giúp đỡ bất cứ thuyền bè ngoại quốc nào đi qua Côn Đảo hoặc nếu họ tìm đường vào VN thì hướng dẫn cho họ. Le Labousse nói về “quyền” của Hồ Văn Nghị như sau: “Chúng tôi đi từ Pulo-Condor ngày 2/3 [1789], và đến kinh thành [Gia Định] ngày 5; không cần phải trốn tránh hay sửa soạn trước những gì phải trả lời khi đi qua đoan. Một khi bị gọi lại, chỉ cần bảo: thuyền của cha Nghị, là xong” (thư gửi Létondal ngày 15/6/1789, Launay, III, t. 213).

Còn việc ông Nghị đem 1000 khẩu súng về trên tàu Dryade, thì chúng tôi cũng đã nói trong chương 14: đó là súng Pháp, vua sai ông Nghị đi mua rồi chở tàu Pháp về, Maybon nhận vơ là của giám mục Bá Đa Lộc mua đem về.

Rồi ông Tạ còn viết: “Qua lời thư của De Guignes, viên lãnh sự Pháp ở Macao, ta thấy ông làm trung gian mua cho Nguyễn Ánh nhiều chiếc tàu. Và cũng từ Macao, trong những tháng cuối năm 1789, 8,9 chiếc tàu đi buôn ở Cochinchine cũng đã mang theo nhiều thứ khí giới quân dụng…” (LSNCVN, t. 203).

Tất cả đoạn dài trong trang 203 này Tạ Chí Đại Trường chép theo Maybon, Taboulet, rồi vì, do ông không hiểu rõ tiếng Pháp, hoặc do ông tự ý thêm thắt vào, cho nên sự chép của ông đã quá sai với bản gốc, ví dụ, Maybon chỉ bảo de Guignes cho rằng: “sự thành công của Nguyễn Ánh là “nhờ nhiều tàu ông ta đã mua”, Tạ Chí Dại Trường chép lại, trở thành: “ta thấy ông [de Guignes] làm trung gian mua cho Nguyễn Ánh nhiều chiếc tàu“, v.v.

Nhưng lỗi nặng nhất ở đây là ông đã phóng đại con số những người Pháp đến giúp Nguyễn Ánh, Tạ Chí Đại Trường viết:

“Nhưng quan trọng hơn cả là việc có đám người Tây phương giúp. Ở Gia Định có đến 140 sĩ quan và 80 lính Pháp. Một bức thư của Bá Đa Lộc ngày 18/7/1794 nói đến 40 người Âu trong bộ binh, thêm vào chừng ấy nữa trên các tàu đồng (dẫn bởi Taboulet, La Geste francaise … t. 204)” (LSNCVN, t. 203).

Không hiểu con số 140 sĩ quan Pháp, Tạ Chí Đại Trường lấy ở đâu? Trong trang 204, sách của Taboulet, mà ông Tạ dẫn, không có gì về con số này.

Về số lính Pháp đến giúp Nguyễn Ánh, Taboulet viết khá đứng đắn, ông bác bỏ con số 369 của Faure, và nhắc lại con số của Vannier: 14 sĩ quan và 80 người lính và con số của Bá Đa Lộc: 40 người Âu, rồi thêm vào câu: “có lẽ còn phải thêm vào con số [40] này cũng chừng ấy người nữa trên các chiến thuyền bọc đồng” (auxquels il convient sans doute d’en ajouter autant pour les vaissaux doublés de cuivre) (Taboulet, I, t. 240).

Bá Đa Lộc chỉ nói: “có 40 người Âu trong bộ binh”. Ông không nói đến “sĩ quan” vì ông biết họ là lính. Ông cũng không nói đến lính thuỷ.

Maybon dựa vào câu “Đừng quên những thủy thủ cùng đi với anh ta“, trong thư Le Labousse ngày 22/6/1795, để nói có thủ thuỷ Pháp trong quân đội Nguyễn Ánh. Việc này chưa thể kiểm chứng được.

Taboulet dựa vào “một lá thư của giám mục Adran [...] nói đến 40 người trong bộ binh, có lẽ còn nên thêm vào chừng ấy nữa cho những tàu chiến bọc đồng“(une lettre de l’Evêque d’Adran [...] parlant de 40 Européens dans l’armée de terre, auxquels in convient sans doute d’en ajouter autant pour les vaisseaux doublés de cuivre” (Taboulet, I, t. 240). Taboulet cũng chỉ “gợi ý” nên thêm vào 40 thuỷ thủ nữa trên các tàu chiến bọc đồng, để cho cả thảy có 80 người.

Nhưng đến Tạ Chí Đại Trường thì có sự thổi phồng quá mức, ông viết: “Nhưng quan trọng hơn cả là việc có đám người Tây phương giúp. Ở Gia Định có đến 140 sĩ quan và 80 lính Pháp. Một bức thư của Bá Đa Lộc ngày 18/7/1794 nói đến 40 người Âu trong bộ binh, thêm vào chừng ấy nữa trên các tàu đồng”.

Ông chép đúng câu của Taboulet, nhưng bỏ tất cả những rào đón của Taboulet. Ông viết như một sự thực. Sự thực của Taboulet là 80 người lính Pháp; còn con số 140 sĩ quan Pháp mà ông Tạ tự ý thêm vào, thì không thấy ở đâu chép cả, ông viết nhầm hay ông cố ý bịa đặt ra như thế? Với mục đích gì? Để “chứng minh” là có một đội ngũ hùng mạnh gồm 140 sĩ quan Pháp “đến giúp Nguyễn Ánh” tổ chức quân đội, làm tàu chiến, xây dựng thành trì, chiến thắng quân Tây Sơn, như ông mường tưởng ra chăng? Thực không thể nào hiểu được.

Chương 16 - II -

những người pháp đến giúp nguyễn vương

Sau khi đã tạm xác định được tên những người Pháp đã thực sự đến Nam Hà trong khoảng 1789-1790, một số được nhận văn bằng cai đội của Nguyễn Ánh, chúng tôi sẽ lần lượt tìm lại tiểu sử và công lao của họ, trong phạm vi tư liệu cho phép.

Nhưng trước thời điểm 1789-1780, còn hai người nữa, là Joang (Jean) và Mạn Hoè (Manuel).

Người có công lớn nhất, đã chiến đấu với Tây Sơn đến cùng và đã tử trận, được các sử gia triều Nguyễn ghi tên là Mạn Hoè. Và trước ông, còn một người nữa, là Joang (Jean) ít ai biết đến, nhưng Sử Ký Đại Nam Việt có ghi lại chuyện Joang và Cosserat trong bài Notes biographiques sur les français au service de Gia Long (Ghi chú tiểu sử những người Pháp giúp Gia Long, BAVH, 1917, III, t. 169) cũng tìm thấy giáo sĩ Houillevaux (Bouillevaux) có nhắc đến Joang trong cuốn L’Annam et le Cambodge. Sử Ký Đại Nam Việt đặt sự kiện này vào khoảng 1777-1778. Houillevaux đặt sự kiện vào khoảng 1782, cho nên Cosserat xếp Joang sau Mạn Hoè. Chúng tôi cho rằng Sử Ký Đại Nam Việt có lý hơn, vì vậy đưa Joang lên hàng đầu trong danh sách những người đã đến giúp Nguyễn Ánh.

 

Joang (Jean)

 

Không biết rõ nguồn gốc và họ. Cosserat cho biết:

“Có lẽ đã đến Nam Hà vào khoảng 1782. Trong những tư liệu mà tôi [Cosserat] đã khảo duyệt trong khi nghiên cứu, tôi chỉ tìm thấy một nơi nói đến ông, trong cuốn L’Annam et le Cambodge do giáo sĩ C.E. Houillevaux viết. Trong chú thích (t. 381), tác giả kể rằng có hai người Pháp phiêu lưu, xuất hiện giúp đỡ Nguyễn Ánh (Gia Long) trong những năm đầu của cuộc chiến, một người mà các nhà viết sử biên niên hay nhà báo (chroniqueur; chú thích của Cosserat: Chroniqueurs nào?) gọi là Joang (Jean), và một người nữa là Manoe (Manuel), lính thủy người Bretagne, trước làm cho giám mục Adran… Joang có lẽ đã dùng trái phá (grenades) trong trận chiến đánh với Tây Sơn, và có lẽ nhờ khí giới này mà Chuá Nguyễn (Gia Long) đã chiếm lại được Nam Hà lần đầu. Những kẻ phản loạn không biết khí giới quỷ quái này là gì, chạy hết. Điều này xảy ra khoảng 1782 (?)” (Cosserat, bài đã dẫn, t. 169).

Tác giả Sử Ký Đại Nam Việt đặt sự kiện vào năm Nguyễn Ánh 15 tuổi [1777] bị Nguyễn Huệ truy nã gắt lắm, chỉ còn hai thầy trò (Nguyễn Ánh và đứa tiểu đồng) ẩn náu trong rừng, may gặp thầy cả Phao Lồ [tức Paul Nghị hay Hồ Văn Nghị], Ánh xưng danh và nhờ giúp, Nghị chèo thuyền đưa xuống Hà Tiên, giấu trong nhà Bá Đa Lộc, rồi báo tin cho vị giám mục, lúc ấy đang ở Cao Mên, biết. Được một tháng, sợ bị lộ, bèn đưa Ánh vào rừng ẩn, rồi cha Nghị và thầy giảng Toán, thay nhau tiếp tế cho Ánh. Tây Sơn tiếp tục truy lùng, Ánh ẩn trong thuyền của cha Nghị ở Rạch Giá. Tác giả kết luận: “Vì chưng nếu không có thầy cả ấy, thì ông Nguyễn Ánh phải bắt chẳng khỏi” (SKĐNV, t. 13). Và như ta đã biết, linh mục Hồ Văn Nghị sẽ trở thành người thân tín của vua, sau này được vua giao phó những nhiệm vụ khó khăn, tế nhị.

Vẫn theo Sử ký Đại Nam Việt, ít lâu sau, Bá Đa Lộc ở Cao Mên về, mới gặp Nguyễn Ánh, và đem Joang về giúp. Tác giả kể tiếp sang chuyện Joang và chiến công Long Hồ:

“Khi ấy Đức thầy Vê Rô [Bá Đa Lộc] ở Cao Mên mà về, tìm được ông Nguyễn Ánh; người lại đem theo một Lang Sa, tên là Gioang, có nghề võ cũng bạo dạn gan [can] đảm và có tài đánh giặc lắm.

Khi ông Nguyễn Ánh đã tu binh đặng ít nhiều, thì ông Gioang đã giúp người nhiều việc.

Vậy trước hết, khi thấy quan Nhất Trịnh [Tây Sơn] đã lấy đặng đồn kia, thì ông Gioang cứ phép tây mà làm nhiều trái phá, đoạn xuống thuyền lớn. Bấy giờ Nhất Trịnh chưa ngờ điều gì, thì vào Long Hồ, là nơi quân Tây Sơn đóng nhiều tàu lắm. Vậy ông Nguyễn Ánh làm tướng cai quân, và ban đêm, thình lình, thì xông vào đánh quân Tây Sơn. Khi ấy, ông Gioang chỉ đốt và bắn trái phá, nên quân Tây Sơn bất thình lình nghe tiếng trái phá, và thấy nhiều người chết, thì sợ hãi lắm, vì chưa từng biết sự làm vậy, cũng chưa thấy trái phá bao giờ, nên bỏ tàu mà nhẩy xuống sông. Những kẻ phải chết chém hay là bị trái phá thì chẳng bao nhiêu song kẻ chết đuối vì sợ mà vội nhảy xuống sông đè lộn nhau, thì không biết là ngần nào. Trong trận này, ông Nguyễn Ánh làm tướng [15 tuổi], rất khôn ngoan và gan đảm lắm, vì cũng đánh như lính, dầu chung quanh người chết gần hết, song ông ấy chẳng phải nao. Khi đã tàn trận mà thấy ông ấy những máu dầm dề cả mình, mà chẳng bị vết tích gì, thì ai ai đều kể là phép lạ. Những tàu quân Tây Sơn ở Long Hồ, thì ông Nguyễn Ánh lấy được hết” (Sử Ký Đại Nam Việt, t. 13-14).

Thực Lục chép vắn tắt trận Long Hồ như sau: “Tháng 11 (ta) tức tháng 12/1777), đánh úp Điều khiển giặc là Hoà ở dinh Long Hồ (tức tỉnh Vĩnh Long ngày nay) cả phá được. Tháng 12 (ta, tức tháng 1/1778) đánh được Sài Gòn” (TL, I, t. 205).

Vẫn theo Sử Ký Đại Nam Việt, Gioang còn xuất hiện thêm một lần nữa: “Ông Nguyễn Ánh thì cậy ông Gioang sắm sửa khí giái [giới] cùng đóng nhiều tàu, và sắm nhiều đồ khác cho đặng đánh giặc theo phép bên Tây” (SKĐNV, t. 14).

Nếu tin Sử Ký Đại Nam Việt, thì ta có thể tạm tóm tắt tình hình như sau:

Khoảng tháng 11/1777, Bá Đa Lộc từ Cao Mên về Nam Hà, đem theo Jean, và Jean đã làm trái phá, một loại lựu đạn thô sơ. Thứ trái phá này nổ làm quân Tây Sơn hoảng sợ, nhẩy xuống sông chết đuối rất nhiều. Nguyễn Ánh thắng trận Long Hồ, thu được nhiều tàu bè, khí giới của Tây Sơn làm nền móng, tiếp tục cùng Đỗ Thanh Nhơn và quân Đông Sơn, đánh chiếm Gia Định.

Mạn Hoè (Manuel)

 

Chuyện Mạn Hoè được nhiều nơi ghi lại trong sử Việt Nam:

1- Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức trong là một trong những tác phẩm đầu tiên viết về Mạn Hoè:

“Tháng 3 [Nhâm Dần, tháng 4/1782], anh em Tây Sơn là Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ dẫn 3 vạn quân thủy bộ vào lấy Gia Định. Thuỷ quân của ta bày trận ở ngã bẩy Cần Giờ, quân Tây Sơn nhờ thuận gió và thủy triều nên căng no buồm xông thẳng vào, quân ta không đánh mà tự tan rã, chỉ có chiếc tàu phương Tây của Mạn Hoè là chống cự được lâu. (Mạn Hoè là người nước Pháp, theo giúp rất hiệu dụng, làm quan đến Khâm sai Cai cơ quản đội Trung Khuông, được phong tước An Hoà Hầu, khi chết được tặng là Hiệu Nghiã công thần phụ quốc Thượng tướng quân, được tòng tự ở miếu Hiển Trung). Nguyễn Huệ cho quân vây đánh đốt cháy tàu đó, Mạn Hoè chết, quân Tây Sơn thừa thắng phá luôn quân ta ở ngã ba Lôi Sạp (Soi Rạp), thẳng tiến Bến Nghé, quan quân phải chạy tan tác.” (Gia Định Thành Thông Chí, Trấn Hà Tiên, bản điện tử do Lý Việt Dũng dịch và chú giải).

 

2- Đại Nam Thực Lục soạn sau Gia Định Thành Thông Chí, chép rằng:

“Tháng 3 [Nhâm Dần, tháng 4/1782], giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ vào đánh phá. Văn Nhạc nghe tin Đỗ Thành Nhân đã bị giết, mừng nói: “Thanh Nhân chết rồi, các tướng khác không đủ sợ nữa!” Bèn đem chiến thuyền vài trăm chiếc, cử đại binh vào đánh. Quân Tây Sơn đến cửa biển Cần Giờ. Vua sai Tống Phước Thiêm điều bát trận thủy binh ở Ngã Bẩy (Thất Kỳ giang). Giặc nhân gió mạnh xông thẳng tới. Quân ta phải lùi. Một mình cai cơ là Mạn Hoè, đi tàu Tây cố sức đánh rất lâu. Giặc đổ quân bao vây bốn mặt, ném hỏa khí đốt tàu, Mạn Hoè bị chết (Mạn Hoè là người Phú Lãng Sa, Bá Đa Lộc giới thiệu là người dùng được, vua trao cho chức Khâm sai Cai cơ coi đội Trung Khuông, sau được tặng là Hiệu nghiã công thần phụ quốc thượng tướng quân)” (TL, tập I, t. 211-212).

 

3- Sử Ký Đại Nam Việt viết về Mạn Hoè với những chi tiết không có trong chính sử:

“Ông Nguyễn Ánh sai ông Hữu Ngoại [Đỗ Thành Nhơn] đi với người Lang Sa kia, đã sang với đức thầy Vê Rô [Bá Đa Lộc] mà ở lại giúp việc nhà nước, tên là Manoe (Emmanuel)” (Sử ký Đại Nam Việt, t. 15).

Vài trang sau, tác giả tả trận Long Hồ, tháng 4/1782 như sau:

“Vua nghe tin ấy [tin Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ vào đánh] chẳng lấy làm lo chút nào, bởi có nhiều tàu, nhiều ghe, cùng khí giái [giới] sẵn; lại có nhiều binh sĩ lắm. Vậy vua bắt các quan và binh sĩ đi đón quân giặc. Trước hết có một ông Manoe, là người Lang Sa, cai một chiếc tàu lớn: Chẳng hay những tàu vua xuống sông đi ngược nước, chưa ra cửa [Cần Giờ], liền gặp những thuyền quân giặc Tây Sơn vào cửa đi xuôi nước. Mấy tàu vua có một chiếc đi trước là tàu ông Manoe, phòng triệt chẳng cho quân Tây Sơn vào cửa.

Bấy giờ quan quân thấy tàu quân Tây Sơn vào cửa mà chạy xuôi nước thuận gió làm vậy, thì kinh khiếp cả. Vả lại ông Manoe chẳng quen đàng [đường], thì tàu phải [mắc] cạn, chẳng còn đi được; lại chẳng ai có gan đến cứu người. Quân trong tàu thấy làm vậy, lại quân giặc ở gần lắm, thì mất viá. Lại thấy tàu đã bê vào bờ, nên quân ấy chạy trốn, chẳng còn ai ở lại. Ông Manoe một mình ở trong tàu túng lắm; song chẳng ngã lòng, một cứ thói quân lính bên tây mà đánh cho đến chết. Quân giặc thấy tàu phải cạn thì đua nhau đến. Nhưng mà bao nhiêu người xuống tàu ấy thì ông Manoe chém đi hết. Song bởi quân ấy đông quá, mà ông Manoe thì một mình chẳng làm chi được. Bấy giờ ông ấy thấy tàu đầy quân giặc, thì xuống dưới lòng xét, nơi đã quen trữ thuốc súng mà đốt đi. Cho nên bỗng chốc cả thuyền vỡ ra cháy cách gớm ghiếc lắm; bao nhiêu người trong tàu chết hết; và những chiếc tàu ở xung quanh thì phải vỡ cả. Ông Manoe chết cách khốn nạn như vậy; song thiên hạ khen là “anh hùng” (Sử ký Đại Nam Việt, t. 24).

Tập hợp cả ba nguồn tin trên chúng ta có thể tóm tắt trận Ngã Bảy như sau:

Tháng 4/1782, nghe tin Đỗ Thanh Nhơn đã bị Nguyễn Ánh giết, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ thống lĩnh đại binh vào đánh Gia Định. Nguyễn Ánh sai Tống Phước Thiêm dàn quân chống giữ ở Ngã Bảy (Thất Kỳ Giang), nơi bảy dòng sông giao nhau. Thuyền Tây Sơn xuôi chiều gió, mạnh tiến vào cửa Cần Giờ. Quân của Tống Phước Thiêm tan rã. Tàu của Mạn Hoè, không thuộc đường sông, bị mắc cạn. Theo Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Huệ cho quân bao vây, “ném hỏa khí đốt tàu”. Như vậy quân của Nguyễn Huệ đã dùng “hoả khí”, có thể hiểu là một loại “trái phá” chăng?

Theo Sử Ký Đại Nam Việt, Mạn Hoè tự đốt thuốc súng của tàu, để chết cùng địch quân.

Trịnh Hoài Đức nói: “Nguyễn Huệ cho quân vây đánh đốt cháy tàu đó” và Thực Lục nói: “Giặc đổ quân bao vây bốn mặt, ném hỏa khí đốt tàu”, tức là tàu của Mạn Hoè bị quân của Nguyễn Huệ đốt; có thể vì Thực Lục chép Gia Định Thành Thông Chí, hoặc vì một lý do nào khác, cả hai nguồn tin này đồng quy.

Đối với triều đình, Mạn Hoè là người anh hùng và có công nhất. Sau khi chết, ông được thăng Hiệu Nghiã công thần phụ quốc Thượng tướng quân, bài vị được thờ ở đền Hiển Trung cùng các danh tướng khác. Đền Hiển Trung ở trên đường Sài Gòn-Chợ Lớn, Pháp gọi là Pagode des Mares, và bị Pháp tiêu hủy trong trận đại đồn Kỳ Hoà với Nguyễn Tri Phương, năm 1861.

4- Cosserat trong bài Notes biographiques sur les Français au service de Gia Long (Ghi chú tiểu sử những người Pháp giúp Gia Long), (BAVH, 1917, III, t. 166-169) viết khá dài về Mạn Hoè, ông kể hai câu chuyện: linh mục Bouillevaux viết về cái chết của Mạn Hoè và chuyện Bá Đa Lộc tâu vua Louis XVI về Mạn Hoè, để thuyết phục vua Pháp ký hiệp ước cầu viện.

Linh mục Bouillevaux trong cuốn L’Annam et le Cambodge kể rằng: “… Người lính can đảm này điều khiển một chiếc thuyền chiến ở trận Cần Giờ, thuyền anh bị nạn, thuỷ thủ bỏ hết, chỉ mình anh ở lại, dũng mãnh như sư tử, nhưng bị Tây Sơn bao vây tứ phía, thấy họ đã lên thuyền, anh châm lửa vào thuốc súng, cùng nổ với kẻ thù.”

Bouillevaux viết gần giống Sử ký Đại Nam Việt, vậy có thể ông đã tham khảo cuốn sử này, hoặc cả hai viết theo tài liệu nhà dòng.

Khi Bá Đa Lộc đem hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện, ngày 5 hay 6/5/1787, giám mục được vào triều kiến vua Louis XVI, với sự hiện diện của Thống chế de Castries, Bộ trưởng Hải quân và Công tước de Montmorin, Bộ trưởng Ngoại giao.

Nội dung buổi triều kiến được hai bộ trưởng tham dự ghi lại trong notes, và được lưu trữ trong văn khố Bộ Hải quân và Bộ Ngoại giao; Faure sưu tầm hai bài notes này, viết lại trong cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine (sẽ dẫn là Faure) (t. 78-85). Không rõ ông có thêm thắt gì không.

Theo Faure, Bá Đa Lộc trình bày tình hình chung đại khái như sau: Việt Nam có vị trí thuận lợi, ai chiếm được thì có thể làm chủ sự lưu thông cả vùng, ngăn ngừa được đế quốc Anh bành trướng. Những lợi ích đem quân giúp Nguyễn Ánh rất lớn mà sự đổ bộ lên vịnh Đà Nẵng là an toàn, v.v. Bá Đa Lộc xác định với Pháp hoàng rằng lực lượng thủy binh của Tây Sơn “không có gì đáng kể”, ông nói: “Những chiến thuyền mạnh nhất của chúng chỉ bằng thứ tàu nhỏ ba buồm (chasse-marée) của ta. Thần có thể nói rằng, trong [trận chiến] lúc bắt đầu cuộc nổi loạn, một thần dân can đảm của bệ hạ mà hạ thần dẫn từ Pondichéry đến giúp Nguyễn Ánh, chỉ huy một tàu bé, với 10 đại bác rất nhỏ và vài tên lính thuỷ ở vùng Gia Định (Sài Gòn); vậy mà cũng cầm cự được một ngày, chống lại cả một hạm đội của quân địch gồm 100 chiến thuyền, mà không bị bắt. Đúng, là anh tử tiết với tàu. Đúng, anh là một người Pháp can đảm, có một nghị lực phi thường, mà tên tuổi anh, vì hành động này, sẽ mãi mãi là thần tượng ở nước Nam” (Faure, t. 82-83).

Không rõ vì cố ý hay vì không biết, mà Bá Đa Lộc đã báo cáo sai lầm về sức mạnh quân sự của Tây Sơn, và về sự cầm cự của Mạn Hoè. Nhưng chính những sai lầm này, kèm theo sự lầm lẫn có thể đổ bộ dễ dàng lên vịnh Đà Nẵng (lúc đó Quang Trung đang làm chủ) mà giám mục Bá Đa Lộc đã gặp những cản trở của phe chống lại việc cầu viện.

Dù sao chăng nữa, thì hai người Pháp Jean (Joang) và Manuel (Mạn Hoè) là hai người đã giúp Nguyễn Ánh trong thời điểm đầu giao tranh với Nguyễn Huệ.

 

Khi phái đoàn Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh từ Pháp về tới Pondichéry (1788) dư luận chắc khá sôi nổi, cho nên có một số thủy thủ đào ngũ trên các tàu Pháp, và một số người khác, từ Pondichéry hay Macao tìm đến Nam Hà đầu quân dưới cờ Nguyễn Ánh. Trong số đó có: Guillaume Guilloux, Jean-Baptiste Guillon, Julien Girard de l’Isle-Sellé, v.v. Chúng tôi sẽ lần lượt, tìm lại dấu vết của họ dưới đây.

 

Guillaume Guilloux

 

Quê ở Vannes (Morbihan), tình nguyện binh nhất trên tàu Le Duc de Chartres. Theo danh sách thuỷ thủ đào ngũ của Faure, Guilloux lên Pondichéry ngày 22/6/1784, và ở lại (Faure, t. 246). Từ năm 1784 đến 1790 không biết Guilloux làm gì. Ông được văn bằng Phó cai đội của vua ngày 27/6/1790, trong có câu:

“Hoàng thượng nhận thấy, dù J. Guilloux, quốc tịch Pháp, chưa có cơ hội làm việc nhiều, nhưng đã tỏ ra có thiện chí, nhất là đến từ rất xa, để phục vụ trong thuỷ binh của nhà vua; vì thế hoàng thượng ban cho y chức Phó cai đội nhuệ tài hầu, dưới quyền của JM. Dagot [Dayot]…“ (Louvet, I, t. 538).

Trong thư của Le Labousse gửi Hội thừa sai Paris ngày 16/6/1792, có câu:

“Tất cả những người Pháp ở đây giúp vua được hơn hai năm, đều trở về Macao. Trong đó có hai anh em Dayot, quê quán Rhedon, ông Vannier, quê Auray. Các ông Launey và Guilloux quê ở Vannes, đều đã sang lại Pondichéry rồi; Launey, ngày mồng một năm ngoái [1/1/1791], và Guilloux tháng giêng vừa rồi…” (Cadière, Documents relatifs à l’époque de Gia Long, BEFEO, t. 28).

Như vậy, Guilloux bỏ vua Gia Long, trở về Pondichéry tháng 1/1792. Và theo Cosserat, thì “Đi mất, không để lại dấu vết” (Cosserat, bđd, t. 172).

Jean-Baptiste Guillon

 

Quê ở Vannes (Morbihan, Bretagne). Trong danh sách thủ thủy đào ngũ của tàu Dryade, Faure viết:

“Tình nguyện binh nhì (nhận ngày 22/12/1787), trên tàu Dryade, rời cảng Lorient ngày 27/12/1787. Vào bệnh viện Pondichéry ngày 1/8/1788, ra ngày 14/8/1788. Trở lại Pondichéry cùng với tàu ngày 1/7/1789 và ở lại đây. Chú thích: Tới Brest, mang giấy thông hành của toà thị chính Saint-Brieuc ngày 18 Germinal năm thứ XIII, (18/4/1804), lên tàu Républicain làm đội phó tài công (deuxième maitre de timonerie)” (Faure, t. 242).

Như vậy, Guillon đến Pondichéry từ ngày 1/7/1789, ở lại đây không biết bao lâu rồi tìm cách đến Nam Hà. Guillon nhận văn bằng phó cai đội của vua ngày 27/6/1790, trong có câu:

“… tuy chưa có cơ hội trổ tài, nhưng đã tỏ ra có thiện chí, đến từ rất xa để phục vụ trong thủy binh của nhà vua. Hoàng Thượng tin tưởng vào tài năng của y, với văn bằng này, ban cho y chức Phó cai đội oai dõng hầu, dưới quyền của JM Dagot [Dayot]…” (Louvet, I, t. 537)

Faure còn viết thêm rằng: “Ông Guillon, nhận chức Lieutenant de vaisseau Nam Hà ngày 27/6/1790, đã phụng sự ở đó cho tới ngày về lại Brest, tức là trong vòng 14 năm” (Faure, t. 242). Câu này chắc là sai, vì Thực Lục không ghi tên Guillon trong các chiến dịch hành quân và Cosserat cho biết, ông cũng không tìm thấy dấu vết gì của Guillon trong vòng 14 năm này (Cosserat, t. 172).

Cần phải nói thêm, Jean-Baptiste Guillon tình nguyện trên tàu Dryade, tàu này rời Lorient ngày 27/12/1787, trên có Olivier de Puymanel và phái đoàn Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh. Vậy có thể Jean-Baptiste Guillon đã quen Puymanel và Bá Đa Lộc trong chuyến đi này. Và có thể đó là lý do khiến Guillon tìm đến Nam Hà.

Julien Girard de l’Isle-Sellé

 

Không biết quê ở đâu. Theo Cosserat, có lẽ là công chức thuộc địa, vì không thấy tên trong danh sách thủy thủ đào ngũ của Faure. Trong văn bằng vua cấp cho Isle-Sellé ngày 27/6/1790, có câu:

“…với văn bằng này, cấp cho y chức Cai đội long hưng hầu, giao cho y quản chiếc tàu Le Prince de Cochinchine, dưới quyền điều khiển và phải tuân mọi lệnh của Jean-Marie Dagot [Dayot], chỉ huy phân khu có tàu này” (Louvet, t. 535)

Văn bằng này rất giống văn bằng của Vannier, cả hai đều ở dưới quyền Dayot. Tuy nhiên không thấy Thực Lục nói đến tên ông, và Cosserat (t. 173) cũng cho biết: có lẽ ông không ở lâu vì, tôi không tìm thấy tài liệu gì của ông sau năm 1790.

Jean-Marie Despiaux (?-1824)

Jean-Marie Despiaux là một bác sĩ, ở Nam Hà từ 1799 đến khi ông mất, khoảng 1824. Ông được vua Minh Mạng giao cho đi Macao mua thuốc phòng ngừa (vaccin) bệnh đậu mùa.

Không biết ông đến Nam Hà năm nào, nhưng được nhận văn bằng của vua ngày 2/4/1799.

“Văn bằng cấp cho M. Despiaux

Trẫm, vua Nam Hà, cấp bằng này cho Jean-Marie Despiaux, quốc tịch Pháp. Người có tên J.M. Despiaux, nghe tiếng trẫm lãnh đạo công minh đã tìm đến Nam Hà, trẫm biết y có tài làm thuốc, ban cho y chức bác sĩ trong quân đội, lệnh xuống tàu Phụng [Phượng phi] theo quân, sẵn sàng tới bất cứ nơi nào cần gọi, để hành nghề. Nếu người mang tên J.M. Despiaux, không chu toàn bổn phận, sẽ bị trừng phạt theo đúng luật pháp. Khâm tai.”

Ngày 2/4/1799. (Louvet, I, t. 537).

Cosserat cho biết: Despiau (Despiaux, tên những người Pháp mỗi chỗ viết một khác) quê ở Bazas (Gironde). Bác sĩ giải phẫu. Chắc chỉ có vai trò rất phụ. Theo Đức Chaigneau, ông đã có thời ở Macao rồi đến nước Nam, được người Pháp ở đây đón tiếp nên quyết định ở lại, và làm việc trong số các thầy thuốc của Gia Long. Ông đã có mặt lúc Bá Đa Lộc mất, ngày 9/10/1799, đã săn sóc cho vị giám mục tới phút cuối.

Lá thư của Vannier viết cho M. Baroudel ngày 13/7/1820, cho biết:

“Tôi [Vannier] đề nghị với vua [Minh Mạng] sai M. Despiau đi tìm [thuốc chích ngừa ở Macao đem về], ông ở đây đã lâu và cũng là một trong những thầy thuốc ở trong cung. Nhà vua bằng lòng…” (Cadière, Doc. Rel., BEFEO, t. 63).

Một lá thư nữa của giám mục La Bartette gửi M. Baroudel từ Huế ngày 2/8/1821 (Cadière, Doc. Rel. BEFEO, t. 65) và một thư khác của Vannier gửi cho M. Baroudel từ Huế ngày 2/8/1821 (Cadière, Doc. Rel. BEFEO, t. 67) cũng nói đến sự hiện diện của M. Despiau vào thời điểm này.

Rồi không có tin gì nữa, cho đến năm 1825, trong bản báo cáo của nam tước Bougainville gửi Bộ trưởng Thuộc địa và Thủy quân, viết từ Đà Nẵng, ngày 12/2/1825, trên tàu La Thétis có câu: “Ngay hôm tôi đến đây, tôi đã trao cho quan sở tại một lá thư cho ông Chaigneau, trong đó tôi yêu cầu ông đến Đà Nẵng và thông báo sự cập bến của Hạm đội; tôi không biết ông quan này đi lúc nào, chỉ ngày hôm sau nữa, ngày 14, tôi mới biết là chỉ còn có một người Pháp ở đây, ông Despiau, thầy thuốc, vừa mới chết…” (Cordier, Le consulat de France à Huế, t. 106).

Theo Đức Chaigneau (Souvenirs de Huế, t. 231): ” Ông Despiau, những khả năng trí tuệ đã bị mất đi, không còn sáng suốt để làm thầy thuốc, điều mà ông nhận là đã có học trong thời trẻ. Người ta gọi ông là bác sĩ, nhưng ông chỉ có tên thôi, còn thì ông chỉ cho thuốc chữa bệnh ngoài da, mà người Việt rất thích. Ông Despiau thuộc đám kiều dân nhỏ chúng tôi, không có gia đình ở Huế, rất thân với hai gia đình Pháp chúng tôi [Chaigneau và Vannier] mà ông coi là gia đình ông” (Trích theo Cosserat, bđd, t. 177-178).

De Forcant (Forcanz) (?-1811) và trận Thị Nại 1801

 

Quê miền nam Bretagne. Không có tên trong danh sách 369 người lính đào ngũ do Faure cung cấp. Louvet đưa de Forcanz vào danh sách những sĩ quan đến nước Nam cùng Bá Đa Lộc năm 1789, nhưng, Louvet, ngoài sưu tập những văn bằng vua ban cho những người Pháp, những điều ông viết về giai đoạn này không có gì là bảo đảm.

Qua những gì ghi trong chính sử Việt, đầu năm 1800, khi Nguyễn Ánh quyết định đem quân giải vây cho Võ Tánh và Ngô Tòng Châu đang bị Trần Quang Diệu bao vây rất ngặt trong thành Bình Định, de Forcant cùng Vannier và Chaigneau được bổ vào Trung quân, dưới quyền điều khiển của Tống Phước Lương; từ tháng 3/1800, quản ba tàu đồng, đi theo hải quân của Nguyễn Văn Trương, trong chiến dịch.

Thực Lục, việc tháng 2 ÂL (tháng 3/1800) ghi:

“Sai khâm sai thuộc nội cai đội Nguyễn Văn Chấn [Vannier] quản tàu đại hiệu Phượng phi, Nguyễn Văn Thắng [Chaigneau] quản tàu đại hiệu Long phi, Lê Văn Lăng [de Forcant] quản tàu đại hiệu Bằng phi, theo Trung quân sai phái đi đánh giặc. (Bọn Chấn đều là người Phú Lãng Sa)” (TL, I, t. 407).

Nguyễn Vương không thể giải vây được Bình Định vì lực lượng thủy quân hùng hậu của Võ Văn Dũng đậu ở cửa Thị Nại.

Đặng Đức Siêu bày kế đánh hoả công, dụng cụ đã làm xong.

Nguyễn Vương mật định hôm 28/2/1801 sẽ tấn công chớp nhoáng.

Trận Thị Nại thứ hai xẩy ra ngày 1/3/1801 (xin nhắc lại: trận Thị Nại thứ nhất tháng 7/1792, Nguyễn Ánh phá tan thuỷ quân của Nguyễn Nhạc), Nguyễn Ánh phá tan thuỷ quân của Võ Văn Dũng, chiến thắng lớn nhất của Nguyễn Ánh, đưa chiến tranh vào ngõ quặt quan trọng.

Trong trận này, de Forcant, Vannier và Chaigneau điều khiển ba chiếc thuyền đồng hộ tống nhà vua. Mặc dù chiến thắng lớn, nhưng quân Nguyễn vẫn không giải vây được Bình Định. Đặng Đức Siêu dâng kế đánh ra Quảng Ngãi, Quảng Nam trước.

Thực Lục, tháng 2 ÂL (tháng 3-4/1801):

“Sai Nguyễn Văn Trương điều bát thuỷ quân tiến ra Quảng Ngãi, Quảng Nam đánh giặc. Vệ uý vệ Tuyển phong hữu Tả dinh quân Thần sách là Phan Văn Đức. Vệ uý vệ Phấn dực Trung quân là Tống Phước Lương, Chánh vệ vệ Thuận võ là Vương Văn Học và các chúa tàu hiệu Long phi, Phượng phi, Bằng phi là bọn Nguyễn Văn Chấn [Vannier], Nguyễn Văn Thắng [Chaigneau], Lê Văn Lăng [de Forcant] đều thuộc quyền” (TL, I, t. 432).

Trong chiến dịch Quảng Nam, de Forcant, Vannier, Chaigneau, ở dưới quyền điều khiển của tướng Phạn Văn Nhân đánh vào cửa biển Đà Nẵng.

Sau khi Nguyễn Văn Trương chiếm lại dinh Quảng Nam. Nguyễn Ánh ban thưởng cho tướng sĩ thắng trận, trong dịp này, De Forcant, Vannier, Chaigneau, được thăng chức Cai cơ. Thực Lục, tháng 6 ÂL (tháng 7/1801) ghi:

“Cho Khâm sai thuộc nội cai đội Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Văn Chấn, và Lê Văn Lăng làm Khâm sai thuộc nội cai cơ, vẫn quản các thuyền hiệu Long phi, Phượng phi và Bằng phi” (TL, I, t. 451).

De Forcant và Vannier được sai nhiệm vụ tải lương. Thục Lục, tháng 11 ÂL (tháng 12/1801) ghi: “Sai chúa tàu Phượng phi là Nguyễn Văn Chấn và chúa tàu Bằng phi là Lê Văn Lăng chở 15.000 phương gạo từ Quảng Nam đến quân thứ Thị Nại” (TL, t. 474).

Về phiá tài liệu Pháp, sự hiện diện của de Forcanz được ghi nhận từ năm 1800, trong lá thư của Le Labousse gửi hội thừa sai Paris, viết ngày 24/4/1800.

Đây là lá thư dài linh mục Le Labousse viết về công trạng của vua Gia Long, có một đoạn nói đến chuyện Gia Long tự đóng tàu theo lối Âu Châu, trong đó có câu: “Tàu Bằng Phi [l’Aigle] 26 đại bác, do de Forcant, người miền nam Bretagne, điều khiển” (Cadière, Documents relatifs à l’époque de Gia Long (Tài liệu liên quan đến thời Gia Long), BEFEO, t. 39).

Về phiá Pháp, cũng có nhiều chứng từ về việc de Forcant dự trận Thị Nại 1801:

1- Thư của Chaigneau viết cho Barisy ngày 2/3/1801, có câu:

“Barisy thân. Chúng ta vừa đốt sạch thủy quân của địch, không thoát một ghe. Cho tới bây giờ, trận này đẫm máu nhất của quân đội nước Nam. Địch chiến đấu đến chết. Phía ta cũng có nhiều người chết và bị thương, nhưng so với thắng lợi mà vua thu được thì chẳng có gì đáng kể. Vannier, Forcanz và tôi đều dự trận này và trở về lành lặn…” (Doc. Rel., BEFEO, t. 39-40).

2- Lá thư dài của Barisy gửi M. Létondal ngày 11/4/1801, mô tả trận Thị Nại, tuy Barisy không nói đến nhiệm vụ của ba người này trong trận chiến, nhưng có nhắc đến tên ba người Forsanz, Vannier và Chaigneau (Doc. Rel., BEFEO, t. 41).

 

3- Thư của Le Labousse gửi về Hội Thừa sai, đề ngày 20/4/1801, ở Bình Khang, cũng mô tả trận Thị Nại 1801, nhưng ông viết về nhiệm vụ của những người Pháp này một cách chi tiết, đặc biệt ông kể lại chiến công của De Forcant:

“Chiến thắng lẫy lừng nhất, sẽ để lại dấu ấn trong biên niên sử nước Nam, là vua vừa thắng thủy quân Tây Sơn ở hải cảng Quy Nhơn, chỗ trên bản đồ đề Chine-Chine [Thị Nại]. Ở đó, cách đấy 7, 8 năm trước, ông đã phá hải quân của địch. Ông vừa tái tạo lần thứ nhì hôm 1/3. [...]

“Những sĩ quan Pháp, các ông Chaigneau, Vannier, và De Forcanz, điều khiển các tàu le Dragon [Long Phi], le Phoenix [Phượng Phi] và L’Aigle [Bằng Phi] cũng đi chiến dịch này.

Mỗi người với tàu trang bị khí giới, có nhiệm vụ hộ tống nhà vua và phò trợ tất cả những thuyền chiến trở về. (Ils accompagnèrent le roi chacun avec un bateau bien armé et ce fut eux qu’il chargea de faire entrer toutes les galères).

Nhưng lúc đánh nhau, họ bị giữ lại để hộ tống vua. Khi nghe thấy tiếng đại bác nổ, máu Pháp sôi sục trong huyết quản, vua phải nghiêm cấm mới cản được lòng nhiệt thành của họ. Giữ họ lại bên vua còn khó hơn là thúc quân tiến lên giữa những trận mưa đại bác. Ông de Forcanz đã không dằn lòng trước cơn hăng say chiến đấu; lòng can đảm thúc đẩy, đang đêm lẻn vào cảng một mình đốt hết bảy tàu chiến trang bị khí giới nhiều nhất.

Các ông Vannier và Chaigneau cũng có thể làm được như thế, nếu làm theo lòng can đảm, nhưng các ông nhớ ra rằng mình có nhiệm vụ canh gác cho cả ngai vàng trong con người nhà vua” (Doc. Rel., BEFEO, t. 45-46).

Đoạn văn rất hào hứng này của vị linh mục phô trương lòng nhiệt thành và sôi sục của Vannier, Chaigneau, và nói đến hành động can đảm và chiến công của de Forcant, và cũng cho ta biết: Trong trận Thị Nại, ba người này chỉ huy các tàu Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi có nhiệm vụ hộ tống vua. Một tư liệu khác, cho biết, bộ chỉ huy của Nguyễn Vương đậu ở một vịnh kín đáo, cách chỗ đánh nhau khá xa. Như vậy ta có thể hiểu những tàu hộ tống cũng không phải xông pha tên đạn nhiều.

Lá thư của Barisy, viết ngày 16/7/1801 cho các ông Marquini và Létondal, kể về trận Phú Xuân, cũng nhắc đến tên de Forcanz, Vannier và Chaigneau, trong trận đánh Huế.

Theo Cosserat, thì đó là lần chót ông thấy tên de Forcanz.

Sau chiến thắng Phú Xuân, cả ba người Pháp theo giúp Nguyễn Ánh đến chiến thắng sau cùng là de Forcanz, Vannier và Chaigneau, sẽ được thăng chức Chưởng Cơ. Cả ba đều lấy vợ Việt và ở lại Huế.

Trong thư của M. Audemar, viết tại Nam Kỳ ngày 28/4/1811 báo tin J.M Dayot vừa chết vì đắm tàu, có thêm câu: “M. De Forcanz cũng mới chết và chết trong điạ ngục (en réprouvé); ít ra chúng ta không có một ức đoán nào để tin rằng ông ấy đã tự cứu rỗi linh hồn” (Doc. Rel, BEFEO, t. 61).

Vậy de Forcanz từ trần trong tình trạng bỏ đạo. Ông được chôn ở Huế năm 1811.

Theo Cadière: “Nghe nói de Forcant có nhiều con: cậu Của (Nguyễn Văn Của), cậu Vinh (Nguyễn Văn Vinh), cậu Nhỏ (Nguyễn Văn Nhỏ)… một người đi ra nước ngoài rồi về chết ở Nam Hà. Một người khác, đã kết thúc trong nghèo đói, bên bờ dốc thành nội, nơi anh ta ở, gần kho gỗ cũ (mộc thương). Một người con gái không để lại dấu vết rõ. Cậu Nhỏ có lẽ đã mất lúc còn bé, và được chôn cạnh cha. Còn cậu Của, đã để lại kỷ niệm trong lòng họ đạo Phủ Cam, như một kẻ cờ bạc, không làm ăn gì cả”. (Cadière, bđd, t. 65).

Cosserat (t. 189) trích theo Đức Chaigneau, trong Souvenirs de Huế, (t. 194, note 1) cho biết: nhà ông ở Bao Vinh đối diện với nhà Vannier.

Mộ ông nằm trên bờ phải kênh Phủ Cam, xóm Phủ Tú, làng Dương Xuân, huyện Hương Trà; năm 1898, đề tên mộ Vannier, nhưng Vannier về Pháp và mất ở Lorient. Cadière chứng minh đó là mộ của de Forcant. (Cadière, Les Français au service de Gia Long, BAVH, 1918, II, t. 59-60).

Chương 16 - III -

le brun

Hai người Pháp đến giúp Nguyễn Ánh, được vua cho chức vụ cao hơn người khác và có trách nhiệm lớn hơn, là Théodore Le Brun và Jean-Marie Dayot. Khác với những đồng hành, tên tuổi của họ còn tồn tại đến ngày nay, vì được các sử gia thuộc địa đưa lên hàng đầu trong số những “sĩ quan” có công “dựng lại ngôi báu” cho Nguyễn Ánh. Sự kiện này có lẽ thoát thai từ việc, ngay từ đầu, tức là từ ngày 27/6/1790, chức vụ của họ đã cao hơn người khác:

Le Brun chỉ là binh nhất trên tàu Pháp khi đào ngũ, được nhận chức Khâm sai cai đội thanh oai hầu, quản chiếu việc công thự, có lẽ vì đã khai man là “sĩ quan” và “kỹ sư”, rồi các ngòi bút thuộc địa viện vào để đưa lên hàng “kiến trúc sư thiết kế đô thị” đầu tiên của Việt Nam.

Jean-Marie Dayot, người duy nhất đã từng là sĩ quan trên thương thuyền ở Ấn Độ, với chức trợ tá đại uý, cai quản tàu buôn nhỏ Adélaide, hoạt động trong vịnh Bengale, trước khi đến Việt Nam. Vì vậy mà Dayot có khả năng vẽ được thuỷ đạo đồ bờ biển nước Nam.

Nhờ kinh nghiệm và phẩm trật có thực, JM Dayot được nhận chức Khâm sai cai đội quản chiếu tàu nhị chích trí lược hầu, quản chiếu hai tàu Đồng Nai và Le prince de Cochinchine (tàu này không biết tên Việt là gì, đây là tên đã dịch sang tiếng Pháp) với sự trợ tá của Vannier, cai đội chấn thanh hầu, quản tàu Đồng Nai, và Isle-Sellé, cai đội long hưng hầu, quản tàu Le Prince de la Cochinchine, cùng với Guillon, phó cai đội oai dõng hầu và Guilloux, phó cai đội nhuệ tài hầu. Dayot, sau khi phạm tội, trốn đi, kể lại chuyện mình và Puymanel cho Sainte-Croix nghe và viết lại: Sainte-Croix sẽ biến Puymanel thành “kỹ sư trưởng” chỉ huy việc đóng thuyền và xây dựng các thành đài ở nước Nam và Dayot thành “thủy tổ ngành hải quân” Việt Nam.

Chúng tôi thử điều tra lại con đường thực thụ của hai nhân vật này, trước hết là Théodore Le Brun.

Théodore Le Brun

 

 

Trước khi đến Việt Nam

 

Không biết quê ở đâu. Qua những thông tin Faure chép được trong Văn khố Bộ Hải quân (Archives de la Marine), Le Brun trước hết là lính tình nguyện trên tàu Vénus, “tàu Vénus khởi hành từ Brest ngày 18/6/1785 và bị nạn trong vịnh Ba Tư. Thuyền trưởng tàu này chuyển sang tàu Méduse ngày 18/6/1788” (Faure, t. 241). Như vậy, Le Brun ở trong số những thuỷ thủ của tàu Vénus bị chuyển sang tàu Méduse, tuy nhiên, trong bản kê khai tên các thuỷ thủ đào ngũ của tàu Vénus, cũng lại có tên Le Brun: “Danh sách tên những thuỷ thủ của tàu Vénus bị đuổi hay đào ngũ, gồm có: Le Brun (Théodore), tình nguyện binh nhì (chức nhận ngày 8/2/1788), chuyển sang tàu Méduse, ngày 19/6/1788…” (Faure, t. 241).

Ở trang 241 thì Faure viết như vậy, nhưng đến trang 243, về tàu Méduse, Faure lại ghi: “Tên những thuỷ thủ đào ngũ hay bị đuổi trong hành trình, gồm có: Le Brun (Théodore), tình nguyện binh nhất (chức nhận ngày 1/1/1789)” (Faure, t. 243).

Như vậy, Le Brun bị hai lần ghi tên trong danh sách đào ngũ, của tàu Vénus và tàu Méduse, chắc có sự nhầm lẫn, vì anh ta được chuyển từ tàu Vénus sang tàu Méduse, vậy chỉ đào ngũ một lần ở tàu Méduse.

Faure viết tiếp: “[Le Brun] vào bệnh viện Pondichéry ngày 28/6/1788, ra ngày 28/8/1788, lên bờ ở Macao ngày 13/1/1790, rồi ở lại; nợ Nicholas Lolier 45 piastres à 5l, 8s, [?] trị giá 243 livres.” (Faure, t. 243). Như vậy, Le Brun ở bệnh viện Pondichéry trong hai tháng từ cuối tháng 6 đến cuối tháng 8 năm 1788. Rồi có lẽ anh ta phải lên tàu Méduse làm việc trở lại cho tới ngày 13/1/1790, tàu này ghé Macao, anh ta bèn ở lại đây, lần này mới thực sự là đào ngũ; không biết Le Brun ở lại Macao bao lâu rồi mới tìm cách sang Việt Nam.

Văn bằng Khâm sai cai đội của Le Brun

Ngày 13/1/1790 Le Brun mới tới Macao và ở lại, rồi tìm cách sang Nam Hà. Mà thành Gia Định, theo Trịnh Hoài Đức, đã đắp từ ngày 4/2/Canh Tuất [19/3/1790]. Vì vậy, tất cả các giả thuyết cho rằng Le Brun vẽ bản đồ thành Gia Định là hoàn toàn vô lý. Bởi việc xây dựng một thành phố, không thể xúc tiến trong vài ngày.

Ta chỉ có thể chắc chắn rằng, Le Brun có mặt ở Việt Nam trước ngày 27/6/1790, là ngày anh ta được nhận chức Khâm sai cai đội, với một văn bằng được ưu đãi hơn người khác:

“Hoàng Thượng xét thấy tài năng của Théodore Lebrun, quốc tịch Pháp, với bằng văn bằng này, ban cho y chức Khâm sai cai đội thanh oai hầu, quản chiếu việc công thự [bản tiếng Pháp dịch là capitaine ingénieur]; vì thế, Hoàng Thượng, giao cho y coi sóc tất cả những đồn luỹ trong nước, và lệnh cho y phải tìm mọi cách để có được sự bảo đảm an toàn cho những thành trì này. Nếu vì bất cẩn, y không làm tròn nhiệm vụ, thì sẽ bị trừng phạt theo luật pháp.

Ngày thứ 15, tuần trăng thứ năm, năm thứ 51, đời Cảnh Hưng (27/6/1790)” (Louvet, t. 536).

Qua văn bằng này, ta thấy Le Brun đã tự nhận mình là kỹ sư xây dựng nên được vua cho chức Khâm sai cai đội oai thanh hầu, trông coi các thành trì. Chức vụ của Le Brun tương đương với chức vụ của Dayot, là Khâm sai cai đội quản chiếu tàu nhị chích trí lược hầu, khâm sai cai đội trông coi hai tàu (quản chiếu tàu nhị chích).

Rất tiếc là chúng ta không có văn bằng của Puymanel để so sánh xem Puymanel được nhận chức gì, khi mới đến. Việc này hơi lạ, vì chính Puymanel dịch bằng của các bạn ra tiếng Pháp, mà lại không thấy anh ta đưa văn bằng của mình ra dịch. Hoặc vì Puymanel sợ các bạn ganh tỵ hoặc vì anh ta khai man nhiều quá, nên sợ bị tố cáo chăng?

Và Puymanel, từ chức Khâm sai cai đội năm 1790, đến năm 1792, đã lên thẳng chức Vệ uý, là điều lạ, khiến Cadière cũng thắc mắc. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng vì Puymanel đã lập được nhiều công trong ngành pháo binh, như việc cùng với Trần Văn Học “chế tạo các hạng hoả xa, chấn địa lôi, binh khí” (Liệt truyện, II, t. 282), nên được lên chức năm 1792, đúng vào lúc quân Pháp bỏ đi và Nguyễn Vương đang cần người, sẽ nói rõ hơn về vấn đề này, trong phần viết về Puymanel.

Trở lại các văn bằng phát ngày 27/6/1790, chỉ có Le Brun và Dayot là được hai chức Khâm sai, Vannier chỉ có chức cai đội, quản tàu Đồng Nai, dưới quyền Dayot; Isle-Sellé được chức cai đội, quản tàu Le prince de Cochinchine, dưới quyền Dayot; còn Guillon, nhận chức phó cai đội, dưới quyền Dayot, và Guilloux chức phó cai đội, dưới quyền Dayot.

Tóm lại, vì Dayot là người duy nhất có học lực và kinh nghiệm, từng điều khiển tàu ở Ile France, nên anh ta đã được chức cao và rất được trọng đãi, dưới quyền có tới 4 phụ tá: Vannier, Isle-Sellé, Guillon và Guilloux.

Nhưng đọc kỹ văn bằng phát cho những người này, ta thấy vua rất nghiêm khắc, luôn luôn có câu: “Nếu vì bất cẩn, y không làm tròn nhiệm vụ, thì sẽ bị trừng phạt theo luật pháp”. Vì câu này, mà Dayot khi làm đắm tàu Đồng Nai, có thể đã bị xử tử, cho nên y phải chạy trốn. Trường hợp của Le Brun không biết như thế nào, nhưng ta cũng có thể đoán: vì y khai man là kỹ sư, nên khi không làm được việc phòng bố các đồn luỹ, Le Brun cũng phải bỏ đi.

Le Brun bỏ đi

Le Brun bỏ đi rất sớm.

Le Brun bỏ đi, sang Macao, mà có lẽ một trong những người đầu tiên trong toà lãnh sự Pháp ở Quảng Đông mà Le Brun gặp là de Guignes, nhân viên hay điệp viên của Pháp ở Quảng Đông năm 1791, mà chúng tôi đã nói đến nhiều lần trong các chương trước. Vì vậy bản báo cáo của De Guignes gửi về Bộ Ngoại giao ngày 29/12/1791 có nói đến việc Le Brun bỏ đi. Nhờ bản báo cáo này (do Faure trích dẫn, chúng tôi đã nói tới trong chương 12) nay ghi lại hai đoạn đáng chú ý, để soi tỏ một số vấn đề. De Guignes viết:

1- “Các ông Olivier và Le Brun, sĩ quan Pháp, đã cho ông ta [Nguyễn Ánh] một cái bản đồ thành đài. Nhà vua muốn xây ngay một thành, mặc dù cần phải có thời gian thuận lợi. Vì vậy phải sách nhiễu dân chúng, phá nhà cửa, bắt 30.000 dân công làm thành cho vua có nơi rút quân khi thua trận. Quần chúng và quần thần nổi dậy. Olivier và Le Brun, hai tác giả công trình này cũng bị vạ lây. Giám mục Bá Đa Lộc, phải đưa hai ông về trốn ở nhà mình mới tránh khỏi tai nạn này” (Faure, t. 214).

Người ta sẽ bạ vào câu trên để “chứng minh” Puymanel và Le Brun là tác giả xây thành Gia Định (xem chương 12). Nhưng ở đây, chúng ta có thêm một nhận xét nữa, rằng: de Guignes không bịa ra tin này, ông ta chỉ chép những gì Le Brun kể lại. Vậy trường hợp Le Brun rất có thể, cũng giống như trường hợp Dayot, tức là sau khi bỏ đi, phải thuật lại chuyện mình cho hay: Le Brun xuất thân binh nhất, nhưng khai man là kỹ sư, nên được trao trọng trách quản lý các thành trì; vì không làm được nên mới bịa chuyện: cho vua bản đồ và vua đã vội vã xây thành theo bản đồ của y và Puymanel cho, nên dân mới nổi loạn, khiến y và Puymanel bị vạ lây.

2- De Guignes viết: “Ông Le Brun, thấy vua đánh giặc chậm quá, đã bỏ về Macao”. Chỉ còn lại ở Nam Hà ông Olivier mà đức giám mục Adran không ngớt lời khen ngợi. Không có tàu ngoại quốc nào đến Nam Hà nữa” (Faure, t. 215).

Câu Không có tàu ngoại quốc nào đến Nam Hà nữa, là sai hẳn rồi. Nhưng câu Ông Le Brun, thấy vua đánh giặc chậm quá, đã bỏ về Macao, cũng sai nốt: Khi Le Brun ở Nam Hà, từ tháng 6/1790 đến khi bỏ đi giữa năm 1791, không có trận đụng độ nào giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn cả, vì Quang Trung còn đó làm sao mà đánh. Thì không thể nói là đánh nhanh hay đánh chậm.

 

3- Faure thấy de Guignes viết câu này sai, bèn chua thêm chú thích: “Như vậy, chắc chắn anh lính tình nguyện binh nhất Le Brun chẳng ở Nam Hà lâu hơn 15 tháng. Le Brun bỏ đi, không phải vì [vua] đánh chậm, mà bởi vì ít lương, và nhất là anh không bằng lòng ở dưới lệnh của Olivier, chỉ là tình nguyện binh nhất thôi, vậy mà được chức Tham mưu trưởng quân đội Nam Hà (Chef d’état-major de l’armée de Cochinchine) chức vụ làm cho anh có quyền điều khiển người đồng bạn” (Faure, note số 2, t. 215).

Câu này của Faure, chỉ đúng một phần: “lính tình nguyện binh nhất Le Brun chẳng ở Nam Hà lâu hơn 15 tháng”. Bởi vì Le Brun đến Nam Hà khoảng tháng 6/1790, và trở về Macao, trong năm 1791. (Cuối năm 1791, de Guignes đã viết báo cáo trên đây, vậy thì Le Brun đã trở về Macao mấy tháng trước đó). Phần còn lại, là sai, bởi vì, Olivier de Puymanel chưa bao giờ được làm Tham mưu trưởng quân đội Nam Hà, cả. Chức này do Dayot bịa ra khi nói chuyện với Ste-Croix để tự thăng mình và Puymanel lên, hoặc chính Ste-Croix bịa đặt.

Năm 1790-1791, Puymanel chỉ có thể là Cai đội hoạc Khâm sai cai đội mà thôi. Puymanel lại chuyên về pháo binh, chưa chắc đã làm việc chung với Le Brun.

Lý do chính về sự bỏ đi của Le Brun, mà cả Faure lẫn de Guignes đều không biết hoặc biết mà không nói ra, theo chúng tôi, là vì Le Brun trót khai man, anh ta không phải là kỹ sư, không biết gì về thành quách, ở lại mà không làm được việc, sợ bị vua trị tội.

Cosserat cho biết Le Brun từ chức năm 1791, trở về Macao, rồi biệt tích (Cosserat, t. 174).

Nhưng sau này Taboulet tìm thấy một thư Le Brun viết từ Ile de France ngày 15/6/1792, cho M. Létondal, trong có câu: “Tôi lui về ở cách bến tàu ba dặm, chỗ người bà con có nhà thợ ruộm, tôi trông nom công việc và làm quản lý cho họ. Còn hơn là làm việc cho vua Nam Hà” (Taboulet, I, t. 245).

Théodore Le Brun là người được một số ngòi bút thuộc địa và Việt Nam dựng nên huyền thoại vào loại cao nhất, ngang hàng với Olivier de Puymanel và Jean-Marie Dayot, tuy nhiên, ta cũng nên phân biệt hai loại tác giả:

Sainte-Croix, viết theo lời kể của Dayot, không đả động gì đến Le Brun, chắc vì Dayot không ưa Le Brun. Còn Faure, Maybon và Cadière cũng không “tha thiết” lắm với Le Brun.

Chỉ có Taboulet là thượng thăng Le Brun lên hàng: “nhà thiết kế đô thị đầu tiên của Sài Gòn”. Và sự dựng đứng này được nhiều sử gia Việt Nam chép lại, khiến y “đích thực” đi vào lịch sử.

Tại sao Le Brun trở thành “nhà thiết kế đô thị” đầu tiên của Sài Gòn?

Tại sao lại có sự chấp nhận dễ dàng một người lính đào ngũ binh nhất, trở thành “nhà thiết kế đô thị”, mà không cần tìm kiếm sâu xa; như thể, tất cả những người Pháp đến nước Việt, dù vô học, cũng dễ dàng trở thành các “đại kỹ sư”, “đại kiến trúc” như vậy?

Chúng tôi tạm đưa ra mấy giả thuyết sau đây:

1- Vì cái tên Le Brun (cũng viết là Lebrun), gợi sự liên tưởng tới Charles Le Brun (1619-1690) hoạ sĩ đại tài, trang trí cung điện Versailles của Louis XIV. Vậy chính cái tên Le Brun của Théodore đã gây ấn tượng mạnh khiến người ta tưởng ông là con cháu Charles Le Brun; do đó, chỉ cần nghe phong thanh có một bản đồ thành Sài Gòn do Le Brun vẽ, là người ta tin là thật ngay và khi Taboulet đặt Le Brun lên hàng “nhà thiết kế đô thị đầu tiên của Sài Gòn”, thì mọi người thi nhau chép lại.

2- Vì văn bằng của vua cấp cho Le Brun là Khâm sai cai đội thanh oai hầu quản chiếu việc công thự, và giao cho nhiệm vụ trông nom tất cả các thành trì trong nước (le soin de toutes les fortifications de ses Etats), theo như bản dịch tiếng Pháp của Puymanel; nhưng chúng tôi tin rằng câu này không dịch đúng nguyên văn chữ Hán, vì nếu một người có quyền trông nom tất cả các thành trì thì người ấy phải là thượng thư Bộ Công, hoặc quyền thượng thư, nhưng lúc đó chưa có chức này. Tuy ghi là Puymanel dịch nhưng Puymanel mới đến Việt Nam năm 1788, thì 1790 chưa thể dịch được văn bằng chữ Hán, chắc Trần Văn Học hay Hồ Văn Nghị dịch giúp.

Dịch giả diễn chức vụ của Le Brun sang tiếng Pháp là capitaine ingénieur (đại úy kỹ sư), chúng tôi dịch lại là quản chiếu việc công thự.

Sau đó đến câu: “và lệnh cho y phải tìm mọi cách để có được sự bảo đảm an toàn cho những thành trì này” (et lui enjoint de prendre tous les moyens possibles pour pourvoir à leur sureté). Câu này gây khó khăn: nếu vua lệnh cho Le Brun phải “bảo đảm an toàn” những thành trì này, thì y lại không phải là “kỹ sư” nữa mà y là “tướng”. Do đó, vì không có bản trực dịch văn bằng từ chữ Hán sang chữ quốc ngữ, thì khó có thể biết đúng nhiệm vụ vua giao cho Le Brun.

3- Tuy vậy, có mấy điểm ta có thể chắc chắn:

- Le Brun khai man là kỹ sư chuyên về đồn luỹ, nên mới được nhận chức cao hơn các bạn.

- Văn bằng của vua viết rất nghiêm khắc: nếu không làm được việc thì phải chịu tội.

- Việc vua trao cho Le Brun khó làm, quá khả năng của y, nên tránh bị tội, y mới bỏ đi.

Sau khi bỏ đi năm 1791, thì năm sau, Le Brun nhận công việc trông coi nhà thợ nhuộm của người bà con ở Ile de France (thư Le Brun viết ngày 15/6/1792, Taboulet, I, t. 244) điều đó lại càng chứng tỏ Le Brun không có học lực hoặc khả năng đặc biệt một chuyên ngành nào cả.

Bản đồ thành bát quái được in lại trong sưu tập bản đồ của các tác giả thuộc địa, ghi là bản đồ Le Brun 1799, không thể là của Le Brun, vì Le Brun đã bỏ đi từ năm 1791, và nếu Le Brun có vẽ được một bản đồ nào đó về thành bát quái thì cũng chỉ là sự vẽ lại một bản đồ có sẵn của thành bát quái đã đắp xong. Vì, thứ nhất, khi Le Brun đến Gia Định nhận văn bằng thì thành đã làm xong rồi, và thứ hai, không có điều gì chứng tỏ Le Brun đã từng học ngành kiến trúc. Còn cái bản đồ thành phố Tây phương theo kiểu Mỹ với 40 đại lộ ngang dọc mà mọi người nhắc đến, kể từ Cadière trở đi, rồi Taboulet phóng đại thêm ra, để chứng tỏ “tài năng” của Le Brun, thì chưa ai tìm thấy ở đâu cả.

Công việc của chúng ta ngày nay, không phải là bác bỏ công lao của những người Pháp này, mà là tìm lại sự thực lịch sử. Ai có công thì ghi. Những gì chỉ là lời đồn, cũng phải được đưa ra ánh sáng.

Chương 16 - IV -

jean-marie dayot

phần i: chức vụ và trách nhiệm

Về mục từ Jean-Marie Dayot, Wikipédia tiếng Anh tóm tắt Wikipédia Pháp. Wikipédia Việt dịch lại tiếng Anh.

Wikipédia Pháp ghi chức nghiệp của Jean-Marie Dayot như sau: “Grand amiral de la flotte annamite et commandant des bâtiments français de l’Annam” (Đại đô đốc của hạm đội An Nam và tư lệnh những tàu Pháp của nước Nam); và ghi những “chiến công” của Dayot như sau:

“Năm1792, ông cầm đầu một chiến dịch cho Nguyễn Ánh, ông tàn phá 5 tàu chiến, 90 chiến thuyền, và khoảng 100 tàu nhỏ của Tây Sơn; ông cho đổ bộ quân đội lên bộ và phá huỷ những đồn luỹ trước khi quay về bến Can-Tru (?) Năm 1793, ông đặt ra chiến dịch hàng năm (Giac mua) [Giặc mùa], trong khi bộ binh do Olivier de Puymanel điều khiển lại tấn công Qui Nhơn lần nữa. Ông bắt được 60 chiến thuyền của Tây Sơn và chiếm được các tỉnh Bình Thuận và Phú Yên, mặc dù thành Quy Nhơn vẫn chưa hạ được.

Jean-Marie Dayot còn thực hiện một công trình lớn lao là thủy đạo đồ bờ biển nước Nam, bản đồ do người em vẽ và ông gửi một bản sao về Paris. Ông lấy tên mình, Port Dayot, đặt cho cảng Van Phong [Vân Phong tức Hòn Khói, tỉnh Khánh Hoà, nơi Gia Long đóng bản doanh khi đánh trận Thị Nại 1801; năm Minh Mạng thứ sáu đổi tên là Vân Phong]. Năm 1795, Jean-Marie Dayot bị kết án oan ức là đã cố tình làm đắm chiếc tàu mà ông cai quản. Oan thực, vì lúc đó ông đâu có ở trên tàu. Ông bị kết án vì bất cẩn và bị đóng gông. Nhờ Olivier de Puymanel và giám mục Adran can thiệp, ông mới được thả sau 4 ngày chịu nhục hình.

Ghê tởm vì bị đối xử như thế sau những phụng sự lớn lao như thế, ông rời bỏ Nam Hà”.

Những điều Wikipédia Pháp viết trên đây, tổng hợp toàn bộ những gì các ngòi bút thuộc địa viết về nhân vật này: “sự nghiệp” của Dayot; “sự oan ức” bị kết án, và sự “đối xử tàn nhẫn” của Gia Long, đối với con người “lừng lẫy” này.

Đôi khi chúng ta nghi ngờ độ chính xác của một số thông tin trên Wikipédia, nhưng đây là một trong những trường hợp điển hình nhất của sự xuyên tạc lịch sử, được Wikipédia quảng bá trên toàn thế giới.

Những sai lầm và xuyên tạc này đến từ các tác giả thực dân, mà chúng tôi đã trình bầy trong các chương trước, nay xin đưa thêm vài nhận xét mới:

1- Chức Grand amiral, Đại đô đốc, nếu tìm tương đương trong sử Việt, là chức của Nguyễn Văn Trương, chỉ huy toàn bộ thủy binh của Nguyễn Ánh, đã lập chiến công trong các trận Thị Nại 1792 (cùng với Nguyễn Văn Thành), trận Thị Nại 1801, trận Đà Nẵng và trận Phú Xuân…

2- Việc “Dayot đặt ra chiến dịch giặc mùa” là hoàn toàn bịa đặt. Gió mùa chứ không phải giặc mùa. Thời đó, tất cả tàu bè (Âu hay Á) đều dùng buồm, đi đâu cũng phải đợi thuận gió mới khởi hành được. Không chỉ Nguyễn Ánh dùng chiến dịch gió mùa, mà Tây Sơn cũng đợi thuận chiều gió để đánh vào Nam, giặc mùa là tiếng dân miền Nam chỉ quân Tây Sơn.

3- Trên văn bằng vua cấp cho Jean-Marie Dayot có ghi: Khâm sai cai đội quản chiếu tàu nhị chích (khâm sai cai đội chỉ huy hai chiếc tàu [nhị chích là hai chiếc]). Hai tàu này là Đồng Nai và Le prince de Cochinchine (tên đã dịch sang tiếng Pháp, không rõ tên gốc tiếng Việt là gì), chưa rõ là tàu do người Việt làm, hay tàu Nguyễn Ánh mua lại của Bồ, Anh hay Pháp, vv… Tuy nhiên, nhiệm vụ hai tàu này là mua bán ở nước ngoài và vận tải lương thực, như ta sẽ thấy, chắc chắn không phải là tàu chiến.

Ngoài ra, từ 1790 đến năm 1795, Dayot giữ chức khâm sai cai đội, tức vẫn là cai đội, tuy có thêm chữ khâm sai, trên quyền cai đội một chút, chứ không thể là “đại đô đốc”. Người chỉ huy toàn bộ thuỷ quân của vua Gia Long là Nguyễn Văn Trương.

4- Chưa có chứng cớ gì đích xác về sự góp mặt của Jean-Marie Dayot trong trận Thị Nại 1792. Nếu có, cũng chỉ là vận tải lương thực. Dayot không ở trong hạm đội tác chiến. Trận Thị Nại 1792 đánh chớp nhoáng, tất cả chỉ có 10 ngày, chưa chắc Nguyễn Ánh đã cần đến sự vận tải lương thực, vì Thực Lục không nói đến các quan coi việc quân lương như trong các chiến dịch khác.

Jean-Marie Dayot (1759- 1809)

Dayot là hai anh em: Jean-Marie và Félix, cùng đến giúp Nguyễn Ánh khoảng 1789.

Jean-Marie Dayot được nhận văn bằng của vua và giữ vai chính trong sự nghiệp này. Félix Dayot, nhỏ tuổi hơn, chỉ đi theo trợ giúp. Tuy sang cùng với Vannier, nhưng Félix không có chức tước rõ ràng, nên cũng không được ghi nhận trong các giấy tờ chính thức.

Trước khi viết về JM Dayot, chúng tôi xin nói qua về Félix Dayot: Félix Dayot, quê Redon (Bretagne), em Jean-Marie Dayot, đến nước Nam năm 1789 cùng với Vannier, và trốn đi năm 1795 cùng với JM Dayot.

Theo thư của giáo sĩ Le Labousse viết về Hội thừa sai Paris ngày 16/6/1792, thì: “Tất cả những người Pháp ở đây giúp vua được hơn hai năm, đều trở về Macao. Trong đó có hai anh em Dayot, quê Rhedon, và ông Vannier quê ở Auray” (Cadière, Doccuments Relatifs à l’époque de Gia Long, BEFEO, số 12, 1912, t. 28). Đó là Le Labousse tóm tắt tình hình chung vào tháng 6/1792, khi biết tin Quang Trung sẽ đánh xuống miền Nam qua ngả Lào. Tuy vậy, anh em Dayot còn ở lại Nam Hà đến 1795 và Vannier, lúc đầu chắc cũng định bỏ đi, nhưng sau, ở lại đến đầu đời Minh Mạng.

Anh em Dayot rời Nam Hà, sang ở hẳn Phi Luật Tân tiếp tục việc buôn bán.

Félix Dayot mất năm 1821; thư Vannier, từ Huế gửi M. Baroudel, quản thủ Hội thừa sai Macao, ngày 2/8/1821, viết về cái chết của Félix như sau: “Tôi rất đau đớn về cái chết của Félix Dayot cùng quê với tôi và đi cùng với tôi sang nước Nam năm 1789″ (Cadière, Doc. Rel., BEFEO, t. 67).

 

Tiểu sử Jean-Marie Dayot

 

Theo Taboulet, Jean-Marie Dayot, sinh ngày 21/3/1759 (Taboulet, I, t. 249). Quê ở Redon (Bretagne). Theo Faure, Dayot là cháu của Charpentier de Cossigny, cựu toàn quyền Pháp ở Ấn Độ. Dayot trực thuộc vào trụ sở thuộc địa địa phương ở Ấn Độ, với tư cách trợ tá đại úy hải quân, làm việc trên các thương thuyền, bị cướp ở Vizaudrut (giữa Goa và Bombay) bị đánh đập, trốn thoát, nhưng bị mất tàu (Faure, Bá Đa Lộc, note 1, t. 201).

Maybon viết sau Faure, tìm thêm được một số chi tiết khác: “gia đình Dayot sang lập nghiệp tại Ile de France, có nhiều người làm việc cho công ty Pháp Ấn. Có họ với Charpentier de Cossigny, cũng sinh ở Ile de France, làm tư lệnh Pondichéry từ 1785 đến 1787.

Năm 1786, JM Dayot điều khiển thuyền nhỏ hai cột buồm (polacre) Adélaide, trang bị ở Ile de France để đi Pointe-de-Galles [Sri Lanca-Tích Lan] và Mascate [Oman] mua lưu hùynh và gia vị; nhưng gặp cướp người Mahrattes [Trung Ấn]. Chủ tàu khiếu nại nhiều lần không có kết quả, Dayot bèn về Pondychéry cầu cứu tướng Conway hiện đang làm tư lệnh quân Pháp ở Ấn Độ, nhờ ông can thiệp với nhiếp chính vương Mahratte và được bồi thường (Maybon, Introduction, Relation Bissachère, t. 27).

Sau đó, Maybon chép lại lời Sainte-Croix, cho rằng Dayot đã lái một trong hai chiếc tàu hộ tống giám mục Bá Đa Lộc cùng hoàng tử Cảnh trở về Nam Hà tháng 7/1789. Nhưng điều này sai, vì chính vị giám mục đã tuyên bố ông về với độc một chiếc tàu. Maybon còn đưa ra giả thuyết Dayot đã quen với vị giám mục, hoặc ở Ile de France, hoặc ở Pondichéry, nhưng đó cũng chỉ là giả thuyết, vì không có gì chứng minh những sự “gặp gỡ” này.

Cosserat trong bài Notes Biographiques sur les français au service de Gia Long (BAVH, 1917, III, t. 179) cho biết, ông không tìm thấy tài liệu nào chứng nhận đích xác ngày JM Dayot đến Nam Hà, nhưng ông lại dựa vào chứng sau đây của Faure để xác định JM Dayot đã có mặt ở Nam Hà từ năm 1788, bởi vì, theo lời Faure: “Tàu Dryade… bỏ neo ở Cavite [Phi Luật Tân]…ba giáo sĩ đi từ Paris với giám mục Bá Đa Lộc lên bờ, đó là các ông Le Labousse, Pocard và Lavoué… có 7 pháo thủ Pháp của tàu này đào ngũ ở Cavite và hình như họ sẽ tới tăng cường cho đội ngũ của tàu tư Saint-Esprit do Jean-Marie Dayot, đại uý hải quân, một tay đào ngũ khác của hạm đội ta, cai quản” (Faure, t. 201).

Những điều Faure viết chỉ tin được đến đấy, bởi vì sau đó, ông lại phóng lên rằng J.M Dayot đã được Bá Đa Lộc trao cho nhiệm vụ “thành lập và chỉ huy hải quân của Gia Long” và trong khi chờ đợi, Dayot sang Phi mua bán khí giới cho Gia Long theo lệnh của Bá Đa Lộc. Những điều này không tin được, vì tàu Dryade đậu ở Cavite từ 7/10/1788 đến 29/11/1788, tức là trong thời điểm Bá Đa Lộc còn đang ở Pondichéry, chưa về tới Gia Định, làm sao giám mục Bá có thể phát sẵn chức tước như thế? Và như chúng ta đã biết, Bá Đa Lộc chẳng mộ lính, cũng chẳng mua khí giới gì cho Nguyễn Ánh. Ngoài ra, ông cũng không có quyền hành gì về chính trị lẫn quân sự. Cho nên sự kiện tháng 10-11/1788, Dayot điều khiển tàu Saint-Esprit, mà Cosserat đưa ra cũng không chứng tỏ JM Dayot đã về giúp Nguyễn Ánh từ năm 1788.

Với những chứng cớ tin được, ta chỉ có thể đoán rằng JM Dayot đã đến Nam Hà vào khoảng 1789, trước Félix Dayot, vì theo thư Vannier viết ngày 2/8/1821 đã nói ở trên, thì Félix đến Nam Hà cùng với Vannier năm 1789; và theo Faure, thì Jean-Marie đến trước rồi mới gọi em sang sau.

Còn ngày chính thức JM Dayot về giúp Nguyễn Ánh, có lẽ nên ghi ngày nhận văn bằng Khâm sai cai đội, tức là ngày 27/6/1790.

Văn bằng Khâm sai cai đội của Dayot

Sau đây là bản dịch văn bằng vua cấp cho Dayot (dịch lại từ bản dịch tiếng Pháp):

Văn bằng do vua Nam Hà cấp cho M. Dagot [Dayot]

“Hoàng thượng xét sự trung thành và nhiệt tâm trong công việc của Jean-Marie Dagot, quốc tịch Pháp, người đặc biệt chú ý đến thiện chí mà y đã chứng tỏ khi đến từ rất xa để phục vụ trong ngành thủy binh của người, Hoàng thượng xét thấy y xứng đáng được chọn, và với văn bằng này, cấp cho y chức Khâm sai cai đội quản chiếu tàu nhị chích trí lược hầu, quản chiếu hai tàu Đồng Nai và Le prince de Cochinchine. Hoàng thượng hy vọng khi thời cơ đến, Jean-Marie Dagot, sẽ kịp thời chứng tỏ lòng can đảm và trí thông minh để điều khiển các tàu được giao phó, và nghiêm khắc áp dụng quân lệnh, y sẽ xứng đáng được tin cậy. Nếu vì lỗi, không làm tròn nhiệm vụ quan trọng này, thì y sẽ bị nghiêm trị theo luật pháp.

Ngày thứ 15, tuần trăng thứ 5, năm Cảnh Hưng thứ 51, tại Sài Gòn, ngày 27/6/1790″

(Louvet, La Cochinchine Religieuse, I, Paris, 1885, Pièces justificatives, t. 532-533).

Cùng ngày này, có bốn người nữa dưới quyền điều khiển của Dayot được văn bằng cai đội và phó cai đội, đó là: Vannier, Cai đội chấn thanh hầu, quản tàu Đồng Nai; Isle-Sellé, cai đội long hưng hầu, quản tàu Le Prince de la Cochinchine, Guillon, Phó cai đội oai dõng hầu và Guilloux, Phó cai đội nhuệ tài hầu (Theo các văn bằng in trong La Cochinchine Religieuse, t. 534-538).

Như vậy, Dayot được vua giao chức vụ Khâm sai cai đội quản chiếu tàu nhị chích trí lược hầu với trách nhiệm quản chiếu hai tàu Đồng Nai và Le Prince de la Cochinchine, mỗi tàu có một phụ tá cai đội và phó cai đội người Pháp ở dưới quyền. Và theo chỉ dụ sai phái vua cấp cho Dayot cùng ngày nhậm chức, thì ta biết hai tàu này là hai tàu buôn, có thể đi xa, tới Ma Cao, Phi Luật Tân, vv…

Nhiệm vụ mua bán của Dayot

 

Nhiệm vụ đầu tiên Dayot nhận được là một chỉ dụ sai phái, ký cùng ngày 27/6/1790 với văn bằng Khâm sai cai đội. Qua chỉ dụ này, ta biết được nhiệm vụ chính của Dayot và đồng thời hiểu thêm sự giao dịch mua bán với các nước lân cận của Gia Long trong năm 1790. Cách thức vua bán gạo để mua các vật dụng chiến tranh và tàu chiến. Đồng thời cho thấy sự nghiêm ngặt trong các chi tiết về ngân quỹ, dưới thời Gia Long và cả Minh Mạng, để tránh sự thâm lạm; nếu đọc Hội Điển, ta sẽ thấy năm nào, vua Minh Mạng mua bao nhiêu cân nhãn, giá bao nhiêu tiền một cân, nhất nhất đều ghi lại hết. Vì thế, sự thâm lạm ngân quỹ của Dayot sẽ là một lỗi nặng, và những người Pháp (Dayot, Chaigneau, Vannier) thường chỉ trích sự “hà tiện” của hai vua là bởi tính cách chi li và gắt gao trong các chiếu chỉ sai phái.

Lệnh sai phái này khá quan trọng và hơi dài, chúng tôi xin tóm tắt, như sau:

“Lệnh cho ngươi Jean-Marie Dagot [Dayot], Khâm sai cai đội quản chiếu tàu nhị chích trí lược hầu, quản chiếu hai tàu Đồng Nai và Le prince de Cochinchine và lệnh cho quan Trung [không rõ tên ông quan là Trung hay chức ông là Trung, cộng thêm một chữ nữa], làm trọn vẹn những điều khoản sau đây:

1- Chở 3.900 tạ [mỗi tạ ta là 62kg500] gạo sang Macao bán.

2- Dùng tiền thu được trả lương còn thiếu cho thủy thủ đoàn của hai tàu …

3- Hàng tháng, dành 300 đồng, để chi cho việc ăn uống trên hai tàu.

4- Làm mọi cách để đòi ở Macao tiền 5.000 cây cau, mỗi cây 3 đồng, mà Antoine Vincent de Rosa, còn nợ vua, cộng thêm nợ cũ của y còn đọng lại 6.208 đồng; và tiền 1.908 tạ cau, giá 3 đồng một tạ, mà Antoine Milner ở Macao còn nợ vua; những số tiền này tổng cộng là 26.933 đồng (piastres) và 4 condorins [?].

Với tất cả tiền thu được [tiền bán gạo và tiền nợ] Jean-Marie Dagot [Dayot] lấy ra 3.848 đồng thiếu một quan, để trả lương cho thủy thủ đoàn như đã nói trên, chỗ còn lại đưa cho quan Trung giữ.

Sau đó các ngươi sẽ đi Manille, và sau khi xin phép quan toàn quyền ở đấy, sẽ sửa chữa hai tàu, rồi sắm sửa buồm, dây và những thuyền cụ khác. Mua 500 tạ lưu huỳnh và làm một chuyến tải gạo đem về Macao bán. Với số tiền còn lại, và nếu giữ gìn sổ sách đúng đắn, các ngươi sẽ mua được 1.000 cái cuốc sắt, 500 cuốc đinh (pic de clou) đủ loại lớn nhỏ, mua những súng trường tốt và những đại bác đạn 12 livres [cân Anh, tức là 0, 453kg] hay lớn hơn.

Các ngươi phải rời Macao và về đến đây vào khoảng giữa tháng giêng năm tới [tháng 2/1791] là chậm nhất. Nếu các ngươi thấy một chiếc tàu lớn, trang bị đầy đủ những thứ cần thiết, và có thể chở tới 40 ngàn canjus [?] thì các ngươi có thể trả tới giá 40.000 đồng, với điều kiện sẽ trả làm ba lần:

1- 10.000 đồng, tiền mặt.

2- 5.000 tạ gạo, khi khâm sai cai đội Dagot trở về đây.

3- Chỗ còn lại đến tháng 6 sang năm sẽ trả hết.

Các ngươi phải cẩn thận thi hành đúng những điều khoản trên đây, nếu vì bất cẩn hay vì lỗi, mà không hoàn thành nhiệm vụ thì sẽ coi như phạm tội nặng”.

Sài Gòn ngày thứ 15, tuần trăng thư 5, năm thư 51, đời Cảnh Hưng (27/6/1790) (Louvet, t. 533-534).

Dayot chỉ là một trong những người được vua sai đi mua bán, còn có những chỉ dụ khác cho Barisy, Januario Phượng, Gibsons… đi bán gạo, cau… để mua khí giới ở những vùng khác như Mã Lai, Indonésia, Ấn Độ, vv… và có thư từ của nhà vua viết cho vua Anh, vua Đan Mạch, vv… với cùng mục đích.

Như vậy, chúng ta thấy địa bàn hoạt động để mua khí giới và tàu chiến của Nguyễn Ánh rất rộng; về phiá Tây Sơn, chắc cũng không kém, vì có những chứng cớ của các giáo sĩ cho biết Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Quang Toản cũng tiếp xúc với người Âu. Do đó, nếu chỉ xem người Pháp giữ độc quyền giao thiệp và “giúp đỡ” Nguyễn Ánh là một sai lầm.

Nguyễn Vương giới thiệu Dayot với toàn quyền Phi Luật Tân

 

Ngày 22/6/1790, tức là 5 ngày trước khi JM Dayot nhận chức Khâm sai cai đội quản hai tàu Đồng Nai và Le Prince de Cochinchine và nhận chỉ dụ sai phái, vua đã viết một uỷ nhiệm thư cho toàn quyền Phi Luật Tân, gửi gấm Dayot và quan Trung. Chúng tôi xin trích dịch đoạn chính:

“… Quả nhân vẫn luôn luôn có ý muốn giao dịch với các hạ. Hôm nay, vì có việc, quả nhân phải gửi hai tàu đến Macao và Quảng Đông, và sai bọn JM. Dagot, người Pháp, khâm sai cai đội, quản hai tàu và quan Trung đi cùng; sau khi xong nhiệm vụ ở hai nơi nói trên, họ sẽ đến Manille để mua lưu huỳnh và sửa chữa [caréner tức là lau chùi, sơn hay bọc lại phần chìm của vỏ tàu] hai tàu này. Trong trường hợp hai phái viên này cần đến sự giúp đỡ của các hạ để hoàn tất nhiệm vụ, quả nhân xin mạn phép yêu cầu các hạ đoái hoài đến họ, nếu họ có thiếu thốn tiền bạc gì, xin các hạ vui lòng ứng ra cho, như đối với chính quả nhân vậy. Nếu sau có dịp thừa nhận những sự giúp đỡ này, xin các hạ yên tâm rằng quả nhân sẽ hết sức sốt sắng…

Ngày thứ 14, tuần trang thứ 5, năm Cảnh hưng thứ 51 (22/6/1790)” (Louvet, I, t. 543-544)

Dayot đã hoàn tất mỹ mãn nhiệm vụ đầu tiên này, cho nên, thư của chính quyền Việt cám ơn toàn quyền Phi viết ngày 1/7/1791, tức là một năm sau, có những lời lẽ:

“Năm ngoái, hoàng thượng đã gửi tới Manille Jean-Marie Dagot [Dayot], người Pháp, với tàu của người để mua vật liệu chiến tranh và sửa chữa phần chìm của vỏ tàu. Hoàng thượng đã viết thư cho quan toàn quyền Phi Luật Tân nhờ che chở và giúp đỡ. Hoàng thượng hết sức hài lòng khi biết quan toàn quyền đã hết sức chú ý đến sự thỉnh cầu của người và đã cấp cho phái viên tất cả những phương tiện để thành công trong nhiệm vụ. Hoàng thượng xin gửi tới quan toàn quyền sự biết ơn sâu xa và không bao giờ người quên sự giúp đỡ này….”

Năm 52 Cảnh hưng, ngày 1, tuần trăng thứ 6 (1/7/1791) (Louvet, I, t. 544)

Nhưng chỉ chuyến đi đầu tiên là có kết quả, chuyến đi thứ nhì, Dayot đã phạm lỗi thâm lạm ngân quỹ, sẽ nói rõ ở phần dưới. Ngoài nhiệm vụ “buôn bán” này, vua còn giao cho Dayot một nhiệm vụ khác, khá quan trọng, đó là việc vận tải lương thực.

Nhiệm vụ vận tải lương thực

Theo bài ký sự ở dưới, Dayot nhận nhiệm vụ vận tải lương thực cho quân đội, mỗi khi có chiến dịch hành quân đánh Tây Sơn. Chiến dịch này đã được Gia Long hoạch định từ tháng 2/1792: tức là tấn công theo gió mùa, thuận gió đánh ra Trung, ngược gió lại quay về Gia Định. Nhưng đến tháng 7/1792, mới có trận Thị Nại, là trận đầu tiên, đánh theo gió mùa.

Hiện tại, chưa thể xác định rằng JM Dayot có tham dự vào trận Thị Nại 1792 hay không vì hai lý do:

- Thiếu tài liệu chính xác.

- Tháng 6/1792, là thời điểm khủng hoảng: vua thấy sự thâm lạm ngân quỹ của Dayot, nổi giận đuổi tất cả lính Pháp, nhưng sau vua hồi tâm. Tuy vậy, cũng khó hình dung vua cho Dayot ngay nhiệm vụ tải lương ở trận Thị Nại.

Tuy nhiên, chúng tôi sẽ dần dần tháo gỡ các chi tiết, để đi đến kết luận rõ ràng hơn về trận Thị nại 1792, trong những trang sắp tới. Nhưng trước hết, hãy nói về công việc vận lương của Dayot, và nhờ sự biệt đãi của nhà vua mà anh ta vẽ được bản đồ bờ biển nước Nam như thế nào, qua bài ký sự dưới đây.

 

Ký sự của Dayot

 

Trong bài ký sự này, Jean-Marie Dayot nói rằng anh ta đã lợi dụng chiến tranh gió mùa để vẽ bản đồ thủy đạo của nước Nam.

 

“Jean-Marie Dayot lợi dụng chiến tranh gió mùa để làm thủy đạo đồ bờ bể nước Nam (1791-1795)”

…”Lần đầu tiên đi khắp nơi với quân đội của Vua Nam Hà, từ Vũng Tàu đến Qui Nhơn, tôi đã ngạc nhiên vì con số vịnh, những chỗ trú, những chỗ tàu đậu mà chúng tôi thấy trên mỗi bước đường, ở vùng bờ biển vẫn được trình bầy trên bản đồ như nhiều chỗ đầy đá ngầm. Dù trong chiến dịch này, tôi chưa có dịp trông thấy phần lớn những bến cảng đẹp, tôi đã thoáng nẩy ý định sẽ tu chỉnh lại vùng này, bằng những bản đồ đúng hơn tất cả những bức mà tôi đã có từ trước tới giờ… Tôi bèn tâu với vua, vì biết ông là người rất thích những gì có tính cách khám phá, khoa học, và tôi đã không lầm; ông hết lòng với việc này và đã cho tôi tất cả những trợ giúp cần thiết mà tôi đã hoài công tìm ở những nơi khác…

… Làm việc trong hải quân của nhà vua và cai quản các tàu Tây phương, lực lượng chính của quân đội ông, tôi bắt buộc phải đi theo quân mỗi khi có chiến dịch, thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10. Trong 5 năm liên tục, tôi chạy dọc theo bờ biển, từ Bắc xuống Nam và từ Nam lên Bắc cùng quân đội. Nhiệm vụ tải lương, cho một số lượng tàu bè nhiều đến thế, đi với quân đội và tuỳ tùng, và cho cả bộ binh, thường tiến dọc theo bờ biển, bắt buộc chúng tôi phải đỗ lại mỗi buổi chiều, để tập hợp một đoàn thuyền tàu, thường tới hơn nghìn cánh buồm. Nhiều khi chúng tôi cũng bị bắt buộc phải ở lại một nơi nhiều ngày để đợi bộ binh và phân phát thực phẩm cho họ. Khi ở trên đất địch, thì phải tiến chậm hơn và trong thời gian tàu thả neo, chúng tôi đo đạc kích thước và dò chiều sâu của bể. Nhà vua cho tôi hai thuyền chèo và hai thuyền buồm, chuyên làm việc ấy, luôn luôn đi theo tàu do tôi điều khiển. Tôi được những sĩ quan có học và chăm chỉ giúp đỡ, hết lòng vào việc ấy, đến nỗi không có một điểm nào là không được đo đạc ghi chép bằng năm, sáu vị trí khác nhau… Khi mùa gió bắt buộc chúng tôi phải quay lại Sài Gòn, nhà vua thường để cho tôi tự do sử dụng những chiếc tàu dưới quyền điều khiển của tôi, để đến các bến khác nhau và ở lại bao nhiêu ngày cũng được tuỳ tôi định, theo công việc đo đạc bản đồ… khiến tôi có thể bảo đảm rằng có rất ít bến tàu được đo đạc kỹ càng và chính xác như những bến thấy trên bản đồ trong sưu tập bản đồ của tôi.

Mặc dù cẩn thận như vậy, nhưng vẫn có nhiều chi tiết thoát ra hoặc không đúng, bởi vì, nhìn từ biển vào, những đối tượng này có vẻ khác với bộ mặt thật của chúng, nếu M. Olivier de Puymanel, sĩ quan đầy công trạng và tài giỏi, điều khiển đoàn quân cận vệ của nhà vua và là kỹ sư đầu tiên của nhà vua, vui lòng cho tôi biết tất cả những tư liệu và làm việc vài lần với tôi, thì chúng tôi đã cùng nhau làm bản đồ sông Sài Gòn, và nhiều chỗ khác lưu thông với Cao Mên. Anh thường đi cùng với chiến dịch trên bộ, luôn luôn dọc theo bờ biển, và anh không để lỡ cơ hội nào mà không vẽ bản đồ những chỗ anh đi qua và ghi lại những nhận xét. Về phía chúng tôi, những bản đồ mà chúng tôi làm trên các hạm đội, nhiều hơn, lại có dấu hiệu thông báo cho chúng tôi mỗi ngày, đúng 12 giờ trưa…

… Nhờ sự chăm sóc đặc biệt của những sĩ quan mà tôi có hân hạnh điều khiển, nên hôm nay tôi rất hài lòng tặng cho các thủy thủ một công trình đáng tin cậy, nhờ sự chính xác của họ, nhờ tính hiếu kỳ của họ, và bằng sự mới mẻ của họ. Tôi không dám nhiều lời về tất cả số lượng đo đạc khổng lồ đã được kỹ lưỡng vẽ lại trên giấy. Đó là một phần công việc của tôi và Félix Dayot, em tôi, nhưng những bản đồ (cartes) và những đồ thị (plans) được vẽ rõ ra từ đám mây mù, chính nhờ cây bút chì của Félix…”

(Mémoire sur la côte et les ports de Cochinchine par M. Dayot, mandarin à la cour de Cochinchine, pendant les années 1791-1792-1793-1794 et 1795. Archives du Ministère de la Marine… daté de Macao le 1/11/1807 (Lược trình về bờ bể và bến tàu ở Nam Hà của Ô. Dayot, quan trong triều Nam Hà những năm 1791-1792-1793-1794 và 1795, văn khố bộ Hải quân… viết ở Macao ngày 1/11/1807 (Taboulet, I, t. 250-251).

Như vậy, nhiệm vụ của Dayot thực rõ ràng: không những Nguyễn Vương cho Dayot điều khiển hai tàu Đồng Nai và Le Prince de Cochinchine mà còn cho sử dụng hai tàu này vào những việc riêng. Tuy Dayot tâu vua là vẽ bản đồ cho vua nên mới được biệt đãi, nhưng chủ đích của anh ta không phải vậy, Dayot đã viết rất rõ chủ đích của mình: tôi rất hài lòng tặng cho các thủy thủ một công trình đáng tin cậy. Thủy thủ ở đây là thuỷ thủ Pháp, vì Dayot không nhắc nhở gì tới việc trình bản đồ cho vua Gia Long. Dayot trao toàn bộ bàn đồ này cho Sainte-Croix đem về Pháp và kèm theo lá thư viết cho Ste-Croix (sẽ trích dưới đây) nói rõ chủ đích của anh ta. Cho nên những người vội vàng kết luận Dayot có công vẽ bản đồ bờ biển nước Nam cho vua Gia Long sử dụng, là hoàn toàn sai lầm.

Công lao của Dayot đối với nước Pháp

Công lớn nhất của Dayot với nước Pháp là vẽ bản đồ bờ biển Việt Nam, Maybon viết:

“Trong những lần đi dọc bờ biển nước Nam, không chỉ theo quân, mà còn vận tải lương thực, hai anh em Dayot đã làm một việc rất hiển vinh: vẽ thuỷ đạo đồ bờ biển và các cửa biển. Chính ông Renouard de Sainte-Croix đã đem về Pháp những bản đồ và ghi chép của Dayot. Trong thư Dayot viết cho Sainte-Croix ở Macao ngày 15/11/1807 có những hàng: “Tài mọn của tôi không cho phép tôi mơ ước chức giao dịch viên của một viện quý giá [Viện lưu trữ], nhưng tôi sẽ rất mừng nếu kết quả công việc của tôi được công nhận. Tôi có thể gửi các nhận xét bổ ích về nhiều vấn đề của cái xứ chưa ai biết đến này bằng sự hiểu biết hạn hẹp của tôi. (…) Tôi gửi ông kết quả sáu năm làm việc cam go, tất cả những gì ông sẽ làm sẽ là tốt, nếu có trở ngại gì với việc ông vì tình bạn giúp tôi và tấm lòng của tôi phục vụ tổ quốc, thì cũng không giảm bớt được lòng biết ơn suốt đời của tôi đối với ông”. Saint-Croix đã gửi công trình của Dayot về kho lưu trữ và đã được Hoàng đế [Napoléon] xem.

Năm 1820, chính phủ quyết định dành cho Dayot một câu lạc bộ thiên văn; nhưng sự tưởng thưởng đến quá muộn, Dayot đã mất từ năm 1809. Ông cũng không nhìn thấy những bản đồ của ông được Viện lưu trữ hải quân phát hành năm 1818, và cũng không biết lời khen ngợi hết mình của Abel Rémusat: “…Chúng ta biết có nhiều người nước ta đã giữ những chức vụ quan trọng trong triều nước Xiêm và nước Việt, và nhờ vào một trong những người đó, ông Dayot đã quá cố mà chúng ta có tập địa đồ (Atlas) cực kỳ quý giá về nước Nam, được vua [Louis XVIII] sai khắc năm 1818, đó là một trong những toà lâu đài đẹp nhất của khoa học địa lý xây trên cái xứ rất xa Âu châu… Từ khi các bản đồ của ông Dayot được in ra, bờ biển nước Nam được biết rõ, có lẽ còn hơn một số bờ biển Âu châu nữa.

Năm 1817, vua Louis XVIII sai Kergariou sang biển Đông, với bản đồ của Dayot. Trong thư ngày 28/3/1818 gửi bộ trưởng Hải quân, Kergariou viết: “Tôi đã đi khắp các cửa biển của nước Nam và trong hải trình chông gai này, tôi đã có dịp kiểm chứng, đảo lộn hầu như tất cả công trình của Ông Dayot. Chẳng có lời nào đủ để khâm phục sự chính xác, nhất là sự chính xác mà đất đai được chiếu lại trên các bản đồ” (Maybon, Relation Bissachère, t. 31-33).

Sau này, liên quân Pháp Tây Ban Nha cũng dùng bản đồ này để đánh chiếm nước ta dưới thời vua Tự Đức.

Hết phần I về Jean-Marie Dayot.

 

 

Jean-Marie Dayot

Phần II- Công và Tội

Tất cả hình ảnh những “sĩ quan” Pháp đứng địa vị hàng đầu trong các ngành, làm “kỹ sư trưởng”, “chỉ huy trưởng”, “xây dựng thành đài”, “thiết lập thuỷ binh”, và “huấn luyện quân đội”… nói chung là “giúp đỡ” và “dạy dỗ” Gia Long thành lập một quân đội tân tiến, xây những thành đài theo kiểu Vauban; mà các ngòi bút thuộc địa dày công tô đậm, đôi khi chỉ cần vài dòng chân thực của một vị thừa sai, là bị quét sạch.

Sự vô hạnh của những người lính đánh thuê

Sự vô hạnh của lính Pháp và Bồ, khi đặt chân đến nước Việt, được giáo sĩ Le Labousse ghi lại trong lá thư gửi quản sự Létondal ngày 28/5/1790 (một tháng, trước khi một số người này được nhận chức cai đội), như sau:

“Chúng tôi rất bực mình vì mỗi ngày được nghe và thấy hàng ngàn câu chuyện nhục nhã xảy ra vì hạnh kiểm của bọn [lính] Pháp và Bồ… Chúng tôi đã chán ngán phải rên siết vì chiến tranh tàn phá giáo dân, không cần những người Âu này đến để trùm lên chúng tôi những hỗn độn vì sự dâm ô và vô kỷ luật của họ (leur incontinence le leurs désordres). Đức Ông [Bá Đa Lộc] đã quỵ ngã vì gánh nặng này (succombe sous le faix); người đã chán ngấy bọn đồng hương; phải có một tâm hồn cao thượng và mạnh mẽ lắm, người mới trụ nổi” (Launay, III, note 1, t. 209).

Hai năm sau, giáo sĩ Lavoué gửi thư cho M. Létondal từ Lái Thiêu, ngày 16/6/1792, viết:

“… nhà vua, bất mãn với những người Pháp, đã cho họ nghỉ tất cả, trong những ngày đầu tháng năm [1792]; hay chính những người Pháp bất mãn với vua, đã xin nghỉ và vua cho phép ngay lập tức” (Launay, III, t. 295).

Ngày 16/4/1793, trong một thư gửi cho hai người bạn Lewet và Roland, Olivier de Puymanel viết: “… tôi thề với các anh đó, trạng thái này [xưng tội] tốt hơn hết tất cả những gì mà ta gọi là khoái lạc. Tôi cũng xấu hổ vì nhiều khi đã làm gương xấu cho các anh, và tôi muốn sửa lỗi, vì tôi tin chắc rằng sự chơi bời dẫn đến sự vô đạo” (Cadière, Les francais au service de Gia Long, Leur correspondance, BAVH, 1926, IV, t. 365)

Nhờ những dòng ngắn ngủi này mà chúng ta hiểu rõ tình trạng những năm đầu, khi đám lính Pháp và Bồ đánh thuê đến Nam Hà và vai trò cũng như tình cảm của Bá Đa Lộc đối với bọn người này. Những lời trên đây của các giáo sĩ Le Labousse, Lavoué và chính Puymanel đã:

- Đặt những người lính Pháp đào ngũ, đánh thuê, trong bối cảnh thực sự của họ với những thói hư tật xấu.

- Vô hiệu hoá tất cả các lập luận cho rằng giám mục Bá Đa Lộc “điều khiển quân đội” và ban chức Tư lệnh bộ binh cho Puymanel, Tư lệnh hải quân cho J. M. Dayot, v.v. mà ngược lại, vị giám mục đã chịu đựng sự vô hạnh của họ như nỗi bất hạnh của chính mình.

Chuyện Dayot thâm lạm ngân quỹ chỉ là giọt nước làm tràn cái chén đã đầy.

Vụ Dayot thâm lạm ngân quỹ năm 1792

Được hưởng nhiều ân sủng và sự tin cậy của vua Gia Long, nhưng Dayot đã không làm tròn phận sự ghi trong văn bằng Khâm sai cai đội. Nếu chuyến đầu tiên vua sai Dayot đi Phi Luật Tân (chỉ dụ ngày 27/6/1790) thành công, khiến vua bằng lòng, tháng 7/1791, triều đình viết thư cám ơn viên toàn quyền Phi Luật Tân, như đã nói ở phần I, thì chuyến đi Phi lần thứ hai, Dayot đã phạm tội thâm lạm ngân quỹ. Thư của giáo sĩ Le Labousse viết cho M. Letondal ngày 17/6/1792, có những lời sau:

“Chuyến đi xui xẻo từ Macao sang Manille của Dayot và sổ sách cực kỳ thâm lạm của anh ta đã làm cho vua ghê tởm, bực quá không thèm nói gì thêm, vua sai đuổi hết không chỉ các lính thủy, mà tất cả sĩ quan, ai muốn đi thì đi, không giữ. Họ cũng không đợi vua đuổi, họ đã làm đơn xin về và được chấp thuận liền. Điều này khiến cho Đức Cha [Bá Đa Lộc] quyết định, vì từ lâu người đã rất bất mãn với vua và v.v., lại một lần nữa xin vua cho phép người được về Pháp, lấy cớ có việc nhà. Vua đã thuận cho, rồi nghĩ lại, vua đổi ý” (Launay, III, t. 296).

Giám mục Bá Đa Lộc, từ khi đem hoàng tử Cảnh trở về, ở trong một địa vị rất khó khăn: Vừa thất bại trong sứ mệnh cầu viện, vừa là cha đỡ đầu cho một bọn lính đào ngũ vô kỷ luật, vừa chịu sự ác cảm của các bà hoàng và sự nổi giận của vua, vì đã dạy hoàng tử không được lậy trước bàn thờ tổ tiên, vừa bất mãn với vua vì không được Gia Long nghe lời khuyên: nên đánh ngay ra Bắc. Trong hai năm, ông đã bị giày vò về vấn đề đi hay ở.

Năm 1792, đối với giám mục Bá là năm phải quyết định bỏ đi, vì trước mắt có một cái họa lớn: Quang Trung sắp đánh xuống miền Nam qua ngả Lào; nếu Quang Trung thắng mà ông còn ở đó, thì họ đạo của ông sẽ bị tiêu diệt vì Quang Trung không thể tha thứ tội ông đem hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện. Mà trở về Pháp trong thời điểm hỗn loạn đẫm máu sau cách mạng 1789, giáo quyền bị triệt tiêu, là bất cẩn, nên ông chỉ tính đi lánh nạn ở nước ngoài, đợi khi chiến cuộc ngã ngũ, sẽ trở về đất Việt, đó là toan tính của ông.

Về phiá những lính Pháp đánh thuê, sự bỏ Gia Long để đi chỗ khác, đến từ những yếu tố:

- Vì sự vô hạnh của họ nên vua nổi giận đuổi họ đi.

- Họ chê vua trả lương ít.

- Họ đến đây với mục đích tìm của, tìm vàng, nhưng không “tìm” thấy gì cả.

- Và sau cùng, khi nghe tin Nguyễn Huệ sắp đánh xuống miền Nam, họ không muốn chết vì một cuộc chiến không dính dáng gì đến họ.

Tuy nhiên, Gia Long là một chính trị gia có tài, ông biết trong tình trạng cấp bách này, không nên để cho địch thấy sự đổ vỡ của việc “người Âu đến giúp” mà ông vẫn dùng như một lợi khí tuyên truyền. Vì vậy, ông đã thuyết phục giám mục Ba Đa Lộc ở lại, và khi vị giám mục, người cha tinh thần của họ ở lại, thì những người lính theo đạo Gia Tô này sẽ theo. Vì vậy, vua tỏ những cử chỉ khuyến khích: cho Puymanel được thăng chức Vệ uý, vì đã có công trong đội ngũ pháo binh, “chế tạo các hạng hoả xa, chấn địa lôi, binh khí” cùng với Trần Văn Học (LT, II, t. 282). Dayot cũng được vua bỏ qua lỗi thâm lạm, tuy nhiên nhà vua sẽ không gửi y đi mua bán ở ngoại quốc nữa, Dayot được sung vào ban tiếp vận lương thực cho quân đội. Chính nhờ nhiệm vụ tiếp vận quân lương này mà Dayot có đủ phương tiện để vẽ thủy đạo đồ bờ biển nước Nam như anh ta đã tả lại trong bài ký sự ghi ở phần I.

Sự kiện Dayot được quản hai chiếc tàu và phục vụ trong đội vận tải quân lương, sẽ được khuếch trương thành Dayot, tư lệnh hải quân của Gia Long và là người anh hùng thắng trận Thị Nại 1792 như thế nào, chúng ta sẽ tìm hiểu dần, từng bước một, ở dưới.

Nhưng trước khi đi xa hơn, chúng tôi muốn trình bầy sức mạnh thuỷ quân của Nguyễn Ánh, để độc giả thấy rõ hơn, những điều có thật và những điều được người ta biạ đặt ra, sau này.

Sức mạnh của thuỷ quân Nguyễn Ánh

Để trả lời những sai lầm, vì chủ quan của người Pháp, tưởng cái gì họ cũng làm thầy, và những sai lầm của người Việt, vì mặc cảm bị trị, tưởng cái gì mình cũng phải học của Tây, chúng tôi xin nhắc lại một số dữ kiện sau đây:

Khoảng cuối thế kỷ XVIII, thuộc đoạn lịch sử mà chúng ta đang khảo sát, thuyền tàu của Tây phương chưa tiến bộ đến mức vượt xa thuyền tàu Đông phương. Bởi cả Đông lẫn Tây đều dùng thuyền tàu buồm. Chúng ta chỉ cần xem tàu Bounty trong cinéma, hay tàu của Lafayette mà người Pháp vừa làm lại nguyên bản, và cho chạy xuyên đại dương sang Mỹ là thấy rõ.

Tàu Tây chỉ hơn hẳn tàu Ta một bực, khoảng gần 100 năm sau, khi khoa học Âu châu đã phát triển mạnh trong khi Á Châu, trừ Nhật, còn ở trong tình trạng lạc hậu.

Các chiến thuyền của Tây phương, thời Gia Long khởi nghiệp (1777-1800) có khác với chiến thuyền của Đông phương, sự khác biệt này, cả ưu lẫn nhược điểm của đôi bên, đã được Barrow và Montyon phân tích trong sách của họ, mà chúng tôi đã trích dịch trong các chương 4 viết về Barrow và chương 7, về Montyon.

Một câu hỏi cần được trả lời cặn kẽ hơn: Thuỷ binh Nam Hà -lực lượng chính của quân đội Nguyễn Ánh- tại sao lại hùng mạnh?

Theo các tác giả thuộc địa, mà người Việt thường chép lại, là nhờ sự giúp đỡ của Bá Đa Lộc và nhờ những “sĩ quan” Pháp đem kỹ thuật tân tiến của Tây phương vào.

Lời sau đây của Tạ Chí Đại Trường có thể coi là tiêu biểu: “Đặc sắc của thuỷ quân Gia Định là sự dồi dào vũ khí, hiệu suất cao của chúng, là các tàu bọc vỏ đồng chắc chắn cùng chiến thuật mới của các sĩ quan Tây phương đưa vào” (LSNCVN, t. 237).

Trong những chương trước, chúng tôi đã tháo gỡ dần dần những sự “ngộ nhận” này. Ở đây, xin trình bầy thêm một số điểm chưa được nói đến: Thuỷ quân Nam Hà, phát triển rất sớm, không nhờ vào những đội “tàu Tây”, do “người Tây” Dayot “lãnh đạo” và “huấn luyện”, mà nhờ ở những yếu tố sau đây:

1- “Đất Gia Định nhiều sông kinh, cù lao, bãi cát, trong 10 người đã có 9 người giỏi nghề bơi lội, chèo thuyền”. “Ở Gia Định chỗ nào cũng có ghe thuyền, hoặc dùng thuyền làm nhà ở, hoặc để đi chợ, hay để đi thăm người thân, hoặc chở gạo củi đi buôn bán, rất tiện lợi” (Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông Chí, Phong tục chí, bản dịch của Lý Việt Dũng, điện tử).

2- Chúng ta đừng quên rằng cả Nguyễn Ánh lẫn Tây Sơn đều mạnh về thuỷ binh. Nguyễn Huệ xuất quân vào Nam, ra Bắc, một cách thần tốc. Biết vậy, Nguyễn Ánh đã sớm mở mang kỹ thuật đóng thuyền, tàu (ta gọi tất cả là thuyền), nhờ tướng giỏi, có tài đóng thuyền như Đỗ Thanh Nhơn, Võ Di Nguy và lại liên tục sai người đi mua thuyền, tàu ngoại quốc. Đến năm 1793, Nguyễn Ánh có thêm Trần Văn Thái, thuộc Công bộ của Tây Sơn về hàng, hợp lực với Võ Di Nguy trong việc đóng tàu thuyền. Võ Di Nguy tử trận khi đánh nhau với Võ Văn Dũng ở Thị Nại, 1801. Trần Văn Thái sau làm đến chức Công bộ thượng thư (LT, II, t. 474). Tháng 8/1787, Nguyễn Văn Trương, chưởng cơ của Tây sơn đem 300 quân tinh nhuệ và 15 chiến thuyền về theo, Nguyễn Ánh trao cho chức Khâm Sai Chưởng Cơ, quản đạo Tiên phong Thuỷ dinh Trung quân; sau trở thành đại tướng thống lãnh toàn bộ thuỷ binh của Nguyễn Ánh và lập công lón trong các trận Thị Nại 1792, Thị Nại 1801, Quảng Nam, Phú Xuân… Như vậy chứng tỏ Nguyễn Ánh biết dùng người và Tây Sơn cũng có một nền thuỷ binh mạnh mẽ không kém.

3- Vừa thoát chết khỏi bàn tay Nguyễn Huệ, ngay từ tháng 4/1778, Nguyễn Ánh đã sai đóng hơn 50 chiến hạm gọi tên là thuyền hiệu Long Lân và mua nhiều bè hoả công. (TL, I, t. 206)

Trịnh Hoài Đức giải thích rõ hơn về các chiến thuyền Long Lân này: “Năm 1778… Quân ta đắp lũy đất từ bờ tây Bến Nghé chạy dọc đến mé sông An Thông, phàm tại các cửa sông đều đóng cọc cây ngăn cản tàu để chống giữ và bí mật đóng hơn 50 chiếc chiến hạm tại sông nhỏ Thị Tĩnh thuộc sông An Thông. Mấy chiến hạm này đầu bọc nhọn, đầu và thân đều gắn ba tấm ván có vẽ hình như hạm của Tây dương, lại giăng lưới gọi là Long Lân thuyền, lại chỉnh bị bè cho hoả công” (Gia Định Thành Thông Chí, Vật Sản Chí, bản dịch của Lý Việt Dũng, điện tử).

Như vậy, ở tuổi 16, Nguyễn Ánh đã sai đóng “chiến hạm giả” kiểu Tây dương, để “loè” địch.

Đến tháng 5/1778, Ánh lại sai cai đội Trần Văn Phúc sang đạo Tân Châu, Nguyễn Đức Huy sang đạo Quang Hoá để đóng thuyền đi biển (TL, I, t. 206).

4- Một bước tiến mới trong kỹ nghệ đóng thuyền chiến của quân Nguyễn: Theo Trịnh Hoài Đức tháng 8/1780, Đỗ Thanh Nhơn đã “sáng chế đóng thuyền chiến, làm bánh lái dài để đi đường biển yên ổn, nhưng vẫn để bánh lái tròn khi trước để dùng khi đi đường sông, gọi là thuyền hai bánh lái, phiá trên gác sàn chiến đấu, hai bên treo phên tre để che cho thuỷ binh ở dưới chuyên lo chèo chống, trên thì bố trí bộ binh để xung kích, nhờ vậy mà kỹ xảo của thuỷ sư càng tinh nhuệ, đến nay [khoảng 1820] cũng vẫn theo” (Gia Định Thành Thông Chí, Vật sản chí, bản dịch của Lý Việt Dũng, điện tử).

Thực Lục ghi: “Đỗ Thanh Nhân sai thủy quân lấy thứ gỗ nam (kiền kiền) để đóng thuyền trường đà (bánh lái dài), trên gác sàn chiến đấu, hai bên dựng phên tre che thủy binh ở dưới để cho chuyên sức mà chèo, còn trên thì bày bộ binh để xung trận mà đánh. Do đó đi đường biển thuận lợi mà nghề thủy quân sở trường càng tinh thêm” (TL, I, T. 209).

Montyon đã nhắc đến sự lợi hại của thuyền trường đà có hai bánh lái này trong sách của ông (Montyon I, t. 128-130) mà chúng tôi đã trích dẫn trong chương 7, Montyon.

5- Về sức mạnh thủy binh và sự đóng thuyền, tàu liên tục của Nguyễn Ánh trong khoảng 12 năm (1781- 1793), có những mốc đáng chú ý:

- Tháng 5-6/1781, Nguyễn Ánh duyệt binh, có khoảng 3 vạn quân, 80 thuyền đi biển, 3 thuyền chiến lớn và 2 tàu Tây (TL, I, t. 210).

- Tháng 9-10/1782, sai cai cơ Trung thủy Võ Di Nguy, cai cơ Tiền thuỷ Trương Phúc Dĩnh tập hợp những thủy binh ngạch cũ, sửa đóng chiến thuyền.

- Ngày 9/4/1785, Nguyễn Ánh chạy sang Xiêm với 30 quần thần, 200 quân và 5 chiến thuyền: Phượng Phi, Bằng Phi, Hùng Trì, Chính Nghi, Thuyền Ô (Thực Lục I, t. 223).

- Trong thời gian tạm trú ở Xiêm, “xưởng” đóng tàu của Nguyễn Ánh là đảo Giang Khảm:

Hoàng Tiến Cảnh, năm Ất Tỵ [1785], được thăng khâm sai tổng nhung chưởng cơ, cùng với bọn Trương Phúc Dĩnh đến đảo Giang Khảm đóng thuyền chiến (LT, 270). Năm Bính Ngọ [1786] Nguyễn Văn Nhàn cùng Trương Phúc Luật đến Giang Khảm đóng chiến thuyền thập hiện (LT, 236). Trương Phúc Luật trông coi đội trường đà [tức là thuyền hai bánh lái] (LT, 237). Năm Bính Ngọ [1786] đốc chiến cai cơ Mai Tiến Vạn theo chưởng cơ Hoàng Tiến Cảnh đóng 10 chiếc thuyền hiệu ở đảo Giang Khảm (LT, II, t. 249).

- Tháng 8/1989, sai đóng chiến thuyền lớn hơn 40 chiếc, thuyền đi biển hơn 100 chiếc (TL, t. 251). Tháng 12/1789, sai cai cơ Võ Di Nguy đóng một chiếc thuyền lớn và 15 chiếc thuyền đi biển (TL, I, t. 267).

- Tháng 1/1791, Lập xưởng thuỷ sư, từ bờ sông Tân Bình đến bờ sông Bình Trị, trên ba dặm, thuyền đi biển, thuyền chiến (hình thức như thuyền buôn, không mui mà nhỏ) thuyền ô (sơn đen nên gọi là ô thuyền), thuyền son (sơn đỏ gọi là chu thuyền), thuyền lê (đầu đuôi thuyền đều chạm vẽ gọi là lê thuyền), đều đậu ở đó (TL, I, t. 270).

- Tháng 5/1791, đóng hơn 100 chiếc chiến thuyền (TL, I, t. 284).

- Tháng 2/1792, đóng năm hiệu thuyền Hoàng Long, Xích Nhạn, Thanh Tước, Bạch Yến và Huyền Hạc (TL, I, t. 283).

- Theo thư của giáo sĩ Liot gửi từ Tân Triều (Đồng Nai) về Paris ngày 18/7/1792: Nhà vua vừa làm xong 15 tàu chiến, mũi, đuôi và giàn cột buồm giống tàu Trung Hoa, tất cả phần còn lại làm theo lối Tây, sắp đi đánh Tây Sơn (Cadière, Doc.Rel, t. 28)

- Tháng 2-3/1793 (tháng giêng Quý Sửu) đóng thêm các thuyền đại hiệu: Long Ngự, Long Thượng, Long Hưng, Long Phi, Bằng Phi, Phượng Phi, Hồng Phi, Loan Phi, Ưng Phi. (Chắc là sửa lại các thuyền Phượng Phi và Bằng Phi, vì đã có từ năm 1785) (TL, I, t. 290).

Nhìn những mốc trên đây, ta thấy ngay:

Hai thuyền Phượng Phi và Bằng Phi (tàu chiến bọc đồng theo kiểu Tây phương) Nguyễn Ánh đã có từ năm 1785, hoàn toàn do người Việt điều khiển. Tàu Phượng Phi năm 1790 sẽ giao cho Trần Văn Học và Nguyễn Văn Chấn (Vannier) cai quản (Liệt truyện II, t. 282). Đến năm 1792, trong trận Thị Nại, hai tàu Long Phi và Phượng Phi sẽ được các tướng Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Văn Trương sử dụng. Cho nên, chúng ta không nên lầm tưởng chỉ có người Tây mới quản được tàu Tây.

Nguyễn Ánh là nhà lãnh đạo giỏi, ông sai Dayot, Barisy, Gibsons, Januario, Puymanel… đi ngoại quốc mua bán vì họ là người Âu, nói được tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Bồ, dễ giao thiệp hơn người Việt. Chỉ đơn giản như thế. Ngoài ra, trừ Puymanel, họ không có phận sự tác chiến. Trong những năm 1801, 1802, ở thời điểm cuối của cuộc chiến, Nguyễn Ánh sai Chaigneau, Vannier, và de Forcant, quản ba tàu chiến bọc đồng Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi đi hộ giá, là để thị uy, phô trương lực lượng, chứng tỏ ông có người Pháp hầu cận. Những người này đi hộ giá, cũng không có nhiệm vụ tác chiến, trừ de Forcant, đã hăng say, đang đêm lẻn đi lập chiến công ở trận Thị Nại 1801 và được giáo sĩ Le Labousse viết về việc này.

Từ đầu 1791, khi đã lập xưởng đóng tàu ở Sài Gòn (Trịnh Hoài Đức viết rõ vị trí và diện tích; xưởng này cũng được Barrow và Le Labousse mô tả và khâm phục), Nguyễn Ánh gia tăng sản xuất thuyền tàu ngay tại Sài Gòn.

Nhìn qua số lượng tàu thuyền Tây, Ta mà Nguyễn Ánh mua hoặc sản xuất tại chỗ thời đó, mới thấy con số 2 tàu Đồng Nai và Prince de Cochinchine mà Dayot được điều khiển thực là khiêm nhượng. Và sự thượng thăng khâm sai cai đội Dayot lên làm Chỉ huy trưởng hải quân Nam Hà thực là ấu trĩ.

Về “chiến công” của Dayot, trong trận Thị Nại 1792

Trận Thị Nại 1792, mà chúng tôi đã xác định bắt đầu từ ngày 26/7/1792 và chấm dứt ngày 5/8/1792, trong chương 8, Hịch Quang Trung, là chiến thắng lớn đầu tiên của Nguyễn Ánh trên quân Tây Sơn, phá hoại toàn bộ thuỷ quân của Nguyễn Nhạc đậu ở cửa Thị Nại trong khi Nguyễn Nhạc đi săn vắng. Trận này đánh dấu ngõ quặt, khiến Quang Trung nổi giận, truyền hịch đánh Nam Hà, và hai mươi ngày sau khi hịch truyền, Quang Trung mất.

Vì sự quan trọng của trận Thị Nại 1792, có thể coi như chiến công lớn đầu tiên trong cuộc chinh phục lại toàn thể lãnh thổ của Gia Long, cho nên, bằng mọi giá, các sử gia thuộc địa đã tìm cách “xác định” chiến công Thị Nại 1792 là chiến công “lừng lẫy” của người Pháp. Chúng ta sẽ điều tra hư thực chuyện này như thế nào.

Barrow, là một trong những người đầu tiên viết mấy hàng về Dayot và trận Thị Nại 1792, nhưng ông khá dè dặt:

“Mùa xuân 1792, ông [Nguyễn Ánh] xuống thuyền đi đánh Qui Nhơn, để trên đầu hạm đội, 2 sĩ quan Pháp, cai quản hai tàu chiến Tây phương. Người ta đồn rằng, một trong hai người này, ông Dayot, đã làm cho hạm đội Việt [Tây Sơn] thiệt hại lớn, đốt cháy, đánh đắm, hoặc xâm chiếm tất cả những thuyền gặp trên đường. Nhưng hăng say, tiến sâu quá và thuyền ông mắc cạn. Người ta đồn nhà vua, tuy chứng kiến tai nạn này, có thể làm cho ông thua trận, nhưng vẫn tỏ chút mãn nguyện, nói rằng: “Ông ấy đã làm nhiệm vụ của mình, tôi không chờ đợi ông ấy làm nhiệm vụ của tôi” (Barrow, t. 218).

Câu: [Nguyễn Ánh] để trên đầu hạm đội, 2 sĩ quan Pháp, cai quản hai tàu chiến Tây phương, và một trong hai người này là Dayot không thấy đâu chép cả. Chuyện tàu mắc cạn quá giống chuyện Mạn Hoè. Barrow không đề xuất xứ, nhưng ông đã cẩn thận dùng những tiếng “người ta đồn”, chứng tỏ ông không chắc và ông cũng biết, không thể dựa vào những lời “người ta đồn” để viết sử.

- Tác giả Sử ký Đại Nam Việt cũng viết câu chuyện này, tương tự như trên, nhưng đặt vào năm 1791, có lẽ là cùng chép một nguồn với Barrow, nhưng không để tên Dayot mà lại đề tên Puymanel:

“Vậy tàu ông Dade cai [SKĐNV gọi Olivier de Puymanel là ông Dade] thì đi trước, mà Nguyễn Ánh cùng các tàu thì đi sau, cách xa một trống canh đàng. Ông Dade vào một mình và bắn súng đánh các tàu quân giặc. Quân giặc thấy tàu Tây thì sợ hãi lắm; song cũng ra sức bắn trả, mà không mũi nào nhằm sốt. Ông Dade vào cửa nhằm khi nước ròng, nên tàu ông ấy phải mắc cạn chẳng đi được nữa. Vậy phải dùng những khẩu súng ở trước mũi tàu mà bắn thì càng khó lắm, song cũng đánh, và quân giặc đã phải chết nhiều; còn quân của ông ấy thì bằng yên vô sự “ (SKĐNV, t. 59).

Nói rằng Olivier lái tàu vào đánh là hoàn toàn sai, vì Olivier, dù có dự trận này cũng chỉ ở trong đội ngũ pháo binh, ai cho phép Puymanel lái tàu chiến? Còn chuyện tàu mắc cạn, như trên đã nói, quá giống chuyện Mạn Hoè. Tác giả Sử Ký Đại Nam Việt, chỉ biết một số chuyện xảy ra trong Nam. Còn về các trận đánh trận đánh xảy ra ở miền Trung, thì không biết nên không thấy kể gì cả. Trận này là trận duy nhất được kể lại, nhưng có lẽ cũng chỉ nghe người ta đồn hoặc chép theo nhà dòng, và lại luôn luôn đội Tây làm thầy về mọi mặt, giống như Trương Vĩnh Ký, cho nên, đoạn này cũng rất khó tin. Nhưng ta có thể đoán rằng: Barrow và SKĐNV chép lại cùng một nguồn tin đồn lấy từ nhà dòng.

Maybon và “công trạng” những người Pháp trong trận Thị Nại 1792

Maybon viết:

“Không thể chối cãi được rằng họ đã góp phần rộng lớn vào chiến thắng của Gia Long. Chưa nói đến sự đóng góp của họ vào những chiến công quan trọng, như việc tiêu diệt hạm đội Tây Sơn năm 1792, và những cuộc hành quân khác dẫn đến chiến thắng Huế, năm 1801” (Maybon, Histoire moderne du pays d’Annam, t. 279).

Nhưng ở trang 311-312, khi mô tả trận Thị Nại thì ông Maybon lại dùng tài liệu của Thực Lục. Rồi ông trách Thực Lục không đếm xỉa đến công lao của những người Pháp này, may mắn thay, ông tìm được các tài liệu khác, về phiá Tây phương, nói rất rõ. Đó là hai “chứng liệu” sau đây:

1-Lá thư của giáo sĩ Le Labousse kể chuyện Nguyễn Ánh, sau khi thắng trận, vì chưa có kinh nghiệm, đã ra lệnh đốt tàu của Tây Sơn (việc này Sử Ký Đại Nam Việt cũng chép, t. 59, và cho biết sau đó Nguyễn Ánh hối ngay và cho lệnh dập tắt lửa).

2- Chứng thứ hai, rút từ những điều Michel Đức, con trai của Chaigneau, viết trong hồi ký Souvenirs de Huế, (Paris, 1867), như sau:

“Chắc quý vị muốn có một vài chi tiết về chiếc tàu Âu châu làm gì. Con tàu này được ông Dayot ở Redon điều khiển, và được ông Vannier ở Auray, phụ tá; ông Olivier ở Carpentras, cũng có đó với quân đội của ông”. Chính nó đã tiến vào cửa biển [Thị Nại] đầu tiên, trước đại binh một giờ. Tính cách cao quý và mạnh dạn độc tiến giữa lòng địch của nó, trong khi địch quân đã ùa ra phiá trước nhả đạn tứ phiá vào tàu, làm cho nhà vua và tất cả những người Nam Hà kinh ngạc. Nhà vua, trong lúc này, không thể không ngợi khen sự can đảm của những người Âu. Toàn thể quân đội lúc đó đều nhận ra sự khác biệt giữa người Pháp và mấy chiếc tàu Bồ, ngày trước đã nhục nhã trốn chạy và đã làm cho vua bại trận.

Trong khi tất cả mọi người đang khâm phục chiếc chiến hạm đơn độc chống chọi với kẻ thù, thì lòng dũng cảm của những vị [sĩ quan] này bỗng chốc bị đình chỉ một cách nhục nhã nhất đối với người chiến sĩ: Cửa vào cảng rất hẹp, gặp lúc thuỷ triều xuống, tàu bị mắc cạn. Ở vị trí này, họ chỉ dám bắn vài phát đại bác nhỏ, phiá trước, mà đã trúng khá nhiều kẻ thù. Họ phải dừng ở đó. Và đau đớn thấy toàn thể đoàn quân kéo vào cảng mà họ không theo được. Nếu có thể tiến vào được hải cảng thì chắc chắn họ sẽ là những người duy nhất nhận công trạng và sự vinh quang của chiến thắng. Từ đó nhà vua thường nói bông đùa, về chuyện này: “Chúng tôi rất sung sướng vì sự cố này xảy ra. Nếu chiếc tàu này không mắc cạn, thì nó chẳng để cho chúng tôi việc gì nữa, và như thế chúng tôi sẽ ngượng lắm”. (Maybon, Histoire moderne du pays d’Annam, t. 311-312)

Dưới chú thích (3), trang 311, Maybon ghi rằng: người con trai Chaigneau đưa việc này vào năm 1793, chắc anh ấy viết nhầm (năm), vì chính anh ấy nói: năm này nhà vua đốt hạm đội của địch!

Thực ra, Michel Đức Chaigneau chẳng lầm gì cả, khi trận Thị Nại 1792 xảy ra, cha của ông còn chưa về giúp Nguyễn Ánh, và bản thân ông, đến hơn 10 năm sau, mới sinh ra đời. Vậy mà trong sách này (in năm 1867), tức là 47 năm sau khi ông rời nước Việt, 75 năm sau khi trận Thị Nại xảy ra, ông tả trận Thị Nại như được chứng kiến tận mắt! Câu chuyện ông kể là một chắp vá những giai thoại, sự kiện xảy ra ở các thời điểm khác nhau được tiểu thuyết hoá thành chuyện.

- Việc tàu mắc cạn là chuyện Mạn Hoè, đánh nhau với Tây Sơn năm 1782.

- Chắc hồi nhỏ Đức Chaigneau được nghe Vannier kể lại trận Qui Nhơn tháng 5-6/1793, mà Vannier đã tham dự trong đội vận lương, với tư cách phụ tá của Dayot. Trận này Le Labousse cũng có viết trong lá thư ngày 26/6/1793 gửi M.Boiret: “Nhà vua vừa xuất thuỷ bộ đại binh đi đánh Qui Nhơn… Các ông Dayot quê Rhedon và Vannier quê Auray cùng đi với thuyền của họ. Ông Olivier quê Carpentras cũng đi với quân của mình và một vài người Âu khác trong bộ binh.” (Cadière, Doc. Rel. t. 29). Vậy câu: Các ông Dayot quê Rhedon và Vannier quê Auray cùng đi với thuyền của họ. Ông Olivier quê Carpentras cũng đi với quân của mình, Michel Đức chép lại của Le Labousse.

- Và ông chép cả lời Gia Long “bông đùa” do Barrow viết, có đổi đi chút ít.

- Sau cùng Đức Chaigneau cảm hứng những điều đã có trong Sử Ký Đại Nam Việt: Dayot vào trước đại quân một giờ (một trống canh), bắn vài phát súng đại bác đằng trước tàu, v.v.

Cũng có thể Đức Chaigneau đã gom góp các nguồn tin đồn phát xuất từ nhà dòng giống như Barrow và SKĐNV, rồi cường điệu lên thành tiểu thuyết, với những chi tiết cực kỳ vô lý: Tàu chưa vượt qua được cửa Thị Nại, làm sao quân Tây Sơn đã bao vây bắn phá tứ phiá? Tàu đến cửa Thị Nại trước đại quân một giờ mà sao Gia Long đã có đó để ngợi khen sự can đảm của những người Âu?

- Những dòng như thế được ông Maybon khen là sống động và trích làm “tài liệu lịch sử”.

Đó là cách làm việc của sử gia Maybon.

Taboulet và “chiến công” Thị Nại của Dayot

25 năm sau, Taboulet tiếp sức bằng những hàng sau đây, lần này chép thẳng những “thành tích” chiếm được trong trận Thị Nại 1792:

“Theo lời Cha La Bissachère, Dayot là “thủ lãnh và linh hồn của hải quân Nam Hà”. Ngày 27/6/1790, Nguyễn Ánh cấp cho ông văn bằng “Tư lệnh các hạm đội của ông” (Capitaine de ses vaisseaux), Dayot còn được gọi là Délégué Impérial [Đại diện nhà vua] và Marquis de Trí Lược [Trí lược hầu] hay “Marquis au jugement rempli de Prudence” [Vị Hầu tước phán đoán đầy cẩn trọng]. Năm 1792, Dayot phá tan, ở Quy Nhơn, một hạm đội Tây Sơn gồm 5 tàu lớn (bâtiments), 90 chiến thuyền (galères), và 100 chiến thuyền nhỏ (demi-galères), tịch thu được 137 khẩu đại bác nòng đạn khác nhau. Năm 1793, Dayot chiếm được 60 chiến thuyền Tây Sơn, ở miền bắc Quy Nhơn nữa” (Taboulet, La geste française en Indochine I, 1955, t. 249).

Và cuối cùng, Wikipédia Pháp, thừa hưởng những dòng “hào hùng” của các sử gia thời danh Maybon, Taboulet, để viết về “chiến công” Thị Nại 1792 của “Đại đô đốc của thuỷ quân An Nam và tư lệnh những tàu Pháp của nước Nam” (Grand Amiral de la flotte annamite et commandant des bâtiments français de l’Annam) như sau:

“Năm 1792, ông [Dayot] cầm đầu một chiến dịch cho Nguyễn Ánh, ông tàn phá 5 tàu chiến, 90 chiến thuyền, và khoảng 100 tàu nhỏ của Tây Sơn; ông cho đổ bộ quân đội lên bộ và phá huỷ những đồn luỹ trước khi quay về bến Can-Tru [Cần Giờ]”.

Một “chiến công rõ ràng và minh bạch” như thế, cần phải được khảo sát một cách nghiêm chỉnh.

Trước tiên, Taboulet đưa ra một Dayot mới, với những yếu tố lấy ở chính văn bằng của Nguyễn Ánh cấp cho Dayot! Bằng cách:

- Trừ câu đầu: Dayot là “thủ lãnh và linh hồn của hải quân Nam Hà”, là của Ste-Croix mà mọi người đều nhầm là của Bissachère, và như ta biết, Ste-Croix viết theo những gì được Dayot kể lại.

- Thứ đến, văn bằng “khâm sai cai đội quản chiếu tàu nhị chích trí lược hầu”, khi dịch sang tiếng Pháp, đã biến thành văn bằng của vị “Đại đô đốc”.

Xin giải thích: về chức vị một võ quan, chúng tôi không hiểu trong trường hợp nào, thì được vua cho thêm hai chữ khâm sai, xin nhờ các vị thức giả chỉ giáo. Trong hồ sơ này, hiện chỉ thấy có ba người Pháp là Le Brun, Dayot và Barisy, được vua cho chức Khâm sai cai đội, còn những người khác chỉ là cai đội hay phó cai đội.

Dayot là khâm sai cai đội, quản hai tàu Đồng Nai và Le Prince de Cochinchine, đơn giản là như vậy. Nhưng khi những chữ này được dịch sang tiếng Pháp, thì Dayot được thăng tiến lên: “đại diện nhà vua”, “hầu tước phán đoán đầy cẩn trọng”, để trở thành “tư lệnh các hạm đội của vua”. Rồi trên Wikipédia, thượng thăng thành “Đại đô đốc của thuỷ quân An Nam và tư lệnh những tàu Pháp của nước Nam” (Grand amiral de la flotte annamite et commandant des bâtiments français de l’Annam).

Đó là tiến trình người ta đã làm, để cho Dayot nhảy vọt, từ chức khâm sai cai đội quản hai chiếc tàu trong một toàn bộ hạm đội có tới hàng trăm chiếc tàu của Nguyễn Ánh, lên chức Đại đô đốc của thủy quân An Nam và tư lệnh những tàu Pháp của nước Nam! Sự thăng chức nhảy vọt như vậy để tiến tới lô-gích thứ nhì: “Đại đô đốc” chỉ huy và chiến thắng trận Thị Nại 1792!

Những điều đó chỉ bịp được những độc giả không hiểu gì về tình hình nước Nam, đối với những người thạo lịch sử, chức Đại đô đốc của thuỷ binh Nam Hà là chức của Nguyễn Văn Trương, còn chức tư lệnh những tàu Pháp của nước Nam, thì chưa hề có, vì thời đó, vua Gia Long vừa cho làm tàu ở trong nước, vừa sai mua tàu của nước ngoài. Theo Barrow và Montyon, Gia Long đã áp dụng những cái hay của Tây phương cho những tàu làm ở trong nước, như bọc đồng phần chìm của tàu, còn phần nổi vẫn giữ hình dạng tàu Việt Nam (xin xem lại chương 4, Barrow; chương 7, Montyon). Ngoài ra, Trịnh Hoài Đức còn cho biết: vua sai đóng loạt tàu Long Lân, bên ngoài có hình dạng giống như tàu Tây phương, ngay từ năm 1778. Như vậy rất khó phân biệt tàu tây với tàu ta; cho nên, không thể nói, vì không hề có, một đội ngũ “tàu Pháp của nước Nam” để Dayot làm “tư lệnh”.

Tạ Chí Đại Trường và “chiến công” của Dayot

Tạ Chí Đại Trường, khi viết về Dayot, còn có phần phóng tác thêm nữa:

“JM Dayot phục vụ Nguyễn Ánh trong những năm 1790-1795 đã nhân dịp điều khiển các tàu Tây trong chuyến xuất quân vào khoảng tháng 5 đến tháng 10 dl [Dương Lịch] để mà lập cả một chương trình vẽ các hải cảng, đi dò đáy nông sâu. Chính đội này dắt theo sau cả hàng ngàn thuyền mang lương thực cho binh lính -cả lính bộ- có khi phải ghé lại một bến đến vài ngày để chờ bộ binh tới lãnh lương” ((LSNCVN, t. 235).

Câu này ông Tạ rút từ bài ký sự của Dayot, in trong Taboulet, t. 250, mà chúng tôi đã dịch ở phần I, tuy nhiên, ông Tạ vẫn hiểu sai ý. Xin nhắc lại lời Dayot:

“Làm việc trong hải quân của nhà vua và cai quản các tàu Tây phương, lực lượng chính của quân đội ông, tôi bắt buộc phải đi theo quân mỗi khi có chiến dịch, thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10…. Nhiệm vụ tải lương, cho một số lượng tàu bè nhiều đến thế, đi với quân đội và tuỳ tùng, và cho cả bộ binh, thường tiến dọc theo bờ biển, bắt buộc chúng tôi phải đỗ lại mỗi buổi chiều, để tập hợp một đoàn thuyền tàu, thường tới hơn nghìn cánh buồm.

Nhiều khi chúng tôi cũng bị bắt buộc phải ở lại một nơi nhiều ngày để đợi bộ binh và phân phát thực phẩm cho họ” (Taboulet, I, t. 250-251).

Dayot đã cố tình quan trọng hoá nhiệm vụ của mình, khi viết câu “[tôi] cai quản các tàu Tây phương, lực lượng chính của quân đội ông”, thực ra, anh ta chỉ được cai quản có hai chiếc tàu Đồng Nai và Le Prince de Cochinchine mà thôi, và không có gì xác nhận hai tàu này là tàu Tây. Câu kế tiếp, Dayot nói về công việc đi theo chiến dịch: phải phát lương thực cho một số lượng tàu bè rất lớn, có khi tới hơn nghìn cánh buồm, rồi nhiều khi còn phải đỗ lại vài ngày đợi bộ binh, để phát thực phẩm cho họ nữa. Nhưng Tạ Chí Đại Trường lại vẫn hiểu sai, ông viết: “Chính đội này dắt theo sau cả hàng ngàn thuyền mang lương thực cho binh lính”. Khổ quá! Dayot đâu có nói thế: y làm gì mà được cai quản hàng ngàn chiếc thuyền! Mà ai lại chở lương trên cả ngàn chiếc thuyền như thế! Vậy thuỷ binh của Nguyễn Ánh phải có tới cả vạn thuyền à? Điều này chứng tỏ ông Tạ không hiểu gì cả, ông chỉ có một mục đích là thổi phồng trách nhiệm của Dayot lên cho hợp với điều các ngòi bút thuộc điạ phóng ra!

Dayot có dự trận Thị Nại 1792 không?

Tuy Dayot không viết rõ, nhưng chúng ta cũng nên hiểu anh ta chỉ là một trong những người thuộc đội vận tải lương thực dưới lệnh của các quan đại thần trách nhiệm việc quân lương. Nguyễn Ánh hành quân bao giờ cũng có chiến thuật rõ ràng, ai tiên phong ai đoạn hậu, ai vận tải lương thực, nhất nhất đều ghi rõ, tên các tướng, các quan có trách nhiệm. Về lương thực:

- Ở trận Thị Nại tháng 7/1792, vì quyết định đánh nhanh, chỉ có 10 ngày, cho nên Nguyễn Ánh đã: “dụ cho tướng sĩ các dinh Tiên Phong và Chấn Võ thuộc Trung quân chỉnh bị lương thực súng ống khí giới như phép hành quân” (TL, I, t. 286). Tức là: trong trận đánh chớp nhoáng này, ông chỉ dùng có hai dinh quân (như quân đoàn ngày nay) là dinh Tiên Phong và dinh Chấn Võ (quân tinh nhuệ, lính cảm tử), đúng như lời thư Bá Đa Lộc: “ông chỉ mang theo một nửa quân đội” (thư Bá Đa Lộc gửi M. Boiret ngày 18/7/1792 (Montyon, II, t. 143). Vì thế, Nguyễn Ánh ra lệnh cho quân sĩ phải chuẩn bị khí giới và lương thực mang theo người; điều này rất hợp lệ, vì khi đi chiến dịch ngắn, lính phải tự đem lương theo.

Vì vậy, trong trận Thị Nại 1792, Nguyễn Ánh không chỉ định quan coi việc quân lương.

- Đến trận Qui Nhơn tháng 5-6/1793, dự dịnh đánh lâu, hai quan đại thần được vua chỉ định coi lương là: “Hộ bộ Phan Thiên Phúc, và tham tri Nguyễn Đức Chí chia coi thuyền lương đi theo, cấp cho các quan thuỷ bộ” (TL, I, t. 293).

- Tháng 5/1794, Nguyễn Vương thân chinh dùng thuỷ binh giải vây Diên Khánh, cũng chỉ định: “Hộ bộ Trần Đức Khoan, tham tri Nguyễn Văn Mỹ và Nguyễn Kỳ Kế đi theo trông coi việc lương” (TL, I, t. 308), v.v.

Tóm lại, trong trận Thị Nại tháng 7/1792, vì đánh chớp nhoáng, không cần vận tải lương thực; Dayot thuộc đội tải lương, vậy chúng tôi có thể xác nhận chắc chắn ràng: Dayot đã không dự trận Thị Nại 1792 này.

Bây giờ nói về cách cách bầy bố chiến lược trận Thị Nại 1792, Thực Lục ghi rõ thứ tự tiến quân: “Thuyền vua ra từ cửa biển Cần Giờ… Sai quản Tiên phong dinh là Nguyễn Văn Thành tiến trước, kế đến quản ban Trực tả là Phạm Văn Nhân tiến thứ nhì. Giám quân Trung quân Nguyễn Văn Trương hộ giá. Đô đốc Nguyễn Kế Nhuận tiếp sau”. (TL, I, t. 286-287).

Vậy, trong các đội tiên phong và trực chiến, không có tên ông tướng nào là Dayot cả.

Rồi khi đến nơi, Thực Lục ghi:

“Khi quân đến ngoài cửa biển Thị Nại, thì trước hết sai quân tinh nhuệ đổ bộ phóng lửa đốt thuỷ trại giặc. Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Văn Thành dùng thuyền Long [Long Phi] và thuyền Phụng [Phượng Phi] [đánh] thẳng vào, các quân tiến theo. Đô đốc giặc là Thành (không rõ họ) thấy đại quân chợt đến, bỏ chạy, thuyền ghe và khí giới bị quân ta bắt được hết (thuyền lớn 5 chiếc, thuyền đi biển 30 chiếc, thuyền sai 40 chiếc). Lại sai tìm bắt bọn giặc biển Tề Ngôi, bắt được 3 chiếc thuyền” (TL, I, t. 287).

Đến cửa Thị Nại, vua cho quân tinh nhuệ (tức là đội cảm tử thuộc dinh Chấn Võ) đổ bộ đốt thủy trại của Tây Sơn. Rồi hai tướng Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Văn Trương dùng thuyền chiến đồng Long Phi và Phượng Phi đánh thẳng vào và ba quân tiến theo. Vẫn không thấy có ông tướng nào tên là Dayot thuộc đội xung phong cả! Chỉ có hai thuyền đồng Long Phi và Phượng Phi, thì do hai đại tướng Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Văn Trương điều khiển xung kích. Barrow chắc muốn nói đến hai thuyền đồng này, và ông lầm tưởng rằng do người Pháp điều khiển.

Chẳng có lý do gì khiến chúng ta phải nghi ngờ những điều ghi trong Thực Lục trên đây, để tin một thoại khác, như ông Tạ Chí Đại Trường, trong cuốn Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam. Trước hết, ông Tạ chép vài câu đầu Thực Lục viết về trận Thị Nại 1792, như chúng tôi vừa trích ở trên, nhưng ông vội vàng cải chính ngay: “Nhưng theo người Tây, kẻ mở đường lại là Dayot trên chiếc “tàu đồng”… (LSNCVN, t. 259). Rồi ông kể tiếp: “Chiếc “tàu đồng” do Dayot chỉ huy tiến vào cửa Thị Nại (1792) là một kinh ngạc lớn cho Tây Sơn (Thư của LM J. de Jésus Maria cho LM Trưởng tỉnh, Chợ Quán, 4/3/1790, BSEI, 1940, trang 101-102). Rồi sau đó Nguyễn Ánh mới bắt chước theo các tàu Tây mà đóng tàu vỏ đồng nhờ số kim có được dồi dào trong các cuộc trao đổi thương mại” (LSNCVN, t. 236-237).

Coi thường sử gia triều Nguyễn, là quyền của ông Tạ. Chắc ông có đọc những điều “rồng rắn” của Maybon chép lại Michel Đức Chaigneau, nhưng không thấy ông nhắc đến Maybon. Vậy ta thử xem ông dẫn chứng được “người Tây” nào hay ho hơn, đã cho ông biết: “kẻ mở đường lại là Dayot trên chiếc “tàu đồng”, thì thấy ông Tạ dẫn chứng lá thư của LM J. de Jésus Maria viết ngày 4/3/1790 gửi cho LM Trưởng tỉnh, Chợ Quán, kể về trận Thị Nại xảy ra tháng 7/1792, tức là ông linh mục Jésus Maria này viết thư kể trước chuyện sẽ xảy ra hai năm sau!

Đã vậy, ông Tạ còn thêm câu: “rồi sau đó Nguyễn Ánh mới bắt chước theo các tàu Tây mà đóng tàu vỏ đồng”. Điều này chứng tỏ ông Tạ hoàn toàn không biết gì về những hoạt động đóng tàu của Nguyễn Ánh, và ông luôn luôn tìm cách hạ thấp Gia Long trước người Âu. Nhưng cái tệ nhất của ông, là, để đánh đổ những điều ghi trong chính sử, mà ông luôn luôn nghi ngờ, ông lại đi lượm lặt những tin tức, không thể tin được: việc Dayot chỉ huy chiếc tàu đồng, xông trận, như một đại tướng cảm tử, làm cho quân Tây Sơn khiếp đảm (!) chứng tỏ quân đội Gia Long không có trật tự, chiến thuật gì cả, vào trận, ai muốn lái tàu đồng thì lái, ai muốn xông ra đánh thì đánh! Như thể nước ta là một nước bán khai. Thực không thể hiểu được, một cuốn sách như thế mà lại được trao giải thưởng “văn học toàn quốc, bộ môn sử” (năm 1973, ở miền Nam).

*

Sau hết, chúng tôi lại tìm thêm các tài liệu về phía các giáo sĩ Pháp, cũng không thấy ai viết gì về “chiến công Thị Nại 1792” này của Dayot. Trong cả những thư từ của Barisy kể lại các trận đánh lớn, cũng không thấy nói đến chiến công “lừng lẫy” này. Và chính Dayot trong bản ký sự in ở phần I, cũng chỉ nói đến nhiệm vụ tải lương, không viết gì về “chiến công” này nốt.

Học giả Cadière khi tìm tài liệu trong văn khố Pháp, cũng chỉ thấy:

“Công việc mà hai anh em Dayot giúp vua Nam Hà hình như chỉ thuần tuý thương mại. Văn khố của Hội thừa sai Paris, vol. 312, chứa một số khá lớn thư từ của họ [thường ký J.M et Félix Dayot] nhưng chỉ là những thư ngắn nói chuyện tiền bạc “ (Doc. Rel. BEFEO, Note số 1 của Cadière, t. 72).

Sau cùng, trong thư của giáo sĩ Le Labousse gửi về hội thừa sai, đề ngày 20/4/1801, ở Bình Khang, có mô tả trận Thị Nại 1801, trong đó có đoạn nói đến chiến công của De Forcant:

“Những sĩ quan Pháp, các ông Chaigneau, Vannier, và De Forcanz, điều khiển các tàu le Dragon [Long Phi], le Phoenix [Phượng Phi] và L’Aigle [Bằng Phi] cũng đi chiến dịch này.

Mỗi người với tàu trang bị khí giới, có nhiệm vụ hộ tống nhà vua và phò trợ tất cả những thuyền chiến trở về. Nhưng lúc đánh nhau, họ bị giữ lại để hộ tống vua. Khi nghe thấy tiếng đại bác nổ, máu Pháp sôi sục trong huyết quản, vua phải nghiêm cấm mới cản được lòng nhiệt thành của họ. Giữ họ lại bên vua còn khó hơn là thúc quân tiến lên giữa những trận mưa đại bác. Ông de Forcanz đã không dằn lòng trước cơn hăng say chiến đấu; lòng can đảm thúc đẩy, đang đêm lẻn vào cảng một mình đốt hết bẩy tàu chiến trang bị khí giới nhiều nhất” (Doc. Rel., BEFEO, t. 45-46).

Bấy giờ chúng tôi mới đoán rằng: Thì ra, người ta đã chắp vá thông tin như sau:

- Họ mượn chiến công của de Forcant ở trận Thị Nại 1801, làm “chiến công” của Dayot ở trận Thị Nại 1792. Giống như họ mượn chức của Nguyễn Văn Trương để đắp cho J. M. Dayot.

- Họ mượn thành tích của các tướng nhà Nguyễn trong trận Thị Nại 1792 (bắt được: thuyền lớn 5 chiếc, thuyền đi biển 30 chiếc, thuyền sai 40 chiếc, rồi thêm thắt vào, thành: “5 tàu lớn (bâtiments), 90 chiến thuyền (galères), và 100 chiến thuyền nhỏ (demi-galères), tịch thu được 137 khẩu đại bác nòng đạn khác nhau” và ghi là “thành tích” của Dayot.

- Còn vụ năm 1793, Dayot chiếm được 60 chiến thuyền Tây Sơn, ở miền bắc Quy Nhơn” thì hình như hoàn toàn bịa đặt.

Dayot xuất thân đại uý, lái tàu buôn, trong các vùng biển giữa Ile de France và Ấn Độ. Gia Long đã mượn Dayot theo đúng chuyên ngành lái tàu buôn của anh ta. Nhưng vì mắc tội thâm lạm ngân quỹ, nên vua chuyển sang ngành chở lương, và dĩ nhiên, khi đi chở lương, anh ta ở dưới sự chỉ đạo của các quan Phan Thiên Phúc, và Nguyễn Đức Chí trong trận Quy Nhơn 1793; và ở dưới quyền các quan Trần Đức Khoan, Nguyễn Văn Mỹ và Nguyễn Kỳ Kế trong trận giải vây Diên Khánh năm 1794. Trong 5 năm ở Nam Hà, Dayot chưa từng có nhiệm vụ tác chiến, thì không thể lập “chiến công” được. Đó là những gì mà người ta phóng đại ra để đưa Jean-Marie Dayot lên hàng anh hùng, “đại đô đốc” của vua Gia Long.

Dayot làm đắm tàu, trốn đi năm 1795

Những ngày cuối cùng của Dayot ở Việt Nam thực không mấy vinh hiển.

Năm 1795, lại có vụ người Pháp bỏ đi lần nữa, và giám mục Bá Đa Lộc cũng can dự vào.

Trong vụ này, Dayot đóng vai chính vì làm đắm tàu Đồng Nai [Faure, t. 216, ghi tên Đồng Nai, nhưng bài Introduction của Ste-Croix không nói rõ tên] và bị tội, phải trốn đi, còn Bá Đa Lộc, cùng lúc ấy, bị Trần Đại Luật dâng sớ xin vua chém đầu, nên cũng xin đi. Vụ này chúng tôi đã trình bầy trong chương 10 về Sainte-Croix, ở đây xin nhắc lại mấy nét chính:

Sainte-Croix kể lại chuyện đắm tàu, theo lời Dayot, xin tóm tắt như sau: Dayot chống việc tham nhũng bị các quan căm ghét, nên tìm mọi cách triệt hạ. Một hôm, anh không có mặt trên tàu của mình, trời bão, tàu bị thổi xuống nước, lật. Vua sửa soạn hành quân, nổi giận vì sự mất tàu này. Các quan lợi dụng, tâu vua: tàu chìm do Dayot bất cẩn muốn làm chậm trễ việc hành quân. Dayot bị đóng gông, đáng lý bị xử tử hình ngay, nếu bạn bè không tìm cách chận lại, đúng lúc Giám mục Bá Đa Lộc đi vắng, Dayot chịu gông 4 ngày. Khi giám mục về, giảng lẽ phải trái cho vua, vua tha ngay và “xử tử” các quan. Vì vụ oan uổng này mà anh em Dayot bỏ đi. Và tất các người Pháp khác, kể cả Puymanel cũng từ chức. Bởi vì công việc của họ khó khăn như thế mà vua không cho họ của cải gì cả. (Sainte-Croix, Introduction, Relation de La Bissachère, t. 85-87).

Nhưng đọc thư của hai giáo sĩ Lavoué và Le Labousse viết về vụ này, mọi sự xảy ra khác hẳn:

Thư của giáo sĩ Lavoué gửi M. Létondal, ngày 27/4/1795, có những dòng sau đây:

“Nhà vua vừa hết sức giận dữ những người Âu đang giúp việc, và bắt bỏ tù hai người: Ông Dayot và phó cai đội của chiếc tàu bị đắm [như vậy Guillon hoặc Guilloux bị bắt cùng với Dayot], bị hư hại nặng nề; người ta vừa báo cho vua biết là tàu không còn dùng được nữa, điều đó làm cho vua nổi trận lôi đình, trong lúc quá giận đã chửi bới thậm tệ những người Âu, sau đó vua có hối lại, và có lẽ ông còn hối lại nữa bởi vì từ lúc ấy, công việc của ông ngày càng tồi tệ.

Chính trong lúc đó thì các quan đệ trình lên vua lá sớ chống Đức Giám Mục [Sớ của Trần Đại Luật xin vua chém đầu Bá Đa Lộc], vua đọc và làm thinh. Đức Ông được người ta báo tin ngay, giả vờ [như không biết] trong vài ngày nhưng sau thấy vua không nói gì và có vẻ đồng ý với các quan, bèn than thở một cách cay đắng, và người ta đã báo tin ngay cho vua biết, vua bèn gửi cho Đức Ông lá sớ đó…” (Launay, III, t. 302).

Chúng ta thấy ngay sự bịa đặt trong lời Ste-Croix: Bá Đa Lộc không đi vắng mà ông đang bị nạn vì lá sớ của Trần Đại Luật, ông cũng đang tự cứu, nói chi đến việc cứu Dayot.

Thư thừa sai Le Labousse viết cho M. Létondal, quản thủ viện thừa sai Macao, từ Sài Gòn ngày 22/6/1795, cho biết thêm chi tiết sau đây:

“… Ông ta [Nguyễn Ánh] đang ở trong thế kẹt... Tất cả người Âu bỏ đi… Tôi sợ rằng đó là tiên khởi của chúng ta…. Đức Ông [Bá Đa Lộc] đã sửa soạn một chiếc tàu tốt rồi…

Ông sẽ thấy các ông Olivier và Dayot tới Macao. Dayot phải trốn khỏi chiến hạm của mình khi ra hàng ở cảng Saint Jacques. Sự tẩu thoát này sẽ là tổn thất nặng nề cho nhà vua.

Trên tàu của Olivier có Chaigneau, cùng quê với tôi…” (Documents relatifs à l’époque de Gia Long, Cadière, BEFEO, số 12, 1912, t. 35).

Vậy, sau khi làm đắm tàu, bị đóng gông và kết án, Dayot trốn ra Vũng Tàu, nhưng bị bắt lại, rồi lại trốn trên tàu của Olivier de Puymanel; tàu này có cả Chaigneau nữa (lúc ấy Chaigneau chưa làm việc với Nguyễn Ánh, còn đang buôn bán trên đường Sài Gòn Macao, và đang có dự định quay trở lại Pháp). Olivier de Puymanel cũng định bỏ đi, nhưng rồi sẽ quay trở lại.

Việc Dayot trốn đi, chứng minh anh chẳng oan uổng gì và chuyện vua “xử tử” các quan “vu khống” cho anh ta là tưởng tượng.

Dayot trở lại nước Nam và được Gia Long khoan hồng

Dayot trốn đi, sang lập nghiệp ở Phi Luật Tân có lẽ bởi vì y đã được vua viết thư giới thiệu với viên toàn quyền Phi ngay từ năm 1790 và đã sai y hai lần sang Phi mua bán.

Chín năm sau, quan toàn quyền Phi sai Dayot trở về Nam Hà mua gạo. Vua Gia Long đã bỏ qua tội cũ và cho phép y mua gạo đem về Phi.

Lá thư của M. Labartette viết cho M. Foulon, quản thủ mới của Hội thừa sai Macao, ngày 15/4/1804, kể về về việc này với giọng mỉa mai, như sau:

“…Ở đây vừa xảy ra một chuyện khá lạ lùng mà chắc chẳng ai chờ đợi và có lẽ sẽ ầm ỹ lên. Số là cái ông Dayot danh tiếng, ngày xưa đã ở đây khá lâu phục vụ vua Nam Hà thời Giám mục Bá Đa Lộc còn ở Đồng Nai, rồi bỏ đi vì bất mãn gì đó với vua; cái ông này mới trở lại Đà Nẵng khoảng độ mươi ngày nay. Ông ta được viên toàn quyền ở Manille gửi đến, trên chiến thuyền Y Pha Nho, tên là La Princesse royale. Người ta đồn ông ta đến với sứ mệnh rất quan trọng cho lợí ích của hai nước, đó là sự cộng tác thương mại giữa nước Nam với cái gọi là chính phủ Manille. Việc phái bộ Anh bí mật đến nước Nam [chỉ việc phái bộ Roberts năm 1804 đến xin thông thương bị vua từ chối không tiếp] chắc đã bị các cường quốc Âu châu khám phá ra, bởi vì ông Dayot lại thông báo rằng chiến tranh Anh Pháp đã nổ ra từ 10 tháng nay, rằng cả Âu châu theo Pháp, Anh đứng một mình. Rằng Manille đang đợi hai hạm đội, một của Pháp, một của Y Pha Nho. Chính phủ Manille thông báo cho vua Nam Hà biết dự định của Anh muốn có một hải cảng ở nước Nam và khuyên nhà vua đừng cho.

Hơn nữa, vì người ta sợ khi hai hạm đội kia đến Manille sẽ thiếu gạo ăn, Mayot xin được mua gạo, vua cho phép xuống Đồng Nai mua. Hình như nhà vua thích đề nghị cộng tác của chính phủ Manille…” (Cadière, Doc. Ref. BEFEO, t. 58).

Việc Dayot mua gạo cho Phi Luật Tân được Thực Lục ghi trong tháng 4/1804, như sau:

“Lữ Tống bị đói, xin đong gạo ở Gia Định. Lưu trấn thần không muốn bán, đem việc tâu lên. Vua nói rằng: “Bờ cõi dù có khác nhau, nhưng lấy lòng chung mà thương nhau, sao nỡ không ngó đến”. Bán cho 50 vạn cân gạo” (TL, I, t. 590).

Vậy, năm 1804, Dayot không dám đến Huế gặp vua, như lời đồn mà giám mục Labartette viết lại: “Người ta đồn ông ta đến với sứ mệnh rất quan trọng cho lợi ích của hai nước”. Có lẽ Dayot chỉ dám ghé lại Đà Nẵng, rồi không mua được gạo, mới xuôi thuyền xuống Gia Định, nói (dối) quan trấn thủ rằng Lữ Tống bị đói, xin mua gạo, nhưng quan trấn thủ không bán, mà tâu về triều, và vua đã ra lệnh bán. Như vậy đủ tỏ không những Gia Long đã rộng lượng tha thứ cho Dayot, mà ông còn muốn giúp người láng giềng Phi Luật Tân. Phải chăng nhà vua không quên ơn cũ, khi ông viết thư nhờ quan toàn quyền Phi giúp đỡ Dayot khi vua sai y sang Phi mua bán và sửa tàu năm 1790?

Ba năm sau, trong thư của Chaigneau, từ Huế viết thư gửi M. Létondal, quản thủ Viện truyền giáo ở Macao, ngày 6/6/1807, lại có câu: “Vua hay hỏi thăm tin tức anh em ông Dayot và mong họ trở lại Nam Hà” (Doc. Relatifs à l’époque de Gia Long, t. 59). Lời này, nếu có thật, xác định một lần nữa, vua Gia Long không những đã tha thứ tất cả lỗi lầm cho anh em Dayot mà còn mong họ trở lại.

Tuy nhiên, Dayot vẫn tiếp tục sự phản bội, y còn lừa vua thêm một lần nữa:

Note số 1 của Cadière (Doc. Rel. BEFEO, t. 58) cho biết:

“Dayot chẳng bao lâu trở thành tồi tệ với Gia Long, người ta nói với vua rằng ông ta đã làm gián điệp cho Anh. Chúng tôi biết được điều này nhờ lá thư của thừa sai Audemar ở Nam Kỳ, viết ngày 6/6/1808 cho vị quản thủ viện thừa sai Macao” (Archives M-E, 801, p.1253) (Cadières, Doc. Rel., t. 58, note 1).

Cái chết của Dayot

Dayot chết đuối mùa thu năm 1809.

Thư của giáo sĩ Audemar từ Nam Hà ngày 28/4/1811, cho biết:

“Khoảng gần một năm rưỡi nay ông Dayot bị đắm tàu và chết đuối gần đây cùng với vợ và hai chục người nữa. Đúng là lỗi tại ông ấy, bởi vì, khi gặp cơn bão đầu mùa thu đến bất ngờ trên biển, ông ấy đã đến rất gần một bến tàu nhỏ. Trận bão thật dữ dội. Mọi người đều muốn ghé vào bờ; nhưng không hiểu sao mà điên rồ đến thế, ông ta đã làm gì? Tay khư khư cầm kiếm, đe doạ chém đầu hoa tiêu nếu anh ta lái tàu vào bến. Thế là tàu ngập nước. Chỉ có khoảng 7 thủy thủ bơi thoát được vào bờ. Thực ông ấy chết như đã sống, một cách vô đạo (en impie)!” (Cadière, Doc. Rel. BEFEO, t. 61).

Linh mục dùng chữ en impie (vô đạo) theo nghiã vô thần, khinh đạo, nhưng nếu chỉ vào cách sống của Dayot, còn có nghiã là vô luân nữa.

Dayot chọn cái chết, chứ nhất định không cho tàu cập bến Việt Nam, có phải vì anh sợ lần phản bội cuối cùng này sẽ không được vua Gia Long tha thứ như những lần trước?

Chương 17

chính sách đối ngoại của vua gia long

Trước khi viết bốn chân dung chót của Olivier, Barisy, Vannier và Chaigneau, chúng tôi muốn nhìn lại sự giao dịch của vua Gia Long trong khoảng thập niên 1790-1800, qua chính những thư từ nhà vua để lại. Đó là cách trực tiếp và trung thành nhất để trình bày cùng độc giả:

1- Sự mua bán vũ khí và các tàu, thuyền, của Gia Long.

2- Tính cách tự lập của Gia Long về chính trị và ngoại thương.

3- Uy tín của Gia Long đối với các chính quyền trong vùng.

4- Phản ứng của Gia Long trước biến cố tàu Armide của nhà vua bị một tàu Anh bắt ở Ấn Độ Dương, hay cách ứng xử của nhà vua đối với một cường quốc.

 

 

 

Chúng ta biết rất ít về sự đối ngoại của Gia Long khi còn là Nguyễn Vương, cũng như việc ông mua súng đạn và vật liệu chiến tranh như thế nào. Thực Lực quá vắn tắt về những việc này, cho nên các sử gia thuộc địa tha hồ vung bút, họ đã viết những dòng khó tin về việc Bá Đa Lộc “cung cấp” súng đạn và chiến cụ cho Nguyễn Ánh bằng cách “ra lệnh” cho công ty Pháp Ấn và các tàu Pháp đến Nam Hà giao khí giới cho nhà vua, như trường hợp Maybon trong cuốn Histoire moderne du pays d’Annam mà chúng tôi đã trình bày trong chương 14.

Tệ hơn nữa, những thư từ ngoại giao của vua Gia Long cũng được Maybon “chiếm lãnh” làm sản phẩm của Bá Đa Lộc. Thực ra, việc này Maybon cũng chỉ sao lại “tinh thần” Alexis Faure, trong cuốn Monseigneur Pigneau de Béhaine, từng dựng đứng Bá Đa Lộc là Richelieu của Nguyễn Ánh, đặc biệt trong vụ tàu Armide, sẽ nói tới dưới đây.

Louis-Eugène Louvet, tác giả La Cochinchine Religieuse (Đạo giáo ở Nam Kỳ), in tại Paris năm 1885, cũng không phải là một “sử gia” đáng tin cậy; những đoạn ông viết về Bá Đa Lộc, hoặc về các việc “tàn sát” đạo Chúa dưới thời các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, v.v. đều khả nghi, cần phải xem lại. Ngay khi đăng Hịch Quang Trung, ông cũng thẳng tay cắt bỏ đoạn Quang Trung mạt sát bọn người Âu đến giúp Nguyễn Ánh.

Tuy nhiên, Louvet cũng như Faure, ngoài những đoạn viết vô bằng, họ vẫn còn sưu tầm được một số tư liệu gốc đáng quý. Trong La Cochinchine Religieuse, phần Chứng từ (Pièces justificatives) ở cuối cuốn I, Louvet đã sưu tầm được một số chỉ dụ và văn bằng vua Gia Long phát cho những người Pháp ngày 27/6/1790, mà chúng tôi đã sử dụng khá nhiều trong các chương trước. Phần còn lại, là một số thư từ vua viết cho các nhà buôn lớn, các quan trấn thủ hay toàn quyền đại diện cho các chính phủ Âu châu trong vùng Ấn Độ Dương và hai thư vua viết cho vua Anh và vua Đan Mạch.

Những thư từ này, theo nguyên tắc có từ thời các chúa Nguyễn ngày trước, thường viết bằng chữ Nho, và các cơ quan công quyền hoặc tư nhân ngoại quốc khi nhận được đều có người dịch sang tiếng nước họ. Chắc chắn thời Gia Long và triều Nguyễn sau này cũng vẫn giữ đúng như vậy; vì lá thư Gia Long viết cho Louis XVI để cám ơn việc ông đã bãi bỏ hiệp định Versailles, cũng viết bằng chữ Hán (Launay, III, t. 204). Nội dung lá thư tất nhiên do vua chỉ định, còn người chấp bút thường là “đổng lý văn phòng” của vua, hay một chức vụ tương tự; cũng có thể các vị đại thần hay chữ như Ngô Tòng Châu, Trịnh Hoài Đức, Lê Văn Định, v.v. phụ trách, hoặc có thể do tham mưu Đặng Đức Siêu viết, giống như trường hợp Trần Văn Kỷ viết thay Quang Trung.

Maybon, trong sự tham lam muốn vơ vét tất cả công lao về tay người Pháp, không ngại vơ cả chuyện thư từ này về tay Bá Đa Lộc! (Kể cả thư chữ Hán Gia Long viết cho Louis XVI, có văn bản gốc được in lại rõ ràng, cũng là do Bá Đa Lộc viết!); ông viết như sau: “Pigneau [Bá Đa Lộc] không chỉ thỏa mãn với vai trò lãnh đạo, ông còn quan tâm đến cả những chi tiết; ta đã biết lá thư của Nguyễn Ánh viết cho Louis XVI, rõ ràng Giám Mục là người cổ xuý, nếu không muốn nói là người viết lá thư này; còn những trường hợp khác, dường như lại rõ ràng ông làm cố vấn khôn khéo cho mối liên hệ với đại diện các nước Âu châu trong biển Ấn Độ và Trung Hoa, với những chính quyền Macao, Phi Luật Tân, Bengale; từ thư gửi vua Anh đến vua Đan Mạch cũng mang dấu ấn thiên tài của ông.” (Maybon, t. 283).

Như trên đã nói, Maybon cũng không “sáng tác” được gì mới, ông chỉ sao chép Alexis Faure, khi ông này kể lại biến cố tàu Armide, đã đã xuyên tạc phản ứng của Gia Long thành phản ứng của Bá Đa Lộc, với câu: “Điều này [biến cố tàu Armide] đã gây ra sự phản đối mãnh liệt của chính phủ Nam Hà do Giám mục Adran lãnh đạo” (Faure, t. 223). Rồi Maybon nhân cơ hội, nhận vơ luôn tất cả thư từ giao dịch của vua Gia Long, đều là do ông Bá viết cả! Thực là lòng tham không đáy, cái gì cũng nhận vơ được. Họ đã từng nhận vơ các thành trì vua xây, rồi lại nhận vơ cả thư tín của nhà vua nữa, thực là quá tệ. Điều này cho thấy Maybon bất chấp các quy luật ngoại giao của một nước tự chủ: vua Gia Long không việc gì phải viết thư bằng tiếng Pháp cho vua Anh và vua Đan Mạch, mà phải nhờ đến giám mục Bá Đa Lộc viết hộ. Vua viết thư bằng chữ Nôm hoặc chữ Nho. Các thư quan trọng dùng chữ Nho là chữ chính thức của triều đình. Ngoài ra cũng nên nhắc lại rằng: theo lời linh mục Le Labousse, giám mục Bá Đa Lộc chỉ đến chầu vua trung bình mỗi năm khoảng một lần, thì có muốn làm thư ký cho vua cũng khó.

Chúng tôi tin rằng các bản gốc bằng chữ Hán của những lá thư này, vẫn còn ở trong văn khố hoàng gia, hoặc đã được dịch sang chữ quốc ngữ rồi mà chúng tôi không có điều kiện tiếp xúc. Trong khi chờ đợi, xin tạm dịch lại một số thư từ này (đã được dịch ra tiếng Pháp, do Louvet sưu tầm và in lại). Có ba tiêu đề sẽ được trình bày ở đây: 1- Việc mua vũ khí và tàu thuyền. 2- Thư giao thiệp với nước Anh và Đan Mạch. 3- Biến cố tàu Armide bị tàu Anh bắt.

 

I- Việc mua vũ khí và tàu thuyền

 

Như chúng ta đã biết, Nguyễn Ánh liên tục sai người đi bán hàng hoá (phần lớn là gạo) để mua khí giới và đôi khi cả tàu, thuyền ngoại quốc. Sự kiện này đã thể hiện trong lá thư sai Dayot đi Phi Luật Tân, tháng 6/1790, mà chúng tôi đã trình bày trong chương 16. Nhưng sau đó vì Dayot thâm lạm ngân quỹ trong chuyến đi Phi lần thứ nhì (1791-1792), cho nên bị loại trừ khỏi đội ngũ mua bán ở nước ngoài. Một trong những người trung thành và được vua tin dùng là Laurent Barisy, trong 9 năm từ 1793 đến 1802, khi anh mất. Các chỉ dụ còn lưu lại dưới đây, liên hệ tới những công tác mà vua giao cho Barisy, thể hiện cách Gia Long bán hàng hoá để mua khí giới, đồng thời trực tiếp đánh đổ những luận điệu cho rằng Bá Đa Lộc đã giúp đỡ Gia Long trong bất cứ phương diện gì về việc mua bán vũ khí này.

 

1- Chỉ dụ cho M. Barisy

“Lệnh cho Barisy-man, đang phục vụ dưới trướng, mua tất cả những hàng hoá y thấy tại đây [Sài Gòn] chuyển lên tàu ô đi Malacca và Poulo-Pinang để dùng vào việc mua súng ống và tất cả những khí giới khác mà y thấy. Cẩn thận đi càng sớm càng tốt, trong dịp đang thuận gió mùa này, và phải hết sức đề phòng để tránh mọi tai nạn. Làm xong nhiệm vụ, y phải tức khắc trở về đây”.

Lệnh từ Saigon, Cảnh Hưng năm 54, ngày 15, tuần trăng 11 (17/12/1793). Ấn niêm phong. (Louvet, I, t. 545)

Qua lệnh chỉ ngắn ngủi này, ta thấy loại tàu được gọi là tàu ô, làm trong nước (chưa phải là tàu đại hiệu hay tàu đi biển) cũng dùng chở hàng ra ngoại quốc bán để mua vũ khí.

 

2- Chỉ dụ cho M. Januario-Phượng

 

“Lệnh cho Januario-Phượng, cai đội đang phục vụ dưới trướng, đem một lá thư cho ngài toàn quyền quản lãnh những cơ sở Bồ Đào Nha ở Á Châu, tại thủ đô Goa, và chất xuống tàu 4.000 tạ [ta] gạo của vua và những hàng hoá khác, thuận theo gió mùa năm nay, đem đến tất cả các bến tàu ở nam Ấn Độ [bán], và mua súng ống và những thứ vũ khí khác mà y thấy, bao nhiêu cũng được. Trong chuyến đi này, nếu gặp thuyền Anh hay bất cứ nước nào khác có súng mới tốt hạng nhất, giống như những súng trường mà các cường quốc Âu Châu trang bị cho quân đội của họ, thì cứ trả giá 10 đồng một khẩu, về đây sẽ trả, để cho họ chọn những hàng hoá có sẵn trong các kho. Cẩn thận đi càng sớm càng tốt trong dịp đang thuận gió mùa này, và phải hết sức đề phòng để tránh mọi tai nạn. Làm xong nhiệm vụ, phải tức khắc về ngay…”

Lệnh từ Sài Gòn, Cảnh Hưng năm 54, ngày 15, tuần trăng 11, (Sài Gòn, ngày 17/12/1793) (Louvet I, t. 545-546)

Thực Lục việc tháng 12/1793, có ghi: “Sai cai đội Quảng Nói Vè, đội trưởng Pa Đơ Chê (đều người Tây) sang thành Cô Á [Goa] và xứ Mã La Kha [Malacca] để tìm mua đồ binh khí” (TL, t. 302). Vậy Quảng Nói Vè chắc là phiên âm tên Januario, còn Pa Đơ Chê, chưa biết là ai.

Lá thư này chứng tỏ Gia Long không chỉ mua bán vũ khí ở các nước gần như Mã Lai, mà còn sai người sang Ấn Độ bán hàng và mua vũ khí của người Bồ ở Ấn Độ. Januario-Phượng hay Quảng Nói Vè chắc là người Bồ lai Việt. Trong thư này vua cũng sai đi mua thứ súng hạng tốt nhất đang được dùng trong quân đội ở Châu Âu; điều này phù hợp với lá thư ngày 14/4/1800 của linh mục Le Labousse, đã dẫn ở chương 6, viết về Gia Long, có câu: “Những công binh xưởng, và những bến tàu chiến của ông làm cho người ngoại quốc thán phục và con mắt cả châu Âu sẽ khen ngợi nếu châu Âu đến đây chứng kiến. Một bên, người ta thấy súng ống, đại bác đủ kiểu [...] mà phần lớn chỉ thua kiểu mẫu đẹp nhất”.

 

3- Thư của các đại thương gia ở Madras gửi vua Nam Hà

 

“Tâu Bệ hạ,

Trung tá (le lieutenant-colonel) Barisy cho chúng tôi biết Bệ hạ đã ân cần tiếp đón thư của chúng tôi; với sự đại lượng che chở mà Bệ hạ dành cho tàu Generous friend của chúng tôi, cùng sự bao dung mà ngài đã chiếu cố đến lợi ích của chúng tôi, đó là những bằng chứng vững bền tỏ rõ lòng nhân từ của Bệ hạ đối với người ngoại quốc.

Tấu xin Bệ hạ đoái nhận nơi đây lòng kính cẩn cám tạ tất cả những ơn đức này, và xin Bệ hạ thấu cho tấm lòng chúng tôi hết sức cố gắng để được xứng đáng, bằng nhiệt tâm phụng sự Bệ hạ và sự gắn bó hết sức với lợi ích của vương quốc. Tâu Bệ hạ, chúng tôi xin được phép tán dương Bệ hạ đã đoạt những chiến thắng trên ngụy quân, và chúng tôi luôn luôn có những nguyện ước chân thành cầu trời cho sự thịnh vượng của hoàng gia và hoàng triều.

Tấu xin Bệ hạ nhận nơi đây, lòng tri ân sâu sắc của những kẻ trung thành và hết sức phụng sự Bệ hạ.

Albotl-Maitlang.” (Louvet, I, t. 546)

 

Abbott-Maitland là công ty Anh mà Barisy là đại diện ở Nam Hà. Barisy, trong suốt thời gian chiến tranh, tuy phục vụ Nguyễn Ánh dưới chức vụ khâm sai cai đội, còn là nhân viên của hãng Abbott-Maitland, cung cấp vũ khí cho nhà vua. Vị trí này làm cho những thương nhân Bồ ganh tỵ và sau này, một người trong bọn họ sẽ làm hại Barisy.

 

4- Thư gửi quan toàn quyền Đan Mạch ở Ấn Độ

 

“Lá thư các hạ thực đã làm quả nhân hết sức vui lòng và cảm kích vì thiện ý mà các hạ dành cho. Quả nhân gửi kèm đây hai lá thư, một cho vua Đan Mạch, một cho vua Anh. Quả nhân xin các hạ vui lòng chuyển đến người nhận một cách an toàn và ủng hộ lời gửi gắm của quả nhân. Khâm sai cai đội Barisy sẽ cho các hạ biết những chi tiết các việc nêu lên trong hai thư này.”

Cảnh Hưng năm thứ 59, ngày thứ 13, tuần trăng thứ 10 (20/11/1798) (Louvet, I, t. 548-549).

Mua bán với hãng Abbott-Maitland của Anh vẫn chưa đủ, Gia Long còn muốn mở rộng địa bàn, mua khí giới của Đan Mạch nữa. Hai lá thư Gia Long viết cho vua Anh và vua Đan Mạch, nhờ toàn quyền Đan Mạch ở Tranquebar [gần Pondichéry] chuyển, sẽ nói đến ở dưới, chứng tỏ tài chính trị và ngoại giao của Gia Long.

5- Thư gửi quan trấn thủ Bengale

Các hạ,

Các ông Rocbueck, Abbott và Công ty đã viết thư cho ta với ý muốn giúp đỡ ta ở vùng bờ biển Coromandel [bờ biển miền Đông Ấn Độ, phiá vịnh Bengale] để ta có thể mua được súng ống và các chiến cụ khác; nhưng họ không làm gì được nếu không có phép của các hạ; vậy ta yêu cầu các hạ vui lòng cho họ một đặc ân, là bãi bỏ những phiền toái ngăn cản việc chuyên chở những vũ khí này đến Nam Hà. Đó là một ân huệ mà ta sẽ không bao giờ quên, khi ta khôi phục được toàn vẹn lãnh thổ. Ta gửi Laurent Barisy, khâm sai cai đội, tới Ấn Độ trên chiếc thuyền bàn [lougre, tàu chuyên chở], để lo mọi việc. Sự xa cách không cho phép chúng ta hội kiến, khiến ta phải viết thư này.

Cảnh Hưng năm thứ 61, ngày 24, tháng 2 (20/3/1800) (Louvet, I, t. 556)

Năm 1800, Nguyễn Ánh phải đương đầu với những khó khăn lớn: Trần Quang Diệu vẫn kiên quyết vây thành Bình Định, Võ Tánh và Ngô Tòng Châu tử thủ trong thành. Nguyễn Ánh cần nhiều khí giới hơn để đánh những trận cuối cùng, đặc biệt trận Thị Nại 1801 sắp tới, cho đến chiến thắng toàn diện. Vì vậy ông mở rộng thêm địa bàn mua bán khí giới nước ngoài. Những lá thư kế tiếp sau đây cho thấy chính sách mở rộng ngoại giao để sửa soạn chiến tranh ấy.

2- Dụ sai phái Barisy

Hoàng thượng lệnh cho khâm sai cai đội Barisy sang Ấn Độ với chiếc thuyền bàn (lougre), mang theo ba thư; một của vua, y sẽ đưa cho tàu đầu tiên đi Calcutta; hai thư kia của quan tham tri ngoại giao Nam Hà, y sẽ giao cho tàu đầu tiên đi Madras. Hoàng thượng còn truyền lệnh cho Khâm sai cai đội Barisy phải nhanh chóng trở về.

Khâm tai đặc chiếu.

Cảnh Hưng năm thứ 61, ngày 24, tuần trăng thứ 2 (2/3/1800) (Louvet, I, t. 556-557)

3- Thư của tham tri ngoại giao gửi đại thương gia ở Madras

 

“Phái viên của vua Nam Hà, từ Madras trở về, đã giao cho tôi một trong những lá thư của các ông, và tôi đã đệ trình lên Hoàng thượng. Người rất cảm động và khâm phục thiện ý mà các ông tỏ ra muốn phụng sự người, mặc dù các ông ở rất xa Hoàng thượng. Vì vậy, người đã ra lệnh cho tôi viết thư này gửi tới các ông, mong bảo toàn thiện ý, vì đó sẽ là cội nguồn của lòng tín nhiệm giữa đôi bên, rất cần thiết cho việc giao thương. Còn về những vật dụng mà Hoàng thượng muốn [mua], Khâm sai cai đội Barisy đã được chỉ định để thông báo cho các ông ý định của người. Mặc dù chúng ta rất xa nhau, tôi viết thư này cho các ông như thể chúng ta hội đàm trước mặt nhau”. (Louvet, I, t.557)

 

4- Sổ sách của M. Barisy kê khai với vua

 

 

 

960 súng trường hạng nhất, giá 10 đồng

9.600 đồng

1.120 súng trường có khuyết điểm, giá 8 đồng…

8.960

918 súng trường, giá 6 đồng

5.508

6 cặp súng lục, giá 8 đồng

48

12 cặp súng lục, thứ tồi, giá 6 đồng

72

29 cặp súng lục, thứ rất tồi, giá 5 đồng

145

956 viên đạn, 1.167 thương (piques), 71 caty (?)

11.167

245 tấm dra (drap), giá 4 đồng ….

9800

Bán cho vua tổng cộng

45.800

Đã nhận của vua

32.240

(Louvet, I, t.557-558)

5- Đề nghị của các thương gia Madras

 

“Điều Một – Họ có nghiã vụ phải cung cấp cho chính phủ Nam Hà hai mươi ngàn súng trường làm ba lần, trong vòng sáu tháng hay tám tháng là nhiều nhất.

Điều Hai- Họ phải cung cấp tất cả số súng lục mà nhà vua muốn, cùng thuốc súng, đạn dược… ngoài tơ lụa” (Louvet, I, t.558).

Cuối cùng, có thể nói, chiến tranh càng “leo thang”, Gia Long càng củng cố điạ vị ngoại giao với vùng lân cận để họ gia tăng việc bán vũ khí cho ông.

II- Thư giao thiệp với các cường quốc – chính sách đối ngoại

 

Phần quan trọng nhất trong chính sách ngoại giao này là lá thư còn giữ lại được của Gia Long gửi cho vua Đan Mạch và vua Anh. Hai lá thư này được viết cùng ngày 20/11/1798. Trong một bối cảnh khá khẩn cấp, sẽ được giải thích rõ hơn ở dưới.

 

1- Thư gửi vua Đan Mạch

 

“Thưa Bệ hạ,

Từ mấy năm nay, mỗi vụ gió mùa, tôi đều gửi [tàu] đến Tranquebar, để mua vũ khí và đạn dược. Quả thực tôi chỉ có lời khen ngợi tướng Anker, người của Bệ hạ, cầm đầu ở đấy, đã không ngừng tỏ thiện chí hết sức đối với tôi. Năm nay tôi nhận được thư của hai đại thương gia Hamops và Stevenson, cùng ở tỉnh này, thường giao thương với tôi. Họ cho tôi biết họ không thể tìm thấy ở Ấn Độ những vũ khí mà tôi đòi hỏi và bắt buộc phải gửi một chiếc tàu đi Âu Châu. Họ cũng nói thêm rằng họ đã mua được ở Copenhague năm nghìn súng trường và những khí giới khác, nhưng chính phủ [Đan Mạch] không cho phép xuất cảng. Vì lý do đó mà tôi viết thư này gửi đến Bệ hạ để chứng nhận rằng, năm nghìn khẩu súng này và những khí giới khác đích thực đã do chính tôi mua. Tôi tin rằng Bệ hạ, sẽ vui lòng cho phép, để những đại lý của tôi được quyền chuyển về cho tôi; Bệ hạ đã thấy những bất hạnh của tôi và thấy chiến cuộc mà tôi phải đương đầu với những thần dân nổi loạn, sẽ không từ chối lời yêu cầu này; coi như tờ khế ước đầu tiên mà tôi mong muốn ký kết với Bệ hạ. Nếu, sau đặc ân đầu, Bệ hạ vui lòng thêm một đặc ân thứ nhì, cho phép tôi, sau đó, mua tất cả những gì mà tôi cần, tôi sẽ không bao giờ quên ơn lớn lao mà Bệ hạ dành cho tôi. Trong nghìn trùng xa cách giữa chúng ta, tôi không có cách nào khác liên lạc với Bệ hạ ngoài thư từ. Tôi xin Bệ hạ vui lòng đọc lá thư này với lòng hảo tâm vốn sẵn.”

Cảnh Hưng năm thứ 59, ngày thứ 13, tuần trăng thứ 10 (20/11/1798). (Louvet, I, t. 547-548)

Lá thư trên viết vào cuối năm 1798, cũng là năm Nguyễn Ánh tạm ngừng chiến để củng cố lực lượng, sau khi thất bại trong chiến dịch đánh nhau với Trần Quang Diệu ở Qui Nhơn lần thứ hai, năm 1797. Tháng 3-4/1798, Nguyễn Ánh sai đóng các chiến thuyền lớn và thuyền kiểu Tây dương (TL, t. 366). Khi viết thư cho vua Đan Mạch và vua Anh, ông đang sửa soạn đại binh để tấn công Quy Nhơn lần thứ ba, vào tháng 4/1799. Trần Quang Diệu vẫn cố thủ trong thành Quy Nhơn. Nguyễn Ánh chưa có cách phá thành, tuy thế, lực quân sự của ông ngày càng mạnh, ông cần những vũ khí tối tân hơn. Vì những khí giới hiện có ở Ấn Độ không làm ông thoả mãn, nên ông đã đòi các nhà buôn Đan Mạch ở Tranquebar phải gửi tàu về Âu Châu, tức là về xứ Đan Mạch mua cho ông những khí giới mới; do đó, ông viết thư yêu cầu vua Đan Mạch cho phép những nhà buôn này xuất cảng vũ khí để chở về Nam Hà, như ta đã thấy trên đây. Lá thư viết cho vua Anh, đề cùng ngày, có một nội dung và chủ đích khác hơn.

 

2- Thư gửi vua Anh

 

Thư này gửi cho vua George III (1760-1820). Từ khi Pháp xảy ra cách mạng 1789, vua Louis XVI bị lên đoạn đầu đài; trong suốt thời gian 13 năm, 1789-1802, vua Anh dẫn đầu Âu Châu trong cuộc chiến chống lại nước Pháp Cách Mạng. Kể từ năm 1796, sự giao dịch với người Anh ở Ấn Độ của Nguyễn Ánh bị gián đoạn, có thể vì nước Anh đã chọn giao thiệp và bán vũ khí cho Cảnh Thịnh. Đến năm 1798, sự kiện tàu Armide của Gia Long bị tàu Anh chiếm đoạt, đã khiến Nguyễn Ánh quyết định liên lạc với Anh Hoàng, thuyết phục Anh Hoàng không những bán vũ khí cho mình, mà còn ngừng bán vũ khí cho Tây Sơn. Lá thư dưới đây của Gia Long gửi George III, nằm trong mục đích và bối cảnh khó khăn đó.

“Thưa Bệ hạ,

Khoảng cách phân chia nước tôi với nước của Bệ hạ, từ trước đến nay, đã không cho phép tôi liên lạc trực tiếp với Bệ hạ. Mặc dù rất muốn, nhưng tôi đã không dám mạn phép, nếu như không có vụ việc liên quan đến viên trấn thủ vịnh Bengale của Bệ hạ, [vụ Anh chiếm tàu Armide] tạo ra dịp này. Dưới thời người Hoà Lan [cầm đầu ở đây], hàng năm tôi đã gửi thuyền đến Batavia, Malacca và tới cả Ấn Độ để mua khí giới và các thứ quân nhu khác mà tôi cần. Từ khi những hạm đội vinh hiển của Bệ hạ đã lấy được những đất là chấp hữu của Hoà Lan [possessions hollandaises], tôi vẫn tiếp tục gửi như thế. Những tướng tá và quan trấn thủ Malacca đều đã biết thuyền kỳ của tôi và họ không làm trở ngại gì. Chỉ từ năm 1796, hoà khí này mới bị gián đoạn. Bệ hạ sẽ thấy trong lá thư kèm theo, tôi viết cho viên toàn quyền ở vịnh Bengale của Bệ hạ về vụ việc này. Thanh danh lừng lẫy về sự công minh của Bệ hạ khiến cho tôi hoàn toàn tin tưởng sự khiếu nại của tôi sẽ đạt kết quả. Để Bệ hạ lưu ý hơn nữa, tôi sẽ xin nói một câu về tôi.

Đã hơn hai trăm hai mươi năm, tiền nhân của tôi trị vì an bình đất Nam Hà, cho đến khi có nội loạn, và cuộc chiến với Bắc Hà, đất Nam Hà của chúng tôi mới hoàn toàn bị xâm chiếm. Nhờ trời, tôi được nối ngôi, và sau nhiều gian khó, với sự hậu thuẫn của dân tộc, tôi đã chiếm lại được gần nửa phần lãnh thổ. Bệ hạ hẳn không thể không biết đến mối thiện cảm lớn lao mà ngày trước Louis XVI, vua Pháp nay đã ra người thiên cổ, đối với tôi. Chính vị vua lớn này, với lòng tốt nổi tiếng của ông, đã tiếp đón con trai tôi trong lúc nguy nan. Chính ông đã chăm sóc và gửi nó về cho tôi với đầy ân huệ. Thêm vào đó, còn viện trợ lớn cho tôi đã gửi về Ấn Độ; sự trợ giúp này, vì bất hạnh không đến được tay tôi, bởi trời không chứng giám. Nếu vị quân vương này trị vì lâu dài và may mắn hơn, thì có lẽ tôi đã được yên bình từ lâu trên toàn thể lãnh thổ của tổ tiên tôi. Lòng biết ơn thấm đậm khiến tôi ngậm ngùi rơi lệ, mỗi khi nhớ đến đạo đức và tấm lòng cao thượng của vị quân vương này, tôi muốn tỏ lòng mến thương đối với ông, nhưng hoàn cảnh riêng của tôi và nhất là sự ngàn trùng xa cách khiến, chỉ để lại những ước muốn suông cho con cháu của hoàng gia trứ danh này. Lòng tôi chỉ thực thụ được an ủi nếu họ lấy lại được di sản của tiền nhân. Tôi cũng biết rằng Bệ hạ, rất thân với vua Louis XVI. Tôi thường được nghe kể rằng, ở thời kỳ còn thịnh, vua Pháp đã có Bệ hạ là người bạn trung thành nhất, là người nhiệt tâm bảo vệ ông nhất và ngay cả khi ông đã bị tội ác cướp đi, Bệ hạ vẫn hết sức cố gắng để trả thù cho ông. Thưa Bệ hạ, niềm vinh quang mà nước Anh có được qua thái độ này của Bệ hạ, không chỉ kích thích niềm thán phục của cả Châu Âu, mà còn làm rạng ngời những tán thành của chúng tôi ở tận viễn Đông này. Tôi dám mong rằng, như người thợ săn ngại bắn sẻ động rừng, Bệ hạ, vì lòng kính mến vua Louis XVI, sẽ vui lòng chiếu cố đến nỗi bất hạnh của tôi mà coi tôi là bạn. Việc hay nhất mà Bệ hạ có thể làm được cho tôi trong tình trạng hiện nay, là ra lệnh cho các quan trấn thủ khác nhau của Bệ hạ ở Ấn Độ, để họ cho phép những phái viên của tôi có thể mua được tất cả các thứ khí giới và chiến cụ mà tôi cần nhất. Nếu tôi có thể mua được từ mười đến hai mươi nghìn súng (fusils de munition) tốt, tôi nghĩ là cũng đủ. Cách đây mấy năm, phái đoàn ngoại giao của Bệ hạ gửi sang Trung Hoa, đã ghé vào một trong những cửa biển Nam Hà [phái bộ Macartney, sứ thần Anh đầu tiên ở Trung Quốc, ngừng lại ở Đà Nẵng từ 14/5 đến 16/6/1793, dưới triều vua Cảnh Thịnh, đã được Barrow ghi lại trong hồi ký, xem chương 4, Barrow] không may cho họ, họ đã chỉ gặp được bọn thần dân nổi loạn của tôi, và chúng hãy còn đang chiếm giữ phần đất này của triều đình tôi. Nếu may mắn được gặp họ, tôi đã không quên tỏ cho họ biết lòng kính trọng sâu xa của tôi đối với Bệ hạ. Chỉ còn một mối quan ngại mà tôi cần thông báo với Bệ hạ, là những nhà buôn lớn ở Ấn Độ, vì ham lời, đi bán khí giới cho bọn phản loạn, chúng đã nghiền nát dân tộc tôi từ hơn hai mươi năm nay. Làm như vậy tức là cứu kẻ tán ác, là nối giáo cho giặc. Tôi khẩn khoản xin Bệ hạ vui lòng cho lệnh nghiêm cấm để bọn giặc bị tiêu diệt một cách đích đáng. Xa cách Bệ hạ muôn trùng, tôi đã không thể nói thẳng hết như được cùng diện kiến.”

Cảnh Hưng năm thứ 59, ngày 13, tuần trăng 10 (20/11/1798). Thư niêm phong dấu ấn của vua Gia Long và ấn của quân đội Nam Hà. (Louvet, I, t. 549-552)

 

Lá thư này, viết và gửi cùng ngày với thư cho vua Đan Mạch, trong tình trạng khá “khẩn cấp”, càng cho thấy biệt tài chính trị và ngoại giao của Gia Long.

- Thứ nhất, việc giao thiệp với nước Anh đã bị gián đoạn từ năm1796, và hai năm sau, 1798, tàu của Nguyễn Ánh bị tàu Anh bắt. Có thể vì nước Anh cho rằng Nguyễn Ánh thân Pháp (Cách Mạng), “kẻ thù” của Anh. Vì thế, Nguyễn Ánh phải nhấn mạnh đến quan hệ giữa ông và Louis XVI, để Anh Hoàng phân biệt rõ bạn, thù.

- Thứ hai, nước Anh đang làm “bá chủ hoàn cầu”. Pháp và Hoà Lan quá lụn bại, không còn sức lực để đối chọi với Anh. Thương lượng với “bá chủ hoàn cầu” không phải là chuyện dễ.

- Thứ ba, Anh đã ngả theo giúp Tây Sơn, bán súng đạn cho Tây Sơn, điều này đối với Nguyễn Ánh là một đại nạn, trong khi đang phải đương đầu với Trần Quang Diệu, một Nguyễn Huệ thứ nhì.

Không biết lá thư của Nguyễn Ánh có hiệu quả gì chăng, nhưng về mặt chính trị là một văn bản cực kỳ khôn khéo, có tính cách thuyết phục, khiến Maybon muốn chiếm làm sở hữu của Bá Đa Lộc.

Tuy nhiên, vừa nhã nhặn tới độ gần như nài nỉ vua Anh, nhún mình như con “chim sẻ”, trong lá thư này, vậy mà, đối diện với việc tàu Anh bắt tàu Armide, vua Gia Long đã có những quyết định thực là đanh thép, sau đây.

III- Việc tàu Armide

 

Tàu Armide của Gia Long giao cho Barisy đi công cán ở ngoại quốc, bị tàu Anh bắt. Vụ việc xẩy ra trước tháng 4/1798 (vì thư của Olivier gửi Lefèbvre ngày 10/4/1798, có câu: “Barisy, thuyền trưởng tàu Armide, bị người Anh bắt, hàng hoá chở trên tàu bị bán hết…” (Archives Lefèbvre de Béhaine, Doc. Salles, BAVH, 1939, III, t. 232)

Vua bèn sai Olivier (đi công cán ở Ấn Độ) phải điều tra rõ sự kiện này và tường trình cho vua biết. Đây là lá thư Olivier gửi cho ông Aguiton, chắc là người có trách nhiệm của chính phủ Anh về vụ việc này. Lá thư này tóm tắt toàn bộ sự việc mà Olivier đã điều tra được, đồng thời nói rõ đường lối chính trị trung lập của Gia Long trong vùng bán đảo Ấn Độ đang có tranh chấp gay go giữa Anh và Pháp.

 

1- Thư của Olivier gửi ông Aguiton

 

Tôi viết thư cho ông để báo tin ông biết rằng vua Nam Hà đã gửi tôi tới chính quyền Anh và Đan Mạch để thương lượng nhiều vụ việc quan trọng, và đã nghiêm ngặt chỉ thị cho tôi, ngoài những việc khác, còn phải tìm kiếm xem chiếc tàu Armide hiện nay biến thành cái gì, chiếc tàu này do khâm sai cai đội Barisy điều khiển; thời gian dài [không tin tức] của chiếc tàu này làm nảy ý là nó đã bị nạn. Ở Malacca, tôi rất ngạc nhiên, được biết rằng chiếc tàu này đã bị chiếm đoạt và đưa về đảo của ông hoàng Wabs, dưới hiệu kỳ nước Anh; không thể biết thêm tin tức sâu rộng hơn tại nơi này, tôi đã buộc phải quay trở lại Pinang để thu lượm đầy đủ tình tiết hơn, và tôi lại càng ngạc nhiên khi nhận được ở đấy không những sự xác nhận về vụ bắt bớ này, và còn được biết là người ta đã bán chiếc tàu này với cả hàng hoá trên tàu, và giải tán toàn bộ thủy thủ đoàn người Mã Lai và người Việt Nam. Tới Tranquebar, tôi lại biết thêm rằng, khinh thường đế hiệu, người ta đã tịch thu, mở ra và sang đoạt thư từ của quốc vương Nam Hà. Sở dĩ nhà vua đã không cho tôi một lệnh nào liên quan tới những trường hợp bất ngờ như thế, vì ông không thể tưởng tượng được rằng tàu của ông có thể bị một nước Âu châu nào sỉ nhục như thế; ông chỉ muốn cho việc buôn bán ở nước ông được phồn thịnh, bằng cách giữ hoà hiếu với tất cả các cường quốc, nhất là với nước Anh. Cho tới bây giờ, những quan toàn quyền ở Madras, Malacca, Batavia, Manille và Tranquebar, đều sốt sắng [đón tiếp] trong những hoàn cảnh khác nhau, tàu của vua Nam Hà. Nhà vua cũng thế, ngài không quên khen ngợi các vị thuỷ sư đô đốc Stéphenston, Rainier, Sercé, v.v. ở nhiều đoạn văn [trong các thư từ trao đổi]. Sự tiếp đón nồng hậu này còn phá tan trong óc nhà vua sự nghi ngờ [người Tây phương] khá phổ biến nơi những vua chúa Á Châu, và đã khích lệ nhà vua tìm cách kết hợp lợi ích của ông với những nước mạnh mà ông có thể tiếp nhận những đặc lợi. Vua Nam Hà vẫn theo những nguyên tắc như thế, dùng làm quy luật tiếp đón nồng hậu những tàu khắp nơi đến các hải cảng của ông. Vì vậy, ông không bao giờ ngờ rằng người ta có thể bắt chiếc tàu Armide. Con tàu này, trong 5 năm liên tiếp, vẫn do viên khâm sai cai đội này [Barisy] cầm đầu, đã gặp biết bao tàu chiến khác của tất cả các nước, nó vẫn được nhìn nhận là hoàn toàn trung lập; vậy vì lý do gì mà ngày nay người ta lại nhìn nó như thế? Tôi viết lá thư này để khuyên ông kiên quyết giữ đúng quyền lợi hợp pháp của vua Nam Hà, xây dựng trên lẽ công bình. Tôi, v.v. “ (Louvet, I, t. 554-555)

Lá thư của Olivier de Puymanel trên đây, rất tiếc là không thấy Louvet ghi rõ ngày tháng, có thể đã được soạn sau khi Olivier về bẩm báo triều đình mọi việc, và có thể đã có một hội nghị để bàn cách đối phó. Lá thư này nói rõ chiến thuật đó: trình bày quan điểm chính trị trung lập của vua Gia Long trong cuộc đụng độ Anh-Pháp ở Ấn Độ Dương, và yêu cầu chính phủ Anh xử sự theo đúng luật pháp. Đồng thời, khi nhận được báo cáo đầy đủ của Puymanel, ngày 20/10/1798, vua Gia Long hạ lệnh cho Gibsons và Barisy, tức khắc đi Ấn Độ trên tàu Loan Phi. Và sau đây là hai chỉ dụ sai phái:

1- Chỉ dụ cho M. Gibsons

 

“Lệnh cho Gibsons, Cai đội chất trực hầu đang phục vụ dưới trướng, điều khiển Loan phi tiên tàu của Hoàng thượng, vì công chuyện của Hoàng thượng, lái tới Tranquebar cho Barisy, Khâm sai cai đội thiềng tín hầu. Xong nhiệm vụ, y bán chiếc tàu này, cùng với những hàng hoá trên tàu để mua hai chiếc tàu khác lớn hơn, chở đầy súng đạn và chiến cụ mà những đại lý của Hoàng thượng sẽ chu cấp; mang cả về đây. Tuyệt đối không được bất cẩn, để được xứng đáng với lòng tin của Hoàng thượng. Khâm tai đặc chỉ.”

Cảnh Hưng năm thứ 59, ngày thứ 13, tuần trăng thứ 10 (20/10/1798). (Louvet, I, t. 547)

2- Chỉ dụ cho Barisy

 

“Lệnh cho Barisy, Khâm sai cai đội thiềng tín hầu, phục vụ dưới trướng, tức thì sang ngay Ấn Độ, đem theo năm lá thư của vua, trên tàu Loan phi tiên tàu của Hoàng thượng. Xong nhiệm vụ, y khởi tố viên trung tá hải quân Anh của tàu Nom-Such tên là Thomas, về vụ chiếm tàu Armide của Hoàng thượng. Y đòi phải bồi thường cho sự xúc phạm đến tàu của nhà vua và buộc phải trả lại những thư từ và giấy tờ quan pháp của vua, mà trung tá Thomas đã ăn cắp. Y bắt phải hoàn lại giá tiền chiếc tàu Armide và những hàng hoá chứa trên tàu, cả vốn lẫn lời. Y trao tất cả số tiền này tận tay những đại lý của Hoàng thượng là Hanops và Stevenson, đại thương gia ở Tranquebar, để mua một chiếc tàu, khí giới và chiến cụ khác. Y chở ngay về đây. Y phải chấp lệnh này một cách triệt để và phải mau lẹ hoàn thành nhiệm vụ.

Kính cẩn nhận lệnh.”

Cảnh Hưng năm thứ 59, ngày 13, tuần trăng 10 (20/10/1798). Ấn niêm phong. (Louvet, I, t. 553-554)

Hai dụ này được viết cùng ngày 20/10/1798. Gibsons (chắc là người Anh). Vua sai Gibsons chỉ huy tàu Loan Phi, chở đồ sang Tranquebar (chắc vì Loan Phi là tàu lớn, Barisy không thể điểu khiển được) bán cả tàu lẫn hàng hoá, để mua hai tàu lớn hơn, và chở vũ khí súng đạn vua đã đặt mua của các đại lý tại đây đem về Việt Nam.

- Tàu Loan Phi là tàu đại hiệu, vua cho lệnh đóng vào tháng 2-3/1793, cùng với các tàu: Long Ngự, Long Thượng, Long Hưng, Long Phi, Bằng Phi, Phượng Phi [Bằng Phi, Phượng Phi đã có từ năm 1784], Hồng Phi, Loan Phi, Ưng Phi. (TL, I, t. 290). Nay vua sai bán Loan Phi đi để mua tàu khác, vậy, tàu, thuyền do nhà vua sản xuất ra, không chỉ dùng vào việc chiến tranh mà còn đem bán ở nước ngoài. Điều này chứng tỏ giá trị của thuyền tàu, nước ta thời đó.

3- Thư gửi cựu toàn quyền Malacca

 

“Cai đội Gibsons đã giao lại cho công binh xưởng của ta tất cả những vật dụng mà y được những chủ tàu chất hàng cho, ta thấy có ít lưu huỳnh quá. Ta tiếc nhất là không thấy súng trường (fusils de munition) mà hiện nay ta cần nhất... Còn về chiếc tàu Armide, mà viên đại uý Thomas đã chiếm đoạt một cách bất công như thế, ta đã viết thư cho Anh hoàng và cho chính phủ trung ương ở Bengale…”

Cảnh Hưng năm thứ 59, ngày 13, tuần trăng 10 (20/11/1798) (Louvet, I, t. 549)

Thư này chắc nói về một trong những chuyến đi trước đây của Gibsons, về giao hàng, nhưng vua không bằng lòng cho nên trong lá thư này, vua có ý trách, đồng thời nói đến chuyện chiếc tàu Armide.

5- Thư gửi toàn quyền Anh ở Ấn Độ

 

“Các hạ,

Quả nhân rất ngạc nhiên khi biết tin chiếc tàu Anh Nom-Such, do thuyền trưởng Thomas cai quản, đã bất chấp luật nhân quần, chiếm chiếc tàu Armide, do Laurent Barisy, một trong những cai đội của ta, chỉ huy, mà ta đã gửi đến những hải cảng khác nhau ở Ấn Độ để mua khí giới và quân nhu cho ta. Người thuyền trưởng này, tưởng y là kẻ mạnh nhất, có thể coi thường tất cả, đã hạ cờ của ta xuống và treo cờ Anh lên hay thế; y đã, không biên bản, không có phán định của toà án hải quân, đem bán chiếc tàu này, cùng với hoàng hoá mà nó chuyên chở, và lấy sạch số tiền thu được. Y đã, bất chấp công pháp, bất chấp luật của các quốc gia, khinh thường luật xã hội, chận thư có quốc ấn niêm phong mà ta gửi cho tướng Anker, trấn thủ Tranguebar và cho ông Couperus, trước đây là trấn thủ Hoà Lan ở Malacca. Lối hành xử bất chấp này không hề bị trừng phạt: những lời khiếu nại nhiều lần của thuyền trưởng Barisy lên tướng chỉ huy và lên hội đồng hoàng gia Anh ở Bengale đều vô hiệu. Ta không cần nói, các hạ cũng biết rằng, ta không ngờ một cách ứng xử như thế. Cho tới bây giờ, ta chưa bao giờ có chuyện hiềm khích với một quốc gia Tây phương nào. Nếu ta có giao thiệp với một vài hạm đội đến đây, cũng là để tạo cơ hội thuận tiện cho họ, khi hoàn cảnh cho phép. Ta viết thư này cho các hạ để hỏi vì lý do gì mà các hạ cho phép thuyền trưởng Thomas hành xử kiểu hải tặc như y vừa làm. Ta yêu cầu các hạ bồi thường cho hải hạm của ta theo luật pháp Anh đòi hỏi trong hoàn cảnh tương tự. Ta yêu cầu phải trả lại những thư từ và giấy tờ quan pháp của ta để trên tàu Armide. Thêm nữa, ta đòi hỏi, phải bồi thường giá chiếc tàu này và hàng hoá chuyên chở, cả vốn lẫn lời, theo đúng giá cả mà luật pháp quy định. Vệ uý Olivier và cai đội Barisy được ta trao thẩm quyền để theo dõi việc này cho tới khi hoàn toàn thoả đáng. Ta mong các hạ, tin rằng, sở dĩ ta viết thư cho các hạ về việc này là chỉ vì lòng lính trọng sâu sắc của ta đối với hoàng đế Anh quốc. Các hạ phải thấy rằng nếu ta muốn bồi thường bằng luật bù trừ, ta chẳng thiếu gì phương tiện. [Vous devez sentir que si je voulais me dédommager par la voie de compensation, j'en trouverais facilement les moyens].”

Cảnh Hưng năm thứ 59, ngày 13, tuần trăng 10 (20/11/1798). Ấn niêm phong của Quân Đội. (Louvet, I, t. 552-533)

Thư này viết cùng ngày với thư gửi vua Đan Mạch và vua Anh, chúng ta đã thấy giọng thư gửi vua Anh như thế nào rồi. Lá thư này, gửi toàn quyền Anh ở Ấn Độ, giọng khác hẳn, Gia Long chuyển từ nhu, sang cương: từ đầu đến cuối là một bản buộc tội của công tố, cuối cùng chuyển sang đe doạ thẳng: nếu ngươi không giải quyết chuyện này, thì đừng trách ta sẽ có cách trả đũa. Thư này không chỉ gửi cho toàn quyền Anh, mà còn gửi kèm một bản cho hoàng đế nước Anh. Đế quốc Anh lúc đó đang làm bá chủ thế giới, đã phải chấp nhận công lý mà Gia Long đòi hỏi.

Faure đã chẳng nề hà, cướp ngay công này cho Bá Đa Lộc, “kể” lại như sau:

“Khi chiếc tàu này [Armide] bị người Anh bắt ở Ấn Độ Dương, việc này đưa đến sự phản đối mãnh liệt của chính phủ Nam Hà do Giám mục Adran điều khiển” (Faure, t. 223).

Và sau khi trích dẫn dài rộng lá thư của Gia Long, Faure kết luận:

“Và người Anh đã chịu thua trước những lời hăm doạ này. Tàu Armide được trả về Sài Gòn và những đòi hỏi của tàu Nam Hà có kết quả mỹ mãn” (Faure, t. 224).

Tất cả cách hành xử và ứng xử của vua Gia Long đối với ngoại bang ngay từ khi chưa thống nhất đất nước, đã khiến người ngoại quốc nể trọng, do đó mà những tác giả ngoại quốc đương thời như Barrow, Montyon, Le Labousse, đều nhất loạt coi Gia Long là ông vua lớn trong vùng Á Châu và trong lịch sử Việt Nam.

_________________________________________

 

Chú thích về Tư liệu của Louvet

Trong phần Pièces justificatives (Chứng từ) Louvet trong cuốn La Cochinchine Religieuse, I đã sưu tầm được các tài liệu gốc sau đây:

Văn bằng: JM Dayot (t. 532). Philippe Vannier (t. 534-535). Julien Girard de L’Isle Sellé (t. 535). Théodore Lebrun (t. 536). Jean-Marie Despiaux (t. 537). Louis Guillon (t. 537). J. Guilloux (t. 538).

Thư: của Nguyễn Ánh gửi toàn quyền Phi Luật Tân để uỷ nhiệm Dayot (t. 543). Thư triều đình cám ơn toàn quyền Phi (t. 544)

Chỉ dụ sai phái: JM Dayot (t. 533). Barisy (t. 545). Januario Phượng (t. 545). Gibsons (t. 547).

Thư: của những nhà buôn ở Madras gửi cho vua Gia Long (t. 546)

Thư Gia Long gửi vua Đan Mạch (t. 547)

Thư Gia Long gửi toàn quyền Đan Mạch ở Ấn Độ (t. 548)

Thư Gia Long gửi toàn quyền Đan Mạch ở Malacca (t. 549)

Thư Gia Long gửi vua Anh (t. 549)

Vụ tàu Armide: Thư Gia Long gửi toàn quyền Anh ở Ấn Độ, (t. 552). Chỉ dụ cho Barisy (t. 553), Thư Gia Long gửi trấn thủ Bengale (t. 553). Thư của Olivier gửi ông d’Aguiton Esquire (t. 554).

Thư của tham tri ngoại giao gởi những nhà buôn ở Madras (t. 557)

Đề nghị của những nhà buôn ở Madras (t. 558)

Chỉ dụ cho phép Chaigneau đi dưỡng bệnh ở Malacca (t. 558)

Thư của tham tri ngoại giao của Gia Long gửi toàn quyền Malacca để gửi gấm Chaigneau (t. 559)

Chúc thư của Olivier gửi Bá Đa Lộc (t. 560)

Thư của những người thi hành chúc thư cuả Olivier gửi cho Bá Đa Lộc (t. 562)

Bài vị ghi trên mộ Bá Đa Lộc (t. 564)

Thụy Khuê

Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XXXXXVua Gia Long và người Pháp 5

Vua Gia Long và người Pháp 5 Chương 18 Olivier De Puymanel (1768-1799) Phần I: Khởi hành Olivier de Puymanel và Laurent Barisy là ha...