Vua Gia Long và người Pháp 2
Chương 5
Ai cứu Nguyễn Ánh khỏi sự lùng bắt của Nguyễn Huệ, tháng
9-10/1777
Điểm chính ghi “công trạng” của Bá Đa Lộc đối với vua Gia
Long, không phải là việc ông đưa hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện, bởi vì những
ai thông thạo tình hình đều biết rằng vị giám mục đã thất bại trong nhiệm vụ của
mình, nhưng điểm mà ông “thành công” và được các sử gia Pháp ghi nhận, đó là
công ông cứu vua Gia Long thoát chết khỏi sự lùng bắt của Nguyễn Huệ, trong
tháng 9 và tháng 10 năm 1777, để đi đến kết luận: nếu Giám mục Bá Đa Lộc không
cứu sống Nguyễn Ánh, thì không có triều Nguyễn.
“Sự thực lịch sử” này, sẽ biến thành “công ơn của nước Pháp”
đối với triều Nguyễn, được lập đi lập lại ở nhiều nơi, đặc biệt trong các văn
thư chính thức của chính phủ Pháp hoặc của các thủy sư đô đốc gửi triều đình
các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, để đòi trả các giáo sĩ bị bắt, hoặc xin
thông thương.
Đã đến lúc chúng ta cần điều tra lại sự kiện này, xem hư thực
thế nào.
Nguyễn Quốc Trị cũng đã bắt đầu công việc trong tác phẩm Nguyễn
Văn Tường, ở đây, chúng tôi đưa ra một cách khảo sát khác.
Ngoài những thông tin chính thức, chúng tôi để ý đến một cuốn
sử ngoài luồng, đó là cuốn Sử ký Đại NamViệt, có một số thông tin khác lạ,
không thấy trong chính sử, tên đầy đủ của cuốn sách này như sau:
“Annales Annamites [Sử biên niên An Nam]. Sử Ký Đại Nam Việt.
Quốc triều. Nhứt là doãn tích từ Hiếu Vũ Vương cho đến khi vua Gia Long (Nguyễn
Ánh) đặng trị lấy cả và nước An Nam”.
Nhóm Nghiên Cứu Sử Địa, in lại sách này ở Sài Gòn năm 1974 và
ở Montréal năm 1986, ghi:
“Chúng tôi chỉ có một bản do nhà dòng Tân Định (Imprimerie de
la Mission de Tân Định) in năm 1909 và ghi rõ là in lần thứ năm. Như vậy tất bản
in lần thứ nhất phải ra đời nhiều năm trước năm này.
Bản in này có ghi các dòng chữ Annales annamites và Quốc triều,
có lẽ là do người đương thời ghi chép “ (Nguyễn Khắc Ngữ, Lời nói đầu).
Nguyễn Quốc Trị có đọc sách này, nhưng ông không tin những điều
viết trong sách.
Người viết (hoặc nhiều người viết) cuốn Sử Ký Đại Nam Việt,
chắc chắn thuộc nhà dòng, thân thuộc hoặc là con cháu linh mục Paul Nghị, người
mà chúng ta sẽ biết là ai. Người viết là người Việt, nên đã cung cấp một số
thông tin khác về việc Nguyễn Ánh chạy thoát năm 1777, không giống thông tin của
Pháp, và cho ta biết những chi tiết về Nguyễn Ánh hồi trẻ, hoặc những việc xẩy
ra không được lịch sử chính thống ghi lại. Người viết, với chữ quốc ngữ còn
phôi thai thời ấy, lại không chuyên về nghiên cứu, có lẽ ít học, nên cứ kể chuyện
theo trí nhớ, có những chỗ không ăn khớp lắm với thời gian lịch sử, tuy nhiên,
những dữ kiện trình bày, nhiều điều có thể dùng được để so sánh với các tài liệu
khác.
Trước hết, xin nhắc lại sự kiện lịch sử xẩy ra trong hai
tháng 9-10/1777, khoảng thời gian gia đình và quần thần của chúa Nguyễn bị Nguyễn
Huệ lùng bắt và tận diệt:
Ngày 19/9/1777, Tân Chính Vương (Hoàng Tôn Dương) và 18 quan
theo hầu bị giết.
Ngày 18/10/1777 Định Vương Nguyễn Phước Thuần bị giết cùng với
Tôn Thất Đồng, anh ruột Nguyễn Ánh và các tướng: Trương Phúc Thận, Lưu Thủ
Lương, Nguyễn Danh Khoáng.
Một mình Nguyễn Phước Ánh, 15 tuổi, chạy thoát.
Trốn tránh ở đâu? Ai nuôi ăn? Ai cho ở?
Thực Lục và Liệt Truyện không viết rõ việc này, tại sao?
Đại Nam Thực Lục
Về việc này, Thực Lục ghi như sau:
“Tháng 8 [ÂL, tháng 9/1777] giặc Nguyễn Văn Huệ thêm quân
đánh Hương Đôi. Chưởng cơ Thiêm Lộc chạy đi Ba Việt, Tân Chính Vương thấy quân
ít lương hết, bàn kế chạy về Bình Thuận cùng Chu Văn Tiếp họp quân, rốt cục
không xong. Các tướng đều tản mát. Chưởng cơ Tống Phước Hoà than rằng: “Chúa lo
thì tôi phải chết, nghiã không thể tránh được”, rồi tự tử.
Ngày Tân Hợi [18/8/Đinh Dậu - 19/9/1777] Tân Chính Vương bị hại
chết (…)18 người quan theo hầu đều bị giặc hại cả.
Chúa [Định Vương] đi Long Xuyên.
Tháng 9 [ÂL, tháng 10/1777], giặc Nguyễn Văn Huệ sai Chưởng
cơ giặc là Thành (không rõ họ) phạm Long Xuyên.
Ngày Canh Thìn [18/9/Đinh Dậu- 18/10/1777] chúa băng. Tôn Thất
Đồng (con thứ hai của Hưng tổ) cũng chết theo… “ (ĐNTL, I, t.190-191).
Vài trang sau, viết về vua Gia Long, Thực Lục ghi thêm:
“Mùa xuân năm Đinh Dậu [1777], giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ
vào đánh cướp Sài Gòn (thuộc tỉnh Gia Định) Duệ Tông đi Đăng Giang (thuộc tỉnh
Định Tường). Vua [Nguyễn Ánh] đem binh Đông Sơn đến ứng viện, đón Duệ Tông đến
Cần Thơ (tức đạo Trấn Giang thuộc tỉnh An Giang), rồi đến Long Xuyên (thuộc tỉnh
Hà Tiên).
“Tháng 9 [ÂL, tức tháng 10/1777] mùa thu, quân giặc theo ngặt,
ngày Canh Thìn, Duệ Tông bị nạn băng. Một mình vua được thoát, lên thuyền đậu ở
sông Khoa (thuộc Long Xuyên), định nhân ban đêm vượt biển để lánh giặc. Bỗng có
con cá sấu cản ngang mũi thuyền ba lần, bèn thôi. Sớm mai dò biết đêm ấy có
thuyền giặc ở phiá trước. Vua bèn dời sang đóng ở đảo Thổ Châu. Giặc Tây Sơn
Nguyễn Văn Huệ lui quân về Quy Nhơn (…).
Tháng 10, mùa đông [tháng 11/1777] vua cử binh ở Long Xuyên,
tiến đến Sa Đéc (thuộc tỉnh An Giang)” (TL, I, t. 205) (Chúng tôi in đậm)
Những ghi chép quá sơ sài cho một giai đoạn lịch sử quan trọng
như thế. Phải chăng vì những người đi theo đều bị giết chết nên không còn ai biết
rõ để thuật lại? Phải chăng vì đã có thoại chính thống “cá sấu cản thuyền”, nên
không ai dám hỏi Nguyễn Ánh, sự việc lúc ấy ra sao, để sử quan ghi lại?
Các huyền thoại về việc Nguyễn Ánh chạy thoát nhiều lần, được
các sử gia triều Nguyễn viết vào bài Biểu, ghi ở đầu bộ Thực Lục phần về Gia
Long, với những câu: “Sông Khoa có ngạc ngư [cá sấu] cản mũi“. “Trâu thần hộ
giá ở Đăng Giang” (Ánh qua sông Chanh ở Định Tường nhiều cá sấu, có con trâu đằm
mình bên bờ, bèn đứng lên mình, trâu đưa qua sông). “Rắn thiêng nọ cõng thuyền
nơi Phú Quốc” (Ánh đi thuyền ra Hà Tiên đêm tối không thấy gì, bỗng có đàn rắn
cõng thuyền sang Hà Tiên)… Đó là những chuyện viết trong… Biểu, với ý tung hô.
Và những huyền thoại này, sẽ được viết thành tiểu thuyết, vẽ lại trên các bát sứ
cổ các giai thoại về việc Gia Long tẩu quốc, đó là chính sách tuyên truyền cho
một quần chúng mê tín. Thực Lục là bộ sử, không thể viết kỳ cục như vậy, cho
nên các tác giả bỏ bớt những điều huyễn hoặc đi, ví dụ nói “con cá sấu cản
ngang mũi thuyền ba lần”. Nhưng chúng ta không thể bằng lòng với những lập luận
như thế.
Câu hỏi đầu tiên ở đây là: Tại sao phải bịa chuyện ra như vậy?
Có lẽ đây là lý do:
Người Việt hay tin “điềm”, lúc ấy Nguyễn Ánh hãy còn nhỏ, khó
tự mình nhân danh cả dòng họ của chúa Nguyễn, để đứng lên phất cờ dựng lại cơ đồ;
nên phải dựa vào “điềm đế vương”, đại loại như Lê Lợi được “rùa thần dâng kiếm
báu”. Ở đây, điềm “cá sấu cản thuyền” rất xứng với ngôi “thiên tử”, có lẽ là do
các cận thần truyền ra từ đầu.
Khi Nguyễn Huệ tiêu diệt gia đình và quần thần của chúa Nguyễn
năm 1777, chỉ còn một vài cận thần sống sót, trong đó có quan Thái bảo Tống Phước
Khuông (năm sau ông sẽ gả con gái cho Nguyễn Ánh)… có thể chính vị đại thần
uyên bác đã chủ mưu việc này. Đây là một hành động chính trị cao siêu, Nguyễn
Ánh lúc đó mới 15 tuổi, chắc cũng không nghĩ đến “mưu lược” này, chỉ tuân theo.
Việc Nguyễn Ánh ra đảo Thổ Châu, có lẽ cũng ở trong chiến lược này mà thôi. Thực
ra có lẽ Nguyễn Ánh trốn ở chỗ khác.
Một khi đã đưa ra “thoại chính thức” rồi, thì không ai dám
“nghi ngờ” gì nữa. Các sử thần sau này cứ thế mà chép, không phải “điều tra”
xem hư thực ra sao.
Nhưng tác giả Sử Ký Đại Nam Việt có vẻ biết rõ hơn (sẽ nói đến
sau).
Trước hết, chúng ta xem phiá Pháp xem các nhà nghiên cứu viết
gì.
Thoại của Maybon
Sau đây là sự phân tích của sử gia Maybon, sẽ được học giả
Cadière chép lại.
Trước hết ông đặt vấn đề phải xác định lúc nào Nguyễn Ánh đã
gặp Bá Đa Lộc lần đầu:
“Vấn đề đặt ra là làm sao biết được lúc nào thì vị giám mục
và con người thừa kế bất hạnh các chúa Nam Hà gặp nhau lần đầu.
Những sách An Nam đều câm nín về sự gặp gỡ giữa hai nhân vật
này và những tác giả Tây phương không thống nhất với nhau về ngày tháng. Tuy
nhiên ta cũng có thể xác định sự kiện với độ chính xác nào đó. Nên nhớ rằng Huệ
Vương [Định Vương] và các hoàng tử [anh em Nguyễn Ánh] đã được quan trấn thủ Hà
Tiên [Mạc Thiên Tứ] tiếp đón nồng hậu khi họ bị Nguyễn Văn Lữ đuổi đánh; mặt
khác, Pigneau [Bá Đa Lộc] được Mạc Thiên Tứ khẩn khoản gọi từ Cam-bốt về năm
trước, lúc này đang ở cạnh quan trấn thủ và có thể vị giám mục đã gặp các ông
hoàng trong thời điểm này”. (Maybon, Histoire moderne du pays d’Annam, t.192[1])
Độc giả có thể hỏi: việc Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc gặp nhau lần
đầu thì có ăn nhập gì đến việc Bá Đa Lộc “cứu” Nguyễn Ánh? Có chứ. Bởi vì, có gặp,
có được giới thiệu, thì mới biết là đó là ông hoàng, là con của vị chúa đáng lẽ
được nối ngôi Võ Vương. Nếu không, thì Ánh lúc đó chỉ là cậu nhỏ 15 tuổi, chưa
có danh phận gì, làm sao mà Đức Giám Mục Bá Đa Lộc lại biết, mà cứu? Tuy nhiên
lập luận trên đây cũng chỉ là những giả định, Maybon chưa chứng minh được là có
các cuộc “gặp gỡ” đó.
Nhưng phải công nhận sự sắp đặt của ông rất logique. Sau đó
ông viết đến đoạn cốt lõi:
“Nếu giám mục không gặp thiếu niên Nguyễn Ánh lúc ấy, thì có
lẽ là sau khi Sài Gòn bị chiếm lần thứ nhì; bởi vì, dường như dứt khoát theo những
chứng nhân Tây phương thì “vào khoảng tháng 9-10/1777, Nguyễn Ánh trốn tránh một
thời gian trong khu rừng ngay cạnh chủng viện và giám mục Adran đã sai Paul Nghị
đem đồ ăn tiếp tế đều đều và ngài giúp [Ánh] trốn sang đảo Poulo Panjang [Thổ
Châu] ngay khi quân Tây Sơn rút lui”. (Maybon, Histoire moderne du pays
d’Annam, t. 193[2]).
Ở cuối trang có chú thích số 2, in chữ nhỏ, như sau: “Đó là kết
luận trong lời bình của M. Maitre (sđd, t. 344-347), của chứng nhân xuất phát từ
những giáo sĩ; của ông Barrow và của ông La Bissachère, mà chúng tôi không ngần
ngại chấp nhận là của chúng tôi nữa; tuy nhiên, rất ít khả năng những chứng của
Barrow và La Bissachère là từ hai nguồn thông thạo khác nhau, bởi người viết cuốn
ký sự [chỉ Montyon] ký tên Bissachère, ấn hành ở Luân Đôn, rất có thể đã sao
chép tác phẩm của Barrow. Về vấn đề này xin xem cuốn “Ký sự Bissachère” do
chúng tôi [Maybon] in“[3].
Đến đây mới thấy sự khôn khéo và thủ đoạn của sử gia học giả
Maybon.
Nếu chỉ đọc đoạn đầu mà không đọc chú thích, thì câu “vào khoảng
tháng 9-10/1777, Nguyễn Ánh trốn tránh một thời gian trong khu rừng ngay cạnh
chủng viện và giám mục Adran đã sai Paul Nghị đem đồ ăn tiếp tế đều đều và ngài
giúp [Ánh] trốn sang đảo Poulo Panjang ngay khi quân Tây Sơn rút lui”, đối với
chúng ta là một xác định có cơ sở, nhờ câu văn đi trước “bởi vì, dường như dứt
khoát theo những chứng nhân Tây phương“.
Nhưng nếu muốn biết thêm nguồn gốc của những chứng nhân Tây
phương này thì ta sẽ phải đọc phần chú thích và thấy đó là:
1- Lời bình của M. Maitre [không biết ông này là ai, nói gì,
vì ta không có sách của ông Maitre].
2- Chứng nhân xuất phát từ những giáo sĩ [không nói chứng
nhân nào, giáo sĩ nào].
3- Của ông Barrow và của ông Bissachère [chỉ là một, vì người
viết cuốn cách ký tên Bissachère (tức là Montyon) chỉ chép lại thoại của
Barrow].
Tóm lại, câu “vào khoảng tháng 9-10/1777, Nguyễn Ánh trốn
tránh một thời gian trong khu rừng ngay cạnh chủng viện và giám mục Adran đã
sai Paul Nghị đem đồ ăn tiếp tế đều đều và ngài giúp [Ánh] trốn sang đảo Poulo
Panjang ngay khi quân Tây Sơn rút lui”, mà ta vừa đọc, chỉ rút ra từ một ông
Barrow, vì các ông khác chẳng có gì.
Vậy ta coi, xem Barrow viết như thế nào, thì đây là nguyên
văn lời Barrow:
“Nhà vua đã bị địch bắt, nhưng hoàng hậu, hoàng tử [chỉ Nguyễn
Ánh], các con và một người chị hay em, được Adran cứu thoát. Nhờ đêm tối, họ rời
xa kinh thành [Gia Định] và trốn vào rừng. Ở đấy, trong nhiều tháng, vị vua trẻ
của nước Nam (…) trốn cùng với gia đình, không dưới lùm cây sồi rậm rạp mà dưới
lùm đa hay bồ đề vì ở đây không ai dám xâm phạm. Một nhà tu công giáo tên Paul
[Paul Nghị] liều mình đem đồ ăn mỗi ngày, cho đến khi [quân đội đi lùng] không
còn tìm kiếm nữa và sau cùng được lệnh rút về”. (Barrow II, t. 201)
Chỗ sai lầm của Barrow trong câu này là:
1- Ông tưởng Định Vương là cha của Nguyễn Ánh, nên gọi Nguyễn
Ánh là Hoàng tử, thực ra Định Vương là chú của Nguyễn Ánh.
2- Ông nói Nguyễn Ánh [hoàng tử] trốn với mẹ [hoàng hậu] và
các con… là sai, vì lúc ấy Nguyễn Ánh chưa có vợ con gì cả, và cũng không phải
do Adran cứu thoát (sẽ chứng minh sau). Chỉ có câu “Một nhà tu công giáo tên
Paul [Paul Nghị] liều mình đem đồ ăn mỗi ngày” của Barrow là đúng.
Nhưng câu văn của Barrow, đã được sử gia Maybon “biên tập” lại:
Trước hết, ông chỉ lấy một ý của Barrow: “được Adran cứu
thoát” và cắt hết các ý khác, rồi thêm vào những “thông tin” khác:
1- Chỗ trốn của Nguyễn Ánh ngay cạnh chủng viện (không có
trong lời Barrow) để thiết lập một thứ logique cho việc Bá Đa Lộc cứu sống Nguyễn
Ánh.
2- Sau đó ông viết: giám mục Adran đã sai Paul Nghị đem đồ ăn
tiếp tế đều đều. (Chỗ này, Barrow không nhắc đến Adran, chỉ viết: Một nhà tu
công giáo tên Paul liều mình đem đồ ăn mỗi ngày)
3- Và ông thêm vào câu: ngài giúp [Ánh] trốn sang đảo Poulo
Panjang (Cũng không có trong Barrow).
Để hoàn tất, ông đưa ra lời bình luận của M. Maitre, như một
xác định có uy tín, và sau cùng ông nhũn nhặn viết: chúng tôi không ngần ngại
chấp nhận [lập luận này] là của chúng tôi.
Maybon đã biến một câu sai lầm của một tác giả mà ông khinh
miệt là Barrow, vì ông cho rằng Barrow viết bậy bạ (sẽ nói đến sau); thành một
thông tin khả tín bằng cách cắt xén và thêm thắt những điều không có trong văn
bản của tác giả.
Đó là lối viết tinh xảo của một học giả khi muốn chế tạo những
thông tin không có thực.
Người đi sau, khi thấy sử gia học giả Maybon đã viết như thế,
thì không ngần ngại gì mà không chép lại như một “sự thực hiển nhiên”. Rất may
là chúng ta tìm được những chứng nhân khác, viết về việc này.
Giáo sĩ Faulet
Julien Faulet, sinh ngày 21/11/1741 ở Guilliers (thuộc vùng
Morbihan, Bretagne, Pháp) đi truyền giáo từ ngày 29/11/1773, được chuyển đến
Cao Mên tháng 6/1775, làm trợ tá cho giám mục Bá Đa Lộc. Trong suốt thời gian
truyền giáo ở miền này, ông và giáo dân sống trong tình trạng cực kỳ khốn khổ
vì chiến tranh và cướp bóc, cái chết luôn luôn gần kề, cuối cùng ông bị bệnh
tâm thần, phải quay trở về Âu Châu năm 1781, và mất trên đường về, năm 1783.
Giáo sĩ Descouvrières, bề trên của ông, năm 1784, đã tìm kiếm
về cái chết của ông, chỉ biết có thể ông đã chết ở Batavia, cùng nhiều người
Pháp khác, trên chuyến tầu về Île de France (tức Île Maurice bây giờ), vì một
người Pháp cùng đến Batavia một lúc với tầu này, đã ở lại đây một năm nhưng
không gặp ông Faulet bao giờ. (Launay, III, t.13 và t.153).
Faulet viết nhiều thư mô tả tình hình chiến sự, giáo xứ và
giáo dân ở Cao Mên và Hà Tiên. Trong đó có hai tài liệu quan trọng:
1- Bản Ký sự dài, thuật việc giám mục Bá Đa Lộc phải tẩu
thoát khỏi tu viện Cay-Quao [do giám mục xây dựng ở phiá Nam Hà Tiên, dưới sự bảo
trợ của quan trấn thủ Mạc Thiên Tứ]; vị giám mục phải bỏ tất cả con chiên và
giáo sĩ ở lại để thoát thân. Giám mục Bá Đa Lộc chạy ngày thứ ba [29/7/1777] mà
tới thứ sáu ngày 1/8/1777, linh mục Faulet mới dám báo tin cho những trách nhiệm
địa phương biết (Relation abrégée de ce qui est arrivé au collège de Cay-Quao
depuis l’évasion de Mgr Pigneaux, par M. Faulet- Ký sự về những gì xẩy ra cho
tu viện Cay-Quao sau khi Giám Mục Bá Đa Lộc tẩu thoát) (AME, quyển 800, t.
1559), Launay III, t.131-136).
Sau đó, qua những gì ghi trong Sử Ký Đại Nam Việt, mà ta sẽ đọc
ở dưới, thì lại biết thêm rằng: giám mục chạy sang Cao Mên. Tóm lại: Bá Đa Lộc
chạy khỏi Hà Tiên ngày 29/7/1777 và chạy sang Cao Mên.
Như vậy, giám mục không thể nào “cứu” Nguyễn Ánh trong tháng
9- 10/1777 được.
2- Trong một bức thư khác, Faulet cho biết ai cứu thoát Nguyễn
Ánh tháng 9-10/1777.
Đó là lá thư Faulet viết ở Cao Mên ngày 25/4/1780 gửi M.
Descouvrières, kể về tình trạng cực kỳ khốn khổ của họ đạo ở Hà Tiên, giữa cướp
bóc và giặc giã, đoạn chót có câu:
“Chính cha Paul [Paul Nghị] đã nuôi ăn và giấu ông vua trẻ
trong chiếc thuyền nhỏ của ông và báo cho Đức thánh cha [Bá Đa Lộc] biết”.
“C’est le P. Paul qui a nourri et caché le jeune roi dans son
petit bateau, qui a fait connaitre Monseigneur et la sainteté de notre
religion” (Launay III, t.70).
Lá thư này là một tư liệu quý, bởi vì linh mục Faulet lúc đó ở
Hà Tiên, có lẽ ông đang ở trong nhà Giám Mục Bá Đa Lộc tại đây, nên biết rõ
chuyện: cha Paul Nghị giấu vua trong thuyền của mình.
Sự sai lầm của Tạ Chí Đại Trường
Tạ Chí Đại Trường, có đọc câu này của Faulet, nhưng ông lại
hiểu và viết lại như sau:
“Lúc bấy giờ Nguyễn Ánh ở đâu mà lại thoát khỏi cái vạ diệt tộc
này? Sử quan nhà Nguyễn không lưu ý nhiều đến việc chạy trốn không lấy gì làm vẻ
vang cho chúa của họ nên không xét đến nơi chốn lưu lạc của ông. Họ thay thế
cái nhục lẩn tránh Tây Sơn bằng câu chuyện cá sấu đưa qua sông, một bằng chứng
mang số đế vương của ông hoàng này… Thế mà chỉ trong một tháng sau ta thấy ông
có mặt ở Long Xuyên với Đỗ Thanh Nhân. Điều đó chứng tỏ ông vẫn theo Duệ Tông từ
lúc rời Ba Giồng. Nhờ đó mà được Pigneau đem dấu trốn và sai Hồ Văn Nghị đem thức
ăn nuôi sống (Chú thích: Thư của ông Faulet cho ông Descouvrières…” (Tạ Chí Đại
Trường, Lịch sử nội chiến Việt Nam, t. 91).
Việc một cậu bé 15 tuổi, một mình chạy thoát kẻ muốn giết cả
họ mình, thì có gì là xấu hổ, là cái nhục? Thực Lục, Liệt truyện, ghi cả những
chuyện có thể gọi là “nhục” hơn: “Vua đi một ngày đêm chưa ăn, [Nguyễn Đức]
Xuyên chạy vào nhà dân xin cơm” (Liệt truyện, 2, t.157), “Gặp lúc hết lương ăn,
quân đói xanh mặt, có thuyền buôn ở Hạ Châu đi qua, [Nguyễn Văn] Thành đem quân
đi cướp bị lũ lái buôn chống lại rất dữ, Thành bị vài vết thương cố nhẩy lên cướp
được thuyền gạo đem về” (Liệt truyện, 2, t.370).
Nhưng cái lạ là tại sao Tạ Chí Đại Trường lại có thể “móc nối”
các sự kiện như trên. Tại sao “Một tháng sau, Nguyễn Ánh có mặt ở Long Xuyên” lại
chứng tỏ là Ánh “theo Duệ Tông từ lúc rời Ba Giồng”? Và vì “Ánh đi theo Duệ
Tông” nên nhờ đó mà được Pigneau đem giấu trốn? Pigneau gặp Duệ Tông hồi nào?
Hiện giờ chỉ có những giả định mà chưa có xác định.
Nhưng cái lạ nhất vẫn là câu văn trong thư của Faulet: “C’est
le P. Paul qui a nourri et caché le jeune roi dans son petit bateau, qui a fait
connaître Monseigneur et la sainteté de notre religion” (Chính cha Paul đã nuôi
ăn và giấu ông vua trẻ trong chiếc thuyền nhỏ của ông và đã báo cho Đức thánh
cha [Bá Đa Lộc] biết), lại được Tạ Chí Đại Trường hiểu thành: “được Pigneau [Bá
Đa Lộc] đem dấu trốn và sai Hồ Văn Nghị đem thức ăn nuôi sống”.
Faulet viết rõ ràng như vậy, vì lý do gì mà Tạ Chí Đại Trường
lại xoay hẳn nghiã câu này cho đúng với lập luận của Maybon và những người Pháp
thực dân?
Chúng tôi nhấn mạnh điểm này, vì câu văn ngắn ngủi của Faulet
hết sức quan trọng, đây là lần đầu tiên và duy nhất, về phiá Pháp, có một người
nói khác quan điểm thực dân: người ấy là giáo sĩ Faulet, ông đã xác định: Paul
Nghị mới là người cứu sống Nguyễn Ánh, không phải Bá Đa Lộc.
Ý kiến của Faulet còn trùng hợp với một ý kiến khác, của tác
giả Sử Ký Đại Nam Việt.
Sự ghi chép của Sử ký Đại Nam Việt
Về việc Nguyễn Ánh chạy trốn, Sử ký Đại Nam Việt đưa ra ba điều,
có liên quan mật thiết với nhau:
1- Về người mẹ của Nguyễn Ánh, Sử Ký Đại Nam Việt viết như
sau:
“Con thứ hai của ông Vũ Vương [Võ Vương Nguyễn Phước Khoát],
tên là Chưởng Vũ [Nguyễn Phước Luân], chẳng khác tính cha là bao nhiêu [tức là
cũng ăn chơi như cha]. Trong các vợ ông ấy có một đứa con hát sinh đặng nhiều
con trai; trong những con trai ấy, thì con thứ hai tên là Đức Hoàng Nguyễn Ánh,
có danh tiếng, vì đến sau được nối dòng cùng tôn lên làm vua, gọi là Gia Long”
(SKĐNV, t.3).
Chi tiết bà mẹ Nguyễn Ánh là “con hát” rất đáng chú ý, bởi
lúc Nguyễn Ánh bị nạn, cũng theo SKĐNV, sẽ được một người “con hát” cứu thoát.
2- Điểm thứ nhì, trái với Thực Lục, nói rằng, Nguyễn Ánh chạy
với Định Vương, Sử Ký Đại Nam Việt, lại nói rằng Nguyễn Ánh chạy với Tân Chính
Vương.
Dưới tiểu đề “Quân Tây Sơn giết ông Hoàng Tôn”, Sử Ký Đại Nam
Việt viết như sau:
“Đến sau, quân lính Hoàng Tôn [tức Hoàng Tôn Dương hay Tân
Chính Vương] đã phải thua một trận cả thể lắm, quân giặc bắt đặng ông Huệ Vương
[tức Định Vương Nguyễn Phước Thuần] mà giết ông ấy đi với các anh em. Ông Hoàng
Tôn với ông Nguyễn Ánh thì trốn được vào đồn kia với một ít quân. Song bởi quân
ấy thấy ông Hoàng Tôn cô thế, thì chẳng có lòng với ông ấy là bao nhiêu, nên
giao với quân Tây Sơn, mà chịu hàng cùng nộp ông Hoàng Tôn với ông Nguyễn Ánh
cho nó. Song ông Nguyễn Ánh trốn khỏi. Vậy quân giặc bắt ông Hoàng Tôn mà giết
đi một cách kín đáo, chẳng dám giết trước mặt người ta, kẻo còn nhiều kẻ phục
ông ấy mà thêm loạn lạc chăng” (SKĐNV, t.12).
Nếu thoại này đúng, thì Nguyễn Ánh đã chạy thoát từ tháng 9,
bởi vì Tân Chính Vương bị giết ngày 19/9/1777.
3- Về việc Nguyễn Ánh chạy trốn, Sử Ký Đại Nam Việt viết
trong đoạn “Nguyễn Ánh trốn giặc” như sau:
“Ấy vậy mà tông tộc nhà Nguyễn đã gần tuyệt, còn lại một ông
Nguyễn Ánh cùng ba anh em mà thôi. Chẳng khỏi bao lâu thì ba ông nầy lại phải sự
khốn khó mà chết hết. Vậy còn một ông Nguyễn Ánh mới lên mười bốn hay mười lăm
tuổi mà thôi.
Ông ấy tuy khỏi chết, song đã phải túng cực lắm vì chẳng còn
của gì, chẳng còn ai giúp cùng chẳng biết tin ai nữa. May còn một đứa nhà trò
có lòng trung tín, ban đêm đã kiếm đặng một chiếc thuyền nhỏ, thì hai thầy tớ
liền đem nhau tìm nơi mà ẩn trong rừng lau lách. Tình cờ lại gặp thuyền ông
Phaolồ [Paul Nghị], là thầy cả bổn quốc, cũng đang chạy giặc. Bấy giờ ông Nguyễn
Ánh, tuy chưa quen biết thầy Phaolồ, song đã biết là thầy cả bổn quốc, cũng biết
là thầy đạo, thì xưng danh mình ra, xin thầy Phaolồ cứu. Thầy Phaolồ liền chịu
và đem qua giấu trong thuyền mình và chèo thẳng qua Hà Tiên, mà giấu trong nhà
Đức Thầy Vêro [Bá Đa Lộc]. Khi ấy đức thầy Vêrô đã sang bên Cao Mên, cho nên thầy
cả Phaolồ vội vàng gởi tin cho người biết sự ấy cho kíp.
Ông Phaolồ có ý giấu ông Nguyễn Ánh trong nhà Đức Thầy Verô
cho kỹ, nên chẳng cho ai biết. Song cũng khó lắm, vì quân Tây Sơn đã biết tỏ
ông ấy đã trốn sang Hà Tiên, nên đã truyền tìm bắt người mà nộp. Vậy qua một
tháng thì chẳng còn lẽ nào mà giấu trong nhà nữa, nên ông Phaolồ phải đưa ông
Nguyễn Ánh lên rừng nơi vắng vẻ. Đoạn hoặc ông Phao Lồ, hoặc thầy giảng kia,
tên là ông Toán, thỉnh thoảng lén chở đồ ăn đến cho mà thôi. Vậy ông Phao lồ chịu
khó mà liệu cách khôn ngoan thể ấy đặng hai ba tháng, thì có công với ông Nguyễn
Ánh cả thể lắm. Vì chưng nếu chẳng có thầy cả ấy, thì ông Nguyễn Ánh phải bắt
chẳng khỏi.
Khi ấy quan phủ kia tên là Nhất Trịnh, nghe tin ông Nguyễn
Ánh hãy còn, thì lấy một ít quân mạnh bạo đi tìm mà giết. Quân Tây Sơn canh giữ
đồn kia áp xứ Đồng Nai và Cao Mên, những ra sức tìm cho đặng ông Nguyễn Ánh. Dần
dần thì nó biết đặng ông ấy còn ẩn mình trong thuyền ông Phaolồ trong Rạch Giá.
Cũng một khi ấy Đức Thầy Vêrô ở Cao Mên mà về, tìm được ông
Nguyễn Ánh; người lại đem một Langsa, tên là Gioang [Jean] có nghề võ cùng bạo
dạn gan đảm và có tài đánh giặc lắm. (SKĐNV, t.12-13).
Nếu ta tin tác giả Sử Ký Đại Nam Việt, thì có ba người giúp
Nguyễn Ánh thoát nạn:
- Một đứa nhà trò có lòng trung tín, tức là một tiểu đồng con
nhà hát, liên hệ với mẹ Nguyễn Ánh, trung tín theo hầu, chính cậu nhỏ nhà trò
này đã tìm thuyền cứu chủ, giấu vào lau lách.
- Hồ Văn Nghị, hay Paul Nghị, thầy giảng, là người thân tín của
Bá Đa Lộc, đã cứu Nguyễn Ánh đem về nhà Bá Đa Lộc ở Hà Tiên và báo tin cho Bá
Đa Lộc biết, lúc ấy giám mục Bá Đa Lộc đang ở Cao Mên.
- Thầy giảng Toán, cũng liều mình đem đồ ăn đến cho Nguyễn
Ánh.
Sau đó, khi Bá Đa Lộc từ Cao Mên trở về Gia Định, mới gặp
Nguyễn Ánh, vào thời điểm nào, đó là một vấn đề khác, chúng tôi sẽ xác định
sau.
Tất cả câu chuyện này, ăn khớp với nhau: Nguyễn Ánh, sau khi
Tân Chính Vương bị bắt rồi bị hại, lẩn trốn với sự trợ giúp của ba ân nhân trên
đây. Và họ đã giấu ông trong khoảng hai tháng, đến tháng 11/1777, Nguyễn Ánh xuất
hiện ở Long Xuyên, trong trận đánh ở Long Hồ, sẽ nói đến sau.
Thư của giáo sĩ Le Labousse
Một chứng sau cùng, là lá thư của M. Le Labousse gửi cho M.
Létondal, quản thủ (procureur) chủng viện Macao, ngày 15/6/1789:
“Đã đến lúc phải trình ông tin về sự thăng thưởng của cha
Paul [Paul Nghị]. Chẳng cần làm quan, mà ông ấy được hưởng tất cả các đặc quyền;
có lẽ còn hơn các quan nữa; tôi biết chắc rằng ông ấy có một tấm thẻ bài của
vua, hay một dụ, ra lệnh cho các quan phải tuân lệnh và cống hiến tất cả những
gì mà ông ấy cần. Điều này làm cho con người ưu tú này trẻ ra một chút: các
quan đến lạy chào, chúng tôi cũng được thơm lây”. (Launay, III, t. 227).
Điều này chứng tỏ vua Gia Long đã kín đáo thưởng công cho ân
nhân cứu mạng.
Hơn thế nữa, qua thư từ giao dịch giữa các giáo sĩ, ta có thể
biết Nguyễn Vương trao cho Hồ Văn Nghị những trọng trách tế nhị, bôn ba khắp
trong vùng biển đông, đi về giữa Ma Cao, Ấn Độ, Phi Luật Tân… với những sứ mệnh,
có thể là bí mật.
Khi giao Hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc đưa sang Pháp, Vương đã
sai ông đi tháp tùng hoàng tử cùng với Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Liêm; nhưng
khi đến Pondichéry, có lẽ Bá Đa Lộc không muốn có người Việt cùng sang Pháp, hoặc
vì lý do gì khác, nên đã gửi tất cả phái đoàn trở về Vọng Các.
Cái chết của linh mục Hồ Văn Nghị
Tin linh mục Hồ Văn Nghị qua đời được thông báo như sau:
“M. Paul Nghị mất ở Sài Gòn ngày 19/2/1801.
Thư của M. Le Labousse gửi cho các Giám đốc Hội truyền giáo
ngoại quốc
Bình Khang ngày 20/4/1801
Năm nay, chúng tôi thông báo cùng quý vị cái chết của M.
Paul, linh mục người nước Nam.
Ông mất sau nửa buổi bị đau bụng, ngày 19 tháng 2 năm nay.
Xin nói gọn rằng hội truyền giáo Nam Hà mất đi một trong những
tác nhân hàng đầu. Đó là một người có thế lực qua sự nghiệp và lời nói. Được
đào luyện theo đường lối của đức Giám mục Adran, người đã giảng dạy và ban cho
ông danh hiệu tư tế và ông đã chứng tỏ, cho tới tuổi 67, xứng đáng là đệ tử của
người thầy như thế. Ông đã tháp tùng vị chủ giáo trong mọi chuyến đi và chia sẻ
với người những nhọc nhằn và bất hạnh. Họ chỉ tạm xa nhau ở Pondichéry, khi ông
Paul phải ở lại để trông nom những người hầu cận hoàng tử trong khi chờ đợi
hoàng tử trở về. Nhà vua, trong thời điểm tai biến, đã may mắn có ông cung cấp
những nhu cầu tối thiểu, vì vậy rất quý mến ông. Chính ông là người mà Đức ông
nhờ cậy mỗi lần phải gửi đến triều đình việc gì và từ khi Đức ông về trời, ông
là người chính yếu giải quyết vấn đề và trợ giúp hàng đầu của chúng tôi. Sau
khi Thượng đế đã cất đi cánh tay này, chúng tôi chỉ còn một mình ông Liot.”
Linh mục Le Labousse, mất ngày 25/4/1801 ở Nha Trang, bốn
ngày sau khi viết bức thư này. (Launay, III, t. 480-481).
Một điểm cần nhấn mạnh nữa:
Trong bức thư trên đây, linh mục Le Labousse cũng chỉ nói:
Nhà vua, trong thời điểm tai biến, đã may mắn có ông cung cấp những nhu cầu tối
thiểu (Le roi, dans le temps de ses désastres, fut heureux de l’avoir pour lui
procurer les choses de dernière nécessité), tức là linh mục Le Labousse cũng chỉ
nói đến công lao của Paul Nghị nuôi Nguyễn Ánh, chứ không nói gì về sự tham dự
của Bá Đa Lộc.
Tóm lại, hai giáo sĩ gần gụi giám mục Bá Đa Lộc nhất, trong
thời kỳ này là Faulet và Le Labousse, cũng xác nhận việc Hồ Văn Nghị nuôi vua,
mà không nói đến “ơn cứu tử” của Bá Đa Lộc. Nhất là Faulet viết rõ cả chi tiết,
cứu, rồi mới báo cho đức thánh cha biết, đúng như những điều tác giả Sử Ký Đại
Nam Việt thuật lại.
Barrow có thể là người đầu tiên, về phiá Tây phương, viết về
chuyện này, ông cũng xác định việc Paul Nghị nuôi vua, nhưng ông thêm vào đoạn
Bá Đa Lộc đưa gia đình vua chạy trốn là hoàn toàn sai sự thực, vì lúc đó vua
chưa có vợ con.
Montyon, người viết cuốn sách ký tên Bissachère (chúng tôi sẽ
giới thiệu sau) chép lại thoại của Barrow.
Những sai lầm phát xuất từ Barrow, sẽ được hầu như tất cả những
người viết sử về Bá Đa Lộc chép lại, để “ghi ơn cứu tử” vua Gia Long, như một
thành tích đích thực của vị giám mục. Rồi “sự kiện” này lại được học giả sử gia
Maybon xác định một cách chính thức, bằng cách “biên tập” lại lời Barrow, như
chúng tôi đã chứng minh ở trên, để biến nó trở thành “sự thực”.
Qua những chứng từ mà chúng tôi trình bầy trên đây, xin minh
định lại một lần nữa:
- Chú tiểu đồng, con nhà trò, đã tìm thuyền cứu chủ Nguyễn
Ánh.
- Linh mục Hồ Văn Nghị tiếp cứu Nguyễn Ánh khỏi sự lùng bắt của
Nguyện Huệ, trong hai tháng 9-10/1777, với sự trợ giúp của thày giảng Toán.
Chú thích:
[1] La question s’est posée de savoir à quel moment
s’étaient nouées les premières relations entre l’évêque et l’héritier
malheureux des Seigneurs de Cochinchine.
Les ouvrages annamites sont muets sur la rencontre des deux
personnages et les auteurs européens ne s’accordent pas sur la date de ce fait.
Cependant on peut, semble-t-il, la fixer avec une certaine exactitude. On se
souvient que Huệ Vương et les princes trouvèrent auprès du gouverneur de
Hà-tiên un accueil empressé lorsqu’ils furent chassés de Saigon par Nguyễn
Văn-Lữ; or, Pigneau, appelé avec insistance du Cambodge par Mạc Thiên-tứ
l’année précédente, se trouvait auprès du gouverneur à cette époque et il n’est
pas impossible qu’il ait vu les princes.
[2] S’il ne connut pas le jeune Nguyễn Ánh à ce
moment, ce fut sans doute après la seconde prise de Saigon; car il paraît
acquis, selon les témoignages européens, “qu’en septembre-octobre 1777, Nguyễn
Ánh se cacha pendant quelque temps dans une forêt voisine du lieu où était
installé le collège, que l’évêque d’Adran lui fit parvenir régulièrement des
subsistances par l’intermédiaire de Paul Nghị et qu’il favorisa sa fuite à
Poulo Panjang dès que les Tây-sơn se furent retirés”
[3] Telle est la conclusion de la critique que fait M.
Maitre (ibid. p.344-347) de témoignages émanant des missionnaires, de Barrow et
de La Bissachère; nous n’hésitons pas à la faire nôtre, bien qu’il soit
infiniment probable que les témoignages de Barrow et de La Bissachère ne
constituent pas deux autorités distinctes, le rédacteur du mémoire paru à
Londres sous le nom de La Bissachère, s’étant très vraisembablement inspiré de
l’ouvrage de Barrow. Voir, à ce sujet, notre publication de La Relation de La
Bissachère.
Chương 6
chân dung vua gia long
Để có một bức chân dung đáng tin cậy về vị vua vị vua sáng lập
lại nhà Nguyễn, chúng ta cần nhiều ống kính khác nhau, từ những nguồn khác
nhau, những điểm đồng quy của các nguồn tư liệu này, sẽ cho ta bức chân dung
đích thực của vua Gia Long.
Liệt Truyện phác họa một chân dung đậm nét về “ngụy” Quang
Trung, kẻ thù không đội trời chung của Gia Long: “Tiếng nói như tiếng chuông lớn,
mắt sáng nhoang nhoáng như chớp, giảo hoạt khôn ngoan, hay đánh nhau, người đều
sợ cả (…) Ra trận tất thân đi trước tướng sĩ, hiệu lệnh nghiêm ngặt, rõ ràng, bộ
khúc đều có lòng mến phục cả.” (LT, 2, t. 534-535).
.
Về Gia Long, Thực Lục đưa ra đoạn văn mô tả sự trung thành
tuyệt đối của Nguyễn Ánh đối với Định Vương: luôn luôn kề cận, kiên trì bảo vệ
vị chúa cuối cùng (TL, I, t. 204); nhưng chúng tôi tin rằng, những điều này
cũng vẫn nằm trong chính sách tuyên truyền, có thể do chính vị đại thần trong tứ
trụ triều đình là Thái bảo Tống Phúc Khuông đưa ra, cho thấy Nguyễn Ánh phò Định
Vương tới phút chót, đến Long Xuyên (TL, I, t. 205), để chứng tỏ Nguyễn Ánh vừa
có đạo đức trung quân, vừa có chân mạng đế vương (cá sấu cản thuyền) xứng đáng
trở thành người lãnh đạo chính thức của nhà Nguyễn.
Còn về chân dung đích thực của vua Gia Long, Thực Lục chỉ viết
gọn một câu: “Vua chăm làm mọi việc, suốt ngày không lúc nào rỗi. Sai Thị thư
viện sung chức khởi cư chú (chức quan ghi chép những lời nói việc làm của vua),
phàm vua làm công việc gì đều chép hết” (TL, I, t. 257). Câu này sẽ được những
nhân chứng khác nhau chứng nhận là đúng.
Nguyễn Ánh, Gioang và trận Long Hồ, theo Sử Ký Đại Nam Việt
Chứng nhân đầu tiên mà chúng tôi tìm được, nói về tuổi trẻ của
Nguyễn Ánh, là tác giả Sử Ký Đại Nam Việt, cũng là người đã cho ta biết việc đứa
tiểu đồng và linh mục Hồ Văn Nghị cứu Nguyễn Ánh thoát chết khỏi bàn tay Nguyễn
Huệ (xem chương 5).
Ở đây, Sử Ký Đại Nam Việt kể một câu chuyện, nêu rõ tính tình
thiếu niên Nguyễn Ánh, trong chiến thắng đầu tiên đối với Tây Sơn, đó là trận
Long Hồ.
Xin nhắc lại: trong hai tháng 9-10/1777, Nguyễn Huệ truy lùng
Tân Chính Vương và Định Vương, với ý muốn tiêu diệt nhà Nguyễn. Theo Thực Lục,
lúc đó Nguyễn Ánh đang phò Định Vương. Còn Sử Ký Đại Nam Việt cho rằng Nguyễn
Ánh theo Tân Chính Vương.
Thuyết thứ nhất, như trên đã nói, có lẽ được tung ra với mục
đích tuyên truyền. Vì vậy các sử gia triều Nguyễn, khi viết về giai đoạn này
khá lúng túng, sự việc trình bày không rõ ràng (TL, I, t. 204-205).
Thuyết thứ nhì của Sử Ký Đại Nam Việt, có vẻ phù hợp với thực
tế hơn: Lúc đó Tân Chính Vương là người có khả năng chiến đấu, Nguyễn Ánh còn rất
trẻ, nhưng đã có tài đảm lược, đi theo Tân Chính Vương để chống “giặc”, thì có
lý hơn là phò Định Vương, vì ông này chẳng thạo việc quân binh.
Vì đi theo Tân Chính Vương, nên Nguyễn Ánh đã trốn thoát trước
ngày 19/9/1777, khi Tân Chính Vương bị hại. Còn Định Vương thì bị bắt và bị hại
một tháng sau, tức là ngày 18/10/1777.
Vẫn theo chính sử thì chỉ một tháng sau nữa, tức là tháng
11/1777, Nguyễn Ánh đã xuất hiện ở Long Xuyên, và cũng trong tháng này, quân
Nguyễn đánh được Long Hồ.
Về trận Long Hồ, Thực Lục chỉ ghi vắn tắt một dòng: “Tháng 11
[ÂL, tháng 12/1777] đánh úp Điều khiển giặc là Hoà ở dinh Long Hồ, (tức tỉnh
Vĩnh Long ngày nay) cả phá được.” (TL, I, t. 205). Không nói ai đánh úp.
Sử Ký Đại Nam Việt viết rõ và khác. Sau khi kể chuyện Hồ Văn
Nghị giấu và nuôi Nguyễn Ánh trong hai tháng, tác giả viết tiếp:
“Cũng một khi ấy Đức Thầy Vêrô [Bá Đa Lộc] ở Cao Mên mà về,
tìm được ông Nguyễn Ánh; người lại đem theo một ông Langsa, tên là Gioang
[Jean], có nghề võ cũng bạo dạn gan [can] đảm và có tài đánh giặc lắm” (SKĐNV,
t. 13).
Theo Sử Ký Đại Nam Việt, thì Bá Đa Lộc tìm gặp Nguyễn Ánh,
khi ở Cao Mên về, và có đem theo Jean về giúp Nguyễn Ánh, vậy chỉ có thể vào
khoảng tháng 11/1777. Trong khi Liệt Truyện ghi như sau: “Năm Canh tý (1780),
Thế tổ Cao hoàng đế lên ngôi vương ở Gia Định, Đa Lộc đến yết kiến xin cố sức
giúp việc, vua nhận lời “ (LT, 2, t.505).
Sử Ký Đại Nam Việt viết tiếp:
“Khi ông Nguyễn Ánh đã tu binh đặng ít nhiều, thì ông Gioang
đã giúp người nhiều việc.
Vậy trước hết, khi thấy quan Nhất Trịnh [Điều khiển Hoà?] đã
lấy đặng đồn kia, thì ông Gioang cứ phép tây mà làm nhiều trái phá, đoạn xuống
thuyền lớn. Bấy giờ Nhất Trịnh chưa ngờ điều gì, thì vào Long Hồ, là nơi quân
Tây Sơn đóng nhiều tầu lắm. Vậy ông Nguyễn Ánh làm tướng cai quân, và ban đêm,
thình lình, thì xông vào đánh quân Tây Sơn. Khi ấy ông Gioang chỉ đốt và bắn
trái phá, nên quân Tây Sơn bất thình lình nghe tiếng trái phá, và thấy nhiều
người chết, thì sợ hãi lắm, vì chưa từng biết sự làm vậy, cùng chưa thấy trái
phá bao giờ; nên bỏ tầu mà nhẩy xuống sông. Những kẻ phải chết chém hay là bị
trái phá thì chẳng bao nhiêu; song kẻ chết đuối vì sợ mà vội nhẩy xuống sông đè
lộn nhau, thì không biết là ngần nào. Trong trận nầy, ông Nguyễn Ánh đã làm tướng
rất khôn ngoan và gan đảm lắm, vì cũng đánh như lính; dầu xung quanh người chết
gần hết, song ông ấy chẳng phải nao. Khi đã tàn trận, mà thấy ông ấy những máu
dầm dề cả mình, mà chẳng bị vết tích gì, thì ai ai đều kể là phép lạ. Những tầu
quân Tây Sơn ở trong Long Hồ thì ông Nguyễn Ánh lấy được hết. ” (t. 12-14).
Như vậy, theo Sử Ký Đại Nam Việt, thì chiến thắng đầu tiên của
Nguyễn Ánh nhờ vào Jean, ngưòi Pháp, kẻ biết làm trái phá. Trái phá ở đây có thể
chỉ là thứ mà sau này người ta gọi là cocktail Molotov, chứ chưa chắc đã là lựu
đạn. Bởi lựu đạn thì phải mua, không thể làm lấy được.
Công của Jean không được ghi trong chính sử, trái với Manuel
(Mạn Hoè) và cũng không được các nhà nghiên cứu Pháp tìm kiếm hoặc nhắc tới.
Duy có một người, H. Cosserat, đại lý thương mại, trong bài
Notes bioghaphiques sur les français au service de Gia Long, BAVH, 1917, III
(165- 206), đã viết những dòng sau đây:
“Joang (Jean) (?-?) Có lẽ ở Nam Hà vào khoảng 1782. Trong tất
cả những tư liệu mà tôi khảo duyệt, tôi chỉ tìm thấy một chỗ nói đến ông trong
tác phẩm “L’Annam et le Cambodge” của giáo sĩ C.E, Houillevaux.
Trong chú thích số (1), tác giả kể rằng có hai kẻ phiêu lưu
người Pháp có vẻ đã đắc lực giúp Nguyễn Ánh (Gia Long) trong những bước đầu tiến
quân: một người được các nhà biên niên sử hay nhà báo (chroniqueurs) gọi là
Joang (Jean), người kia là Mannoe (Manuel), thủy thủ ở miền Bretagne, đầu tiên
làm việc cho giám mục Adran… Joang dường như đã dùng lựu đạn để đánh Tây Sơn,
và có lẽ nhờ khí giới này mà chúa Nguyễn (Gia Long) lần đầu tiên đã chiếm lại
được miền nam đất Nam Hà. Trước hết, ngụy quân chẳng biết cái thứ quỷ quái này
là gì, vội vã trốn biệt. Việc này có thể đã xẩy ra năm 1782 (?). Cuốn Gia Định
Thông chí của G. Aubaret, im lặng không nói gì đến tên Joang này. Cũng giống
như Manuel, hy vọng rằng văn khố An Nam ngày nào đó sẽ mang lại chút ánh sáng về
vấn đề này” (Cosserat, BAVH, 1917, III, t.169).
Cosserat là nhà nghiên cứu thực lòng, ông đã soạn loạt bài tiểu
sử những người Pháp giúp Gia Long, tuy sơ lược nhưng ngay thẳng, chỉ ghi lại những
điều khả tín. Ông cũng là người duy nhất nhắc đến tên Joang. Cosserat không đọc
được Thực Lục và Liệt truyện, nên không biết là hai sách này có nói đến Mạn
Hoè. Còn cuốn Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức thì khi Aubaret dịch
sang tiếng Pháp đã “quên” không đề tên tác giả, và khi người Pháp trích dẫn
sách này, kể cả Maybon, cũng đề là của Aubaret!
Chúng ta không thể biết tại sao chính sử chỉ nhắc đến Mạn Hoè
mà không nhắc đến Gioang. Có thể Gioang ở vào thời kỳ huyền thoại “cá sấu” cho
nên không ai dám hỏi kỹ Nguyễn Ánh, hay chính Nguyễn Ánh cũng không muốn kể gì
về giai đoạn này. Mặc nhiên Gioang đã có mặt qua hai văn bản khác nhau, một
Pháp, một Việt, cả hai đều nói đến “lựu đạn”, “trái phá”, thì chúng ta phải tin
là thực. Nhất là phải công nhận sự đóng góp của Gioang trong chiến công đầu của
Nguyễn Ánh. Nhờ chiến công này, Nguyễn Ánh mới có nhiều thuyền tầu cướp được của
Tây Sơn mà tiếp tục hành trình với Đỗ Thanh Nhơn và quân Đông Sơn.
Tác giả Sử Ký Đại Nam Việt, ở đây, còn cho ta những nét sơ khởi
về Nguyễn Ánh: “Gioang chỉ đốt và bắn trái phá” còn “Nguyễn Ánh làm tướng cai
quân, và ban đêm, thình lình, thì xông vào đánh quân Tây Sơn”, “cũng đánh như
lính”, “những máu dầm dề cả mình”…
Một thiếu niên 15 tuổi như thế, quả là can đảm và xứng đáng
làm đại nguyên soái ở tuổi 16. Nhưng Sử Ký Đại Nam Việt không dừng lại ở hình ảnh
người thiếu niên 15 tuổi, mà còn mô tả hình ảnh một vị vua trưởng thành, khá
riêng tư, không có trong chính sử.
Chân dung vua Gia Long, theo Sử Ký Đại Nam Việt
Dưới đề tựa “Vua tốt trí khôn và gan đảm” tác giả SKĐNV viết
về Gia Long:
“Các quan thấy vua mau mắn dọn dẹp mọi sự, lại mau hiểu các
việc thể ấy, thì lấy làm lạ lắm. Vì chưng đều [điều] gì vua chưa thấy cùng chưa
biết mặc lòng, song như các quan nói một lần, thì hiểu tức thì cùng bắt chước đặng.
Cho nên ai ai cũng khen vua là người tốt trí và khôn ngoan lắm. Vả lại, vua chẳng
nghỉ yên bao giờ: khi thì đốc suất các thợ, khi thì đi biên các kho, hoặc coi tập
binh hay là đắp lũy. Người cũng khéo bầy đặt nhiều đều khôn ngoan, lại thượng
trí sáng dạ cùng chăm học hành; nên dầu người phải khốn khó từ thủa bé, những
chạy đàng nọ nẻo kia, chẳng mấy khi được ngồi một nơi cho yên, chẳng kịp học
hành là bao nhiêu, song cũng hay chữ nho lắm.
Khi nào thấy sự gì lạ, liền chăm học cho hiểu. Vốn vua chẳng
biết chữ bên Tây, nên phải cậy các quan cắt nghiã mọi đều. Nhứt là các tờ đã vẽ
hình tượng các khí giái [giới] và những cách đắp lũy xây thành, đóng tầu hay là
các đều khác thể ấy, thì vua chỉ xem những sự ấy lắm. Vả lại nhiều sách và địa
đồ đã mua bên Tây, thì người chăm học mà hiểu hầu hết.
Vua cũng là người gan đảm lắm, khéo bầy mưu kế mà bắt quân giặc.
Người chẳng những là sai các quan đi đánh giặc, mà lại người đi cầm quân mà
đánh nữa. Cho nên ai ai cũng nói rằng: “Ví bằng các quan có gan đảm và hay mưu
kế như vua, thì âu là “quân giặc chẳng đặng trận nào”.
Một ít đều trách nhà vua: Song cũng có kẻ chê vua rằng: chẳng
được vững lòng, vì khi nào đặng thạnh sự thì vui mừng quá; bằng khi phải khốn
khó ít nhiều, hay là khi bị trận, thì ra như ngã lòng và sợ hãi quá. Vậy khi
nào đã được trận thì vui mừng quá lẽ, chẳng biết thừa dịp thắng trận mà theo bắt
quân giặc và ép nó chịu phép cho xong. Có kẻ lại trách rằng: chẳng hay cầm giữ
quân mình cho đủ, nên bắt người ta nặng việc quan quá” (SKĐNV, t. 57-58).
Đoạn văn trên toát ra giọng kể chân chất của một người thành
thực không xu nịnh; chỉ cần ít dòng vắn tắt mà cho ta những thông tin đầy đủ và
đáng tin cậy về vua Gia Long:
Như: chẳng kịp học hành là bao nhiêu, song cũng hay chữ nho lắm.
Nhất là đoạn này:
“Vốn vua chẳng biết chữ bên Tây, nên phải cậy các quan cắt
nghiã mọi đều. Nhứt là các tờ đã vẽ hình tượng các khí giái [giới] và những
cách đắp lũy xây thành, đóng tầu hay là các đều khác thể ấy, thì vua chỉ xem những
sự ấy lắm. Vả lại nhiều sách và địa đồ đã mua bên Tây, thì người chăm học mà hiểu
hầu hết” là một chứng từ xác định việc vua tự học để đắp lũy xây thành và đóng
tầu như thế nào. Ở đây, không có dấu vết của việc Bá Đa Lộc dịch sách tiếng Tây
cho vua (vì nếu có, thì con người chân chất này, rất tôn sùng Bá Đa Lộc, đã kể
lại rồi) mà chỉ nói là vua không biết tiếng Pháp nên cậy các quan cắt nghiã mọi
đều. Trong số “các quan” ở đây, chắc chắn là có Trần Văn Học, chuyên gia xây dựng
và linh mục Hồ Văn Nghị, đều là những người biết tiếng Pháp.
Những điều ghi trong Sử Ký Đại Nam Việt trên đây lại đồng quy
với một nguồn thông tin khác, một chân dung khác, do linh mục Le Labousse viết
về Gia Long dưới đây.
Chân dung vua Gia Long, theo linh mục Le Labousse
Pierre-Marie Le Labousse, sinh ngày 22/1/1759 ở Pluneret
(Morbihan, Pháp), đi truyền giáo ngày 20/9/1787, có thể đã mất ở Chợ Mới, tỉnh
Khánh Hoà, ngày 25/4/1801 (Launay III, t. 214). Ông là một trong những người phụ
tá, thân cận nhất của giám mục Bá Đa Lộc, chính ông đã đưa thi thể vị giám mục
từ Quy Nhơn về Gia Định và chính ông đã ghi lại lá chúc thư của vị giám mục.
Ngoài sự tôn sùng đức giám mục bề trên của ông, như tất cả những người dưới quyền
khi viết về “đức thánh cha”, ông cũng là người gần cận vua Gia Long và đưa ra
nhiều thông tin đáng tin cậy, trong giai đoạn ông phục vụ hội truyền giáo ở Việt
Nam.
Trong những thư từ ông viết được lưu trữ lại, có lá thư ngày
14/4/1800, không thấy đề tên người nhận, nội dung ghi lại chân dung vua Gia
Long, như sau:
…” Ông hoàng này có lẽ là người sắc sảo nhất và sôi động nhất
trong triều, nhưng… lời can gián của Đức Giám Mục Bá Đa Lộc cũng làm giảm bớt bầu
máu nóng này. Ông không còn là ông vua chỉ cai trị bằng roi, kiếm và nói chuyện
chết chóc nữa. Bây giờ là một vị đế vương, biết mình là cha của thần dân, chứ
không phải là nhà độc tài…
Ông cứng rắn nhưng không tàn ác; ông nghiêm trị nhưng theo
đúng nguyên tắc pháp luật.
Ông có đủ tất cả các đức tính của lương tâm lẫn trí tuệ. Ông
có lòng tri ân, hào hiệp, tinh tế về điểm danh dự; anh hùng trong nghịch cảnh,
chịu đựng thất bại với lòng can đảm xứng đáng với vị hiền nhân [chỉ Bá Đa Lộc]
đã rèn luyện ông.
Thời trẻ, ông có say mê rượu chè, nhưng từ khi ông thấy mình
phải cầm đầu sự nghiệp, ông đã hoàn toàn sửa mình không nhấp một hớp rượu… Cũng
như ông đã ra những huấn lệnh rất nghiêm khắc cấm say rượu và ông quyết đoán
như vậy…
… Những đức trí tuệ không làm giảm đức của lòng thương yêu.
Linh lợi, sâu sắc, thẳng thắn, nhìn thoáng qua là nắm bắt được trọng tâm của những
sự thể phức tạp nhất. Có trí nhớ hơn người khiến ông ghi nhớ tất cả, cũng như dễ
dàng thiên bẩm bắt chước được tất cả.
Những công binh xưởng, và những bến tầu chiến của ông làm cho
người ngoại quốc thán phục và con mắt cả châu Âu sẽ khen ngợi nếu châu Âu đến
đây chứng kiến.
Một bên, người ta thấy súng ống, đại bác đủ kiểu, pièces de
campagnie (?), giá súng đại bác (affuts), đạn đại bác, vv… mà phần lớn chỉ thua
kiểu mẫu đẹp nhất.
Một bên là thuyền tầu không đếm xuể, những chiến hạm lớn lao,
đủ loại hình thái, kiên cố đến độ làm cho ta kính nể.
Tất cả đều là sản phẩm của ông hoàng này, vừa hoạt động vừa
khéo léo, luôn có các sĩ quan Pháp giúp, bởi vì kỹ thuật và nghề nghiệp ở đây
còn kém tinh xảo rất xa Âu châu…
… Ông có kiến thức về tất cả và có năng khiếu làm tất cả…
Ông cực kỳ siêng năng. Ban đêm ông ngủ ít, đọc nhiều. Ông có
tính hiếu kỳ và thích học hỏi. Trong cung của ông có nhiều sách về kiến trúc,
thành đài. Ông thường giở từng trang để xem những đồ thị và cố gắng bắt chước,
khỏi cần đọc những giải thích bằng chữ Pháp vì ông không đọc được. Mỗi ngày,
ông có một bước tiến mới. Ông là vị vua lớn nhất tới nay chưa bao giờ có ở nước
Nam. Đức Giám Mục Bá Đa Lộc và ông hoàng này là hai người xuất chúng, mà sử
sách của triều đình sẽ lưu danh thiên cổ…” (Arch. Miss. Étrang. vol.746, p.
869. Recueil de l’Evêché de Saigon, t. 131-135, in lại trong Taboulet I, t.
268)
Bức chân dung Gia long của Le Labousse có những điểm đồng quy
với Sử Ký Đại Nam Việt về tính tình vua Gia Long: sự sáng dạ, dễ bắt chước, ham
học mà chúng tôi đã in đậm ở trên. Ngoài ra, về những tài liệu học hỏi, vị linh
mục này cũng ghi gần giống như SKĐNV: “Trong cung của ông có nhiều sách về kiến
trúc, thành đài. Ông thường giở từng trang để xem những đồ thị và cố gắng bắt
chước, khỏi cần đọc những giải thích bằng chữ Pháp vì ông không đọc được”. Như
vậy, Le Labousse và tác giả SKĐNV, đều không nói gì đến việc Bá Đa Lộc dịch
sách chiến lược và xây dựng thành đài cho Nguyễn Ánh bởi nếu có thì nhà vua đã
không phải giở từng trang để xem những đồ thị và cố gắng bắt chước và chắc chắn
Le Labousse là người đầu tiên phải biết và ông đã viết ra rồi.
Về sự mô tả các công binh xưởng của Nguyễn Vương, Le Labousse
cho một cái nhìn tổng quát và sơ sài, nếu muốn biết rõ hơn, chúng ta có thể đọc
Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức. Nói chung không khí phồn vinh và
hiện đại của thành Gia Định lúc bấy giờ với nhiều thuyền bè ngoại quốc ra vào đều
được những người ngoại quốc ghi lại, sau đây là cái nhìn của Shihõken Seishi,
người Nhật.
Nguyễn Vương và thành Gia Định, dưới mắt Shihõken Seishi
Trong sự tìm kiếm các bài viết về Gia Long thời ấy, chúng tôi
may mắn thấy một tác giả nữa, cũng đáng tin cậy, đó là Shihõken Seishi, người
Nhật. Ông đã đến Gia Định trong khoảng 1794-1795, tức là sau khi Barrow đến Đà
Nẵng vài năm. Tầu của ông bị bão, đắm, thuỷ thủ phiêu bạt đến Gia Định, được
vua Gia Long, lúc đó còn là Nguyễn Vương giúp, cho phương tiện trở về Nhật. Cuốn
tiểu thuyết của ông nói về chuyến đi này nhưng có một đoạn tả phong cảnh xung
quanh Sài Gòn, tả thành Gia Định, và buổi ra mắt Nguyễn Vương ở kinh thành.
Tác phẩm Nampyõki [Đắm tầu ở Nam Hải] của Shihõken Seishi, do
bà Muramatsu Gaspardone dịch sang tiếng Pháp, giới thiệu và chú giải, in trong
Bulletin de l’Ecole Française d’Extrême-Orient (BEFEO), 1933, t. 35-120.
Shihõken Seishi đi tầu Hinoshita, bị đắm trong tháng 9/1794,
phiêu bạt đến tháng giêng năm 1796 mới trở về Nhật. Cuốn sách xuất hiện lần đầu
ngày 16/2-16/3/1798 tại Kyoto, do nhà Zeniya Chõbẽ in. Sau bị cấm, vì thời điểm
đó, Nhật vẫn còn bế quan tỏa cảng, cấm dân Nhật ra ngoại quốc, mà cuốn sách tả
chuyện viễn du.
Chúng tôi dịch hai trích đoạn liên quan đến thành Gia Định và
Nguyễn Vương. Theo lời tác giả, ta có thể đoán sự việc xẩy ra vào khoảng sau
tháng 9-10/1794, lúc hoàng tử Cảnh không còn trấn Diên Khánh mà đã về Gia Định
và Nguyễn Vương cũng rút quân về Gia Định để Võ Tánh trấn thủ Diên Khánh. Đến
tháng 11-12/1794, Trần Quang Diệu lại tấn công Diên Khánh, và tháng 3-5/1975
Nguyễn Vương hành quân cứu Diên Khánh. Vậy thời điểm kể trong tiểu thuyết này
là từ khoảng tháng 10/1794 đến tháng 3/ 1795.
Phong cảnh xung quanh Sài Gòn
“Có núi cao đến tận chân mây, nhiều cây và một con sông nước
trong. Biển bao bọc ba phiá. Những tầu buôn Hoà Lan, Quảng Đông, Macao, và những
nơi khác, đỗ đầy trong cảng sông. Đó là nơi buôn bán sầm uất. Nhờ những làng
chài lưới ven biển, thợ săn trên núi nên chợ búa đầy cá và muông thú, đầy dẫy
cá đồng; trong số cá biển, loại akaei nhiều nhất. Quanh năm đủ thứ rau rợ, lại
còn hoa quả lớn nhỏ, thêm vào thức ăn. Có thứ tre, khoảng cách giữa hai đốt dài
lạ lùng. Có cả vàng, bạc. Đồng thì đến từ Quảng Đông. Một năm ba mùa gặt luá, đậu
và đậu ván cũng thế. Người nghèo không biết đói là gì. Con người tử tế và nhân
từ. Vua trị vì với lòng tốt và dân chúng không khổ. Nhưng nước này ở cuối Nam Hải,
nơi có nhiều đảo quốc, lúc nào cũng phải đề phòng xâm lược. Không ngừng vận dụng
khí giới. Tháng thứ tư năm Cảnh Hưng thứ 54 [thực ra là năm Cảnh Hưng thứ 34,
1773, Tây Sơn nổi lên], xứ Tây Sơn nổi lên chống kinh đô [Gia Định], vua đã gửi
quân chinh phạt, nhưng chưa biết thắng bại thế nào. Người ta náo động sửa soạn
chiến thuyền, phần đông đã khởi hành rồi…” (BEFEO, 1933, t. 57-58).
Kinh thành Gia Định và vua Gia Long, khoảng 1794- 1795
“… Chẳng bao lâu đã đến cửa chính của hoàng cung, chúng tôi
xuống kiệu đi bộ, tới vòng thành thứ nhì, có hai lớp toà thành kiên cố cho đám
cận thần ở. Trên mỗi cửa, có một loại bảng hiệu hình bán nguyệt (cái đó gọi là
dahaimot. Người ta dùng để chỉ định ngôi thứ của mỗi nhà). Từ cửa chính, chúng
tôi đã đi và ghẹo khoảng gần 3 chõ [330m] trong khi đất cao lên độ 1 chõ
[109m10]. Ở cửa vào vòng thành thứ nhì, có một đài thám thính cao 40 ken
[72m80] Một viên quan võ thường lên quan sát về phiá biển, đó là bộ phận phòng
vệ. Các quan thay phiên nhau trực mỗi người nửa ngày. Phía tay phải có ba cái
nhà vuông. Đó là phòng bào chế y dược, trong có nhiều người đang cắt, giã thuốc
nam. Cái cối thì cũng y như cối của ta [Nhật]. Xa hơn chút nữa có cửa hàng bán
thuốc và sân rộng để phơi thuốc. Tất cả các loại dược phòng đều được cắt miếng
to tròn hoặc chữ nhật.
Đi khỏi nơi này, chúng tôi thấy cung điện chính hiện ra ở đằng
xa. Nền lát đá đẽo và trần rất cao. Có hai hàng ghế, nằm dọc theo chiều dài gần
một chõ [109 m10]. Trần và tường sơn đỏ, có chỗ nạm vàng hoặc bạc. Kỳ quan nầy
đập vào mắt chúng tôi. Các ghế ngồi đều tay bành và tạc tượng với những hình khắc
mầu, cũng khảm vàng, bạc. Người ta bảo đây là ghế của các quan trấn thủ ở các
miền. Ở miền Nam, từ quan lớn đến dân đen, tất cả mọi người đều ngồi ghế nói
chuyện, hoặc ăn cơm. Theo đúng nghi lễ, người ta đứng, hoặc đi đi lại lại từ
người này đến người khác, chào thì nghiêng mình ba lần, không cúi rạp thõng tay
[như người Nhật]. Hành lang này dài độ 50 ken [91m]. Đất lại cao lên nữa. Ba
ken [5m46] trước cửa cung, có 14 ông quan.
Một lúc sau, thấy vua hiện ra trên ghế bành đỏ toàn bộ khảm
vàng bạc và giát ngọc ở giữa chính điện. Hai hoàng tử ngồi hai bên [một người
là Đông cung Cảnh, người kia chắc là Hy]. Vua trạc 40 tuổi (…), mặc áo gấm đen
thêu rua với quần gấm đen và mang đai lưng. Một người hầu cận cầm kiếm của vua
đứng sau lưng. Hoàng Thượng đội khăn lụa quấn năm vòng, đầu chỉ để hở búi tóc
cài lược vàng. Hai hoàng tử cũng mặc áo đen và cài lược vàng. Các quan ngồi gần
vua, đều mặc áo lụa xanh, vàng, đỏ hay trắng, mang lược đồi mồi, sừng trâu hay
tê giác. Y phục long trọng, không ai mặc đồ đen, trừ vua và hoàng tử. Thái tử độ
trạc hai mươi tuổi, rất đẹp và sang trọng không ai sánh nổi. Trong tất cả các
nước mà tôi ghé qua trên đường trở về [Nhật], chúng tôi chưa thấy ai đẹp như
ông. Sau cùng, người thông ngôn -xứ này người ta học thuyết Khổng Tử, nhưng lại
không hiểu tiếng Tàu; thông ngôn là người Nam Kinh, đã làm việc lâu năm tại… (bỏ
trống), rồi từ đó sang An Nam- đến tâu vua, cúi chào ba lần, và nói với vua về
chiếc tầu Hinoshita của chúng tôi bị đắm. Nhà vua bảo sẽ giúp. Chúng tôi khẩn cầu
ngài cho về xứ. Hoàng thượng trả lời qua người thông ngôn, bảo được, nhưng phải
đợi vài ngày, và ngay hôm nay, ngài sẽ cho thầy thuốc đến thăm những người bị bệnh.
Chúng tôi cảm ơn ngài và được các quan võ tháp tùng trở ra, chúng tôi lên kiệu
trở về chỗ ở vào giờ ngọ [12 giờ trưa] (BEFEO, 1933, t. 60-62).
Những điều Shihõken Seishi viết về thành Gia Định năm
1794-1795 rất đáng quý, bởi có thể ông là người ngoại quốc đầu tiên đã mô tả
kinh thành này, sau khi xây xong vài năm. Những điều ông viết rất hữu ích cho sự
khảo cứu thành Gia Định, mà trong hầu hết các văn bản của Pháp đều cho rằng
Puymanel và Lebrun là “tác giả”, rồi một số người Việt phụ hoạ. Chúng tôi sẽ trở
về vấn đề này.
Chân dung sau cùng về Gia Long đề cập đến ở đây là của
Barrow.
Chân dung vua Gia Long, theo Barrow
Barrow tuy chưa gặp, nhưng tả Nguyễn Vương rất kỹ, ông đã dựa
vào Barisy, và hai người Anh đã sống ở Sài Gòn để viết. Có lẽ chưa có chân dung
nào rõ ràng như thế. Barrow viết:
“Từ năm 1790, năm Gia Long về lại Nam kỳ, tới 1800, chỉ có
hai năm không đánh nhau là 1797 và 1798, cũng chính là hai năm quan trọng nhất
dưới triều đại của ông, cho tới nay đầy bão tố. Dưới sự trợ lực của giám mục
Adran, mà ông tham vấn như một người thông bác, ông đã làm hết sức để đất nước
tiến triển: lập xưởng làm thuốc súng ở Fen-tan [Hội An?] (thuộc đất Chàm trên bản
đồ), mở mang đường xá, trồng cây, trồng mía, trồng trầu cau đã bị chiến tranh
tàn phá, khuyến khích việc nuôi tằm, dệt lụa, lập xưởng điều chế nhựa thông, hắc
ín; chế tạo hàng nghìn súng hoả mai, khai mỏ sắt và xây lò nung. Lập quân đội
chính quy và lập trường võ bị, với các huấn luyện viên người Âu luyện tập cho
các sĩ quan cách bắn và phóng pháo. Adran còn dịch sang chữ Hán một bản nghiên
cứu chiến lược để dùng trong quân đội.
Trong hai năm này, nhà vua đã cho đóng ít nhất 300 chiến thuyền
có đại bác hoặc ghe chèo, 5 thuyền 3 cột buồm, một chiến hạm theo lối Tây
phương. Ông sáng chế ra một chiến thuật mới cho thủy binh và dạy sĩ quan hải
quân biết dùng dấu hiệu. Một trong những người Anh mà tôi đã nói ở trên, cho biết
đã nhìn thấy ở Sài Gòn, năm 1800, một hạm đội 1200 thuyền buồm do chính ông điều
khiển, nhổ neo và tiến trên sông với một trật tự thật đẹp, chia làm ba đoàn, thẳng
hàng tiếp chiến, mở, đóng hàng ngũ và thi hành tất cả những thao tác theo đúng
hiệu lệnh.
Trong khoảng thời bình này ông còn sửa đổi cả luật pháp nữa,
và chắc là có bàn tay giám mục giúp sức. Ông bỏ những hình phạt tàn ác vẫn được
áp dụng cho tới đó… ông lập trường công, bắt trẻ con từ 4 tuổi trở lên phải đi
học. Ông xác định hệ thống lãi xuất hợp pháp cho ngành thương mại, xây cầu trên
sông, làm cầu phao, đặt phao nổi trên biển báo hiệu những nơi nguy hiểm có đá
ngầm, thanh tra các hải cảng và những vịnh chính, gửi nhiều phái viên về các rừng
núi miền Tây nơi có người Mèo và người Lào sinh sống trong tình trạng bán khai
để dẫn họ về với đời sống văn minh hơn, những người miền núi này mà người Tầu vẫn
gọi một cách hạ thấp là “người có đuôi”, mặc dầu, có thể, tiền nhân của họ ngày
trước đã xây dựng nên nền văn minh của đế quốc hiện thời.
Vị vua này, hết sức chuyên tâm về mỹ thuật và công nghệ, ông
sánh ngang hàng với Đại đế Pierre của nước Nga, nhưng không tàn bạo kích động
như thế, bởi cái gương đặc thù của ông, bởi nghị lực của dân tộc ông, và giống
như Alfred bất tử của chúng ta [Alfred đại đế của Anh (871-899)] ông không ngần
ngại làm bất cứ việc gì để hồi sinh đất nước.
Để có một ý niệm về hoạt động và thiên tài của ông, chỉ cần
xem những tình huống mà ông đã trải qua: mới đầu chỉ có một chiến hạm, mà trong
vòng không đến 10 năm, đã có một hạm đội 1200 chiến thuyền, trong đó có 3 tầu
kiến trúc Tây phương, khoảng 20 thuyền buồm lớn theo kiểu Trung quốc hoàn toàn
trang bị võ khí, chỗ còn lại là tầu chuyên chở, trang bị đại bác.
Gia Long được miêu tả như một người lính hoàn hảo, trong
nghiã mạnh mẽ nhất. Người ta kể ông thích là tướng quân hơn đế vương. Người ta
tả ông can đảm, không thô bạo, lắm mưu. Những nhận thức của ông thường đúng;
khó khăn không chán nản, cản trở không lùi bước; thận trọng trong mỗi quyết định,
mau lẹ và rắn rỏi khi thực hành điều đã định, luôn luôn ở vị trí chủ chốt trong
trận, đi tiên phong trước ba quân. Tính tình vui vẻ dễ chịu, nhã nhặn, lắng
nghe quan quân dưới quyền, tránh ban ân huệ riêng tư; có trí nhớ đặc biệt, ông
nhớ hầu hết tên của lính trong quân: ông thích thú nói chuyện với họ, nhắc họ
hành động và chiến công của họ, hỏi thăm vợ con họ, hỏi đã cho con nhỏ đi học đều
chưa, hỏi chúng muốn làm gì khi lớn, ông biết hết những chi tiết nhỏ nhất về
gia đình họ.
Đối với người ngoại quốc, ông rất tử tế và ân cần. Ông quý mến
những sĩ quan Pháp giúp ông: đối xử với họ lịch sự, thân tình và rất tốt. Không
bao giờ ông đi săn hay dự cuộc vui nào mà không mời một người trong bọn họ tham
dự. Ông tuyên bố công khai lòng kính trọng của ông đối với các tôn chỉ của đạo
thiên chúa, ông dung đạo chúa như các đạo khác trong nước: ông cực kỳ tôn kính
đạo nghiã gia đình như Khổng Tử dạy trong kinh sách; đứng trước mẹ, bà hãy còn
sống, ông tôn kính như đứa bé đứng trước mặt thầy. Ông thông thuộc những tác giả
lớn của Trung Hoa. Nhờ giám mục Adran dịch một số mục từ trong Bách Khoa toàn
thư sang chữ Hán, ông biết được khoa học và nghệ thuật Tây phương, đặc biệt ông
chú trọng đến thuật hàng hải và thuật đóng tầu. Người ta đồn, điều này không được
phép nói ra, rằng để kết nối lý thuyết kiến trúc tầu với thực hành, ông đã mua
một chiến hạm Bồ, rồi tháo ra từng mảnh, từng tấm ván một, bắt chước đúng kích
thước đó mà làm lại, cho đến khi ông thay thế tất cả các bộ phận bằng những mảnh
mới làm, để hoàn thành một chiếc tầu mới.
Nghị lực trí thức của ông ngang bằng với khí phách và hoạt động
thể xác. Chính ông chủ động sự bùng lên mọi mặt của đất nước, chính ông quản đốc
các hải cảng và các công binh xưởng, chính ông là giám đốc xây dựng những xưởng
đóng tầu, chính ông chỉ huy các kỹ sư trong tất cả mọi công việc, không có gì
thực hiện không có gì chấp hành mà không hỏi ý kiến và nhận lệnh của ông. Không
ai chế tạo một bộ phận nào mà không hỏi ông; không ai lắp một khẩu đại bác nào
mà không có lệnh của ông. Không những ông trông coi từng chi tiết nhỏ, mà còn
phải làm trước mặt ông.
Để điều khiển tất cả công việc của mình một cách vững vàng,
ông đặt ra một thời biểu sống cố định và kỷ luật. Sáng dậy 6 giờ, tắm nước lạnh;
7 giờ, các quan vào chầu, mở tất cả công văn đến từ hôm qua, ông truyền lệnh
cho các thư ký ghi chép, sau đó ông ra xưởng tầu thủy, duyệt lại tất cả những
gì đã làm xong lúc ông vắng mặt, rồi ông tự chèo thuyền đi khắp bến cảng, kiểm
soát các chiến hạm, đặc biệt chú ý đến súng đại bác; ông đi thăm lò đúc súng,
đúc đủ loại đại bác ngay tại công binh xưởng.
Đến 12 hay một giờ trưa, ông ăn cơm ở xưởng đóng tầu. Cơm với
cá muối. Hai giờ ông về cung ngủ tới 5 giờ; sau đó ông tiếp các quan võ thuỷ bộ,
các quan toà, hay quan cai trị, ông đồng ý, hoặc bãi bỏ hoặc sửa chữa những kiến
nghị của mọi người. Thường thì công việc triều chính kéo dài đến nửa đêm, ông mới
trở về phòng làm việc, ghi nốt và chú thích thêm cho những việc ngày hôm nay; rồi
ông ăn một bữa cơm nhẹ, gặp gia đình độ một giờ, đến 2, 3 giờ sáng ông mới đi
ngủ. Ông chỉ ngủ 6 giờ một ngày.
Ông không uống rượu, ăn ít thịt, cá, cơm, rau, hoa quả, chút
bánh trái và uống trà, đó là tất cả đồ ăn của ông. Như một vị dòng dõi vua Minh
bên Tầu, mà ông công nhận, ông ăn cơm một mình, không cho phép vợ con ngồi cùng
mâm. Vẫn nguyên tắc kiêu kỳ này, ông không tiếp những người Anh đến chào năm
1799, lấy cớ lúc này tình hình lộn xộn không cho phép sửa soạn tiếp đón theo
đúng nghi lễ. Ta sẽ lầm nếu phê bình sự từ chối này như [thái độ của] một ông
vua nước Tầu; nhưng với ông, chẳng vì hiềm tị mà ông không làm thoả mãn lòng hiếu
kỳ của người ngoại quốc. Trái lại, họ có thể tự do đến thăm xưởng đóng tầu,
thăm những tháp canh, những thành đồn. Ông tiếp họ dễ dàng trong tư thế tướng
quân. Nhưng với tư thế đế vương, ông không tiếp.
Người ta bảo ông dáng tầm thước, nét mặt đều đặn dễ coi. Da
hung hung nâu đỏ vì giãi dầu nắng gió và hiện nay (1806) ông độ khoảng 50 tuổi.
Ông chỉ biết đến người Anh qua tên gọi; nhưng nghe nói rằng,
trong mọi trường hợp, ông luôn luôn tỏ dấu rất kính trọng dân tộc này; và nhất
là nếu đó lại là những điều do người Pháp mách lại [ý nói do Barisy], thì càng
đáng tin. Điều chắc chắn rằng ông luôn luôn tỏ những ý định tốt đối với nước
Anh. Ông đã tuyên bố qua một đạo dụ, rằng tất cả những hạm đội của chúng ta
[Anh] đều được miễn thuế vào các hải cảng lớn, nhỏ.
Một lần, sự rộng lượng của vua đã rõ thực ngời sáng: Người
thuyền trưởng và viên đệ nhất sĩ quan một tầu buôn Anh, cả hai đều bị chết, khi
tầu đi từ Quảng Đông tới Sài Gòn. Để đề phòng cướp bóc, gian lận, có thể gây
thiệt hại cho chủ tầu, vì hai người chỉ huy đều chết cả; vua bèn gửi thuyền trưởng
Barisy với một đội quân cấm vệ, đi hộ vệ chiếc tầu Anh yên lành trở lại Quảng
Đông hay Macao, để trả cho chủ hay viên đại lý đang còn ở đó (…).
Người ta nói vợ ông là một bà hoàng đạo đức gương mẫu, có một
tâm hồn cương quyết đã nâng đỡ và an ủi ông trong những thất bại chua cay nhất.
Họ có 7 người con. Hai con trai đầu giao cho Adran dạy dỗ. Đông cung, ông hoàng
trẻ, mà giám mục đưa sang Paris, chết sau thầy ít lâu. Tính tình hiền lành, sốt
sắng và bặt thiệp, thiên tư đạo đức; những đức tính hợp với một đời sống yên
lành của một tư nhân, hơn là với địa vị cao cả đã dành cho từ lúc sinh ra. Người
em, thừa hưởng sự kế vị, là một quân nhân ưu tú. Ba năm đi lính, năm năm làm hạ
sĩ (caporal) rồi lên trung sĩ (thầy đội, sergent), và đã phụng sự đắc lực trong
những năm chiến tranh. Năm 1787, được lên cấp cai đội (lieutenant-colonel); và
năm sau, được thăng trấn thủ một vùng ven biển. Năm 1800, được thăng tướng
(géneral) cai quản một dinh quân 35.000 người. Chính trong năm này, ông đạt chiến
thắng quan trọng nhất đối với quân Bắc Hà, họ để lại trận 9.000 người chết và bắt
được tất cả voi và đại bác.
Đây là sức mạnh quân sự của vua Nam Hà, năm 1800, theo đại uý
Barisy:
Bộ binh
24 đội kỵ binh (cưỡi trâu)… 6.000 người
16 đội voi (200 con)… 8.000
30 đội pháo binh… 15.000
25 chi đoàn 1.200 người trang bị vũ khí Âu châu… 30.000
Bộ binh trang bị kiếm và súng cổ trong nước… 42.000
Vệ binh tập luyện theo lối Âu châu…….12.000
Tổng cộng bộ binh….. 113.000 người
Thuỷ binh
Lính thợ trong xưởng đóng tầu….. 8.000
Lính thuỷ, mộ hay nối dõi (cha, anh), trên những chiến hạm đậu
ở cảng… 8.000
Lính biệt phái sang những tầu chiến kiểu Tây phương…1.200
Lính biệt phái thuyền buồm (jonque)… 1.600
Lính biệt phái 100 thuyền chiến chèo (galère)… 8.000
Tổng cộng thủy binh….26.800
Tổng cộng toàn bộ: 139.800 quân
(Barrow II, t. 224-238).
Sau đây là một số nhận xét về chân dung vua Gia Long do
Barrow khắc họa:
1- Về bản kê khai sức mạnh quân sự của Gia Long do Barisy
cung cấp, chúng tôi sẽ trở lại trong chương sau, viết về tác phẩm của Montyon,
vì Montyon ghi chép cặn kẽ về quân đội Gia Long hơn Barrow nhiều. Về đội kỵ
binh cưỡi trâu, bản của Montyon ghi thêm: “Trâu thay ngựa trong chiến trận xưa,
nay đã bỏ”. Taboulet ghi lời giải thích của tướng Lemonnier: Đội kỵ binh cưỡi
trâu có lẽ là một thứ kỵ binh có nhiệm vụ an ninh gần. Không thấy nói đến các
hành động sốc của đội quân này. Cũng không có chiến tích gì, nên đã bị bãi bỏ
ngay (Taboulet, I, t. 257, note 1).
2- Về bà Chính hậu, tức Thừa thiên Cao hoàng hậu, là con gái
thái bảo Tống Phước Khuông, mẹ họ Lê, lấy Nguyễn Ánh năm 1778, hơn Ánh 2 tuổi.
Liệt truyện ghi: “Sinh được 2 con trai, con cả là Chiêu, chết sớm, con thứ là Cảnh”,
“mỗi khi vua đi đánh giặc, Hậu thường đi theo” “tự dệt vải mỏng, dầy cho quân
lính”, “phần nhiều khuyên chăm chính sự” “giúp vua trong lúc gian nan” (…) Trước
kia trong lúc xiêu giạt, phụng dưỡng Hoàng Thái hậu, nếm trải mọi mùi gian nan
hiểm trở, thường thân hành dệt cửi, chính tay may lấy áo trận, để cấp cho quân
sĩ. Một hôm thuyền đi gặp giặc, vua đốc quân cố sức đánh, hậu cũng cầm dùi đánh
trống, quân lính tranh nhau phấn khởi thành ra đánh được.” Bà mất ngày
22/2/1814 (3/2/Ất Mùi) (LT, 2, t. 25-27-32).
Những điều Barrow ghi về bà đúng cả, chỉ có 7 người con là nhầm
với con của các bà phi khác, có lẽ do bà trông nom. Minh Mạng cũng là bà nuôi.
Hoàng tử Hy, con thứ nhì của Nguyễn Vương, không biết tên mẹ. Hoàng tử Tuấn, mất
sớm, mẹ là Chiêu Dương. Đến Minh Mạng, thứ tư, là con Thuận Thiên Cao hoàng hậu,
con gái Thọ Quốc Công Trần Hưng Đạt…
3- Về hai hoàng tử Cảnh và Hy, Barrow ghi tính tình khá đúng,
trừ ông không biết việc hoàng tử Hy mất sau anh 2 tháng.
4- Việc Barrow tưởng vua Gia Long miễn thuế cho các tầu Anh,
chắc không đúng, Thực Lục ghi 2 lần người Anh đến, tháng 4/1798: “Người Hồng
Mao đến hiến phương vật” (TL, I, t. 366), không nói thêm gì. Và tháng 5/1801:
“Nước Hồng Mao sai người đem thư đến dâng phương vật mà xin miễn thuế cảng cho
thuyền buôn. Vua hạ lênh cho lưu trấn Gia Định viết thư trả lời, đánh thuế theo
như thể lệ thuyền buôn Quảng Đông“ (TL, I, t. 438)].
5- Việc Adran dịch sang chữ Hán một bản nghiên cứu chiến lược
để dùng trong quân đội, không biết Barrow lấy ở đâu, vì không thấy nơi nào nói
đến. Sau đó, Maybon dùng thông tin này của ông, và những người khác chép theo.
Còn câu “giám mục Adran dịch một số mục từ trong Bách Khoa
toàn thư sang chữ Hán” có thể đã rút ra trong chúc thư của Bá Đa Lộc do Le
Labousse viết: “Đức Cha tặng vua một hộp đựng thuốc bằng vàng nạm kim cương, điểm
một viên kim cương trạm công phu, kính thiên văn và kính viễn vọng của người, bốn
quyển Bách Khoa Toàn Thư…” (Launay, III, t. 384), đây là nơi duy nhất nói đến
Bách Khoa Toàn Thư, chính Le Labousse cũng không nói gì đến việc dịch sách, mà
Sử Ký Đại Nam Việt cũng không. Nhưng câu này của Barrow cũng sẽ được Faure,
Maybon và những người tôn vinh Bá Đa Lộc chép lại và phóng đại lên sau này.
Xin nói thêm: hộp thuốc lá bằng vàng nạm kim cương, theo
Faure, là vua Louis XVI thưởng cho vị giám mục, sau khi ký hiệp ước 28/11/1787
với Montmorin. Nguyễn Vương không nhận các món quà của Bá Đa Lộc. Chúng tôi sẽ
trở lại việc này.
6- Việc một người Anh nhìn thấy năm 1800, Nguyễn Vương có hạm
đội 1200 chiến thuyền, trong đó có 3 tầu kiến trúc Tây phương, chắc không sai,
chúng ta chỉ cần lướt qua con số thuyền và tầu chiến các kiểu, ghi trong Thực Lục
mà Nguyễn Ánh cho đóng từ tháng 4/1778 đến năm 1800, thì đủ biết, dù những thuyền,
tầu này bị đắm, bị đốt, bị hư hại, số còn lại vẫn rất cao.
Qua những nhân chứng trên đây, chúng ta đã có một hình ảnh
khá đậm nét về vua Gia Long, qua sự đúc kết những lời của các tác giả hợp lại:
15 tuổi, Nguyễn Ánh đã làm tướng, xông vào đánh nhau cùng với
lính. Khôn ngoan và can đảm. Thông minh, nhìn qua mọi sự là biết ngay, chăm việc:
“khi thì đốc suất các thợ, khi thì đi biên các kho, hoặc coi tập binh hay đắp
lũy”. Tự học, biết chữ nho, không biết tiếng Pháp. Xem các họa đồ về việc đắp
lũy, xây thành, qua những sách mua ở bên Tây, rồi bắt chước làm theo. Nhược điểm:
được trận thì mừng thái quá, mà thua thì dễ nản. (SKĐNV)
Linh lợi, sâu sắc, thẳng thắn, nhìn thoáng qua là nắm bắt được
trọng tâm của những sự thể phức tạp nhất. Có trí nhớ hơn người, ghi nhớ tất cả,
dễ dàng thiên bẩm bắt chước được tất cả. Những công binh xưởng, và những bến tầu
chiến của Nguyễn Vương làm cho người ngoại quốc thán phục. Thuyền tầu đếm không
xuể. Những chiến hạm lớn lao, đủ loại hình thái, kiên cố. Tất cả đều là sản phẩm
của ông hoàng này (…) Ông cực kỳ siêng năng. Ban đêm ngủ ít, đọc nhiều. Có tính
hiếu kỳ và thích học hỏi. Trong cung có nhiều sách về kiến trúc, thành đài. Ông
thường giở từng trang để xem những đồ thị và cố gắng bắt chước, khỏi cần đọc những
giải thích bằng chữ Pháp vì ông không đọc được. (Le Labousse)
Gia Định có những tầu buôn Hoà Lan, Quảng Đông, Macao, và những
nơi khác, đỗ đầy trong cảng sông. Đó là nơi buôn bán sầm uất. (Shihõken Seishi)
Chính Nguyễn Vương quản đốc các hải cảng và các công binh xưởng,
chính ông là giám đốc xây dựng những xưởng đóng tầu, chính ông chỉ huy các kỹ
sư trong tất cả mọi công việc, không có gì thực hiện không có gì chấp hành mà
không hỏi ý kiến và nhận lệnh của ông. Không ai chế tạo một bộ phận nào mà
không hỏi ông; không ai lắp một khẩu đại bác nào mà không có lệnh của ông.
(Barrow)
Kết luận
Barrow là người không gặp Gia Long, nhưng bức chân dung Gia
Long do ông khắc hoạ rất đầy đủ và có nhiều điểm giống với những điều do Le
Labousse và Sử Ký Đại Nam Việt viết. Barrow cho biết ông dựa vào bản thảo Hồi
ký Barisy. Mà Barisy, qua vài lá thư để lại, là người tính tình hơi ba hoa
nhưng thực lòng, chính ông đã làm bản thống kê lực lượng quân đội Nguyễn Ánh
trên đây và những điều về cuộc sống hàng ngày của nhà vua chỉ có thể do Barisy
cung cấp, bởi vì Barisy là người có dịp gần gụi vua và đông cung.
Tuy nhiên có một điểm đáng chú ý sau đây:
Barisy, là người cùng thời và là bạn đồng hành của Puymanel,
Dayot, Vannier, Chaigneau… nhưng ông không hề nói đến việc Puymanel “xây” các
thành Gia Định và Diên Khánh, hay việc Dayot làm “tổng tư lệnh hải quân” mặc dù
Barisy có mặt trong những thời điểm đó.
Các học giả Pháp không nhắc đến Hồi ký Barisy. Cadière cho
công bố hai bức thư dài của Barisy viết về trận Thị Nại và trận Phú Xuân, vì
trong đó nói đến những người Pháp tham dự.
Taboulet cho biết Hồi ký Barisy đã thất lạc (Taboulet, I, t.
256).
Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Hồi ký Barisy thật sự thất lạc
hay chính giới nghiên cứu Pháp thấy nó không phù hợp với những điều mà họ muốn,
nên đã không dùng hoặc coi như thất lạc.
Khi trích dẫn Barrow để đăng trong sách của ông, Taboulet đã
bỏ đoạn Barrow viết về kỹ nghệ đóng tầu thuyền ở Việt Nam và khi ông trích đoạn
viết về chân dung Gia Long, ông khôn ngoan cắt làm hai bài, để loại trừ những
dòng Barrow xác định chính Nguyễn Vương quản đốc các hải cảng và các công binh
xưởng, chính ông là giám đốc xây dựng những xưởng đóng tầu, chính ông chỉ huy
trong tất cả mọi công việc…
Phần Maybon, để đả kích Barrow, trong cuốn Histoire moderne
du pays d’Annam và trong bài Introduction in trong La Relation de La Bissachère
(chúng tôi sẽ giới thiệu sau), Maybon đưa ra một vài chi tiết mà ông cho là sai
của Barrow về sự xung đột giữa Bá Đa Lộc và de Conway tại Pondichéry; và việc
văn bản hiệp ước cầu viện 28/11/1787, do Barrow in trong sách, khác với văn bản
“chính thức”, để ông kết luận rằng cuốn sách của Barrow đưa toàn những thông
tin sai lầm vô căn cứ mà lại được nhiều người chép lại.
Ngoài việc Barrow vẽ một chân dung Gia Long và sự xây dựng
Nam Hà, không phù hợp với những điều mà họ mong muốn, có lẽ còn một lý do nữa
khiến Maybon loại bỏ Barrow, bởi trong sự tranh giành thuộc địa mà nước Anh là
kẻ thù không đội trời chung của nước Pháp, Barrow đã vạch rõ những ý đồ của Bá
Đa Lộc và của nước Pháp thực dân.
Chương 7
montyon và cuốn thuyết trình thống kê về bắc hà
Trong chương 6, chúng tôi đã trình bày Chân dung vua Gia Long
qua bốn ngòi bút khác nhau của tác giả Sử Ký Đại Nam Việt, của linh mục Le
Labousse phụ tá giám mục Bá Đa Lộc, của Shihõken Seishi, thủy thủ Nhật bị đắm
tàu, đến Gia Định cuối năm 1794 và của John Barrow, nhà ngoại giao Anh. Các tác
giả này đã khắc họa nên những nét chính của vua Gia Long, mà cho tới bây giờ
chúng ta chưa được biết.
Chương này, xin giới thiệu cuốn sách Exposé statistique du
Tunkin… của Montyon, học giả Pháp, xuất hiện gần như cùng thời với sách của
Barrow và cũng bị Maybon hết sức chê bai, khi ông cho in cuốn La Relation sur
le Tonkin et la Cochinchine de M. de la Bissachère (Ký sự về Bắc Hà và Nam Hà của
ông de La Bissachère) (sẽ dẫn là Ký sự Bissachère), là thủy tổ sự xuyên tạc lịch
sử, mà sau này người ta thường dựa vào để viết lịch sử cận đại Pháp-Việt. Nhưng
trước khi Maybon cho in thành sách, thì Ký sự Bissachère đã xuất hiện dưới hai
hình thức, từ hơn 100 năm trước:
- Năm 1810, Sainte-Croix đã in Ký sự Bissachère nhưng không đề
tên tác giả, trong cuốn sách của mình tựa đề Voyage commercial et politique aux
Indes orientales… (Hành trình thương mại và chính trị ở Đông Ấn…).
- Năm 1811 ở Luân Đôn và 1812 ở Paris, nam tước de Montyon viết
cuốn Exposé statistique du Tunkin… sur la Relation de M. de la Bissachère,
missionnaire dans le Tunkin (Thuyết trình thống kê về Bắc Hà… về Ký sự của ông
de La Bissachère, thừa sai ở Bắc Hà), nhưng nội dung lại có rất ít điều do
Bissachère viết ra.
Tóm lại, cái gọi là Ký sự Bissachère, đã xuất hiện 2 lần: lần
đầu trong sách của Sainte-Croix, (1810) và lần thứ nhì trong cuốn Ký sự
Bissacchère do Maybon biên soạn (sẽ giới thiệu sau).
Tác phẩm của Montyon, tuy trên bìa có tên Bissachère, nhưng lại
là một bộ sách hoàn toàn khác biệt với Ký sự Bissachère, xuất hiện sau tác phẩm
của Barrow vài năm. Đây là một cuốn biên khảo, đào sâu vào xã hội Việt Nam cuối
thế kỷ XVIII, tinh thần vượt trên những toan tính tôn giáo của phái thừa sai và
mưu toan chính trị của phe thực dân, tác giả chú ý đến những vấn đề liên quan đến
Gia Long như tổ chức quân đội, xã hội dân sự dưới thời chiến tranh Nguyễn
Ánh-Tây Sơn… Đó là cuốn sách của một trí thức Pháp, đứng trên sự xuyên tạc lịch
sử.
Nam tước Jean-Baptiste de Montyon (1733-1820) là một nhà hảo
tâm và kinh tế gia Pháp; khi chết, ông để gia tài cho Institut de France (Pháp
quốc học viện) quản lý, lập ba giải thưởng hàng năm về đạo đức, văn chương và
khoa học, mang tên Montyon. Năm 1789, cách mạng bùng nổ, Montyon phải sang Anh
tỵ nạn chính trị, ông trở về Pháp năm 1814, dưới thời Vương chính trùng hưng
(Restauration).
Năm 1811 và 1812, Montyon cho in ở Luân Đôn một bộ sách tựa đề
đầy đủ như sau: Exposé statistique du Tunkin, de la Cochinchine, du Camboge, du
Tsiampa, du Laos, du Lac-Tho, par M. M-N sur la Relation de M. de la
Bissachère, missionnaire dans le Tunkin (Thuyết trình thống kê về Bắc Hà, Nam
Hà, Cao Mên, Chiêm Thành, Lào, Lạc Thổ, của ông M-N [M-N là chữ Montyon viết tắt]
về Ký sự của ông de La Bissachère, thừa sai ở Bắc Hà. (Imprimeries de Vogel et
Schulze, Luân Đôn, 1811). Năm 1812, ông tái bản sách này ở Paris, thay chữ
Exposé statistique (Thuyết trình thống kê) bằng chữ Etat actuel (Tình trạng hiện
thời) và bỏ chữ “của M-N” (Nxb Galignani, Paris, 1812). Tác phẩm in ở Luân Đôn
năm 1811, gồm 2 tập: tập I, 364 trang và tập II, 162 trang, sẽ dẫn là Montyon I
và II.
Đọc bộ sách dày 532 trang này[1] ta không hiểu
tại sao Montyon lại lấy tên sách là Thuyết trình… về Ký sự của ông de La
Bissachère, thừa sai ở Bắc Hà và trong bài Introduction (Tựa) lại đề cao đương
sự một cách quá đáng: “Ông Bissachère đã ở Bắc Hà 18 năm, đã đi khắp nơi, biết
nghe và nói tiếng Việt… đã quen biết những người cầm quyền quan trọng, thường
bàn luận với các quan, chính ông cũng được làm quan… nhiều lần được vua tiếp” bởi
vì trong sách có rất ít việc rút ra từ ý của Bissachère (và những chỗ ấy phần
nhiều là sai). Văn phong và tư tưởng cao hơn Bissachère rất nhiều. Montyon cho
biết: “Còn về những dữ kiện mà ông [Bissachère] đã đưa ra những khái niệm,
chúng tôi, tự do tìm thêm qua những hồi ký, thư từ, của những người đã sống ở
những nước ấy, đã dự kiến vào những biến cố xẩy ra, có đủ tư cách và xứng đáng
tin cậy” (Introduction, Montyon I, t. 7-8).
Chúng tôi nhận thấy, trong sách này, có:
1- Những điều chép của Bissachère: Trong phần hình luật dưới
thời Gia Long, Montyon viết: “Những hình phạt cho những tội thông thường được
xác định bằng điều luật mọi người đều biết, nhưng những tội nặng, nhất là tội về
quốc phòng, thì hình phạt được áp dụng một cách bí mật, chỉ quan toà xử tội biết,
đôi khi vua hay viện cơ mật còn làm nặng thêm. Vì thế mà hoàng đế đã cho voi xé
xác phản loạn Tây Sơn, và cắt từng miếng thịt quân phản loạn cho lính ăn thịt”
(Montyon I, t. 230) “Những người đàn bà bị tử hình còn ghê hơn. Họ bị voi tung
lên trời, và khi rớt xuống sừng voi đâm thủng và bị chân voi dầy xéo” (t. 231).
Cả hai đoạn này đều sai vì phỏng theo đoạn Bissachère viết về việc Gia Long xử
tội voi xé xác anh em Tây Sơn và hai mẹ con tướng Bùi Thị Xuân rồi cho lính “ăn
thịt” bà Bùi Thị Xuân! Chúng tôi sẽ nói rõ hơn trong phần viết về Bissachère.
Montyon cho những chi tiết về việc Quang Trung ra Bắc đánh
quân Thanh: “trên đường đi, bắt tất cả những ai có thể cầm khí giới phải tòng
quân, không theo thì giết, đốt nhà…” (Montyon, Tập II, t. 27). Đoạn này cũng
chép của La Bissachère; chúng tôi sẽ trở lại sau.
2- Những điều phản bác Bissachère: Phần viết về tôn giáo chứng
tỏ Montyon biết khá rõ về tôn giáo ở phương Đông; ông chống lại quan niệm của
Bissachère, và chỉ trích người Âu -nhất là các thừa sai, cho rằng dân Việt theo
đạo thờ cúng ma quỷ (Idolâtrie)- vì họ không hiểu niềm tin của người Việt, chỉ
biết lấy đạo thiên chúa làm chuẩn mực cho các dân tộc khác. Ở Bắc Hà, sự “ngu dốt”
của người Âu đã khiến họ coi tất cả những việc thờ cúng là hủ lậu, phải bác bỏ.
Đạo giáo ở phương Đông, nhất là nước Nam bắt nguồn từ Trung Hoa và Trung Hoa bắt
nguồn từ Ấn Độ… Người Bắc Hà có truyền thống đa thần, thờ nhiều vị thần linh
siêu hình, và họ tin rằng từ rừng núi đến đồng bằng, mỗi nơi đều có một vị thần
ngự trị, có ảnh hưởng đến đời sống con người (Montyon I, t. 266- 267).
3- Những điều chép của Barrow: Sách của Montyon có vài điểm
giống sách của Barrow chứng tỏ hoặc Montyon đã đọc sách của Barrow, hoặc họ
dùng chung tài liệu.
Về việc Nguyễn Ánh chạy trốn năm 1777, Montyon viết: “Người
thiếu niên Nguy-en-Chung [Nguyễn Chủng, Chủng là tên Nguyễn Ánh hồi nhỏ, chỉ những
người không biết rõ như Montyon hoặc những ai muốn hạ thấp Nguyễn Ánh, mới dùng
tên này] được mẹ dẫn dắt, trốn vào rừng, trong nhiều tháng dưới một lùm cây rậm
rạp…” (Montyon II, t. 22), đoạn này chép Barrow, mà chúng tôi đã trích dịch và
nói những điều sai, trong phần viết về Barrow.
Về Tây Sơn, Montyon viết: “Người em thứ nhì, Nguyễn Lữ là một
thiền sư, không thiết việc công, không có khả năng điều khiển, nhưng được giới
tăng lữ ủng hộ, và giới này ảnh hưởng đến quần chúng, tạo ra một bề ngoài công
lý, một giá trị cao cả cho đảng [Tây Sơn]” (Montyon I, t.19). Chỗ này Montyon
dùng chung tài liệu với Barrow nhưng viết rõ hơn.
Sách của Barrow và Montyon, đều nên dịch sang tiếng Việt, bởi
đó là những điều mà người ngoại quốc đầu thế kỷ XIX nhìn và viết về nước ta, với
những thông tin, phê phán đời sống dân tộc, từ tập tục đến cách ăn ở, tôn giáo,
lối xây nhà, đóng thuyền, kiến trúc cung điện Huế… một loại “toàn thư” nhỏ,
theo quan điểm ngoại quốc, khá khách quan, không có chủ ý bênh vực chính sách
thuộc địa. Dĩ nhiên có những cái sai không thể tránh được, nhưng chúng ta có thể
đính chính dễ dàng.
Điều đáng chú ý trong bộ sách của Montyon, ngoài những gì có
tính cách nghiên cứu dân tộc học, địa lý chính trị xã hội, tổ chức hành chính…
nói chung mà chúng ta có thể kiểm chứng lại qua bộ sách đồ sộ Khâm Định Đại Nam
Hội Điển Sự Lệ [thường gọi là Hội Điển, của Nội Các triều Nguyễn]; tác phẩm còn
đáng chú ý ở những điểm mà quốc sử không viết, hoặc viết thiếu, hoặc viết với
cái nhìn khác, cần đọ với tài liệu của người nước ngoài. Tóm lại, Montyon đưa
ra nhiều nhận định mới về Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, không thấy trong các sách
khác.
Về kiến trúc
Montyon nhận xét:
“Ở đây không thiếu gì chất liệu để xây dựng, nhiều đá đẹp, cứng
và bóng như cẩm thạch, có đất tốt để nung gạch, nhiều gỗ quý, đẹp. Dân tộc này
khéo léo, tinh xảo lạ lùng; tuy vậy kiến trúc lại khiếm khuyết; vì không biết
nguyên tắc; ngoài ra, thiên nhiên và luật hành chính cản trở việc xây dựng những
toà nhà cân đối, đẹp đẽ, hoành tráng. Ở nhiều nơi, sự ẩm ướt bắt buộc phải để
giữa tầng trệt và mặt đất một khoảng trống. Dân chúng không có quyền xây nhà bằng
đá và nhiều từng; những cơ sở lớn như chùa chiền và đền đài cũng làm bằng gỗ, để
khi bão, dễ chống đỡ, đỡ bị tàn phá. Rất nhiều dinh thự lớn chỉ có tường chính
làm bằng đá hay gạch, chỗ còn lại là gỗ cả. Nhà cửa không cân đối, tuy cũng có
chút đối xứng, trông như một khối nhiều nhà rộng, không ra hình dạng gì, tuy
nhiên, cái vô trật tự đó cũng có vẻ uy nghiêm riêng, nó phản ánh địa vị quan trọng
của người chủ nhà” (Montyon I, t. 148-149).
Nhận xét khá tinh tế, Montyon phê bình khắt khe kiến trúc Việt,
vì ông nhìn kiến trúc và trang trí theo quan niệm Âu châu, coi những gì Á Châu
làm là “không có nguyên tắc”. Điểm đáng chú ý ở đây: tuy chê, nhưng ông không
viết như những ngòi bút thuộc địa, thường cho rằng kiến trúc thành trì của người
Việt, toàn là Vauban do Puymanel xây dựng, trước khi người Pháp đến Việt Nam
không có gì cả!
Về cung điện Phú Xuân, ông viết:
“Những thành phố có nhiều nhà đẹp nhất là Bac-Kin, thủ đô Bắc
Hà và Phú Xuân, thủ đô Nam Hà, nơi hoàng đế ngự trị cùng gia đình và quân cấm vệ,
đây là một thành đài chiến đấu (forteresse). Quần thần và dân chúng ở ngoại
thành. Từ khi kinh đô Bắc bỏ trống, một phần vì bị chiến tranh tàn phá nhưng vẫn
để lại những di tích huy hoàng, thì Hoàng cung (le palais de l’Empereur) là
dinh thự đẹp nhất nước, có nhiều dinh cơ, vườn rộng mênh mông, có thành luỹ bao
quanh, chu vi hai, ba dặm [4 đến 8 cây số], có bốn cửa, theo đúng bốn phương
chính. Vào trong cung điện phải xuyên qua nhiều sân, có sân dành riêng cho trại
cấm vệ, sân dành cho chuồng ngựa và voi; cung vua hình vuông, hình thức đặc biệt
của bậc đế vương; bước lên mấy bậc cẩm thạch mới tới tiền đình. Cung điện có
hai tầng, nhiều sảnh đường lớn với rất nhiều cột, cơ man là vàng, trang hoàng kỳ
quái và nặng nề, trạm trổ không đẹp, những hình ảnh u ám, vàng dát không đạt hiệu
quả. Sự trang hoàng duy nhất đáng khen ngợi là những cột gỗ lim, rất cứng, đặc,
chắc, nâu sậm, thứ gỗ nổi tiếng đẹp, nhất là khi nó ngả sang mầu gụ, có vân giống
như cẩm thạch, chà bằng lá chuối thì gân nổi lên, nhẵn, bóng, đẹp như véc-ni hảo
hạng ngang ánh thủy tinh; những cột này phản chiếu ánh sáng, khiến ta liên tưởng
đến những lâu đài pha lê, kim cương, trong truyện thần thoại; nhưng chúng vĩ đại
mà không cân đối; những cột ở cửa cung điện có khi cao tới 40 pieds [12,96 m],
chu vi chân cột là 5 pieds [1,62m] lên trên thon dần, không có bệ, không có đầu.
Cột đặt thẳng trên một hòn đá vuông, chôn sâu dưới đất, trồi lên độ một hai tấc.
Nhất cung điện nhà vua, nhì đền chùa ngoài Bắc, lớn rộng và
tráng lệ hơn trong Nam. Vài du khách đầu óc nhỏ nhen, hiểu lầm, gọi chỗ chứa đồ
tế nhuyễn là đền” (Montyon I, t.149-151).
Có lẽ đây là sự mô tả sớm nhất của người ngoại quốc về cung
điện Huế khi Gia Long mới xây xong phần cốt lõi năm 1805, đó là Cung thành (sau
Minh Mạng gọi là Tử cấm thành) và điện Thái Hoà. Khi ấy, Kinh thành còn đắp đất,
đến năm Minh Mạng thứ 17 (1836) mới bắt đầu xây gạch (Đại Nam Nhất Thống Chí, tập
I, nxb Thuận Hoá, 1992, t.18).
Montyon không thoát khỏi đầu óc cố hữu của người Tây phương,
vẫn đem những mẫu mực về cái đẹp của người Âu để đọ và chê cách bài trí cung điện
của Gia Long.
Võ Liêm, trong bài La Capitale de Thuận Hoá (Huế) (Kinh đô của
Thuận Hoá (Huế), BAVH, 1916, III, (t. 277-288), đã chứng minh sự xây dựng Kinh
thành Huế do chính vua Gia Long thực hiện. H. Cosserat trong bài La citadelle
de Huế, Cartographie, sau khi trích dẫn Võ Liêm, lại khẳng định một lần nữa:
“Hai trích đoạn mà tôi vừa dẫn ở trên, như ta thấy, tuyệt đối chính xác, không
cho phép bằng bất cứ cách nào, có thể nghĩ rằng người Âu đã xa gần nhúng vào việc
xây thành đài Huế” (BAVH, 1933, tập I và II, t. 3-4).
Theo Hội Điển và Đại Nam Nhất Thống Chí, công trình xây cất
cung điện Huế trải dài suốt đời Gia Long sang đời Minh Mạng.
Phần Montyon mô tả chính là Hoàng thành và điện Thái Hoà, xây
năm 1805, Đại Nam Nhất Thống Chí ghi: “Chu vi 4 dặm linh, cao 1 trượng 5 thước,
dày 2 thước 6 tấc, xây gạch, nam và bắc đều dài 151 trượng 5 thước, đông và tây
đều dài 155 trượng 5 thước, mở bốn cửa: phiá trước là Ngọ Môn, phiá tả là cửa
Hiển Nhân, phía hữu là cửa Chương Đức, phiá sau là cửa Hoà Bình. Phiá trong Ngọ
Môn là điện Thái Hoà, là chính điện đại triều…” (ĐNNTC, tập I, t. 20).
Những thông tin này xác định kinh đô Huế là sản phẩm hoàn
toàn Việt Nam, không hề có bàn tay Pháp, cũng không theo kiểu Vauban, như
Cadière lập lờ xác nhận, sẽ nói đến sau.
Về chúa Trịnh và vua Gia Long
Montyon chỉ trích chúa Trịnh ở Bắc tàn ác độc tài và tỏ ý
kính phục đức độ của chúa Nguyễn trong Nam, ông viết:
“Trong thời gian ấy, Đàng Trong do các chúa cai trị, hầu hết
đều có tài, đức, một số là những vĩ nhân, tự luyện, tự học, đạt được sự kiên
quyết lớn lao, trở thành địch thủ của thế lực mà họ còn phụ thuộc vào [chỉ chúa
Trịnh].(…) Người nổi tiếng nhất là Hien- Nquien-Vuong [Chúa Hiền Nguyễn Phước Tần],
nhờ ông mà Đàng Trong chiếm thêm một phần đất Chiêm Thành, thêm những tỉnh ven
biển của Chân Lạp, và kiện toàn nền văn minh Đàng Trong” (Montyon II, t.
14-15). Montyon kê khai tên các chúa trong Nam khá đầy đủ, chỉ thiếu Quốc Chúa
Nguyễn Phước Chu (1691-1725). Sự nhận xét về các chúa cũng đúng, đặc biệt ông
biết chúa Hiền Nguyễn Phước Tần là bậc anh hùng, trong khi ở các tài liệu của
nhà dòng thời ấy, chúa Hiền bị các thừa sai gọi là “bạo chuá”.
Về vua Gia Long, Montyon viết:
“Vua Nam Hà, bị đánh đuổi, lẩn trốn, rồi trở lại đất mình. Lại
bị đuổi đánh, lại trở về. Bao lần thắng, bại, cuối cùng khôi phục được ngai
vàng, nhờ quyền thừa kế, nhờ sức chinh phục, ông thu hồi cả miền Bắc, quan trọng
hơn; và như thế trong vùng bán đảo Ấn Độ, ngoài cõi sông Hằng, một cường quốc
chưa bao giờ lớn như thế xuất hiện. Qua bao thăng trầm trôi nổi, ta đã thấy một
bên là những ý đồ thâm sâu phối hợp như thế, những bất trung bất nghiã quỷ quyệt
như thế, những mưu lược cả gan, kỳ lạ như thế, những cảnh tượng bi đát và tàn
nhẫn như thế; một bên là sự can đảm chống lại những bất hạnh như thế, một thiên
tài trác tuyệt như thế, và cuối cùng đưa đến một kết quả [bất ngờ] không liên lạc
với những gì đã xẩy ra trước đó như thế [chỉ sự thống nhất đất nước]; từ những
biến cố này, nổi bật lên một dấu ấn phi thường, không giống bất cứ lịch sử của
một xứ nào, của một thế kỷ nào, cổ xưa hay hiện đại” (Montyon II, t. 3-4).
Chân dung Gia Long, do Montyon phác thảo, cũng khá gần gụi gụi
với những mô tả của Le Labousse, Barrow, mà chúng tôi đã trình bày trong chương
trước. Và ông cũng xác định Gia Long khôi phục được ngai vàng, nhờ quyền thừa kế,
nhờ sức chinh phục, chứ không phải nhờ sự giúp đỡ của những người lính Pháp,
như sau này người ta tìm cách thêu dệt nên.
Anh em Tây Sơn bất hoà
Về việc anh em Tây Sơn đánh nhau, Montyon viết: “Quá mạnh để
chấp nhận ông anh là bề trên, Huệ sai người đến trình bày với anh là mình muốn
đứng riêng một cõi. Người anh nổi giận, sai chặt đầu các sứ giả của Huệ, và lên
cơn tàn bạo quá đáng. Quang Trung trả thù, cầm quân đến đánh anh. Nhưng kết quả
của sự phân liệt này là họ hội đàm với nhau về tình hình nổi dậy ở miền Nam, và
bắt buộc họ phải bỏ qua thù hận” (Montyon II, t. 28).
Sự “Nhạc chặt đầu các sứ giả của Huệ”, không thấy ghi ở đâu.
Có thể Montyon đã đọc thông tin của một vị thừa sai sống trong triều đình Thái
Đức. Nếu đúng, đây là một nguyên nhân gần, cần tìm hiểu thêm, nó giải thích lý
do tại sao Nguyễn Huệ đem binh vây Qui Nhơn, mà các nhà nghiên cứu thường chỉ
đưa ra giả thuyết vì “Huệ không chia cho anh của cải cướp được ở Bắc Hà”.
Về việc lính Pháp giúp Nguyễn Vương
Montyon có lẽ là người Pháp hiếm hoi viết một câu như sau:
“Vài sĩ quan Pháp theo giúp Nguyễn Chủng, tập cho quân sĩ kỷ cương và vài nhà
buôn Pháp bán tàu cho ông.
Dân chúng mỏi mệt vì chiến tranh, và cũng vì kiệt sức hai bên
tạm dừng trong một thời gian: nhưng Nguyễn Chủng lợi dụng cơ hội này để xây dựng
đồn luỹ theo lối Tây phương, làm tàu chiến theo mẫu những tàu Pháp mà ông mua
được” (Montyon II, t. 34).
Điều Montyon xác nhận “vài sĩ quan Pháp theo giúp Nguyễn
Vương” sẽ được chứng minh dần dần qua các tư liệu. Những ngòi bút thuộc địa thổi
phồng con số lên thành vài trăm.
Về kỹ nghệ đóng thuyền và thuyền chiến bọc đồng của Việt Nam
Về kỹ nghệ đóng thuyền ở Việt Nam, Montyon, trong phần trích
dẫn dưới đây, so với những gì Barrow viết về việc này (đã trích dẫn trong
chương 4) cho thấy hai người có những điểm đồng quy, nhưng Montyon có thêm những
thông tin khác:
“Về việc đóng thuyền, nước này [nước Nam] có một kỹ thuật đặc
biệt: những tấm ván làm thuyền được buộc chặt với nhau bằng dây mây, thay đinh,
lối ráp này khiến thuyền uyển chuyển hơn, đặc biệt chống lại sóng biển.
Những thuyền lớn, ngoài tay lái thường, còn một tay lái phòng
hờ có hình thể đặc biệt. Tay lái thường, ngắn, được gắn gần như thẳng góc; tay
lái khác thường dài hơn, được gắn gần như nằm ngang: khi gió to, người ta dùng
tay lái khác thường, khiến tàu đi nhanh hơn. Khi biển động, dùng cả hai tay
lái.
Tàu đi gần biển nhỏ hơn tàu của người Hoa, có hình dạng cổ
xưa, thuỷ bàn (vành đỡ nước) còn khiếm khuyết nên tàu đi chậm.
Ít lâu nay, người Bắc Hà làm tàu đi bể theo lối Tàu, nghiã là
phân chia hàng hoá ra từng ngăn riêng dành cho mỗi chủ, bằng ván gắn vào tàu và
trét các kẽ hở cho kín để nước không thấm được; vì vậy, khi tàu nhận một cú sốc
mạnh, không bị rối loạn ngay tức khắc, và khi tàu bị thủng một lỗ hổng nước chảy
vào, cũng dễ biết lỗ ấy ở đâu.
Tàu chiến chia làm 2 loại: thuyền buồm nhiều tay chèo
(galère) hoặc chiến hạm (vaisseau). Thuyền chiến buồm, dài từ 50 đến 80 pieds
[16,20m đến 25,92m] làm bằng ván dài như chiều dài thuyền. Mỗi bên có một hàng
người chèo, trang bị từ 15 đến 20 đại bác, từ 6 đến 12 đơn vị đạn.
Chiến hạm, lớn hơn, thân tàu vững hơn và kiến trúc tốt hơn
tàu Trung Hoa. Từ vài năm nay, còn có biến chuyển thuận lợi: chấp nhận phương
pháp Âu châu để làm tàu, nhưng phần cột buồm và cánh buồm chưa hoàn hảo, nhiều
cột buồm còn làm bằng một thân cây độc nhất, không vững như khi được giữ bằng
các ngăn trong tầ\àu, lại không có đài (hune) trên cột buồm nên lái khó; trục
buồm buộc vào cột buồm, chỉ ở hai đầu chứ không ở giữa, cánh buồm được bố trí
khá nghệ thuật, để cắt gió, nhưng vì làm bằng lá hay những chất khác không bền
như gai, nên không vững chống gió; khi bị thấm mưa, phải tưới nước bể lên, và
dù bị thấm nước gì, nếu không khô ngay trong vòng 24 tiếng đồng hồ thì sẽ bị mục.
Việc bọc đồng và những kỹ thuật tân tiến khác cũng đã được biết
đến, nhờ sự kiểm tra các tàu Tây phương, nhưng chưa thấy thực hiện.” (Montyon
I, t. 128-130).
Montyon và Barrow, dường như dùng hai tài liệu khác nhau,
nhưng gặp nhau ở điểm: kỹ thuật đóng tàu của Việt Nam khác với kỹ thuật Tây
phương.
Montyon đặc biệt chú ý đến tay lái khác thường của tàu chiến
Việt Nam:
Những thuyền lớn, ngoài tay lái thường, còn một tay lái phòng
hờ có hình thể đặc biệt. Tay lái thường, ngắn, được gắn gần như thẳng góc; tay
lái khác thường dài hơn, được gắn gần như nằm ngang: khi gió to, người ta dùng
tay lái khác thường, khiến tàu đi nhanh hơn. Khi biển động, dùng cả hai tay
lái.
Sự “khác thường” này, chúng tôi lại thấy Trịnh Hoài Đức có viết.
Trong đoạn nói về việc chặt cây, lấy gỗ, làm lạt, đóng tàu thuyền; ông ghi sự
sáng tạo của Đỗ Thanh Nhơn, đặc biệt trong việc đóng tàu chiến, có câu:
“Tháng 7 năm Canh Tý (1780)… Thanh Nhơn mới sáng chế đóng
thuyền chiến, làm bánh lái dài để đi đường biển yên ổn, nhưng vẫn để bánh lái
tròn khi trước để dùng khi đi đường sông, gọi là thuyền hai bánh lái, phiá trên
gác sàn chiến đấu, hai bên treo phên tre để che cho thuỷ binh ở dưới chuyên lo
chèo chống, trên thì bố trí bộ binh để xung kích, nhờ vậy mà kỷ xảo của thuỷ sư
càng tinh nhuệ, đến nay [khoảng 1820] cũng vẫn theo” (Trịnh Hoài Đức, Vật sản
chí, Gia Định Thành Thông Chí).
Theo Montyon, khi ông viết những dòng này (vào khoảng sau
1800) thì Nguyễn Vương đã biết các kỹ thuật mới như tàu bọc đồng, nhưng chưa áp
dụng. Nhưng có lẽ ông lầm, Nguyễn Vương có tàu bọc đồng từ rất sớm, bằng cách
nào thì ta sẽ phải điều tra thêm. Chỉ biết:
“Ngày 9/4/1785 (ngày 1/3Ất Tỵ), Nguyễn Ánh sang Xiêm với 30
quần thần, 200 quân và 5 chiến thuyền: Phượng Phi, Bằng Phi, Hùng Trì, Chính
Nghi, Thuyền Ô” (TL, I, t. 223).
Điều này chứng tỏ Nguyễn Ánh đã mua hoặc đã đóng được thuyền
bọc đồng (vì Phượng Phi và Bằng Phi là tàu bọc đồng) từ năm 1785. Tàu Phượng
Phi năm 1790 giao cho Trần Văn Học và Nguyễn Văn Chấn (Vannier) cai quản (Liệt
truyện II, t. 282). Tháng 3/1801, Long phi, Phượng phi và Bằng phi giao cho
Nguyễn Văn Thắng (Chaigneau), Nguyễn Văn Chấn (Vannier), và Lê Văn Lăng (de
Forcanz) điều khiển (TL, I, t. 432).
Liệt truyện về Võ Di Nguy, ghi: “Năm Mậu Thân [1788], mùa
thu, lấy lại được thành Gia Định, vua gọi Di Nguy về, sai coi thuyền Nội thủy,
Trung thủy, bổ làm Khâm sai thuộc nội cai cơ, đốc làm thuyền Đại Chiến, thuyền
Hải Đạo.”
Và: “Năm Ất Mão [1795] quân giặc vào Đà Diễn, Di Nguy đem
thuyền quân tiến sát đến đảo Sầm, hợp với Trương Phúc Luật đánh giữ, giặc phải
lui. Di Nguy cùng ngay với Phạm Văn Nhân đem Tả quân đi thuyền lớn bọc đồng chạy
đến thành Diên Khánh.” (LT, tập 2, t. 121).
Như vậy, ngay từ năm 1785, Nguyễn Ánh đã có thuyền chiến bọc
đồng, năm 1788, sai Võ Di Nguy đốc làm thuyền Đại Chiến, thuyền Hải Đạo.
Vậy, Montyon cũng như Le Labousse đều chép lầm khi tưởng rằng
đến năm 1800, Nguyễn Ánh mới đóng được tàu bọc đồng, như trong thư ngày
24/4/1800 của Le Labousse, được nhiều người trích dẫn.
Thêm một chứng nữa, là trong Hịch của Quang Trung tháng
8/1792 (sẽ đăng kỳ tới) cũng nói đến tàu bọc đồng, vậy có thể xác định chắc chắn
là Nguyễn Vương đã có tàu chiến bọc đồng từ trước 1792, có thể vào năm 1788,
khi sai Võ Di Nguy đóng thuyền Đại chiến và thuyền Hải đạo.
Theo bản thống kê của Hội điển về các tàu thuyền ở Huế, không
ghi rõ năm, nhưng ta hiểu đó là đầu đời Gia Long, vì thời Minh Mạng đã bắt đầu
có tàu chạy bằng hơi nước hay máy:
“Ở Kinh sư có 265 chiếc. (Các hạng thuyền bọc đồng 29 chiếc,
thuyền vận chuyển đường biển 10 chiếc, thuyền vận chuyển đường sông 3 chiếc,
thuyền vượt biển lớn 25 chiếc, thuyền vượt biển vừa 15 chiếc, thuyền vượt biển
nhỏ 10 chiếc, thuyền tàu Ô 9 chiếc, thuyền sơn đỏ 6 chiếc, thuyền sơn đen 14
chiếc, thuyền đầu nhỏ 2 chiếc, thuyền con 19 chiếc, thuyền xuồng 11 chiếc, thuyền
xuồng kiểu mới 6 chiếc. Các hạng thuyền con 34 chiếc, thuyền lồng 2 chiếc, thuyền
nhẹ 11 chiếc). (Hội Điển, Bản nxb Thuận Hoá, 1993, Tập 13, quyển 205, t.
16-17).
Sau chiến tranh, mà Huế còn 29 tàu bọc đồng, vậy trong thời
chiến, Nguyễn Vương có bao nhiêu tàu bọc đồng? Chắc chắn không chỉ có ba tàu
Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi, do Chaigneau, Vannier và de Forcanz điều khiển,
được các sử gia thuộc địa hết sức đề cao, coi như chỉ có “người Tây” mới điều
khiển được “tàu Tây bọc đồng”.
Gia Long trực tiếp điều khiển việc đóng tàu
Như trong chương 6, Chân dung vua Gia Long, tất cả các tác giả
đều nói Nguyễn Ánh trực tiếp điều khiển mọi việc, ở đây, Montyon lại xác định
thêm một lần nữa:
“Ông [Gia Long] là người giỏi nhất về chiến thuật, là kỹ sư
giỏi nhất, là người kiến trúc tàu giỏi nhất, ở xứ ông”. Và ông chú thích: “Để
thu thập kiến thức đóng tàu, ông không làm như César Pierre đệ nhất, là cầm
búa, cũng không trở thành thợ mộc, mà ông mua một chiến hạm kiến trúc Tây
phương, rồi tháo ra từng mảnh và lắp lại, để biết rõ đối tượng: về tính chất
kiên cố, về chủ lực của nó và về sự chắp nối tất cả những thành phần khác
nhau.” (Montyon II, t. 52).
Việc Gia Long mua tàu chiến của Tây phương làm mẫu, Barrow có
ghi lại và Le Labousse cũng viết trong thư ngày 28/4/1800. Theo Hội điển,
phương pháp làm tàu thời Minh Mạng đã tiến dần đến “kỹ nghệ hoá”: chế mẫu sẵn từng
mảnh của mỗi loại thuyền, tàu, thợ cứ theo thế mà ráp, lắp.
Trở lại việc lấy một tàu Tây phương làm mẫu, việc này đã có từ
thời chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên (1613-1635), chúa đã lấy những tàu Tây phương
bị bão dạt vào bờ làm mẫu, để hiện đại hoá tàu thuyền của mình. Vì thế, chúa Hiền
Nguyễn Phước Tần (1648-1687), khi còn là Thế tử Dũng Lễ Hầu đã thắng hạm đội của
Hoà Lan ở Cửa Eo (cửa Thuận An) năm 1644.
Người đọc hôm nay sẽ hỏi: làm sao có thể đóng tàu bằng cách
tháo ra ghép lại như Nguyễn Ánh làm? Nhưng ở cuối thế kỷ XVIII, sự tiến bộ về
khoa học của Tây phương chưa thực xa, tàu Tây và tàu Ta, chưa khác nhau nhiều.
Trong phim The Bounty của Roger Donaldson (I984) với Mel Gibson và A. Hopkins,
đạo diễn đã thiết kế rất rõ chiếc tàu chiến buồm của quân đội hoàng gia Anh năm
1787, và mô tả cuộc sống, trình độ lính thủy và các sĩ quan. Chúng ta có thể
xem phim này để hiểu điều kiện sống tên tàu, tại sao lính thuỷ đào ngũ, khi tới
châu Úc, châu Á, những vùng đất hứa; và lại có người bỏ tàu đi đánh thuê cho
Nguyễn Ánh hoặc đi buôn, tìm của, tìm vàng… Chuyện những thủy thủ nổi loạn trên
tàu The Bounty, cho chúng ta những bức hình nổi của các chuyến tàu Tây phương
sang Á Châu thời ấy.
Barrow và Montyon đều cho biết Gia Long không làm tàu giống hệt
Tây phương, mà chỉ lấy những cái hay của tàu Tây và giữ lại cái hay của tàu Việt.
Tổ chức quân đội của Nguyễn Ánh
Hầu hết các sử gia thuộc địa đều cho rằng những người Pháp
đóng vai trò hàng đầu trong tổ chức quân đội của Nguyễn Ánh, chính họ đã xây dựng
nên quân đội này và giúp Nguyễn Ánh khôi phục lại ngai vàng. Chúng ta cần tìm
hiểu rõ tổ chức quân đội đó là gì? Được cấu trúc như thế nào? Những người Pháp
đã giữ những chức vụ gì trong đó và họ đã lập những chiến công nào? Montyon là
người biết khá rõ về tình trạng quân đội của Nguyễn Ánh, nhờ những điều ông viết,
mà ta có được hình ảnh rõ nét của tổ chức binh bị này; trước hết, về đời sống
quân ngũ, y phục, khí giới, sau đến cách chia đơn vị và bộ chỉ huy.
Về điều kiện sống và quân phục dưới thời Gia Long, Montyon viết:
“Khẩu phần lính mỗi ngày là một đọi [tô] rưỡi gạo, tức là vào
khoảng 5 hay 6 cốc café của chúng ta [Pháp] do vua ban. Còn lương bổng và quần
áo thì địa phương lo (…) Thấp nhất là 2 quan tiền một tháng, cao nhất là 6 quan
tiền [tác giả chú thích: chiếu theo giá đồ ăn rất rẻ thời đó, thì nghi có sự
sai lầm trong thông tin] nên có bất công trong sự khác biệt này.
Lính được phát y phục một năm hai lần, gồm có một áo nịt mặc
sát người, bằng vải hay lụa, thô; trên áo nịt là một áo chiến bằng toan hay nỉ
dầy mua của Tàu có lẽ buôn từ Âu châu sang. Áo chiến tay rộng, cổ đứng, dài tới
ngang lưng, quần dài quá đầu gối; ống chân và bàn chân để trần. Đầu đội mũ tròn
có chóp, trang trí bằng một chùm lông gà. Mũ bằng rơm hay sợi tre bện lại, đánh
vec-ni, không thấm nước, đầu quấn một mảnh vải hay lụa dài 15 đến 20 pieds [4,
86m đến 6, 48m] để tránh bị kiếm chém, có mũ đội lên trên.
Tất cả quần áo này, trừ áo nịt, là đồng phục, mầu đỏ quốc
gia, có vài dấu hiệu để phân chia binh chủng khác nhau. Người lính đeo trên cổ
hai túi nhỏ, một đựng trầu cau và túi kia để thuốc lá. Ngoài ra, còn khoác trên
vai một túi dết đựng quần áo cũ, tiền bạc và khi đi hành quân ở những nơi không
có trạm lương thực, họ đem theo gạo ăn cho sáu bẩy ngày”.
Về trang bị vũ khí và cách dàn trận, chiến đấu, Montyon viết:
“Hoàng đế cung cấp vũ khí: mỗi người một súng trường và dao
nhọn cắm đầu súng, một thanh kiếm, một thương dài, một búa, một gậy chập hai: tức
là hai gậy bằng nhau, gỗ rất cứng, đầu bó vào nhau bằng một chùm tóc nhồi vào
trong. Đó là thứ vũ khí kinh hồn nhất: khi biết sử dụng, bằng một cử động chớp
nhoáng, nó chém đứt kiếm, thương, và chặn đạn.
Khí giới và cách vận dụng đã tiến triển nhiều. Người ta còn
mua của Anh và Pháp súng máy và súng lưỡi lê. Hiện nay, hầu như tất cả quân đội
Bắc Hà đều được trang bị như thế, còn súng hoả mai rất hiếm.
Hoàng đế cung cấp cho quân đội đại bác Âu châu, tốt hơn đại
bác bản xứ. Trong những công binh xưởng, khí giới được quản lý kỹ, số lượng rất
lớn, cất giữ chỗ kín để tránh bọn bất lương nhòm ngó.
Dụng cụ âm nhạc trong quân đội là trống, cũng giống như trống
Âu châu, còn thêm trống chuông, ống tiêu, các loại kèn khác nhau, chũm choẹ
(cymbale), hai miếng gỗ gõ vào nhau. Quân nhạc khá hay, nhưng hơi ồn, cho phép
quân đi đúng điệu.
Thuốc súng chế tạo đã tốt hơn trước, nhưng vẫn chưa bằng thuốc
súng của người Âu; cháy chậm hơn, và nổ nhỏ hơn”.
Như vậy, cả hai miền Nam Bắc đều mua khí giới của nước ngoài,
để bổ sung cho phần vũ khí chế tạo trong nước. Montyon cho rằng cách luyện tập
chiến đấu cũng đã ít nhiều được hiện đại hoá theo lối Tây phương, ông viết:
“Các quan chỉ huy, điều khiển trận địa bằng những lá cờ nhỏ,
vị trí và hướng cờ chỉ lệnh. Nhưng khi đánh nhau, các quan không đi trước: cai
đội đi sau đội quân, trưởng hiệu đi sau hiệu quân.”
“Nói tóm lại, trại quân, dàn trận, chiến đấu, tất cả đều được
điều khiển theo lối Tây phương, tuy nhiên cách vận dụng khí giới chưa được khéo
léo, mau lẹ; mất nhiều thì giờ để lên đạn, bắn chưa trúng lắm, đại bác chưa biết
nhắm trúng.
Trong những trận đánh cuối cùng, người ta đã dùng pháo bay
(artillerie volante), hiệu quả vô cùng, người trong nước [chỉ quân hai bên] sợ
lắm; họ bảo đó là sấm dây và là khí giới tàn phá không thể chống lại được“.
“Hệ thống đồn lũy theo kiểu châu Âu đã được sử dụng để xây
thành đài, không thể xâm nhập được khi bị những người trong nước bao vây” [chỉ
quân hai bên, ở đây nói đến sự kiên cố của thành Diên Khánh, bị hai bên đánh đi
chiếm lại nhiều lần, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề Diên Khánh sau] (Montyon I, t.
254-258).
Thuỷ binh
Theo thư Victor Olivier (de Puymanel) gửi Stanislas Lefèbvre
ngày 16/4/1798, thì hải quân của Nguyễn Ánh lúc đó [1798] gồm 447 chiến thuyền
và 42.000 người (Salles, Jean Baptiste Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, I,
t. 54).
Thuỷ binh là sức mạnh của quân đội Nguyễn Ánh, chuyển động rất
nhanh khi thuận gió mùa. Theo Montyon, thủy binh được trang bị vũ khí như sau:
“Thủy binh được tổ chức như bộ binh. Thủy thủ là những người
lính, khí giới chỉ khác [bộ binh] là thương của họ dài hơn. Lực lượng thủy quân
quan trọng hơn [lục quân], khi các vùng -hiện nay đã quy vào một mối- còn dưới
sự lãnh đạo của nhiều lãnh tụ. Vì các “nước” này đều nằm trong vịnh, nên một bờ
biển có thể tấn công dễ dàng bờ biển khác, đường biển ngắn hơn đường bộ nhiều.
Vua Nam Hà khi còn dẹp loạn, chỉ mới chiếm lại vài tỉnh, mà
đã có 200 thuyền chiến buồm (galères) và 25 chiến hạm (frégates) trang bị 10 đại
bác, ngoài hai cỗ ở đầu và cuối tàu.
[Sau chiến tranh] số thuyền tàu đã giảm đi, nhưng được vẽ lại
kiểu, trước hết là phần dưới, rồi đến phần trên, và sau cùng là cột buồm. Có
thuyền chiến (barque de guerre) chở 50 người và những tàu nhỏ (chaloupe) trang
bị 25 đại bác và đằng trước có một khẩu đại bác dài, nhỏ kiểu xưa (coulevrine).
Những tàu thay thế thuyền chiến buồm, lớn hơn và tốt hơn, trang bị từ 12 đến 20
đại bác, từ 6 đến 12 đơn vị đạn. Ngoài ra hạm đội còn được tăng cường bằng những
tàu chiến mua của người Âu.
Từ khi hoà bình, hoàng đế đã quy tụ được tất cả các sức mạnh
thủy binh chống đối dưới trướng, ông coi nhẹ thủy binh hơn trước, bởi không thật
cần thiết nữa; hai phần ba lính thủy được cải chế và sát nhập vào bộ binh; ông
không mua tàu ngoại quốc nữa và cũng ít đóng thêm tàu. Còn ba chiến hạm được giữ
lại trong số những tàu đã mua, cũng không dùng đến, để mắc cạn trong bùn, 200
chiến thuyền khác chỉ dùng chở gỗ, lương thực, hàng hoá, là thứ thuế đóng bằng
sản vật, dành để cung cấp tư liệu cho những đồ chế biến của nhà nước.
Mặc dầu chưa biết rõ lối đóng tàu biển theo kiểu Tây phương,
và cũng chưa biết thuật vận dụng, thêm những người chỉ huy không biết thuật sơ
đẳng của thủy binh; và khi thủy binh không có kiến thức, không biết dùng địa
bàn (boussole), thì không thể làm gì được cho sự vận chuyển, cho những cuộc hải
chiến.
Tuy nhiên điểm làm cho thủy binh này rất dữ dội, đó là những
hoả pháo to bằng cánh tay, chứa đựng hoả chất dùng để đốt phá thuyền, tàu địch;
nước ở dưới tàu, thay vì dập tắt lửa, lại làm cho lửa bùng lên, chỉ có thể dập
tắt bằng đất; người ta cũng dùng hoả pháo này trên bộ, nhưng nó bớt nguy hiểm
hơn vì dễ dập tắt.” (Montyon I, t. 258-261).
Những thông tin trên đều rất đáng chú ý, duy có nhận xét: “những
người chỉ huy không biết thuật sơ đẳng của thủy binh, không biết dùng địa bàn,
không biết vận chuyển”… cần phải xét lại, bởi nếu quả thực tình trạng chỉ huy
như thế thì ai là người cai quản hạm đội Kinh đô gồm 265 chiếc tàu thuyền, với
29 tàu bọc đồng, 25 thuyền vượt biển lớn, v v… ghi trong Hội điển? Và lấy gì giải
thích các chiến thắng của Nguyễn Vương trên quân đội Tây Sơn, phần lớn dựa vào
thủy chiến?
Ngoài ra, “hoả pháo” mà Montyon nói tới ở đây, không biết có
phải là “Hổ lửa” mà Tôn Sĩ Nghị nói tới trong điều thứ năm của bản Tám điều
quân luật, răn tướng sĩ, như sau:
“Quân Nam không có “sở trường” gì khác. Họ chỉ dùng các “ống
phun” làm thứ lợi khí. Thứ lợi khí ấy gọi là “Hổ lửa”. Trong khi hai bên giáp
nhau họ dùng vật ấy đốt cháy quần áo người ta, để cho người ta phải lui. Nhưng
cái thuật ấy cũng chỉ như thế mà thôi, so với súng ống của ta còn kém xa lắm.
Hiện đã chứa sẵn vài trăm “lá chắn” bằng da trâu sống, nếu gặp “ống phun” của
người Nam phun lửa, quân ta một tay chắn đỡ lửa, một tay cầm gươm chém bừa, họ
sẽ phải lướt ngã” (Hoàng Lê nhất thống chí, t. 283).
“Hổ lửa” có lẽ không dễ dập tắt như vậy, cho nên Tôn Sĩ Nghị
đã không đại thắng. Những người ngoại quốc khi đến nước Nam có ý kinh mạn thường
hay gặp chuyện bất ngờ.
Tình trạng dân chúng trong chiến tranh
Theo Montyon, trong chiến tranh Nguyễn Ánh-Tây Sơn, người dân
không bắt buộc phải theo phe nào, họ có quyền đứng trung lập, ông viết:
“Chiến tranh ở xứ này đã gây những tàn phá lớn lao, tàn ác
khôn lường, tuy nhiên có những trường hợp các tướng đã thiết lập một quân lệnh
nghiêm minh chưa từng thấy ở Âu châu; trong cùng chiến tranh này, người ta thấy
một binh đội tiến đánh quân Tàu xâm nhập miền Bắc lãnh thổ trên đường đi dùng bạo
lực, cướp bóc, vô cùng tàn ác, bắt tất cả những ai có thể cầm khí giới phải đi
theo, nếu không thì giết; không chịu tiếp tế cho quân đội hay lẩn trốn thì bị đốt
nhà; người già, đàn bà, trẻ con không còn gì để ăn.[Đoạn này viết theo
Bissachère chỉ thái độ của quân Quang Trung khi đi đánh quân Thanh, nên rất sai
lầm; Thực Lục và Liệt Truyện, ghi rõ và đúng hơn]. Nhưng trước đó ít lâu, một
đoàn quân khác [quân Tây Sơn] đến vây thành của vua Nam Hà [Gia Định] nhận được
kỷ luật sắt: lính không được lấy gì của dân mà không trả đúng giá, không được
vào nhà dân mà không được họ cho phép. Binh lính hai bên đánh nhau, dân đứng
nhìn, tiếp tế cho quân đội và được trả đúng giá những gì họ cung cấp, chỉ bắt
buộc phải công nhận người chiến thắng làm minh chủ.
Đây cũng là một nhận xét về cuộc chiến khá đặc biệt, cho ta
hiểu rõ hơn tâm lý người dân, tại sao dân miền Nam có thể sống còn qua bốn lần
Nguyễn Huệ đem quân vào Gia Đinh đánh đuổi Nguyễn Ánh, rồi lại trở về Trung. Và
Nguyễn Ánh, sau bốn lần thua chạy, vẫn đương nhiên trở lại Gia Định và được quần
chúng chấp nhận.
Tổ chức quân đội thời Lê
Phần cốt lõi của vấn đề là Nguyễn Ánh tổ chức quân đội theo
cách nào, người Pháp có nhúng tay vào không, hay Nguyễn Ánh vẫn giữ truyền thống
quân đội Việt, đời Lê?
Theo Phan Huy Chú, về cơ bản, quân đội Việt Nam từ thời Lê
trung hưng chia ra như sau:
“Binh chế đời Lê, từ Trung hưng trở về sau, đặt làm: Dinh,
Cơ, Đội, Thuyền; Bộ binh là Dinh, Cơ, Đội; Thuỷ binh là Thuyền. Dinh lớn thì
800 người, thứ đến 160 người. Cơ lớn thì 500 người, thứ đến 200 người. Đội lớn
thì 275 người, thứ đến 15 người. Thuyền lớn thì 86 người, thứ đến 20 người. Có
12 Dinh; 58 Cơ, 238 Đội và 62 Thuyền, đại lược là như thế” (Lịch triều hiến
chương, Binh chế chí, tập III, t. 22).
Nhưng Phan Huy Chú cũng lưu ý đến số quân đời Lê, mà ông cho
là thống kê không phù hợp: “Các quân trong, ngoài, đại đa số bất quá 56.500. Đến
đời Cảnh Hưng [1740-1786] lại đặt thêm 24 cơ vệ binh. Tổng số binh chỉ được hơn
65.700 người thôi, tôi [Phan Huy Chú] từng lấy làm lạ, binh của nhà Lê, ở buổi
đầu có việc gọi ra đến 20 vạn người, khi mới trung hưng chỉ lấy binh ở hai xứ
cũng đến hơn 12 vạn, mà sau đời Bảo Thái lại tuyển thêm, đời Vĩnh Hựu lại mộ
thêm, đời Cảnh Hưng lại đặt thêm vệ binh, thế mà số quân lại không đầy 7 vạn là
cớ làm sao?” (Lịch triều hiến chương, t. 22-23). Phan Huy Chú cho rằng, đầu đời
Lê, luật tắc nghiêm minh, ghi chép cẩn thận, không ai trốn lính được. Đến các đời
sau, không nghiêm cẩn, ẩn lậu nhiều, ghi chép không cẩn thận, nên số quân sai
và kém đi. Montyon, không biết lấy tài liệu nào, chép quân số Bắc Hà là 140.000
người, tức là gấp đôi con số ghi nhận chính thức.
Tổ chức quân đội thời Nguyễn Ánh
Thời Nguyễn Ánh, Montyon ghi chép khá rõ ràng, trước hết về
tình trạng chung:
“Năm 1806, tình trạng quân đội thời bình là 150.000 người.
(…) Thời chiến quân đội gia tăng tuỳ theo tình hình chiến trận. Trong thời kỳ nội
chiến, tất cả những ai có thể cầm được vũ khí đều phải tòng quân; và năm 1800,
năm mà hoàng đế còn là vua Nam Hà, chưa chinh phục xong cả nước, mà quân đội của
ông cũng đã lên tới 139.400 người (…) người ta chắc chắn rằng trong thời bình,
quân đội Bắc Hà có 140.000 người” (Montyon I, t. 250).
“Lực lượng quân đội được chia làm 6 Dinh (Armées): Dinh I,
phòng vệ vua, ít quân nhất. Bốn dinh kế tiếp được 4 đại thần cột trụ triều đình
thống lãnh. Dinh thứ sáu, đông nhất, được một vị đại thần đặc biệt do hoàng đế
chỉ định, điều khiển.
Mỗi Dinh lại được chia thành 5 Chi (Corps), Chi thứ nhất đóng
bên quan Đại thần và cũng là tướng chỉ huy. Bốn chi kia, mỗi chi do một tướng
nhị phẩm điều khiển. Chi lại chia làm Hiệu (Vệ hay Cơ) (Régiment) do một chánh,
phó Trưởng hiệu (Colonel ou Sous-colonel) đứng đầu. Mỗi Hiệu (Vệ, Cơ) gồm 12 Đội
(Compagnie). Mỗi đội có 50 hay 60 người, do một Cai đội (Capitaine hay
Sous-capitaine) điều khiển. Lính được chia thành nhóm 10 người, do đội trưởng
(Premier soldat) chỉ huy. Có 7 phẩm ngạch quan võ, Cai đội (Capitaine) là ngạch
cuối cùng. (Montyon I, t. 252).
Montyon dịch khá sát những chức vụ trong quân đội Việt, so với
Thực Lục tháng 6/1790 (tháng 5 ÂL) ghi: “Năm dinh Trung quân, Tả quân, Hữu
quân, Hậu quân và Tiên phong, mỗi dinh đều là 5 Chi, mỗi chi 5 Hiệu, mỗi Hiệu 3
Đội, mỗi Đội 4 Thập” (TL, I, t. 259). “Chi đặt chánh phó Trưởng chi, Hiệu đặt
chánh phó Trưởng hiệu, Đội đặt Cai đội, thập đặt Đội trưởng”. (TL, I, t. 260).
Theo Thực Lục, ở thời điểm 1790, những ông tướng cầm đầu các
Dinh là: Lê Văn Quân làm Chưởng dinh Tiền Quân. Tôn Thất Hội làm Chưởng dinh Hậu
quân. Nguyễn Huỳnh Đức làm Chưởng dinh Hữu quân. Võ Tánh làm Chưởng dinh Tiên
phong. Nguyễn Văn Thành chỉ là Hiệu úy tiền chi Trung quân, có thể chính Nguyễn
Ánh trực tiếp chỉ huy Trung Quân. Tháng 7/1793, Lê Văn Duyệt vẫn còn làm Cai đội.
Đến tháng 12/1793, mới được thăng Vệ Uý.
Tóm lại, khoảng 1790, bộ binh của Nguyễn Ánh chia đơn vị như
sau: Thập: 10 người; Đội: 40 người; Hiệu (Vệ, Cơ):120; Chi: 600; Dinh: 3000. Thời
ấy còn ít quân, sau có thay đổi.
Montyon cho rằng, năm 1800, có khoảng 139. 800 người (theo thống
kê của Barisy). Riêng bộ binh được phân chia như sau: Đội: 50-60 người; Hiệu (Vệ,
Cơ): 600; Chi: 3000 người. Dinh: 15.000 người.
Montyon cho in bản thống kê toàn bộ lực lượng quân đội Nguyễn
Ánh năm 1800, bản này gần giống bản Barrow mà chúng tôi đã in trong chương 4;
cho thấy Nguyễn Ánh có 12.000 Vệ binh. Dưới nhà vua là 5 ông tướng coi 5 dinh,
mỗi dinh 6.000 người. Tổng số quân đội của Nguyễn Ánh, năm 1800 là 139.800 người.
Trong phần phụ lục ở dưới, chúng tôi in lại cả hai bản này.
Phúc trình của Chaigneau
Một tài liệu khá quan trọng nữa là bản phúc trình của
Chaigneau đệ lên chính phủ Pháp năm 1820 nói về tình hình nội trị, quân sự,
kinh tế, ngoại giao của nước Việt thời đầu Minh Mạng và sự lợi hại nếu chiếm Việt
Nam. Trong bài phúc trình mật này, Chaigneau cho biết:
“Sức mạnh quân đội tại ngũ trong thời bình của vua là 80.000
người; nhưng đến thời chiến, con số này có thể dễ dàng lên đến 200.000 người”.
Về tình trạng binh bị, Chaigneau viết:
“Bộ binh: Trong thời bình, Hoàng đế vẫn luôn luôn phòng bị. Đội
Vệ binh của vua gồm 30.000 người, độc lập với 40 Chi (Régiments) [quân chính
quy] chia làm 5 Dinh (Colonnes): Tiên phong (Avant-garde), Hữu quân (Droite) Tả
quân (Gauche), Hậu quân (Arrière-Garde) và Trung quân (Centre) (…) Ngoài 5 dinh
bộ binh, Hoàng Đế còn một binh đội khác gồm 5 binh đoàn (légions), mỗi binh
đoàn có 5 Chi được tổ chức và phân phối như những Dinh, cũng do những vị đại thần
điều khiển. Còn phải kể thêm lực lượng các Chi ở mỗi tỉnh, mà con số thay đổi
tùy vùng. Ở Sài Gòn có khoảng 16 Chi”.
Như vậy, Chaigneau, khi làm thống kê quân đội đầu triều Minh
Mạng, cũng vẫn ghi tổ chức giống như thời trước, chỉ có số quân trong mỗi đơn vị,
có ít nhiều thay đổi:
“Mỗi Dinh có 8 Chi. Mỗi Chi có 10 Đội. Mỗi Đội có 60 người
(riêng Đội Vệ binh có 120 người). Tóm lại: một Chi có 600 người. Một Dinh có
4800 người. Một vị đại thần chỉ huy một Dinh. Một chánh, một phó trưởng Chi
(Colonel, Lieutenant-colonel) cho mỗi Chi, và một chánh, một phó Đội trưởng
(Capitaine, Lieutenant) cho mỗi Đội, tạo thành bộ chỉ huy”
So với Thực Lục thì thấy: Chaigneau dịch Đội là Compagnie
(40-60 người), Chi (600 người) là Régiment, và Dinh (3000-5000 người) dịch là
Colonne (4800 người). Như vậy, khoảng 1820, khi Chaigneau làm bản phúc trình
này, thì hoặc ông đã bỏ quên đơn vị Hiệu, Vệ (120 người) hoặc tổ chức quân đội
nhà Nguyễn đã đơn giản hoá đi, tức là bỏ đơn vị Hiệu giữa Đội và Chi, để quay về
với tổ chức thời Lê, tức là chỉ còn ba đơn vị cơ bản: Đội (40-60 người), Cơ
(hay Chi, 600 người) và Dinh (trên 3000 người).
Điểm đặc biệt là Chaigneau cho biết cả số voi trận:
“Toàn bộ voi trong quân đội là 800 con, kể cả 120 con trong đội
Vệ binh. Tượng binh dưới quyền điều khiển của một vị đại thần” (André Salles,
Notice sur la Cochinchine fournie par M. Chaigneau (Tiểu dẫn về nước Nam của
ông Chaigneau), BAVH, 1923, II, t. 265-266).
Thống kê của Chaigneau càng tỏ đậm nét tổ chức quân đội của
Nguyễn Ánh, từ cách phân chia đội ngũ đến nội dung quân đội: kỵ binh trâu, tượng,
không có gì là Tây phương cả.[2]
Chức vụ và nhiệm vụ của những người Pháp trong quân đội Nguyễn
Ánh
Cadière tìm cách dịch các chức vụ trong quân đội của Gia Long
sang tiếng Pháp, phần nói về chức vụ của Chaigneau, ông viết như sau:
“Chaingeau, trước 1802, là Cai cơ “Commandant de régiment”.
Năm 1802, Gia Long cho thăng Chưởng cơ “Général de régiment”. Quân đội Việt
chia thành “compagnies” (đội), do một Đội trưởng “Premier de la Compagnie” và một
Cai đội “Commandant de compagnie” điều khiển, chức sau cao hơn chức trước.
Chúng ta sẽ thấy có Phó cai đội “Commandant de compagnie en second”. Nhiều Đội
làm thành một Cơ “Régiment”. Mỗi Régiment do một Cai Cơ “Commandant de
régiment” và một Chưởng cơ, mà tôi dịch là “Général de régiment” điều khiển.
Chưởng Cơ lớn hơn Cai cơ. Tôi không biết nếu Chưởng cơ coi một hay nhiều Cơ.
Nhưng có lẽ một Cơ thì đúng hơn, bởi vì, như ta đã thấy, trong văn bằng của
Chaigneau, sau khi được thăng Chưởng cơ, cũng chỉ coi có hai Đội quân, tức là Đội
một và Đội hai Kiên-Thuỷ.
Trong Liệt truyện, có một bài mà ta sẽ thấy sau, nói rằng
Đa-đột (đối với tài liệu này là Chaigneau), Ba-ni-ê, Lê-Văn-Lăng (de Forcant)
và Ô-li-vi, khi mới từ Âu châu đến, đều được nhận chức Cai-đội. Điều đó đúng với
Vannier, Dayot, Barisy, Isle-Sellé, và Lebrun. Không có ai, trong buổi đầu, nhận
chức phó Cai đội. Vậy chúng ta đành phải công nhận, mặc dù vẫn có chút hồ nghi,
rằng Chaigneau, khi đến Nam Hà, cũng nhận được chức Cai đội, trừ phi ông được
hưởng ân huệ đặc biệt, lên thẳng chức “Cai cơ”.
Năm Cảnh Hưng thứ 51, 1790, ít lâu sau khi đến Nam Hà, những
người bạn của Chaigneau, nhận được chức Cai đội hay phó Cai đội. Chaigneau đến
vài năm sau, 1794, lúc ấy mới nhận chức Cai đội hay Cai cơ“. (Cadière, Les
francais au service de Gia Long, Leurs nom, titres et…, BAVH, 1920, I, t.150)
Thực ra, Vannier, Chaigneau và de Forcant (có chỗ viết
Forcanz), đến tháng 2-3/1800 (tháng 2 ÂL) khi được cai quản các tàu hiệu: Phượng
Phi, Long Phi và Bằng Phi, vẫn còn là Cai đội (TL, I, t. 407). Nói khác đi,
Vannier ở chức Cai đội 11 năm (1790-1801), Chaigneau 7 năm (1794-1801), de
Forcant không biết đến Gia Định lúc nào; và trong suốt thời gian này, họ chỉ được
cai quản khoảng 40- 50 người lính, kể cả khi được lái các tàu hiệu Phượng Phi,
Long Phi và Bằng Phi, họ vẫn phải ở dưới quyền một viên Cai cơ người Việt. Như
vậy đủ biết việc lên chức không dễ dàng.
Đến tháng 7/1801 (tháng 6 ÂL), ba người này mới được lên chức
Cai cơ [có thể cai quản từ 120 đến 300 người, vì các tàu Phượng Phi, Long Phi
và Bằng Phi có thể chở tới 300 lính]. Thực Lục viết: “Cho Khâm sai thuộc nội
cai đội Nguyễn Văn Thắng [Chaigneau], Nguyễn Văn Chấn [Vannier] và Lê Văn Lăng
[de Forcant] làm Khâm sai thuộc nội Cai cơ, vẫn quản các thuyền hiệu Long phi,
Phượng phi và Bằng phi” (TL, I, t. 451).
Cuối cùng, đến tháng 6/1802, sau chiến thắng toàn diện, cả ba
được thăng lên Chưởng cơ [có thể cai quản 600 quân], theo sự lên chức chung của
toàn thể quân đội. Văn bằng của Vannier ghi ngày 6/12/1802; Chaigneau ghi ngày
6/12/1802, (André Salles, Notice sur la Cochinchine fournie par M. Chaigneau,
BAVH, 1923, II, t.270).
Nhưng Chaigneau cũng chỉ được coi có hai Đội quân, tức là Đội
một và Đội hai Kiên-Thuỷ, nghiã là vào khoảng hơn 100 quân.
De Forcant mất năm 1811, sau đó chỉ còn Chaigneau và Vannier ở
lại trong triều, với chức tước và được hậu đãi: vua cho giữ lại 50 lính thuỷ
làm quân hầu cận, nhưng họ không có quân và cũng không cho thuyền hiệu để cai
quản. Đó là những người làm việc lâu nhất cho Gia Long.
Riêng trường hợp Olivier de Puymanel, từ tháng 7-8/1792
(tháng 6 ÂL) đã được thăng từ Cai đội lên Vệ Uý ban trực tuyển phong hậu vệ Thần
sách (TL, I, t.286), đến tháng 6/1795 Puymanel bỏ đi Macao rồi lại trở về làm một
số nhiệm vụ khác cho vua, và mất năm 1799, ở Malacca.
Kết luận về tổ chức và sự cải tổ quân đội của Nguyễn Ánh
Nhìn lại tổ chức này, ta thấy có những điểm đáng chú ý sau
đây:
1/ Những điều Montyon, Chaigneau, và cả Cadière viết, chứng tỏ
quân đội Nguyễn Ánh không có gì là “Tây phương” cả, từ cách trang bị vũ khí đến
nội dung các binh đoàn.
2/ Quân đội Nguyễn Ánh được tổ chức giống như đời Lê: Đội,
Cơ, Dinh, chỉ thay đổi tên, số người và chức tước các quan võ. Đơn vị quân đội
vẫn bắt đầu từ Đội (40-50) người, đến Hiệu, (Vệ, Cơ) (từ 3 đến 10 đội), sau tới
Chi (5 đến 10 Cơ) và sau cùng là Dinh (5 Chi trở lên). Hai đơn vị ở giữa: Cơ và
Chi, có thể bỏ đi một, tùy theo thời điểm.
3/ Không có gì chứng tỏ những “sĩ quan” Pháp đã cải tổ quân đội
Nguyễn Ánh theo lối Tây phương. Chính học giả Cadière, một trong những người biện
hộ cho điều này, cũng rất bối rối khi ông phải dịch những chức vụ trong quân đội
Gia Long sang tiếng Pháp. Nếu quân đội này được tổ chức theo kiểu Pháp, thì ông
đã không gặp khó khăn đó.
4/ Có thể nói Nguyễn Ánh cải tổ quân đội, theo đòi hỏi của cuộc
chiến: Vì Tây Sơn có lực lượng pháo binh và công binh hùng hậu, có khả năng xây
thành luỹ chớp nhoáng, Nguyễn Ánh nhiều lần tăng trưởng đội ngũ quân Thần Sách
(công binh và pháo binh); vì Tây Sơn có lực lượng Tượng binh hùng hậu, Nguyễn
Ánh cũng phải có đội voi trận để đương đầu, Nguyễn Đức Xuyên là người chỉ huy
kiêm cả Thần Sách lẫn Tượng binh, hai đội quân đặc biệt theo sự cải tổ quân đội
của Nguyễn Ánh.
5/ Những người lính Pháp đến đánh giúp Nguyễn Ánh, đã tự mình
khai man hoặc do chính Bá Đa Lộc khai man họ là “sĩ quan” (thực ra họ chỉ là
binh nhì, binh nhất, chúng tôi sẽ chứng minh sau), nên đã được Nguyễn Vương cho
chức Cai đội (tháng 6/1790), là cấp thấp nhất trong phẩm trật quan võ.
6/ Phần lớn những người này không được lên trật nhanh; ví dụ
Vannier, đến Gia Định sớm nhất và có nhiều kinh nghiệm thuỷ quân nhất, trong 11
năm, ông vẫn ở nguyên trật Cai đội, và Chaigneau, là thủy thủ đi biển từ tuổi
12, vậy mà trong 7 năm không được lên trật. Điều đó chứng tỏ họ không có công
trạng gì nhiều.
7/ Ai có công, đều được ghi rõ, Liệt truyện ghi tên những người:
- Mạn Hoè (Manuel) với lòng quả cảm, chết trận, được đưa vào
đền Hiển Trung.
- Puymanel mua bán vũ khí cho Nguyễn Vương và chuyên hướng
pháo binh. Năm 1792, được thăng chức Vệ uý quân Thần Sách. Năm 1797, theo Nguyễn
Văn Khiêm đi đánh Đà Nẵng, lập kế hoả công đốt thuyền địch (Liệt truyện, tập 2,
t. 228).
Thần sách là pháo binh và công binh, chứ không phải là “một
thứ quân chủ lực” hay là “quân ở Kinh” như Tạ Trí Đại Trường lầm tưởng khi ông
đề cao Puymanel là người “đã tập luyện cho đám cận vệ 12 ngàn người theo chiến
thuật Tây Phương” (Lịch sử nội chiến Việt Nam, t. 231), hoặc cho rằng Puymanel
là người “xây thành Vauban Gia Định, cùng Lebrun, theo lời yêu cầu của Nguyễn
Ánh” (LSNCVN, t. 205, 233), hay ông viết: “Thành Diên Khánh là của Olivier vẽ
ra, nó là em sinh sau của thành Gia Định” (LSNCVN, t. 267), đó là những xác định
không có cơ sở, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong phần viết về Olivier de
Puymanel.
- Ba người còn lại là Vannier, Chaigneau và de Forcant, điều
khiển ba tàu đồng Phượng Phi, Long Phi và Bằng Phi, hộ tống Nguyễn Vương trong
các chiến dịch 1801-1802. Năm 1802, sau chiến thắng, cả ba được thăng chức Chưởng
cơ.
Đó là bốn chức quan võ lớn nhất của người Pháp, được Liệt
truyện ghi nhận (tập 2, t. 507).
7/ Sau cùng, xin tóm tắt lại tình trạng của những người Pháp
đến giúp Nguyễn Ánh:
Tháng 6/1780, một số người như: Vannier, Dayot, Barisy,
Isle-Sellé, Puymanel, Lebrun… được nhận chức Cai đội. Tháng 7-8/1792 (tháng 6
ÂL) Puymanel được thăng Vệ Uý.
Tháng 7/1801 Vannier, Chaigneau, de Forcant, được thăng Cai
Cơ.
Tháng 12/1802, Vannier, Chaigneau, de Forcant, được thăng Chưởng
Cơ.
Đó là tất cả những người Pháp có chức vụ cao nhất và ở lại
lâu nhất trong quân đội Gia Long.
Những người khác đều đã bỏ đi, qua hai đợt: đợt đầu, 1792,
khi hay tin Nguyễn Huệ quyết định san bằng Gia Định, nhưng chưa thực hiện, thì
Nguyễn Huệ mất. Đợt thứ nhì năm 1795.
Vai trò của người Pháp trong quân đội Nguyễn Ánh khá rõ ràng.
Thực Lục và Liệt Truyện đều ghi công đầy đủ, không hạ thấp hoặc lờ đi giá trị của
họ. Các học giả và sử gia Pháp như Cadière, Maybon cũng không tìm được gì mới
hơn, ngoài sự tôn vinh vô bằng cớ và đưa vào danh sách này, Dayot, một người phản
bội Gia Long, chúng tôi sẽ nói đến trong phần viết về Dayot.
Tại sao Maybon triệt hạ cuốn sách của Montyon?
Bộ sách của Montyon, giúp ta làm sáng tỏ một số vần đề liên
quan đến “công trạng” của người Pháp đối với Nguyễn Ánh. Tại sao sử gia Maybon
lại có ác cảm với cuốn sách này?
Khi viết bài giới thiệu tác phẩm của Montyon, in trong cuốn
La Relation de La Bissachère (t. 33-67), Maybon đã không tiếc lời chỉ trích tác
giả: “tích tụ những lẫn lộn và sai lầm quá đáng”, “phạm những cái sai rành rành
về dữ kiện”, “bất lương, đánh lừa độc giả”. Ông liệt kê nhiều “tội” lắm, đáng kể
nhất là “tội”, dám đề tên La Bissachère ở bìa sách.
Về việc này, chúng tôi tạm đưa giả thuyết: Đó là thời kỳ quý
tộc Pháp phải trốn cách mạng 1789, và hàng trăm nghìn người bị đe dọa máy chém.
Nam tước Montyon trốn sang Anh, nên không thể đề tên mình ở một cuốn sách dù in
ở Anh hay ở Pháp; ông bèn mượn tên Bissachère, là một vị linh mục đã sống nhiều
năm ở Bắc Hà và được nhiều người biết đến.
Tiếp đó, Maybon đưa ra đòn thứ nhì: ông trích một đoạn rất
dài trong bài tựa của Montyon, trong có những câu ca ngợi Gia Long, để mỉa rằng:
tác giả chuyên nghề ca tụng.
Đòn thứ ba, về nội dung cuốn sách, Maybon phê: “Người ta thấy
Montyon đã mở rộng cửa cho đủ loại tin tức, đủ loại nguồn, và ta sẽ kinh ngạc
thấy trong hai tập sách này một sự pha trộn đầy đủ liều lượng giữa những điều
đúng, những báo cáo hoàn toàn bịa đặt và những thông tin không có nguồn nào
khác ngoài trí tưởng tượng phong phú” (Maybon, Relation Bissachère, t.43). Với
một lời giới thiệu như thế, ai còn tìm đọc cuốn sách này?
Mặc nhiên, không thấy Maybon vạch ra được một đoạn nào là
“hoàn toàn biạ đặt” hoặc do “trí tưởng tượng phong phú”.
Đòn chót, để chứng minh Montyon chép của Barrow, Maybon in lại
trên hai cột, một bên là phần viết của Montyon, một bên là phần viết của
Barrow, với lời rào đón:
“… để cung cấp một vài thí dụ về cách viết của ông [Montyon],
tốt hơn là in bảng trình bày những sự vay mượn của ông” (Maybon, Relation
Bissachère, t. 54).
Như chúng tôi đã trình bày, có những điểm giống nhau giữa hai
cuốn sách, nhưng khó quyết đoán là Montyon chép của Barrow, chỉ có thể kết luận:
hai người này dùng chung tài liệu.
Bộ sách của Montyon dày 532 trang, bàn đến rất nhiều vấn đề
không có trong sách của Barrow [179 trang] và Bissachère [72 trang]. Bảo rằng
Montyon chép của hai tác giả này là khiên cưỡng.
Maybon đã khai trừ cuốn sách của Barrow. Bây giờ ông lại xổ
toẹt bộ sách của Montyon.
Chúng ta có thể hiểu một số lý do khiến Maybon hành động như
vậy:
1- Về việc khôi phục ngai vàng, Montyon viết: “[Gia Long]
khôi phục được ngai vàng, nhờ quyền thừa kế, nhờ sức chinh phục” (Montyon II,
t. 3), chứ không phải nhờ Bá Đa Lộc và các “sĩ quan” Pháp.
2- Về việc người Pháp giúp Gia Long, Montyon viết: “Vài sĩ
quan Pháp theo giúp Nguyễn Chủng, tập cho quân sĩ kỷ cương và vài nhà buôn Pháp
bán tàu cho ông” (Montyon II, t. 34). Sự xác định “vài” sĩ quan Pháp, đi ngược
với điều mà nhiều người trong số đó có Maybon, thổi lên thành vài trăm.
3- Về việc đóng tàu, Montyon viết: Ông [Gia Long] là người giỏi
nhất về chiến thuật, là kỹ sư giỏi nhất, người kiến trúc tàu giỏi nhất, ở xứ
ông” (Montyon II, t. 52). Điều này đi ngược với sự đề cao: Puymanel và Dayot,
chỉ huy việc đóng thuyền tàu ở Việt Nam.
4- Về kiến trúc thuyền, Montyon viết: “Về việc đóng thuyền,
nước này [nước Nam] có một kỹ thuật đặc biệt: những tấm ván làm thuyền được buộc
chặt với nhau bằng dây mây, thay đinh, lối ráp này khiến thuyền uyển chuyển
hơn, đặc biệt chống lại sóng biển”. (Montyon I, t. 128). “Chiến hạm, lớn hơn,
thân tàu vững hơn và kiến trúc tốt hơn tàu Trung Hoa” (Montyon I, t.129). Nhận
xét này trái với lập luận: Trước khi người Âu đến, người Việt không biết đóng
thuyền, tàu.
Như vậy, ta có thể kết luận rằng: hai cuốn sách khá quan trọng,
một của người Anh Barow và một của người Pháp Montyon viết về thời đại Tây
Sơn-Nguyễn Ánh, xuất bản rất sớm, từ đầu thế kỷ XIX, đã không xuyên tạc sự thực
lịch sử. Sự xuyên tạc đến từ Bissachère và những người đi sau.
______________________________________
[1] Tóm
tắt nội dung tác phẩm của Montyon: Quyển I (364 trang)
Phần thứ nhất: Mở đầu: Con người đã biết rõ mặt địa cầu, vậy
ta phải sử dụng lợi ích đó: khám phá đất Bắc Hà (Montyon I, t.1).
Chương I (t. 11): Xác định địa danh đất Bắc. Chỉ trích người
Âu bóp méo tên nước, tên thành phố Á Châu, vì không hiểu nghiã: “Gọi tên Tunkin
là không đúng: tên của xứ đó là “Nước Nam”… bao gồm hai miền Tunkin (Bắc Hà) và
Cochinchine (Nam Hà). Và để phân biệt, người ta gọi Nam Hà là Đàng Trong và Bắc
Hà là Đàng Ngoài. Sự sai lầm đến từ việc [người Âu] lấy tên Đông Kinh (Tunkin)
là kinh đô để gọi cả miền.” (Đoạn này viết theo Bissachère).
Ch. II (t.16): Địa lý Bắc Hà (núi non, sông ngòi, bờ biển, đảo).
Ch.III (t. 26): Khí hậu (êm dịu, các mùa, gió bão). Ch.IV (t. 37): Địa chất
(tính chất đất đai, hang động, mỏ vàng, mỏ bạc, nước độc). Ch.V (t. 48): Chủng
tộc (diện mạo, tính tình, thể chất, phong tục, bệnh tật). Ch.VI (t. 56): Dân cư
(thống kê dân số, phân phối, nạn đói và chiến tranh). Ch.VII (t. 64): Súc vật
(gia súc, thú rừng, bò sát, cá, chim). Ch.VIII (t. 84): Đất đai và trồng trọt
(nông sản, hoa quả, thảo mộc, gia vị, vị thuốc, lâm sản…). Ch.IX (t. 117): Chài
lưới và đường thủy (nghề đánh cá, nghề làm tàu biển). Ch.X (t.130): Công nghệ
(các lý do và trở ngại khiến công nghệ và nghệ thuật thấp kém). Ch.XI (t.139):
Nghệ thuật (Âm nhạc, ngâm thơ, hội họa (chê người Việt không biết vẽ) điêu khắc,
trạm trổ, nhẩy múa (chê), kiến trúc: tả cung điện Phú Xuân (t.148). Ch.XII (t.
154): Thương mại (nội thương: trở ngại phát triển, đo lường, tiền tệ; ngoại
thương: miền Bắc bị giới hạn, miền Nam mở rộng hơn, thể chế, sản vật trao đổi).
Ch.XIII (t.173): Thực phẩm (dồi dào, nhiều loại tôm cá, gia súc, cách thức ăn uống.
Khen người Bắc ăn ngon hơn người Nam và người Nam ăn ngon hơn 4 dân tộc xung
quanh). Ch. XIV (t. 187): Y phục. Ch.XV (t.192): Nhà cửa.
Phần thứ nhì: Trật tự xã hội (t.197)
Ch.I (t. 199): Tổ chức chính trị ở Bắc (thần phục Tàu trên
nguyên tắc, thực tế độc lập, tự chủ). Ch.II (t. 215): Luật vua, lệ làng (cưới hỏi,
quyền huynh thế phụ, kiện tụng, luật pháp). Ch.III (t. 235): Tài chính (thuế
khoá). Ch.IV (t. 247): Lực lượng quân sự (cách đánh nhau ngày xưa, tình trạng
hiện thời, tổ chức, lương bổng, y phục, khí giới, thao luyện, kỷ luật, hải
quân). Ch.V (t. 262): Tôn giáo (sức mạnh, ảnh hưởng, giáo lý, giáo huấn, thờ phụng,
tế tự, thờ cúng tổ tiên, đạo Phật, đạo Khổng, lịch sử người Âu đến Việt Nam, đạo
Chúa và cấm đạo). Ch.VI (t. 290): Tính tình người Bắc (trọng quyền sở hữu, ghét
đổ máu, từ thiện, thân ái, yêu kính mẹ cha, trọng người già, ăn mặc kín đáo, ít
mãi dâm, vui vẻ, thích thanh lịch, có óc công dân, can đảm, trọng danh dự, lười
biếng, háu ăn, khoe khoang, lòng căm thù dân tộc). Tính tình của dân Chàm, Lào
và Lạc Thổ [Lạc Thổ được tác giả xác định: nam giáp Lào, bắc và đông giáp Bắc
Hà, tây giáp Tàu, chắc là vùng Lai Châu, Sơn La]. Ch.VII (t. 313): Tập tục
(trang điểm, để tóc dài, nhuộm răng đen, ăn trầu, đám ma, tuồng chèo, các trò
chơi: chọi gà, cờ tướng). Ch.VIII (t. 331): Ngôn ngữ (so sánh với tiếng Tàu, tổ
chức ngôn ngữ Việt, tính chất, cách phát âm, chữ viết và cải cách chữ viết).
Ch.IX (t. 350): Khoa học (sự chậm tiến của khoa học, có nhiều khoa: thiên văn,
thuốc ta, in ấn, trường dạy). Ch.X (t. 358): Văn chương (Người Bắc tự kiêu về
văn chương của họ, sự giầu có của tiếng Bắc không giúp ích cho văn chương. Văn
phong tiết độ. Nói giỏi. Sử không đúng và viết không hay. Tính chất của thơ, kịch,
sự thoái trào của văn chương, khả năng khôi phục.)
Quyển II (168 trang)
Phần thứ ba: Chương I (Montyon II, t.1- 54): Những biến cố
chính ở Bắc Hà, Nam Hà và các nước khác. Tác giả chia lịch sử Việt Nam làm 4 thời
kỳ: Thời kỳ 1 (t. 4): Từ lập quốc đến nhà Lê. Thời kỳ 2 (t. 10): Vua Lê-chúa Trịnh.
Thời kỳ 3 (t.13): Nam Bắc phân tranh. Thời kỳ 4 (t. 15): Chiến tranh Nguyễn-Tây
Sơn. Ch.II (t. 55): Tóm lược các dữ kiện và các nguyên nhân. Ch.III (t.
97-131): Dự kiến tương lai.
Phụ lục: Một số tài liệu (t.133)
Dụ phong Hoàng tử Cảnh làm Đông cung (1793) (t.135)
Dụ phong chức quan khâm sai (t.137)
Hịch của vua Quang Trung gửi dân hai miền Quảng Ngãi và Quy
Nhơn (t.140)
Bản kê khai lực lượng quân sự của Nguyễn Vương trong cuộc chiến
khôi phục ngai vàng (t.141-142)
Lá thư của Bá Đa Lộc (t.143-144)
Lá thư của thừa sai Grillet đề ngày 4/8/1793 (t.145)
Bài tựa tiếng La tinh cho cuốn từ điển Việt-Bồ-La (t.147-148)
10 điều răn của Chúa, song ngữ Việt-Pháp (t.149-151)
Trích di chúc Khang Hy (1723) (t.152-156)
[2] Trong
phần phụ lục, Montyon cho in bản thống kê toàn bộ lực lượng quân đội Nguyễn
Vương năm 1800, tạm gọi bản Montyon để phân biệt với bản Barrow. Hai bản có lẽ
cùng nguồn Barisy; có thể Montyon chép lại bản Barisy viết tay; còn Barrow thu
gọn và sắp xếp lại cho dễ hiểu. Bản Montyon cho thấy Nguyễn Vương có 12.000 Vệ
binh. Dưới Nguyễn Vương là 5 ông tướng coi 5 dinh, mỗi dinh 6.000 người.
Lực lượng quân sự của vua Nam Hà trong cuộc chiến khôi phục
lãnh thổ
Can-hung:
Fenk-junk….. 4 bataillons 3.200
Iroé-junk…… 4 4.000
Iroé-haim….. 4 4.000
Coupeurs de têtes 12 compagnies 800
Ong-jong-don-ton… 5 régiments … 10 compagnies 6.000
Ong-jong-don-sna…. 5….. 10 6.000
Ong-jong-don-ham… 5….. 10 6.000
Ong-jong-don-thien… 5 10 6.000
Ong-ban-jouk-thien… 5….. 10 6.000
Bufles espèce de cavalerie anciennement d’usage, mais
aujourd’hui décréditée (Trâu thay ngựa trong chiến trận xưa, nay đã bỏ)… 24
escadrons… 6.000
Le Prince Royal ….. Corps de Saakoun 20 escadrons… 12.000
Ong han-Quoan….. Corps don-han…. 14 …. 11.200
Ong-han-Quoan…. Corps Don-han-Quoan 14…. 7.000
Ong-jien-Quoan…. Corps Jien-Quoan… 14……. 7.000
Tổng cộng …. 85.200
Ong-jien-Shpaon… Corps de Jien-Shpaon.. 6 bâtiments … 4.800
Can-King…. Artillerie (pháo binh)… 30 15.000
Thiy-Chooa et Ong-yam…Eléphants (voi) 200… 16… 8.000
Ong-jong-joany… Galères, 100…. 12… 8.000
Ong-haa…. Thao (thuyền)… 4…. 1.600
Ong-jam…. Arsenal (xưởng đóng tàu).. 12…. 8.000
Ong-Koan-baux… Charpentiers calfats (thợ trét) 12… 8.000
Vaisseaux européens (Tàu Tây phương)… 2….. 1.200
Tổng cộng tất cả….. 139.800
(Montyon II, t. 141-142)
Chúng tôi để nguyên tiếng Pháp, không dịch vì không biết rõ
những chữ phiên âm từ tiếng Việt ra như Ong-jam, chỉ đoán là Ông Giám (quân);
Ong-jien-Quoan là Ông Tiền quân; Ong-han-Quoan là Ông Hậu Quân, v.v. Chắc là
nguyên bản của Barisy, vì Barisy có lối viết như thế. Barrow sửa chữa và sắp đặt
lại cho có hệ thống, dễ hiểu hơn:
Đây là lực lượng quân đội Nam Hà năm 1800, theo đại uý Barisy
Bộ binh
24 đội kỵ binh (cưỡi trâu)… 6.000 người
16 đại đội voi (200 con)… 8.000 người
30 đại đội pháo binh… 15.000 người
25 chi đoàn 1.200 người trang bị vũ khí Âu châu… 30.000 người
Bộ binh trang bị kiếm và súng cổ trong nước… 42.000 người
Vệ binh tập luyện theo lối Âu châu….. 12.000 người
Tổng cộng bộ binh…. 113.000 người
Thuỷ binh
Lính thợ trong xưởng đóng tàu….. 8.000 người
Lính thuỷ, mộ hay nối dõi (cha, anh), trên những chiến hạm đậu
ở cảng… 8.000 người
Lính biệt phái sang những tàu chiến kiểu Tây phương… 1.200
người
Lính biệt phái thuyền buồm (jonque)… 1.600 người
Lính biệt phái 100 thuyền chiến chèo (galère)… 8.000 người
Tổng cộng thủy binh…. 26.800 người
Tổng cộng tất cả: 139.800 người
(Barrow II, t. 237-238)
Nhận xét: Cả hai bản kê khai này, có thể thiếu sót, sai lầm,
bởi nếu so với số thuyền tàu và thuyền chiến bọc đồng ghi trong Hội điển và Thực
Lục, thì không thể gọi là đầy đủ.)
Chương 8
hịch của quang trung
Sau khi đại phá quân Thanh năm 1789, uy thế Quang Trung lừng
lẫy, nhưng sự kiện anh em bất hoà từ 1787 vẫn còn hằn vết. Giang sơn chia hai,
Nguyễn Huệ giữ từ Phú Xuân ra Bắc, Nguyễn Nhạc từ Quảng Nam tới Quy Nhơn. Đất
Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Thuận, trên nguyên tắc của Nguyễn Nhạc, nhưng là vùng
tranh chấp thường xuyên. Nguyễn Ánh giữ miền Nam. Họ xưng là “ba nước”.
Về phía Nguyễn Ánh, sự bình định miền Nam đã xong, cơ sở hành
chính và quân đội đã vững. Kế hoạch chiến tranh cũng được vạch rõ: sẽ không
đánh liên tục mà đánh theo gió mùa, thuận gió thì đem tầu thuyền ra tấn công
chiếm đất, để quân, tướng, ở lại giữ; hết gió, lại rút về Gia Định, cho quân
làm ruộng, đợi năm sau. Chính sách khi có giặc thì đánh, khi nghỉ thì cho quân
về làm ruộng, có từ thời nhà Đường; ở ta, các đời vua đều ít nhiều sử dụng,
không phải do Bá Đa Lộc “dạy” như Faure viết, rồi những người sau chép lại.
Về phía Quang Trung, chiến lược cũng rõ ràng, sau khi dẹp tan
quân Thanh, Quang Trung thăm dò mặt Bắc, vừa hoà hiếu, vừa có ý đòi lại đất Lưỡng
Quảng. Về nội trị, xây dựng kinh đô Phượng Hoàng ở Nghệ An, trên đất Vinh ngày
nay, để tiện đường vào Nam ra Bắc. Nhân việc Lê Duy Chi, em Chiêu Thống liên kết
với quân Lào, Quang Trung sai Trần Quang Diệu chinh phạt Vạn Tượng, chiếm nước
Lào. Sau đó đánh xuống Cao Miên và Nam Hà, nhưng gặp trở ngại, ông thay đổi chiến
lược, rút quân về; liên kết với chiến thuyền của Tề Ngôi, tấn công mặt biển.
Sau khi Nguyễn Ánh tấn công chớp nhoáng tiêu diệt thuỷ quân Nguyễn Nhạc ở Thị Nại
tháng 7-8/1792, Quang Trung quyết định san bằng miền Nam, truyền hịch cho dân
hai miền Quãng Ngãi và Quy Nhơn, trước khi hành quân thẳng qua đất của Nguyễn
Nhạc để đánh vào Gia Định. Bản hịch của Quang Trung mà chúng tôi trình bầy dưới
đây, nằm trong bối cảnh đó.
Lịch trình diễn biến sự việc
Lịch trình các biến chuyển, theo thứ tự thời gian như sau:
- Tháng 6/1791, Quang Trung sai Trần Quang Diệu và Nguyễn Văn
Uyên chinh phạt nước Lào, vua Lào thua chạy sang Xiêm. Tháng 10/1791, chiếm
xong Vạn Tượng.
- Tháng 9/1791, Bá Đa Lộc biết trước tình thế Quang Trung sắp
đánh vào Nam, tìm mọi cách bỏ đi, kéo theo tất cả người Pháp, mục đích để lấy
lòng Quang Trung nếu Quang Trung thắng, hoặc đợi xong chiến tranh, ai thắng thì
theo. Nguyễn Ánh cho phép Bá Đa Lộc về Pháp, nhưng rồi Bá không đi.
- Tháng 2/1792, Quang Trung đem khoảng ba chục ngàn quân, qua
đường Lào đánh xuống Cao Miên, tới biên giới Miên Việt, nhưng lại rút về.
- Tháng 4-5/1792 (tháng 3 ÂL), vua Xiêm sai người đưa thư xin
Nguyễn Ánh giúp sức để “báo thù” cho vua Lào. Nguyễn Ánh đã dò biết kế hoạch của
Nguyễn Huệ: điều động hai, ba mươi vạn quân thuỷ bộ; bộ binh theo đường núi qua
Lào đánh xuống Cao Miên, chiếm mặt sau Sài Gòn; thuỷ binh vào cửa bể Hà Tiên
đánh lên Long Xuyên, Kiên Giang, chiếm mặt trước Sài Gòn.
- Tháng 6/1792, những người lính Pháp hoặc phạm kỷ luật như
Dayot, bị Nguyễn Ánh đuổi đi, hoặc chính họ muốn bỏ đi. Bá Đa Lộc xin đi lần thứ
nhì. Nguyễn Ánh giữ lại.
- Tháng 6-7/1792, tháng 5 ÂL, Nguyễn Huệ liên kết với giặc biển
Tề Ngôi, đem chiến thuyền đánh phá Bình Khang, Bình Thuận.
- Tháng 7-8/1792, tháng 6 ÂL, được gián điệp cho biết Nguyễn
Nhạc tập trung chiến thuyền ở cửa Thị Nại, định đánh vào Nam, Nguyễn Ánh ra tay
trước, đem thuỷ binh tấn công Thị Nại, tiêu diệt lực lượng thuỷ binh của Nguyễn
Nhạc, trong lúc Nguyễn Nhạc đi săn vắng.
- Trận Thị Nại 1792, chiến thắng lớn đầu tiên của Nguyễn Ánh,
làm cho Quang Trung nổi giận, quyết định “quét sạch Gia Định”.
- Ngày 27/8/1792, Quang Trung truyền hịch cho quan, quân, dân
hai miền Quảng Ngãi và Qui Nhơn sửa soạn đón đại binh đi qua để chinh phạt Gia
Định, “san bằng” miền Nam cho tới biên giới Xiêm La.
- Ngày 16/9/1792, Quang Trung băng hà.
Xây Phượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An
Sau chiến thắng quân Thanh, Nguyễn Huệ quyết định dựng nghiệp
lớn, việc đầu tiên là thành lập một kinh đô, riêng, không phải Phú Xuân, thuộc
về Chúa Nguyễn, cũng không phải Thăng Long, thuộc về vua Lê. Nguyễn Huệ chọn đất
Nghệ An, ở giữa, để lập Trung Đô.
Ý định thành lập triều đình ở Nghệ An đối với Nguyễn Huệ có từ
bao giờ?
Theo Hoàng Xuân Hãn việc này liên quan đến La Sơn Sơn phu tử
Nguyễn Thiếp. Nguyễn Huệ mời phu tử ra giúp, ba lần:
Lần đầu, thư viết ngày 5/2/1787 (18/12 Thái Đức năm thứ 9)
(Nguyễn Hữu Chỉnh vừa dẹp Trịnh Bồng, được phong chức Bằng Quận Công, cầm quyền
ở Bắc). Phu tử từ chối. Tháng 5/1787 (tháng 4 ÂL), Nguyễn Nhạc xưng Đế ở Quy
Nhơn, phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương đóng ở Phú Xuân. Anh em Tây Sơn bất
hoà. Huệ vây Quy Nhơn; tự xưng là Chính Bình Vương; sai Vũ Văn Nhậm ra chiếm
Nghệ An. Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền ở Bắc. Huệ cả giận, sửa soạn chiếm Bắc
Hà.
Lần thứ nhì, Huệ viết thư ngày 21/9/1787 (10/8/Thái Đức thứ
10) cầu La Sơn phu tử. Phu tử từ chối.
Lá thư thứ ba, Huệ viết thư ngày 23/10/1787 (13/9/ ÂL), lời
thư thắm thiết, lý luận chặt chẽ. Phu tử vẫn từ chối.
Ba tháng sau khi gửi lá thư thứ ba, Huệ sai Nhậm ra đánh Chỉnh.
Tháng 1/1788 (tháng 12 ÂL) Chỉnh thua, bị giết. Nhậm đóng ở Thăng Long.
Tháng 5/1788 (tháng 4 ÂL) được tin Nhậm muốn tự lập, Huệ ra
Thăng Long giết Nhậm.
Trên đường ra Bắc, Huệ đóng đại doanh ở núi Nghiã Liệt, gần bến
Phù Thạch và viết thư ngày 23/4/1788 [18/3 ÂL] mời phu tử ra tiếp kiến. Lời lẽ
của phu tử trong buổi hội kiến càng làm cho Huệ khâm phục. Và cũng chính trong
cuộc hội kiến này Huệ nhờ phu tử coi địa lý giúp để tìm đất lập đô ở Nghệ An.
Cuối tháng 6/1788 [tháng 5 ÂL], Huệ về đến Nghệ An, vẫn chưa
thấy phu tử chọn, bèn viết thư trách, trong có có câu: “… tuỳ phu tử lấy con mắt
tinh mà xét định. Sớm sớm chọn lấy, giao cho trấn thủ Thận chóng dựng cung điện.
Hẹn trong ba tháng thì xong, để tiện việc giá ngự. Vậy Phu tử chớ để chậm chạp
không chịu xem”. Trong thư trả lời, nay không còn, Nguyễn Thiếp can Nguyễn Huệ
đừng lập đô ở Nghệ An, sợ gây phiền khổ cho dân. Mười ngày sau, Huệ viết thư trả
lời, ngày 22/7/1788 [19/6 ÂL], trong có câu: “Lời bàn ấy, như liều thuốc hay, rất
xứng với ý ta. Nhưng vì lúc đầu mới lấy được nước, lòng người mới theo. Nếu
không lấy đất Nghệ An để thường thường chống thượng du, thì lấy đâu để khống chế
trong ngoài. Chắc phu tử đã xét rõ như vậy”.
Ngày 5/8/1788 [4/7 ÂL] trấn thủ Thận lại viết thư giục, tỏ việc
định xây Hành cung ở Phù Thạch, nhưng phu tử không trả lời. Hai tháng sau Nguyễn
Huệ viết thư trách: “Nhiều lần phiền nhờ Tiên Sinh xem đất. Những chỗ núi sông
kết phát ở xứ nầy, Tiên sinh đã từng chú ý xét nhận, thế mà đã lâu chưa thấy trả
lời”.
Nguyễn Thiếp chậm trễ không trả lời, bởi lòng vẫn thầm mong
miền Bắc trở về nhà Lê, không muốn Nguyễn Huệ bỏ Phú Xuân; nên việc lập đô ở
Phù Thạch, trên sông Lam, dưới chân núi Nghiã Liệt không thành. Nhưng Nguyễn Huệ
vẫn kiên trì giữ ý định lập đô ở Nghệ An, lần này ở Yên Trường, tức là Vĩnh bây
giờ (thường đọc lầm là Vinh), trong thư viết ngày 2/10/1788 (3/9/Thái Đức năm
thứ 11) gửi La Sơn Phu Tử, Huệ viết rõ lý do: “Nay kinh Phú Xuân thì hình thế
cách trở. Ở xa trị Bắc Hà, sự thế rất khó khăn. Theo đình thần nghị rằng: chỉ
đóng đô ở Nghệ An là độ đường vừa cân, vừa có thể khống chế được trong Nam
ngoài Bắc, và sẽ làm cho người tứ phương đến kêu kiện, tiện việc đi về (…)
Nhớ lại buổi hồi loan kỳ trước, lúc qua Hoành Sơn, quả cung
đã từng mở xem địa đồ. Thấy ở huyện Chân Lộc, xã Yên Trường, hình thế rộng rãi,
khí tượng tươi sáng có thể chọn để xây kinh đô mới. Thực là chỗ đất đẹp để đóng
đô vậy.”
Năm 1789, sau khi đại thắng quân Thanh, Quang Trung quyết định
xây cung điện ở núi Dũng Quyết tức Phượng Hoàng Trung Đô,
Ngô Thì Chí viết: “Bởi thấy Nghệ An ở vào giữa nước, đường xá
các nơi đến đó cũng vừa bằng nhau, ngài liền bắt rất nhiều thợ thuyền khuân vác
gỗ, đá, gạch, ngói để sửa sang cung phủ dựng lâu đền, đắp một vòng thành bên
trong. Trong thành dựng toà Long Lâu ba tầng và điện Thái Hoà hai dẫy, làm nơi
chầu mừng, gọi là Chung khính Phượng hoàng thành” (Hoàng Lê Nhất thống chí
t.322).
Phượng Hoàng là tên núi Quyết hay Dũng Quyết ở cạnh đường
Vinh đi Bến Thuỷ bây giờ, Hoàng Xuân Hãn viết: “Có thể tin chắc rằng Phượng
Hoàng trung đô ở khoảng giữa núi Mèo (núi Kỳ Lân) và núi Quyết. Trong thành ấy
có xây lầu ba từng, xung quanh có các đồn, trên núi có kho lúa. Cuối đời Tây
Sơn, lầu đổ; trấn thủ Thận phá lấy gỗ đóng chiến thuyền.”
“Địa thế thành rất dễ giữ. Phía trước có sông Cồn Mộc và sông
Lam, phiá bên có núi Quyết, đều là hào và thành thiên nhiên.
Ở giữa thành, còn dấu thành trong, và nền nhà. Nhất là có nền
cao ba bậc ở phần bắc, mà ngày sau, đời Nguyễn dùng làm nền xã tắc. Chắc đó là
chỗ Quang Trung ngự triều trong khi tạm nghỉ ở Nghệ An.
Tuy gọi là Trung đô, nhưng thành Phượng hoàng nhỏ, thành nam
chỉ dài chừng 300 mét, bức thành tây dài 450 mét, và cái nền cao thì ngang dọc
cũng chỉ có chừng 20 mét mà thôi”. (Hoàng Xuân Hãn, La Sơn Phu Tử, Tủ sách Việt
Nam, Paris, 1983, t. 118-128)
Trong sách La Sơn Phu Tử, trang 245, có ghi bản đồ Phượng
hoàng Trung đô, ở một góc có vẽ hình dạng Vĩnh Thành (thành cổ Vinh), hình lục
giác có góc cạnh. Lối thành như thế này, thường được người Pháp và một số người
Việt hùa theo, vơ vào, gọi là thành “Vauban”. Nhưng Vĩnh Thành có từ trước thời
Quang Trung, vậy không hiểu kiểu thành Vauban này do ông Puymanel đưa lọt vào bằng
cách nào? Đó là những câu hỏi chúng ta cần phải đặt ra và tìm lời giải đáp, để
hiểu về kiến trúc thành trì ở Việt Nam, chẳng thể để cho người Pháp muốn viết
sao thì viết.
Quang Trung chiếm Lào
Sau khi đại phá quân Thanh, xây Phượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ
An năm 1789, Quang Trung tiễu trừ tàn quân của Lê Duy Chi, em Lê Chiêu Thống,
chinh phạt Vạn Tượng.
Về việc này, Liệt Truyện ghi rõ: “Trước đây, Chiêu thống đế
sang nước Thanh, em là Duy Chi chiếm cứ địa phương Tuyên Quang, Cao Bằng, nương
tựa với thổ tù [tù trưởng Thổ] là Nùng Phúc Tấn, Hoàng Văn Đồng, liên kết với
các bọn Mán ở Vạn Tượng, Trấn Ninh là Trịnh Cao, Quy Hợp, mưu phá thành Nghệ
An. Huệ sai đốc trấn Nghệ An là Nguyễn [Trần] Quang Diệu làm đại tổng quản, đô
đốc là Nguyễn Văn Uyên đem 5000 quân tinh binh, theo đường ở miền trên trấn Nghệ
An đến đánh. Tháng 6 [ÂL, tháng 7/1791], lấy được Trấn Ninh, diệt được Trịnh
Cao, Quy Hợp. Tháng 10 [ÂL, tháng 11/1791], quốc trưởng nước Vạn Tượng bỏ thành
chạy, bắt được voi ngựa chiêng, trống, đuổi dài mãi đến địa giới Xiêm La, chém
được tướng bên tả là Phan Dung, bên hữu là Phan Siêu, bèn kéo quân về Bảo Lạc.
Lê Duy Chi cùng Phúc Tấn, Văn Đồng, thế lực không địch được, đều bị hại.” (Liệt
truyện Nguyễn Văn Huệ, tập 2, t. 557).
Sự Quang Trung chiếm Vạn Tượng làm rung động cả khối Xiêm,
Lào, Miên và Nam Hà, Thực Lục ghi việc tháng 4-5/1792 (tháng 3 ÂL):
“Nước Xiêm La đưa thư đến nói xin giúp quân đi theo miền thượng
đạo đánh giặc Tây Sơn. Trước là giặc Tây Sơn gây oán với nước Vạn Tượng, lại dẫn
quân đến đánh Vạn Tượng, Vạn Tượng thua to. Vua Xiêm muốn báo thù cho Vạn Tượng,
xin ta giúp quân và yêu cầu ta đem Long Xuyên, Kiên Giang cho Mạc Công Bính, và
đem Ba Xắc cho Chân Lạp. Vua sai viết thư trả lời rằng:
“Quả nhân từ khi lấy lại được Gia Định tới nay, dằn dọc một
nơi, ăn không biết ngon, nằm không yên gối, rất lo nghĩ thù nước chưa trả xong.
Nay nghe giặc Nguyễn Văn Huệ chọn quân Hà Bắc được hơn hai ba mươi vạn người,
mưu cử đại binh thuỷ bộ vào cướp. Quân bộ thì trước đánh các dân Man ở miền thượng
đạo, tiến đánh Nam Vang, quay lại đánh sau lưng Sài Gòn. Quân thủy thì vào Côn
Lôn phá Hà Tiên, theo đường Long Xuyên, Kiên Giang để đánh mặt trước Sài Gòn. Nếu
thắng sẽ đánh tới Xiêm. Đó chẳng những là thù riêng của quả nhân, mà cũng là
thù của nước Xiêm nữa. Tính kế ngày nay thì quả nhân đem quân thuỷ quân bộ đánh
Quy Nhơn, mà vương thì đem trọng binh đánh Nghệ An. Giặc giữ Nghệ An thì vương
đánh ngả trước, quả nhân đánh ngả sau; nếu giặc giữ Phú Xuân thì vương quấy rối
ở ngả sau, quả nhân đánh ngả trước, đầu đuôi giáp đánh thì giặc không còn đi
đâu được nữa. Đến như Long Xuyên và Kiên Giang (…) Mạc Công Bính còn nhỏ, chưa
có thể đương việc quân (…) còn đất Ba Xắc không cho Chân Lạp là vì…” (TL, I, t.
284)
Xem thư đối đáp giữa vua Xiêm và Nguyễn Ánh, ta thấy vua Xiêm
muốn cầu Vương chung sức để “trả thù” cho Chân Lạp, nhưng nhân tiện lại “đòi”
luôn cả Long Xuyên, Kiên Giang, và Ba Thắc, và Vương trả lời thẳng là không “trả”.
Tuy nhiên kế “liên minh” ba nước chống Quang Trung, cho thấy tình hình nguy ngập
là nhường nào.
Bá Đa Lộc chuẩn bị bỏ đi, trước khi Quang Trung tấn công
Trong lúc tình hình hết sức khẩn cấp, Bá Đa Lộc và những “sĩ
quan” Pháp tính chuyện bỏ đi.
Dự tính này, riêng về phiá Bá Đa Lộc, đã có từ trước, bởi ông
thấy rõ tình hình từ năm 1791. Trong thư gửi cho M. Létondal ngày 14/9/1791, vị
giám mục viết:
“… Nhà vua đã không biết lợi dụng cơ hội mà ông ta có được để
đánh bại kẻ thù, mà lại để chúng có thì giờ hoàn hồn và chúng thấy rõ tất cả những
đồn đại về việc người Âu đến giúp chỉ là chuyện hão (leur a donné le temps de
revenir de leur frayeur et de s’assurer que tout ce qu’on disait du secours des
Européens n’était que chimères). Ông ta đã bắt dân đóng thuế và làm dịch vụ nặng
nề, và lúc này, dân chúng bị nạn đói đe dọa nên họ có vẻ mong quân Tây Sơn đến.
Trong tình trạng hiện thời, nếu chúng quả quyết đến tấn công, thì nhà vua khó
có thể đương đầu lại đầu được.
Tôi không cần nói, ông cũng có thể thấy trước, điều gì sẽ xẩy
ra nếu nhà vua lại bị bắt buộc bỏ xứ chạy lần nữa. Và quân Tây Sơn sẽ kịch liệt
báo thù như thế nào lên đầu giáo dân và giáo sĩ, nếu tôi cứ khăng khăng ở lại
đây đến phút chót? Ngược lại, nếu tôi bỏ đi trước khi sự biến xẩy ra, tất cả
người Pháp đều sẽ đi theo tôi, tôi thấy đó là phương tiện làm cho Tây Sơn nguôi
giận, và buộc họ phải khen ngợi cách ứng xử của tôi. Tất cả lo lắng của tôi,
đúng hơn, lo lắng lớn nhất của tôi luôn luôn là làm sao nhà vua chấp nhận cho
tôi rút lui, ít nhất trong một thời gian. Tôi muốn đi Macao, Manille, ngay cả
qua Xiêm, để đợi [xong] biến cố, rồi sẵn sàng để trở về hội truyền giáo sau,
hay là có thể giúp đỡ hội bằng bất cứ cách nào, nhưng tôi không thể nói thẳng với
ông Hoàng, sợ làm phật lòng ông ấy, và như vậy sẽ gây mối hại lớn nhất cho hội
truyền giáo, trong trường hợp ông ta thắng trận. Con đường duy nhất mà tôi có
thể chọn và tôi đã làm là xin với ông ấy cho trở lại Pháp để thu xếp công việc.
Nhà vua cho phép rất dễ dàng bởi vì, ông đã được những người Bồ cho biết tin về
Cách mạng Pháp, và ông hiểu tại sao tôi bắt buộc phải quay về. Nhưng điều làm
cho ông ấy dứt khoát quyết định, chính là vì ông muốn gửi một chiếc tầu đi mua
những thứ ông cần, và việc này ông không thể làm nếu không có sự ưng thuận của
triều đình. Do đó, dường như họ quyết định tôi được phép đi vào cuối tháng 11 đầu
tháng 12, trên chiếc tầu đồng mà vua vừa mua của ông Gombra. Tầu này chạy tốt,
sẽ trở lại đây trong vòng 18 tháng. Trong mọi trường hợp, tôi rất muốn trở lại
đây để không mất những mối liên lạc với đất nước này và để chết với thánh giá
trên tay, nếu được Thượng đế an bài. Mặc dù tôi hết sức mong muốn, nhưng tôi vẫn
có thể gặp nhiều khó khăn lớn; dầu sao chăng nữa, tôi cố gắng chỉ làm những điều
mà tôi tin rằng tốt cho hội truyền giáo (…) Tôi để ông Liot ở lại cai quản hội
truyền giáo (…) Tôi sẽ tấn phong cho ba tu sĩ, hoặc có thể bốn. Tôi cho rằng,
điều bất cẩn là nếu gửi giáo sĩ đến đây mà chưa biết rõ việc gì sẽ xẩy ra từ
đây đến tháng ba sang năm [tháng 3/1972]. Tôi rất sợ không đi kịp trước khi tai
họa xẩy ra cho nhà vua, nếu có sự ấy.” (Launay, Histoire de la Mission de
Cochinchine III, t. 294)
Lá thư này cho thấy tất cả những tính toán của vị giám mục,
và những ai tôn vinh Bá Đa Lộc là “lãnh tụ” bên cạnh Nguyễn Ánh trong việc đánh
Tây Sơn để “dựng lại ngai vàng”, sẽ phải kiểm điểm lại “công trạng” của vị
“Richelieu” này. Ông tính việc bỏ trốn, khi quân Quang Trung đến, nhưng ông lại
muốn bắt cá hai tay: làm sao có thể quay về, khi một trong hai bên thắng cuộc,
mà không bị thiệt hại gì. Từ tháng 9/1791, ông đã biết rõ “chương trình” của
Quang Trung là tháng 3/1792 sẽ dùng đường Lào đánh xuống Nam Hà. Ông muốn đi
trước khi chiến tranh xẩy ra, để nếu Quang Trung thắng không thể trách ông được,
và nếu Nguyễn Ánh thắng, ông vẫn có chỗ dung thân.
Lá thư của giáo sĩ Le Labousse viết ngày 16/6/1792, nói lên sức
mạnh của Quang Trung và sự sợ hãi của tất cả mọi người. Thư này không đề rõ tên
người nhận, và cũng không đề nơi viết, nhưng có thể đoán là Hà Tiên:
“Chúng tôi luôn luôn sống trong tình trạng thường trực báo động;
tình thế bấp bênh của nhà vua làm cho số phận của chúng tôi cũng bấp bênh theo.
Trong tháng 2 [1792] vừa rồi, chúng tôi bị bắt buộc phải bỏ rơi con chiên, đi
trốn, để thoát khỏi tay kẻ thù [Tây Sơn]. Chúng tràn vào khoảng ba chục ngàn
quân, qua đường Lào mà chúng đã chiến thắng, tới Cao Mên… Nhưng Thượng đế đã đảo
ngược bão tố, cho chúng tôi chút yên thân; hoặc vì chúng sợ những tầu buôn Tây
phương đến đây khá nhiều; hoặc vì chúng bị hai đạo quân Xiêm chận lại không cho
vào Cao Miên, nên chúng đã rút lui. Giờ đây chúng làm chủ gần hết Nam Hà, chinh
phục tất cả Bắc Hà và có lẽ cả nước Lào mà chúng vừa cướp bóc.
Vương quốc Nam Hà bị chiến tranh tàn phá từ 20 năm nay. Dân
chúng rất lầm than, bị những công trình xây dựng đè nát, thuế nặng, đói khát
xâu xé, chiến tranh tận diệt, số phận họ như thế đó. Năm rồi trải qua một nạn
đói rất nhiều người chết. Nam Hà trong tình trạng tuyệt vọng; những kẻ theo vua
thật khốn khổ; nhưng những kẻ theo ngụy còn khổ hơn.” (Launay, III, t. 223).
Về Quang Trung, hãy nghe lời một cung nữ nói với mẹ Chiêu Thống:
“[Tôn Sĩ Nghị] không biết Nguyễn Huệ là bậc anh hùng lão thủ hung tợn và giỏi cầm
quân. Coi y ra Bắc vào Nam, thật là thần xuất quỷ nhập, không ai có thể dò biết.
Y bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết con lợn,
không một người nào còn dám trông thẳng vào mặt. Nghe lệnh của y, ai cũng mất cả
hồn viá, sợ hơn sấm sét. E rằng bất nhật y sẽ lại ra, quân Tôn tổng đốc còn có
cái lo bên trong, địch làm sao nổi” (Hoàng Lê nhất thống chí, t. 301). Những lời
trên đây do Ngô Thì Chí viết ra, đủ tỏ nhân sĩ Bắc Hà sợ Quang Trung như thế
nào.
Dĩ nhiên trước một “cái họa Quang Trung” trước mắt như thế,
các “sĩ quan” Pháp lúc đó phải tìm đường tẩu thoát, lại được thêm một việc nữa
giúp vào, là việc bị Nguyễn Ánh “đuổi đi”, nên họ có thể đi mà không bị mất mặt.
Theo thư của Le Labousse viết ngày 17/6/1792 cho Quản sự Letondal ở Macao,
nguyên do sự kiện bị đuổi này, vì Dayot thụt két, là như sau: “Chuyến đi xui xẻo
từ Macao sang Manille của Dayot và sổ sách cực kỳ thâm lạm của anh ta đã làm
cho vua ghê tởm, bực quá không thèm nói gì thêm, vua sai đuổi hết không chỉ các
lính thủy, mà tất cả sĩ quan, ai muốn đi thì đi, không giữ” (Launay III, t.
296).
Thư của M. Lavoué viết cho M. Létondal từ Lái Thiêu ngày
16/6/1792, cũng một ý như thế: “Nhà vua bất bình với những người Pháp, cho đuổi
tất cả trong những ngày đầu tháng năm [1792]; hay là những người Pháp, bất bình
với vua, xin đi và được chấp nhận ngay lập tức” (Launay III, t. 295).
Tóm lại, những “sĩ quan” đến đánh giúp Nguyễn Ánh, trong lúc
kinh hoàng nhất, đều “may mắn” được bỏ đi.
Về phần Bá Đa Lộc, trong thư ngày 20/6/1792 gửi M. Boiret,
ông viết: “Từ hai năm nay, tôi tìm cách thoát ra khỏi vùng này [Nam Hà] để ra Bắc
[Tonkin] tấn phong cho các giám mục địa phận này, nhất là vị trợ lý của tôi.
Nhà vua đã không bao giờ cho phép. Vì vậy, tôi phải khẩn thiết chấm dứt công việc,
và để đánh thức nhà vua khỏi trạng thái hôn mê, tôi đã hai lần xin về Âu Châu.
Ông đã nhiều lần tìm cách giữ tôi lại và đã hứa là sẽ cố gắng làm nhanh hơn”.
(Launay III, t. 297).
Thư Le Labousse gửi M. Boiret, viết ở Nam Hà ngày 20/6/1792:
“Có lẽ ông đã biết tin Đức Giám Mục Adran, năm ngoái đã tính
về Pháp; tầu đã chuẩn bị xong, bỗng nhiên Thượng đế nhiệm mầu cản trở tất cả.
Trong lúc tôi viết thư này, người ta cũng đang sửa soạn tầu Pháp Saint-Esprit
cho một chuyến đi như thế; nhưng chúng tôi hy vọng là chính vị Thượng đế ấy, đã
phế chuyến đi đầu, sẽ phế cả chuyến đi sau”.
Rồi ông viết tiếp:
“Vì Đức Ông muốn bỏ đi, chúng tôi cũng phải sửa soạn cuộc tẩu
thoát theo, vì không thể ở lại được khi kẻ thù đến. Dự định của chúng tôi đã và
sẽ là, nếu cần, bắt buộc, phải trốn về vịnh Xiêm La; đợi thuận gió để dong buồm
đi Manille, rồi từ đó trở lại Bắc Hà, Huế, hay một nơi nào đó ở Nam Hà ngỏ cửa
cho chúng tôi vào. Chúng tôi được các giáo sĩ Franciscains người Bồ tốt bụng ở
Manille hứa sẽ cưu mang. Chính ông Boisserand bạn đồng giáo sẽ là hoa tiêu… Ông
đang nghiên cứu bản đồ, vv… và sắm sửa dụng cụ đi biển”. (Launay, III, t. 298)
Những lá thư này cho biết khá rõ tình trạng của những người
Pháp lúc bấy giờ: quá sợ Quang Trung, tất cả đều muốn bỏ đi. Nhưng phe giáo sĩ,
chỉ muốn bỏ đi trong thời gian chiến tranh, sau đó họ lại quay về tiếp tục truyền
giáo dù Quang Trung hay Gia Long thắng cuộc. Còn những “sĩ quan”, vì bê tha, rượu
chè, cờ bạc, bị Nguyễn Ánh đuổi đi. Nhân dịp này, họ có cớ đi luôn mà không bị
bẽ mặt là “hèn nhát”. Tuy nhiên cuối cùng, Nguyễn Ánh bớt giận nghĩ lại và dụ
Bá Đa Lộc ở lại (chúng tôi sẽ nói rõ hơn việc này sau).
Ở đây ta có thể hiểu, tại sao vị giám mục ở lại: bởi vì Bá Đa
Lộc chỉ dọa, ông không thể về Pháp khoảng 1791-1792, vì Pháp đang trong giai đoạn
khủng bố Kinh hoàng (La Terreur) thanh trừng quý tộc và thầy tu. Còn Nguyễn Ánh
cần sự có mặt của Bá Đa Lộc vì hai lẽ: để tuyên truyền là vẫn có người Pháp
giúp và thứ nhì không thể để cho Bá Đa Lộc đi, vì rất có thể ông ta sẽ tìm cách
ra Bắc với Quang Trung, và như vậy ông ta sẽ dâng hết những điều ông ta biết về
Nguyễn Ánh để lập công.
Nguyễn Ánh và trận Thị Nại 1792
Theo Thực Lục, thì từ tháng 2/1792 (tháng giêng Nhâm Tý) Nguyễn
Ánh đã hoạch định chiến lược chống Tây Sơn:
“Vua hăng chí đánh giặc, bảo các tướng: “Hiện nay thế giặc
đương mạnh mà quân ta vừa mới tập họp, chưa có thể nắm ngay cái chết của quân địch.
Nhưng thù nước một ngày chưa trả thì lòng ta còn lo một ngày. Nếu năm nay không
đánh, sang năm không đánh, cứ để cho giặc được rỗi thì thế không phải là kế
hay. Chi bằng dùng nhiều phương để lừa nó, đánh gấp để cho nó mệt. Hàng năm gặp
mùa gió, thuỷ quân theo đường biển mà tiến, nhân chỗ hở mà đánh. Bộ binh đi từ
Bình Thuận, Bình Khang [Khánh Hoà], lần lượt tiến lấy được một châu thì xây
thành ở một châu, được một huyện thì đóng đồn ở một huyện, để làm phên giậu cho
Gia Định, khiến thế giặc chia ra, sức giặc yếu đi, như thế thì có thể lấy thiên
hạ được”.
Từ năm ấy trở đi, hễ gặp gió nồm là ra quân đánh giặc, gió
thuận thì tiến, gió vãn thì về. Khi phát thì quân lính họp hết, khi về thì tản
ra đồng ruộng. Quân ta không vì đóng lâu mà mỏi, không vì ngồi ăn mà tốn; mà
quân giặc Tây Sơn thì phải chạy vạy đối phó, không rỗi mà tính mưu.” (TL, I, t.
283).
Về phiá Nguyễn Huệ, chiếm xong Lào, mùa xuân 1792, Huệ đem
30.000 quân qua Lào, đánh xuống Cao Mên, tiến vào Nam. Nhưng tại sao Huệ lại dừng
quân ở biên giới Miên-Việt mà không đánh tiếp vào Gia Định? Theo thư ngày
16/6/1792 của Le Labousse (Launay, III, t. 223), thì có lẽ vì Quang Trung thấy ở
Gia Định có nhiều thuyền buôn Âu Châu, nên ngại, hoặc bị quân Xiêm đánh sau
lưng. Giả thuyết này khó đứng vững vì theo hịch Quang Trung dưới đây thì ông chẳng
coi bọn “mắt xanh” ra gì, và quân Xiêm thì sợ ông hơn cọp, sau vụ Rạch Gầm,
Xoài Mút.
Thực Lục, ghi việc tháng 6-7/1792 [tháng 5 ÂL] cho biết: “Giặc
Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ kết với 40 chiếc thuyền của bọn giặc biển Tề Ngôi khiến
chúng men các vụng biển từ miền Khang, Thuận [Bình Khang và Bình Thuận] trở
vào, cướp bóc nhân dân” (TL, I, t. 286). Như vậy, Quang Trung đã bỏ chiến dịch
đánh qua Lào, Mên, mà chọn đánh thẳng qua miền Trung xuống.
Về phiá Nguyễn Ánh, từ tháng 2/1792 đến tháng 6/1792, vẫn ở
thế thủ, chắc sợ sức mạnh thần tốc của Nguyễn Huệ không dám phiêu lưu. Đến khi
được gián điệp báo tin Nguyễn Nhạc tích tụ thuyền chiến ở Thị Nại mà không
phòng bị, mới quyết định đánh. Nhưng trước khi xuất quân, Nguyễn Ánh vẫn sợ
Nguyễn Huệ đánh úp miền Nam, nên đã chuẩn bị rất kỹ, để các tướng: Tôn Thất
Huy, Võ Tánh và Tống Phước Đạm giữ Gia Định; Tôn Thất Hội giữ Vĩnh Long và Định
Tường và Nguyễn Huỳnh Đức giữ Bà Riạ. Đại quân Nguyễn Ánh cũng chỉ đánh Thị Nại
chớp nhoáng 10 ngày, xong là về ngay. Các sự trách cứ Nguyễn Ánh không thừa thắng
chiếm Quy Nhơn và đánh ra Bắc (Nguyễn Huệ) của Bá Đa Lộc, của các cha cố và “sĩ
quan” Pháp, mà sau này Maybon và những “sử gia” chép lại, là hoàn toàn không hiểu
tình thế lúc bấy giờ: Quang Trung còn đó, không ai có thể chống cự nổi.
Về Trận Thị Nại, tháng 7-8/1792 (tháng 6 ÂL) Thực Lục ghi như
sau:
“Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc đóng nhiều chiến thuyền để ở cửa
biển Thị Nại, mưu toan vào cướp, kẻ gián điệp báo tin. Vua muốn ra đánh trước để
chặn giặc, mới dụ cho tướng sĩ các dinh Tiên Phong và Chấn Võ thuộc Trung Quân
chỉnh bị lương thực súng ống khí giới như phép hành quân, định ngày thử các chiến
hạm ở ngoài biển, thuyền đại hiệu (là loại thuyền lớn) và thuyền ô sai (là thuyền
nhẹ để sai phái, sơn đen), 128 chiếc” (TL, I, t. 286).
Vua sai Tôn Thất Huy, Võ Tánh, Tống Phước Đạm giữ kinh thành
Gia Định. Tôn Thất Hội giữ Vĩnh Trấn [Vĩnh Long] và Trấn Định [Định Tường],
Nguyễn Huỳnh Đức giữ Bà Rịa.
Nguyễn Vương xuất quân qua của Cần Giờ, thuận gió đi thẳng tới
Diên Áo (Vũng Diên), Nguyễn Văn Thành tiên phong, Phạm Văn Nhân, thứ nhì. Nguyễn
Văn Trương hộ giá, Nguyễn Văn Nhuận tiếp sau. “Khi quân đến ngoài cửa biển Thị
Nại, thì trước hết sai quân tinh nhuệ đổ bộ phóng lửa đốt thuỷ trại giặc. Nguyễn
Văn Trương và Nguyễn Văn Thành dùng thuyền Long và thuyền Phụng [đánh] thẳng
vào, các quân tiến theo. Đô đốc giặc là Thành (không rõ họ) thấy đại quân chợt
đến, bỏ chạy, thuyền ghe và khí giới bị quân ta bắt được hết (thuyền lớn 5 chiếc,
thuyền đi biển 30 chiếc, thuyền sai 40 chiếc). Lại sai tìm bắt bọn giặc biển Tề
Ngôi, bắt được ba chiếc thuyền. Vua đóng ở chợ Thị Nai, dựng cờ chiêu an phủ dụ
dân chúng, cấm quân sĩ không được cướp bóc. Rồi ra lệnh rút quân về. Chiến dịch
này, từ lúc xuất quân đến lúc khải hoàn chỉ hơn 10 ngày. Người ta cho là thần
binh“. (TL, I, t.286-287)
Thực Lục không nói có người Pháp tham dự trận này; chỉ ghi việc,
Olivier de Puymanel, tháng 7-8/1792 (tháng 6 ÂL), được thăng từ Cai đội lên Vệ
Uý ban trực tuyển phong hậu vệ Thần sách. Như vậy, Puymanel ở trong đội công
binh và pháo binh, thuộc bộ binh, mà trận này, Nguyễn Ánh không dùng đến bộ
binh, vậy ta có thể hiểu là Puymanel không dự trận này.
Xác định ngày tháng trận Thị Nại, 1792
Thực lục ghi việc hàng tháng, trừ chuyện quan trọng lắm mới
ghi rõ ngày. Nhưng có một lá thư của Bá Đa Lộc, có thể giúp ta xác định được
ngày của Trận Thị Nại 1792. Lá thư này được in lại ở hai nơi: Trong cuốn
Montyon II, t.143, có đầy đủ đoạn đầu, nhưng không đề ngày. Trong cuốn Launay
III, t. 284, có đề ngày 18/7/1792, và cho biết thư của Mgr Pigneaux gửi cho M.
Boiret; nhưng lại bỏ đoạn đầu, nói về chiến tranh, và đoạn cuối có thêm vài câu
không quang trọng. Chúng tôi trích dịch đoạn in ở Montyon II có liên quan đến
trận Thị Nại:
“…Trong tám ngày nữa, vua sẽ đi đánh Quy Nhơn, nhà vua không
có ý định lấy thành này, mà muốn để cho Nhạc giữ như một thành luỹ ngăn cản
quân Bắc Hà [Nguyễn Huệ]. Thành trì sẽ giữ lại, còn vua muốn tiêu hủy tất cả, để
cho Nhạc không còn phương tiện hại ông; và như vậy, ông có thể ra đánh Bắc Hà
mà không sợ Nhạc, ông chỉ mang theo một nửa quân đội. Bộ binh của ông có 40 người
Âu, trong đó có một người được lãnh trọng trách cai quản 600 binh; còn thuỷ
binh, có hai chiến thuyền Tây phương trang bị đầy đủ vũ khí. Tôi tin rằng, nếu
chiến dịch này thành công, ta sẽ có cơ gửi những giáo sĩ ra Phú Yên, Nha Trang
Bình Khang, và Bình Thuận…” (Montyon, II, t.143).
Trong thư này, Bá Đa Lộc nói về việc Nguyễn Vương sửa soạn đi
đánh Quy Nhơn, và qua những yếu tố trong thư, ta có thể biết đó là trận Thị Nại
1792. “Người cai quản 600 binh” là Puymanel, vì anh ta mới được lên chức Vệ Uý.
Nhờ ngày tháng ghi trong lá thư mà ta biết đúng ngày Nguyễn
Vương khởi hành đi đánh Quy Nhơn, vì thư viết ngày 18/7/1792, và nói tám ngày nữa
vua khởi hành; vậy Nguyễn Ánh xuất phát ngày 26/7/1792, và theo Thục Lục, chiến
dịch kéo dài 10 ngày, do đó ta có thể xác định, chiến dịch đánh Thị Nại bắt đầu
từ ngày 26/7/1792 và chấm dứt ngày 5/8/1792.
Tác giả Sử ký Đại Nam Việt cho chúng ta một số thông tin khác
về trận Thị Nại, đáng chú ý:
“Năm 1791 [thực ra là 1792] (…) khi vua dọn được nhiều tầu
chiến, nhiều khí giái [giới], và tu bổ thành Sài Gòn cho vững thế đoạn, thì dốc
lòng đi tìm quân giặc cùng đem quan quân ra khỏi cửa Lấp, là cửa Sài Gòn, mà
kéo ra Qui Nhơn. Khi ấy ông Thái Đức chẳng hồ nghi đều gì, những ngỡ mình đặng
bằng yên vô sự; lại đi săn xa lắm, bao nhiêu tầu ông ấy thì đã họp trong cửa Chợ
Giã gần Quy Nhơn hết thẩy.
Vậy tầu ông Dade cai thì đi trước, mà Nguyễn Ánh cùng các tầu
thì đi sau, cách xa một trống canh đàng. Ông Dade vào một mình mà bắn súng đánh
các tầu quân giặc. Quân giặc thấy tầu Tây thì sợ hãi lắm; song cũng ra sức bắn
trả, mà không mũi nào nhằm sốt. Ông Dade vào cửa nhằm khi nước ròng, nên tầu
ông ấy phải mắc cạn chẳng đi được nữa (…)
Qua một ít lâu, thì vua cùng các tầu khác mới vào cửa mà
đánh: quân giặc phải thua trận cả thể (…) Khi đầu vua thấy mình được trận làm vậy
thì mừng quá, mà truyền đốt các tầu quân giặc. Bấy giờ có một tầu lớn và một
kho đầy tiền, còn hai kho khác đầy đồ đạc, quần áo, thì vua truyền đốt ba kho ấy
đi, cho quân giặc chẳng dùng đặng nữa. Nhưng khi vua thấy lửa phát lên cháy bấy
nhiêu tầu thì lấy làm tiếc lắm, lại truyền ra sức chữa lửa đi; nên còn giữ lấy
năm chiếc tầu trận lớn, hai mươi chiếc nhỏ, và bốn mươi thuyền nhỏ. Vua cũng lầm
một điều nữa, là khi ông Thái Đức đi khỏi như đã nói trước, mà quan quân kinh
khiếp, vì đã thua, thì vua phải thừa dịp mà vây thành Quy Nhơn và bắt các xứ
xung quanh nữa. Nhưng mà vua ngại, vì ít quân chẳng dám lên vây Qui Nhơn, môt
đem binh khởi [khải] hoàn mà thôi.” SKĐNV, t.58-59).
Sử Ký Đại Nam Việt cho ta biết một chi tiết quan trọng: Thái
Đức đi săn xa, vắng. Đó cũng là một trong những lý do chính khiến Nguyễn Ánh
thành công dễ dàng.
Một điểm nữa, tác giả nói đến ông Dade, và ở một đoạn trước
cho biết Dade là Puymanel. Có lẽ tác giả nhầm, như trên đã nói Puymanel ở trong
bộ binh. Dade ở đây chỉ có thể là Dayot, vì tên Dayot cũng được Barrow nhắc tới:
nghe nói Dayot vì xông xáo quá mà tầu bị mắc cạn. Nếu đúng Dayot, thì ta có thể
hiểu: sau vụ thâm lạm bị Nguyễn Ánh đuổi đi, nhưng anh ta xin ở lại và muốn lập
công để chuộc tội. Đến tháng 4/1795, Dayot bê tha, làm đắm tầu, trước khi Nguyễn
Ánh hành quân, mới bị kết án tử hình và trốn đi luôn.
SKĐNV cũng nhắc đến vụ Nguyễn Ánh đốt tầu Tây Sơn rồi nghĩ lại,
cho chữa lửa, không ghi trong chính sử. Nhất là tác giả nói đến bản Hịch Quang
Trung, hoàn toàn không có dấu vết trong chính sử:
“Ông Quang Trung khi nghe anh mình đã phải thua làm vậy, thì
giận bẩy gan; lại sợ e ông Nguyễn Ánh lại ra đánh mình, nên họp binh sĩ lại và
sắm sửa các tầu các ghe cho đặng cứu giúp anh. Lại muốn giục lòng binh sĩ, thì
đã thương dụ nhắc lại các việc cá thể mình làm, và những trận đã được xưa nay;
lại thêm những lời khinh dễ ông Nguyễn Ánh rằng: “Danh Chủng (tên Nguyễn Ánh
khi còn nhỏ) trốn ẩn mình nơi nọ nơi kia, và cầu những Tây dương nhơn đến cứu
giúp. Dầu danh Chủng, dầu các Tây Dương nhơn thì cũng chẳng làm chi được, vì chẳng
có gan [can] đảm cùng chẳng hay nghề võ; chớ khá đem lòng sợ làm chi”.
Người nói nhiều điều khác kiêu căng lắm vậy, song chẳng kịp
lo liệu việc gì; vì Quang Trung mê tửu sắc lắm, chóng ra hư thân, những buồn bã
quá lẽ, hay là hoảng hốt cuồng tâm mà chết, khi mới bốn mươi lăm tuổi.” (SKĐNV,
t.59-60). Theo Liệt truyện, Quang Trung mất năm 40 tuổi.
Chứng này cho thấy tác giả Sử Ký Đại Nam Việt biết rõ nhiều
chuyện, đã đọc bản Hịch của Quang Trung, mà Hịch này có lẽ đã hoàn toàn bị thủ
tiêu.
Hịch Quang Trung
Hịch Quang Trung được in trong Ký sự Bissachère (t.173-176)
do Maybon biên soạn, Paris, 1920 và in trong phần Phụ lục tác phẩm của Montyon
(Montyon II, t.138-140), London, 1811. Bản Bissachère ghi tên hịch này như sau:
Manifeste de Quang Trung, Roy de la Haute-Cochinchine et du
Tonquin à tous les Mandarins, Soldats et Peuple des provinces de Quang-Gai et
de Quin-Hone
(Tiré des Nouvelles des Missions Etrangères de 1802,
traduction faite par M. de La Bissachère)
“Hịch của Quang Trung, vua miền Bắc Nam Hà và Bắc Hà gửi toàn
thể Quan, Quân, Dân vùng Quảng Ngãi và Quy Nhơn
(Rút ra từ Thông Tin của Hội thừa sai Ngoại quốc, 1802, do Ô.
de La Bissachère dịch)”
Maybon chú thích: “Bản hịch này chúng tôi cho rằng đã in lần
đầu trong Les Nouvelles des Missions Orientales (Thông tin của hội Thừa sai
Đông phương) do những giám đốc Hội thừa sai Ngoại quốc nhận được ở Luân Đôn những
năm 1793, 1794, 1795, 1796, t. 142; không đề tên người dịch. Montyon in lại,
II, trang 306 [Maybon dùng sách Montyon, bản Paris, nên không cùng số trang với
bản in Luân Đôn mà chúng tôi dùng], những lỗi chính tả và dấu sai trong bản La
Bissachère được sửa lại” (Maybon, Relation de La Bissachère, t.174).
Bản Montyon có tên như sau:
Manifeste
De Quang Trung, Roi de la Cour de Cochinchine et du Tonkin
A Tous les Mandarins, Soldats et Peuples des Provinces de
Quang-Ngai, et de Qui-Nhon
So sánh hai văn bản, chúng tôi thấy Montyon không chỉ sửa lỗi
chính tả và dấu, mà còn viết lại những câu vụng; có câu không thấy trong bản
Bissachère. Như vậy, có bốn giả thuyết:
- Bản Bissachère, không phải do chính Bissachère dịch, vì ông
kém tiếng Pháp, mà ông chỉ chép lại một bản người khác dịch hoặc dịch chung với
người khác.
- Montyon dùng bản Bissachère nhưng sửa câu, sửa lỗi.
- Montyon có một bản khác, dịch đúng hơn, không đề tên người
dịch.
- Montyon dịch thẳng từ bản chữ Hán của Quang Trung.
Chúng tôi dùng bản Montyon, vì ít lỗi hơn. Đây chỉ là sự dịch
lại một bản dịch, nhưng không thể làm khác, bởi nguyên bản của vua Quang Trung
chắc không còn nữa.
Hịch
của Quang Trung, Vua Nam Hà và Bắc Hà
gửi toàn thể Quan, Quân, Dân hai xứ Quảng Ngãi và Qui Nhơn
“Các ngươi, lớn, nhỏ, từ hơn hai mươi năm nay không ngừng sống
nhờ ân huệ của anh em ta. Đành rằng nếu chúng ta đã gặt hái được những chiến thắng
trong Nam ngoài Bắc trong thời kỳ này, quả đúng cũng nhờ vào sự gắn bó của nhân
dân hai xứ; ở đó, ta đã tìm được những người can đảm, những quan lại có khả
năng xây dựng triều đình.
Quân ta tiến đến đâu, giặc tơi bời, tan tác. Quân ta chinh phạt
đến đâu, giặc Xiêm, giặc Tầu tàn ác buộc phải chịu ách cúi đầu…
Còn lũ nhơ bẩn của triều đình cũ, từ hơn ba mươi năm nay, ta
chưa thấy chúng làm được việc gì ra hồn!… Trăm trận ta đánh với chúng, quân
chúng tan rã, tướng chúng bị tiêu diệt; vùng Gia Định tràn đầy xương cốt chúng.
Những điều ta nói đây các ngươi đã từng chứng kiến; nếu các ngươi không thấy tận
mắt thì cũng đã nghe kể lại.
Xá gì tên Chủng khốn nạn đi chui luồn những triều đình Âu
Châu tồi bại? Còn đám quần chúng khiếp nhược ở Gia Định bây giờ dám đứng lên đầu
quân, các ngươi há gì mà sợ chúng thế? Sao các ngươi lại bị khủng hoảng tinh thần
đến vậy? Nếu bộ binh và thủy binh của chúng bất ngờ xâm phạm những cửa biển của
các ngươi; thì cứ theo những chỉ dụ của Hoàng Đế [Thái Đức] đã viết sẵn mà làm.
Ta thấy các ngươi, quan cũng như quân, cả hai xứ, đều không có can đảm chiến đấu.
Thực chỉ vì lẽ đó chứ không phải vì quân giặc có tài cán gì mà chúng làm chủ được
hết các vùng chúng xâm lược. Bộ binh của các ngươi hèn nhát trốn chạy.
Nay, chấp lệnh của Hoàng đế, anh ta, ta chuẩn bị một binh đội
thuỷ, bộ kinh hồn, nhân danh ta, nghiền nát chúng dễ như “bóp tan mảnh gỗ mục”.
Còn các ngươi, các ngươi không cần đếm xỉa đến kẻ thù, cũng đừng
sợ chúng, chỉ cần mở mắt, dóng tai, mà nhìn, mà nghe, những gì ta sẽ làm. Các
ngươi sẽ thấy các xứ Bình Khang, Nha Trang đầy mảnh vụn xác người Gia Định, sẽ
thấy Phú Yên, luôn luôn là trung tâm của chiến tranh và từ Bình Thuận đến biên
giới Cao Mên, tất cả, chớp nhoáng, sẽ trở về tay ta, để mọi người biết rằng
chúng ta đích thực là anh em, không bao giờ ta quên tình máu mủ.
Ta khuyên các ngươi, lớn nhỏ, hãy phò trợ Hoàng gia, trung
thành với Hoàng đế, trong khi chờ đợi ta quét sạch Gia Định, thiết lập lại
chính quyền, thì tên tuổi của hai xứ sẽ trở thành bất tử trong sử sách.
Đừng cả tin những gì lũ người Âu nói. Khéo léo tinh xảo gì
chúng nó? Tất cả đều một bọn mắt rắn xanh. Các ngươi chỉ nên nhìn chúng như những
xác chết trôi được vất xuống từ biển Bắc. Có gì ghê gớm đâu mà ba hoa chiến hạm
bọc đồng, đạn đồng.
Tất cả làng mạc trên đường hành quân trong hai xứ phải góp sức
làm cầu cho quân đi qua. Nhận được lệnh này, phải triệt để thi hành ngay.
Khâm tai! Đặc chiếu.
Quang Trung năm thứ 5, ngày thứ 10, tuần trăng thứ bẩy”.
Tức ngày 27/8/1792.
Montyon II, (t.138-140). Thụy Khuê dịch.
Ngày 27/8/1792 Quang Trung truyền hịch san bằng Gia Định.
Ngày 16/9/1792, Quang Trung mất. Bài hịch cho thấy ba điểm: ý chí quyết liệt
chiếm lại miền Nam; sự khôn khéo của Quang Trung và tình hình chính trị lúc bấy
giờ. Anh em Tây Sơn chưa thoát khỏi nghịch cảnh bất hoà. Việc hành quân đánh
Nguyễn Ánh qua hai vùng Quảng Ngãi và Quy Nhơn, là đất của Nguyễn Nhạc, không dễ,
nên Nguyễn Huệ phải có hịch truyền đi trước, để:
1- Chứng tỏ mình theo lệnh anh mà đánh. Tôn anh làm Hoàng đế.
Mình chỉ là vua, nhưng vua trị vì cả Nam Hà lẫn Bắc Hà.
2- Đánh giặc cho anh. Nhưng nhân danh mình và quân đội của
mình.
3- Mắng quan, quân, dân hai miền Quảng Ngãi và Quy Nhơn của
Nguyễn Nhạc là hèn nhát để mất đất về tay Nguyễn Ánh.
4- Không khiến dân quân hai miền này góp phần vào chiến trận,
ngoài việc làm cầu đường.
5- Gọi Nguyễn Ánh bằng Chủng, tên tục hồi bé, là một xỉ nhục.
6- Khinh bỉ người Âu, cho sự cầu cạnh người Âu là đê tiện.
Bài hịch vừa dằn mặt vừa khích lệ dân chúng của Nguyễn Nhạc;
mắng nhiếc Nguyễn Ánh về việc nhờ người Âu, đồng thời cũng cho thấy hiệu quả
chính sách tuyên truyền của Nguyễn Ánh: việc người Âu đến giúp chỉ là huyền thoại,
Bá Đa Lộc từ Pháp về tay không, Louis XVI từ chối không giúp; người ta đồn lên
là Bá Đa Lộc tự tìm lấy nguồn tài trợ, nhưng chính Bá Đa Lộc cũng cho biết việc
“giúp” là “chimère” tức là “ảo tưởng”, như ta đã thấy trong bức thư ông viết
ngày 14/9/1791, mà chúng tôi trích dẫn ở trên.
Theo Trịnh Hoài Đức ngay từ năm 1778, Nguyễn Ánh đã đóng những
tầu đầu bọc nhọn, giả làm tầu Tây phương: “… phàm tại các cửa sông đều đóng cọc
cây ngăn cản tầu để chống giữ và bí mật đóng hơn 50 chiếc chiến hạm tại sông nhỏ
Thị Tĩnh thuộc sông An Thông. Mấy chiến hạm này đầu bọc nhọn, đầu và thân đều gắn
ba tấm ván có vẽ hình như hạm của Tây dương, lại giăng lưới gọi là Long Lân
thuyền, lại chỉnh bị bè cho hoả công”. (Gia Định Thành thông chí, Vật sản chí).
Như vậy, loại thuyền Long Lân, ghi trong Thực Lục (I, t.
206), đóng năm tháng 4/1778 [tháng 3ÂL], chính là thuyền Tây dương “giả”.
Nguyễn Ánh làm thuyền Tây dương giả, rồi đồn ầm lên là có
quân Pháp giúp, để gây áp lực cho địch, khiến Quang Trung cũng tin là có thật.
Việc dùng ba người Pháp Chaigneau, Vannier và Forcant chỉ huy
ba thuyền đồng Long Phi, Phượng Phi và Bằng Phi hộ tống vua trong chiến dịch
1801-1802, cũng nằm trong chính sách tuyên truyền ấy.
Việc Bá Đa Lộc tìm mọi cách để bỏ đi trước khi Quang Trung
đánh, và những “sĩ quan” Pháp bỏ đi theo, đã tỏ rõ “công lao” của những người
Pháp này như thế nào trong việc giúp Nguyễn Ánh trở lại ngai vàng.
Sự thành công của Gia Long, phần lớn phụ thuộc vào cái chết của
Quang Trung. Nếu Quang Trung không chết, cục diện chiến tranh chưa biết sẽ thế
nào. Ngay cả sau khi Quang Trung chết, với sự non yếu và sự giết hại công thần
của Quang Toản, Trần Quang Diệu vẫn còn cầm cự thêm được 10 năm nữa. Như vậy đủ
biết, chiến thắng Tây Sơn không phải dễ dàng, những người như Bá Đa Lộc, hay
các giáo sĩ và các “sĩ quan” Pháp thường trách Nguyễn Ánh không đánh mạnh, đánh
ngay, bởi họ không hiểu gì về sức mạnh quân sự của Tây Sơn.
Phụ lục, bản tiếng Pháp
MANIFESTE
De Quang Trung, Roi de la Cour de Cochinchine et du Tunkin,
A Tous Les Mandarins, Soldats, et peuples des Provinces de
Quang-Ngai et de Qui-Nhon
Vous tous grands et petits, depuis plus de 20 ans ne cessez
de subsister par nos bienfaits, nous frères (Tay-son), il est vrai que pendant
tout ce temps, si nous avons remporté des victoires dans le nord et dans le
sud, nous reconnaissons que nous les devons à l’attachement des peuples de ces
deux provinces. C’est là où nos avons trouvé des hommes courageux et des
mandarins capables pour former notre cour. Partout où nous avons porté nos
armes, nos ennemis ont été défaits ou dispersés; partout où nous avons porté
nos conquêtes, les Siamois et les cruels Chinois ont été obligés de subir le
joug… Quant aux restes impurs de l’ancienne cour, depuis plus de 30 ans
avons-nous jamais vu qu’ils eussent rien fait de bien!… Dans cent combats que
nous leur avons livrés, leurs soldats ont été dispersés, leurs généraux mis à
mort, la province de Gia-Dinh a été remplie de leurs ossemens. Ce que nous
disons ici, vous en avez été les témoins, et si vous ne l’avez vu de vos
propres yeux, au moins l’avez-vous entendu de vos oreilles, quel cas faire de
ce misérable Chung (Roi actuel régnant) qui s’est enfoui dans les malheureux
royaumes d’Europe? Quant au peuple timide de Gia-Dinh, qui ose aujourd’hui de
mettre en mouvement, et lever une armée, pourquoi les craignez-vous tant?
Pourquoi votre coeur est-il saisi d’effroi? Si leur armée de terre et de mer
s’est présentée dans tous vos ports, et s’en est emparée dans un temps où vous
ne vous y attendiez pas, le grand empereur nous en a déjà fait connaître les
raisons par lettres; et nous avons vu que les mandarins, les soldats et vous
tous dans ces deux provinces, n’aviez pas eu le courage de combattre, et que
c’est par cette raison plutôt que par leurs talens qu’ils s’étaient emparés de
tous les endroits qui sont aujourd’hui en leur possession. Votre armée de
terre, s’est enfuie lâchement. Maintenant, par l’ordre de notre frère empereur,
nous préparons nous-mêmes une armée formidable par terre et par mer, et nous
allons réduire les ennemis de notre nom avec la même facilité que nous froisserions
un morceau de bois pourri ou du bois sec. Quant à vous tous, ne faites en aucun
cas de ces ennemis; ne les craignez point; mais seulement ouvrez les yeux et
les oreilles pour voir et entendre ce que nous allons faire. Vous verrez que
les province de Binh Khang et de Nha Trang qui ne sont que des débris de
Gia-Dinh, que la province de Phu-Yen qui a toujours été le centre de la guerre,
et qu’enfin depuis la province de Binh-Thuan, jusqu’au Cambodge, toutes d’un
seul coup vont rentrer sous notre puissance; afin que tout le monde sache que
nous sommes véritablement frères, et que nous n’avons jamais pu oublier que
nous étions du même sang. Nous vous exhortons tous, grands et petits, de
soutenir la famille de l’empereur et de lui rester fidèlement attachés, en
attendant que notre armée purifie la province de Gia-Dinh et d’y établisse
notre autorité, et les noms de vos deux provinces seront immortels dans nos
annales. Ne soyez pas assez crédules pour ajouter foi à ce qu’ont dit des
Européens. Quelle habileté peut avoir cette espèce d’hommes? Ils ont tous des
yeux de serpens verds, et vous ne devez les regarder que comme des cadaves
flottans qui nous sont jettés ici par les mers du nord. Qu’y a-t-il là
d’extraordinaire pour venir nous parler de vaisseaux de cuivre, et de ballons?
Tous les villages qui se trouvent sur les chemins dans vos deux provinces
auront soin de faire partout des ponts, afin de faciliter la passges de nos
troupes. Aussiôt que cet ordre vous parviendral, vous aurez soin de vous y conformer.
Recevez avec respect ce manifeste; car tel est notre bon plaisir.
Le 10ème jour de la 7ème lune, de la 5ème année de Quang
Trung.
Chương 9
ký sự bissachère, thuỷ tổ sự bóp méo lịch sử
Về phần Maybon, tác phẩm nòng cốt của ông là bộ sử thời danh,
tựa đề Histoire moderne du pays d’Annam, (1592-1820), étude sur les premiers
rapports des Européens et des Annamites et sur l’établissement de la dynastie
annamite des Nguyễn (Lịch sử hiện đại nước Nam (1592-1820), khảo luận về những
giao tiếp đầu tiên giữa người Âu với người An Nam và về sự xây dựng triều đại
An Nam nhà Nguyễn), Librairie Plon, Paris, 1920. Phần chủ yếu trong cuốn sử này
viết về giai đoạn Gia Long dựng nghiệp. Để hậu thuẫn cho những lập luận trong
cuốn Histoire moderne du pays d’Annam, Maybon cho in cuốn La Relation sur le
Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère (Ký sự về Bắc Hà và Nam Hà của
ông de La Bissachère) với những ý định rõ ràng:
1- Bác bỏ những điều Barrow và Montyon viết về Gia Long bằng
cách phê phán gắt gao hai tác giả này.
2- Xác định sự “đáng tin cậy” của Bissachère và Sainte-Croix,
hai tác giả được ông giới thiệu trong La Relation de la Bissachère (Ký sự
Bissachère). Maybon dựa vào những điều Bissachère và Ste-Croix viết trong Ký sự
Bissachère, để thiết lập “sự thực” về “công trạng lớn lao” của Bá Đa Lộc và những
“sĩ quan” Pháp đến giúp Gia Long, mà ông cho rằng Thực Lục và Liệt Truyện đã cố
tình bỏ qua.
3- Cách trình bầy chứng từ và lập luận tỏ ra vững vàng và
“khoa học” của Maybon đã khiến cho hầu như tất cả mọi người đều khâm phục và tiếp
nhận những điều ông viết như những “sự thực cuối cùng”, rồi phụ hoạ hoặc chép
theo mà không cần đặt câu hỏi.
4- Tính cách nghiêm túc của tập san Đô Thành Hiếu Cổ
(Bulletin des Amis du vieux Huế, BAVH) và tập san Trường Viễn Đông Bác Cổ
(Bulletin de l’Ecole Française d’Extrême Orient, BEFEO), mà hai học giả này phụ
trách, đã bảo lãnh rộng rãi cho những điều mà họ đưa ra về giai đoạn lịch sử
này.
5- Về phần người Việt, sau hơn thế kỷ bị Pháp đô hộ, đã mất gần
hết bản tính tự cường về tư tưởng, không còn khả năng làm lấy việc của mình, trở
thành ỷ lại, cái gì người ngoài, người Âu, nhất là người Pháp làm, đều hơn ta cả.
Đó là lý do giải thích tại sao, trong một trăm năm qua, đã không có lấy một bài
viết nào đả phá những sự bịa đặt thô thiển của những ngòi bút thực dân về giai
đoạn này, cũng không có bộ sử nào khả dĩ có thể thay thế được cuốn sử của Trần
Trọng Kim. Và đó cũng là cái nhục tinh thần của một dân tộc, ngoài cái nhục mất
nước.
*
Cuốn La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la
Bissachère (Ký sự về Bắc Hà và Nam Hà của Ô. de La Bissachère) do Charles B.
Maybon trình bầy, viết lời giới thiệu và chú thích, nxb Champion, Paris, 1920
(sẽ dẫn là Ký sự Bissachère, hoặc Bissachère) vì gắn bó với tên tuổi sử gia
Maybon, nên được nhiều người trích dẫn, kể cả các học giả nổi tiếng.
Bản Maybon in năm 1920, là bản thứ ba, tức là ra đời khá chậm,
nhưng tại sao một số điều ghi trong sách này lại có ảnh hưởng rất sâu, từ trước
năm 1920? Bởi vì, cách đấy hơn một thế kỷ, năm 1810, Sainte-Croix đã cho in lần
đầu bản Ký sự này trong cuốn sách của ông tựa đề “Voyage commercial et
politique aux Indes Orientales…” (Hành trình thương mại và chính trị ở Đông Ấn…);
và những sự bôi nhọ Gia Long có tính cách “giật gân, kinh dị” do Bissachère viết
ra, đã được truyền đi từ 1810, tức là cách đây hơn hai thế kỷ.
Maybon cho in lại những điều nhơ nhuốc ấy năm 1920, vì ba lý
do:
Thứ nhất: xác định lại tên tác giả Ký sự này là Bissachère chứ
không phải Sainte-Croix.
Thứ nhì: giới thiệu những điều Sainte-Croix viết trong bài
Introduction (Nhập đề) như một loại chứng khác, chưa hề in ở đâu. Bài viết này
đưa ra những “thông tin” quái đản khác về Gia Long và nhất là thổi phồng “công
trạng” của các “sĩ quan” Pháp.
Thứ ba: Cả Bissachère lẫn Sainte-Croix đều tôn sùng Bá Đa Lộc
và đề cao sự nghiệp các “sĩ quan” Pháp, trong việc giúp Gia Long lấy lại ngai
vàng, điều mà Maybon muốn xác định trong bộ sử Histoire moderne du pays d’Annam
để vinh danh công trạng của người Pháp trong việc Gia Long thống nhất nước Nam.
Relation de la Bissachère, thủy tổ việc bóp méo lịch sử
Pháp-Việt
Bissachère là ai?
Pierre-Jacques Lemonnier de La Bissachère sinh khoảng 1764 tại
Angers. Học đạo. Gia nhập hội Thừa sai Ngoại quốc Paris. Tháng 3/1790, ông rời
Orient; sang Bắc Hà hoạt động ở vùng Nghệ An. Theo Maybon, năm 1795, đạo chúa ở
vùng Nghệ An bị đàn áp, ông phải trốn tránh. Năm 1798, 1799, có những đàn áp mới,
Bissachère phải sống chui nhủi khổ cực. Tới 1800, tình trạng khá hơn,
Bissachère trở lại Nghệ An. Khi Gia Long đánh ra Bắc, đầu tháng 7/1802 đến Nghệ
An, vẫn theo Maybon, Giám Mục Castorie [La Mothe] và La Bissachère đến chào.
Năm 1806, Bissachère bị bệnh, phải về Macao, tại đây, năm sau, ông gặp và trao
cho viên sĩ quan kỵ binh Renouard de Sainte-Croix, tập bản thảo ký sự của ông,
trước khi về Anh tỵ nạn [Hội thừa sai Pháp sau cách mạng 1789 phải chạy sang
Anh]. Tại Luân Đôn, sinh sống khó khăn, ông gặp nam tước de Montyon ở Pháp sang
tỵ nạn chính trị; có lẽ họ đã trao đổi với nhau về cuốn ký sự này. Năm 1815,
Pháp trở lại chế độ vương triều, Louis XVIII lên ngôi, Bissachère về Pháp, trở
thành chuyên gia của chính phủ Pháp về tình hình Á Đông, đặc biệt Việt Nam. Ông
mất năm 1830 (Theo tiểu sử Bissachère do Maybon soạn trong bài Introduction, Ký
sự Bissachère, t. 5).
Vị giám mục cai quản địa phận Bắc hà từ 1773 đến 1823 là Jean
Labartette. Ông sinh ở Ainhoa, miền nam Pyrénées ngày 31/1/1744, đi truyền giáo
ngày 29/11/1773, thăng giám mục năm 1774 và mất ở Cổ-Vưu, thuộc Quảng Trị ngày
6/8/1823 (Launay III, t. 12).
Theo thư từ ông viết về hội truyền giáo, ta có thể biết đại
lược tình hình: từ 1773 đến 1785: đạo Gia Tô ở Bắc Hà được an toàn. Từ khi Nguyễn
Huệ, chiếm được chính quyền ở Phú Xuân, năm 1786, mọi sự thay đổi: Nguyễn Huệ
không thích đạo giáo nói chung, buộc các sư sãi về nhà, làm ruộng, đi lính,
đóng cửa chùa chiền, giáo đường và cho lệnh tìm bắt giáo sĩ.
Khi Bissachère đến Bắc Hà trong năm 1790, vua Quang Trung đã
đuổi xong quân Thanh và thu phục toàn thể đất Bắc, thời điểm này Phượng Hoàng
Trung Đô ở Nghệ An cũng đã xây xong. Bissachère ở trong vùng Nghệ An, chắc là
phải chịu sự hà khắc đó.
Félix Renouard de Sainte-Croix (1767-1840)
Người thứ nhì đóng góp vào sự xuyên tạc lịch sử là Félix
Renouard de Sainte-Croix, sự tác hại của những điều ông viết trong bài
Introduction (Nhập đề) dài 28 trang, được Maybon in lại, tương đương hay tệ hơn
Bissachère.
Sainte-Croix là người được Bissachère phó thác những dòng ký
sự của mình, ông là cựu sĩ quan kỵ binh, sang Á Châu theo hạm đội của tướng
Decaen [có nhiệm vụ tiếp nhận các thuộc địa Pháp ở Á Châu được Anh trả lại sau
hiệp định Amiens 27/3/1802)], ông đến Pondichéry (Ấn độ) tháng 7/1803. Ở Ấn Độ
một năm, rồi sang Phi Luật Tân. Trở về Macao cuối 1806. Sang Quảng Đông, qua Đà
Nẵng nhưng không ghé lại. Gặp Bissachère ở Macao và được trao bản thảo tập ký sự,
năm 1807.
Ba năm sau, Ste-Croix cho in bộ sách nhan đề “Voyage
commercial et politique aux Indes Orientales, aux Iles Philippines, à la Chine,
avec des Notions sur la Cochinchine et le Tonkin pendant les annéés 1803, 1804,
1805, 1806 et 1807” (Hành trình thương mại và chính trị ở Đông Ấn, Phi Luật
Tân, Trung Hoa, với những khái niệm về Nam kỳ và Bắc kỳ trong những năm
1803…1807) (Aux Archives du droit français, Imprimerie Crapelet, Paris, 1810).
Bộ sách này gồm ba tập, viết dưới hình thức 80 lá thư gửi bạn,
kể lại những điều Ste-Croix ghi nhận trong 5 năm công tác ở Á Châu. Lá thư
chót, trá đề Đà Nẵng ngày 25/12/1807 [vì Ste-Croix không vào Đà Nẵng, chỉ đi
qua] tựa là Notions préliminaires sur la Cochinchine et le Tonkin (Khái niệm sơ
bộ về Nam Hà và Bắc Hà) (t. 221-289), viết về tình hình nước Nam; và đó chính
là Ký sự Bissachère, được sửa đổi cách sắp xếp, không đề tên tác giả, chỉ nói
là của một giáo sĩ đã sống ở Việt Nam nhiều năm.
Ký sự Bissachère do Ste-Croix in năm 1810, sẽ là nguồn phát
xuất những thông tin bôi nhọ Quang Trung, Gia Long và dân tộc Việt, cách đây
hơn hai thế kỷ, in ở Paris.
Maybon và Ký sự Bissachère
Một thế kỷ sau, Maybon tìm thấy trong văn khố Bộ ngoại giao
Pháp, tập bản thảo gồm có:
- Một bài Avant-propos (Tựa) không ký tên, của Sainte-Croix
(4 trang).
- Một bài Introduction (Nhập đề) không ký tên (28 trang) cũng
của Ste-Croix.
- Một bài Récit abrégé de quelques circonstances de la
conquête du Tonkin par le prince annamite connu sous le nom de Gia Long (Bài
tóm lược vài cảnh đánh chiếm Bắc Hà của ông hoàng nước Nam tên là Gia Long) do
Bissachère viết (17 trang).
- Một bài ký sự tựa đề Des Notions sur le Tonkin (Những khái
niệm về Bắc Hà) của Bissachère (49 trang).
- Hai tư liệu đính kèm (Hịch Quang Trung và Những thông tin về
Bắc Hà).
Maybon thu thập tất cả những tài liệu này và in trong cuốn La
Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère (Ký sự về Bắc
Hà và Nam Hà của Ô. de La Bissachère) do chính ông trình bầy, viết lời giới thiệu
và chú thích.
Maybon nói rõ mục đích của mình trong bài Introduction ở đầu
sách:
“Có ba điều bổ ích trong việc in lại sách này: Thứ nhất, trả
lại cho cuốn sách dạng thức ban đầu mà tác giả viết. Văn bản còn kèm theo những
chú thích của Renouard de Sainte-Croix, đã bị bỏ đi trong lần in lần đầu. Sau
cùng, hai bài “Avant-Propos” và “Introduction” của Sainte-Croix hoàn toàn
“inédits”, chưa in ở đâu, trừ vài lầm lỗi, chứa đựng những thông tin về lịch sử
Việt Nam, lại càng quý giá hơn nữa, vì đến từ Jean-Marie Dayot, một sĩ quan
Pháp đã phục vụ đắc lực cho ông hoàng An Nam từ đầu cuộc chiến chống phiến loạn”
(Maybon, Ký sự Bissachère, Introduction, t. 6-7).
Câu của Maybon “trừ vài lầm lỗi, chứa đựng những thông tin về
lịch sử Việt Nam, lại càng quý giá hơn nữa, vì đến từ Jean-Marie Dayot” đã xác
định điều này: Maybon đánh giá cao bài Introduction của Sainte- Croix vì bài
này Ste- Croix viết theo lời Dayot thuật lại.
(Dayot, là một trong những lính Pháp đến giúp Gia Long, được
vua tin dùng, nhiều lần được trao nhiệm vụ đi mua khí giới ở nước ngoài. Năm
1792, Dayot phạm tội thâm thủng ngân quỹ trong một chuyến đi, bị đuổi, nhưng
xin ở lại. 1795, Dayot làm đắm tầu, bị xử tử, trốn đi luôn, sống ở Phi Luật
Tân, tại đây, gặp Ste- Croix, và kể cho Ste-Croix những điều y viết trong bài
Introduction này).
Cuốn Ký sự Bissachère chia làm ba phần:
- Trang 5-70: là bài Introduction do Maybon viết, về sự ra đời
của cuốn sách lần này, về hai ấn phẩm in năm 1810 của Sainte-Croix và năm 1811
của Montyon. Bài Introduction này dài hơn 1/3 cuốn sách (bài Introduction của
Maybon dài 64 trang, bài Introduction của Ste- Croix dài 28 trang và Ký sự
Bissachère dài 66 trang), có ba điểm nổi bật: đả kích và triệt hạ tác phẩm của
Barrow và Montyon và vinh thăng sự nghiệp Dayot.
- Trang 71-104: Bài Avant- Propos và Introduction của
Ste-Croix.
- Trang 105-172: dành cho phần Ký sự Bissachère.
Maybon trân trọng giới thiệu cuốn Ký sự Bissachère trong bài
Introduction dài 64 trang, nên cuốn sách này sẽ được mọi người sử dụng như những
tư liệu đáng tin cậy, nhờ tên tuổi của Maybon. Trong sách, vì có tới 2 bài
Introduction, một của Maybon và một của Ste-Croix, cho nên những người trích dẫn
sách này, thường không phân biệt: đoạn nào do Maybon viết, đoạn nào do
Ste-Croix viết, thường chỉ vắn tắt ghi Bissachère hoặc Maybon.
Những sự bội nhọ Quang Trung và Gia Long của Bissachère trong
Ký sự, được Maybon in lại mà không chú thích, sẽ trở thành “sự thực”.
Những sự thổi phồng vai trò của Bá Đa Lộc và những người lính
Pháp của Sainte-Croix trong bài Introduction, được Maybon cho in, mà không chú
thích, cũng sẽ trở thành “sự thực”.
Vì vậy cho nên chúng tôi thấy cần phải “giới thiệu lại” cuốn
Ký Sự Bissachère do Maybon chủ biên, để độc giả biết các tác giả này đã viết những
gì và sau đó, ta sẽ tìm hiểu tiến trình bóp méo lịch sử thành lịch sử của những
cây bút thuộc điạ.
*
Chúng tôi giới thiệu phần Ký sự Bissachère trước, bài
Introduction của Ste-Croix sẽ được giới thiệu sau.
Ký sự Bissachère chia làm 2 phần:
Phần đầu (t. 105-122) mang tên: Récit abrégé de quelques
circonstances de la conquête du Tonkin par le ci-devant Roy de Cochinchine
Ngu-Yen-Anh qui aujourd’hui porte le titre d’empereur Gia Long (Tóm lược vài cảnh
chinh phục Bắc Hà của vua -trước đây là vua Nam Hà- bây giờ mang danh hiệu
hoàng đế Gia Long): Nội dung nói sơ lược về Nguyễn Ánh và nguyên nhân thành
công: Nhờ sự giúp đỡ của Tây phương, chủ yếu là Bá Đa Lộc. Lược thuật trận Trấn
Ninh và sự can đảm của Bùi Thị Xuân. Mô tả việc Gia Long trừng phạt Tây Sơn.
Phần thứ nhì (t. 123-172), mang tên: Notions sur le Tonquin
(Những khái niệm về Bắc Hà): Mở đầu, nói qua về nguồn gốc chữ Tonquin, theo ông
phải viết là Nước Nam mới đúng (t. 123-124), tiếp theo là nội dung, như sau:
Kể tội Gia Long đàn áp dân chúng, sưu cao thuế nặng, xây
thành đài, dùng hình phạt dã man, bắt dân vào rừng rú tìm lâm sản, quan lại
tham nhũng, làm giầu trên thuế má, chế độ rình rập, mật thám được trả lương
cao. Sau khi xây dựng xong thành quách, quan lại vinh thân phì gia, dân chết
đói phải bán con để sống. Tiếng Bắc nghe hay, tiếng Nam thô lỗ vv … Tất cả những
đoạn này sẽ được nhiều tác giả trích dẫn để “chứng minh” sự “bất tài” của Gia
Long.
Về “lịch sử” Bắc Hà: Bissachère mô tả sự nhục nhã trong việc
nhận lễ tấn phong của Trung Hoa: vua Việt phải quỳ gối trước sứ giả mang thánh
chỉ của thiên triều (t. 131). Quân của Quang Trung (đánh Thanh) là một bọn thổ
phỉ, tàn sát, cướp bóc dân chúng (t. 132). Tôn giáo ở Bắc Hà toàn một bọn mê muội,
sùng bái quỷ thần, thờ cúng ma quỷ (Idolâtrie). Quần chúng mê tín dị đoan, bị
các thầy pháp mê hoặc, bị ma làm… (t. 134-135).
Về Gia Long, Bissachère cho rằng “Gia Long vô thần, không có
thần nào khác ngoài ông và bụng ông”, Gia Long chỉ kính trọng Khổng tử (t.
137). Mẹ và em gái vua đều tin ma quỷ (t. 138). Bissachère tiếp tục chỉ trích
tín ngưỡng của người Việt nhưng ông tỏ ra không hiểu gì về văn hoá Việt, trộn
chuyện Liễu Hạnh với chuyện ma rung thuyền, vv… (t. 140). Ông kể tình hình khốn
khổ của đạo Chúa (t. 141). Quan lại tham nhũng, làm tiền (t. 143). Tội ác. Lệ
làng. Luật pháp. Binh lính. Tổ chức làng thôn (t. 148). “Trên hà hiếp dưới, cá
lớn nuốt cá bé” (t. 152). Đất Bắc mầu mỡ hơn đất Tầu (t. 154), có mỏ (t. 155).
Gia Long bị dân Bắc ghét (t. 156). Tả đội voi trận (t. 157). Người Việt khinh
ghét người Tầu, gọi là “Ngô chó” (t. 157). Người Việt qụy lụy trước người trên.
Tục quỳ. Cách ngồi ăn: chiếu trên, chiếu dưới, tùy theo ngôi thứ (t. 159). Vị
trí người phụ nữ trong gia đình. Đa thê (t. 160-161). Cưới hỏi, hồi môn trang sức,
y phục (t. 162-163). “Cấm [dân] lợp ngói mái nhà trừ đền thờ tổ tiên của vua”
(t. 166). Người Việt không khuyến khích nghệ thuật (t. 167). Đồng bằng thuộc loại
phì nhiêu nhất thế giới và mỏ nhiều như ở Pérou (t. 167). Người Bắc khéo nói và
nói hay, mồm miệng đỡ chân tay (t. 168). Ăn cá với cơm (t.170). Lễ phục đẹp, giống
như đội hát đồng ca dòng Bénédictine (t.170). Ăn tất cả các thứ thịt kể cả thịt
chó, ăn cả con tầm, ăn nhau các con vật, dùng nhau bà đẻ chữa bệnh, ăn tất cả
các loại sâu thoát ra từ đất (rươi) (t. 171-172).
*
Bissachère là người ít học, không quen viết lách, cho nên ông
kể chuyện vô trật tự, câu cú lôi thôi, gặp đâu viết đấy. Dù Maybon có sửa chữa
và sắp xếp lại câu chữ, nhưng vẫn còn nhiều đoạn lủng củng tối nghiã.
Điểm đáng chú ý nhất: Bissachère là người tu hành, nhưng có lẽ
vì phải sống trong những điều kiện khó khăn trốn tránh, nên ông viết về nước Việt
với một lòng thù hận khó tả, ông chỉ nhìn thấy những khía cạnh xấu xa, đáng
khinh bỉ, tởm lợm mà ít có sự tôn trọng, thông cảm.
Chưa nói đến những thiếu thốn kiến thức về lịch sử, văn hoá,
tôn giáo Việt Nam và Đông phương, lối kể chuyện của ông đôi khi khó hiểu, vì
cách ngắt câu. Thí dụ, mở đầu, ông viết:
“Ngu-yen-anh dù sinh ở Nam Hà, nhưng gốc Bắc dòng dõi các
quan lớn trong triều: khoảng 25 năm nay, trốn quân Tây Sơn cướp ngôi, lang
thang trên bờ biển của vua Xiêm, được các giáo sĩ Âu châu nuôi nấng trong vài
tháng. Nhưng chẳng bao lâu lại được dân Đồng Nai thuộc Cao Mên đón tiếp, cùng với
Nam Hà và Bắc Hà bị quân Tây Sơn chiếm đóng; ông ở lại trong vùng này, dưới
danh nghiã là Chúa, nhờ sự cứu giúp của vài chiến hạm Tây phương mà quân Tây
Sơn rất sợ, tấn công; một mặt, Nguyễn Ánh có lợi thế trên biển nhờ đại bác và hỏa
lực Âu Châu bắn xa hơn đại bác và hỏa lực Bắc Hà (t. 106-107).
Câu trên chứng tỏ ông không biết rõ Nguyễn Ánh, ông không
rành địa lý nước Nam, ông đưa ra những xác định vô bằng cớ, kiểu: Nguyễn Ánh
“được các giáo sĩ Âu châu nuôi nấng trong vài tháng”, “nhờ sự cứu giúp của vài
chiến hạm Tây phương mà quân Tây Sơn rất sợ.”, “có lợi thế trên biển nhờ đại
bác và hỏa lực Âu Châu bắn xa hơn đại bác và hỏa lực Bắc Hà”…
Nhưng những lời nói vu vơ này sẽ được người ta chép lại nhiều
lần, và trở thành “sự thực lịch sử”.
Về việc Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân năm 1801, Bissachère viết:
“Ông cũng được khuyến khích bởi ý kiến của vài người Âu kể rằng đó là một trong
những kế hoạch của Đức Giám Mục quá cố Bá Đa Lộc, nhờ thuận gió [gió mùa] đem
toàn lực quân đội đến vây kinh đô Nam Hà, nơi vua trẻ Cảnh Thịnh ở với một ít
quân…” Câu này cũng sẽ được những người viết sử về Bá Đa Lộc, từ Faure đến
Maybon… chép lại, cho rằng cách đánh thuận theo gió mùa của Nguyễn Vương là do
Bá Đa Lộc “dạy”, và khi Vương đánh Phú Xuân năm 1801, theo chiến lược của Đặng
Đức Siêu, Maybon vẫn dùng lại ý này của Bissachère, để kết luận: đó là để thực
hiện kế hoạch của linh mục quá cố Bá Đa Lộc!
Tại sao một “văn bản lịch sử” sai lầm như vậy lại được một sử
gia tầm cỡ như Maybon hết sức bênh vực và giới thiệu? Bởi đó là văn bản đầu
tiên (từ năm1810) đã nói rằng: Nguyễn Ánh nhờ tầu bè, súng đạn của người Âu, nhờ
Bá Đa Lộc làm quân sư, mà dựng nên sự nghiệp.
Như trên đã nói: Ký sự Bissachère chia làm hai phần; phần đầu
rất ngắn, nhưng lại chứa đựng những tác hại lớn đối với lịch sử dân tộc, vì sự
bôi nhọ Quang Trung và Gia Long và hạ thấp Việt Nam như một dân tộc mọi rợ,
không có luật pháp:
Bôi nhọ Quang Trung
Vì căm thù Tây Sơn không dung đạo giáo, Bissachère tìm cách
triệt hạ Quang Trung bằng sự bịa đặt thô thiển về việc Quang Trung mộ binh ra Bắc
đánh quân Thanh, ông viết:
“Quang Trung đang ở Nam Hà, hay tin quân Tầu đã sang, chạy vội
ra Bắc với vài trăm lính, đi ngày đêm, lượm trên đường tất cả những kẻ có thể cầm
được khí giới, cướp lương thực trong các làng mạc đi qua, chặt đầu kẻ nào không
theo lệnh, đốt nhà kẻ nào không hiến gạo, trâu, lợn cho quân ăn, thường nổi cơn
giận hoặc lên cơn điên, hay ra lệnh giết ngay trước mặt ông những người, ngựa
không bước kịp theo. Ông ta tiến gần đến trại quân Tầu với đoàn quân mỏi mệt,
què cụt vì đường xa, dở sống dở chết, chẳng làm khiếp sợ quân địch; ông ta tấn
công và giết khoảng 40.000 người ngay hôm mới đến, những kẻ thoát được trốn vào
rừng rồi cũng chết. Chỉ còn lại rất ít chạy về Tầu báo tin thua trận” (t.
132-133),
Lối viết này thực là ấu trĩ, bởi nếu Quang Trung là “kẻ cướp”,
“giết người” như thế, với một đội quân “mỏi mệt, què cụt” “dở sống dở chết” như
thế mà tại sao lại tấn công và giết được “40.000 người ngay hôm mới đến”?
Nhưng điều lạ không phải ở đấy, mà là ở chỗ sử gia tiến sĩ
Maybon, người đã biên tập và chú giải ký sự này, lại không có một lời chú
thích, giải nghiã cho độc giả biết tại sao có những mâu thuẫn này!
Về việc Quang Trung mộ binh đánh quân Thanh, Liệt truyện viết
rõ như sau:
“Huệ được tin báo cả mừng rằng: con chó Ngô là hạng gì, lại
dám ngông cuồng như vậy? Tức thì hạ lệnh cử binh. Các tướng đều xin chính vị hiệu
đế trước, để ràng buộc lòng người. Huệ bèn đắp đàn ở bên nam núi Ngự Bình, lấy
ngày 25 tháng 11 [22/12/1788] tự lập lên ngôi hoàng đế, đổi năm đầu là Quang
Trung (1788); ngay ngày hôm ấy đem cả tướng sĩ, quân thủy quân bộ đều tiến đi;
ngày 29 [26/12/1788] đến Nghệ An đóng quân ở lại hơn 10 ngày, chọn thêm dân Nghệ
An, cứ ba đinh lấy một, chia thân binh Thuận, Quảng làm 4 doanh Tiền, Hậu, Tả,
Hữu mà tân binh ở Nghệ An là Trung Quân, quân đắc thắng có hơn 10 vạn người,
voi chiến hàng trăm thớt, duyệt đại binh ở trấn doanh. Huệ thân cưỡi voi ra
ngoài doanh để uỷ lạo quân lính, bèn hạ lệnh tiến quân đi. Đến ngày 20 tháng 12
[15/1/1789] đến núi Tam Điệp” (Liệt truyện, tập 2, truyện Nguyễn Văn Huệ, t.
548).
Về việc Quang Trung đại phá quân Thanh, Liệt truyện ghi rõ từng
chi tiết mỗi trận đánh, khó tìm ra một ngòi bút sử sau này viết được đầy đủ và
cô đọng như thế. Sự khách quan của các sử gia triều Nguyễn khi viết về “ngụy”
Quang Trung, sự thiết tha và hãnh diện của họ khi viết về sự dũng cảm của Bùi
Thị Xuân, “tướng ngụy”, về những sự thực lịch sử, dù của bên thắng cũng như bên
bại, là điều mà nhiều người viết sử sau này không có được. Nhân danh sự “trung
lập” của một sử gia, họ thường có giọng mỉa mai, đôi khi cay độc đối với Gia
Long và cho rằng các sử gia triều Nguyễn tâng bốc nhà vua, và chấp nhận hoạc biện
hộ cho sự ngụy biện của các sử gia thuộc địa, đến độ phản bội sự thực, phản bội
dân tộc mà không biết.
Bôi nhọ Gia Long
Bôi nhọ Quang Trung chưa đủ, Bissachère còn dành cho Gia Long
một đoạn tiểu thuyết hoang đường về sự trừng phạt Tây Sơn, sau khi thống nhất đất
nước. Bissachère rất cảm phục Bùi Thị Xuân, ông đã viết những dòng hết sức hâm
mộ sự can đảm dũng mãnh của bà [với những chi tiết sai lầm, ví dụ: ông kể Bùi
Thị Xuân tập hợp được 300.000 quân! Maybon biện hộ cho sự sai lầm này: không phải
lỗi Bisssachère, ông chỉ viết theo một bài dân ca! (Maybon, Note 1, Bissachère,
t. 110]; sau đó Bissachère “mô tả” cảnh Gia Long làm nhục sọ các vua Tây Sơn và
cảnh mẹ con bà Bùi Thị Xuân bị xử voi dầy với những lời giáo đầu như sau:
“Vua Gia Long trở về Kinh đô Nam Hà nghỉ ngơi khoảng hai
tháng. Sau đó ông lo việc hành hình tù nhân. Một trong những người đầy tớ mà
tôi [Bissachère] gửi vào triều để xin vua cho tôi một giấy phép, ở trong danh
sách những người có thể vào cung, đứng trước mặt vua trong một tháng, y làm việc
trong ngày xử tội, nên y nhìn thấy rõ từ đầu đến cuối. Khi trở về, y đã kể cho
tôi nghe, hôm nay tôi không nhớ hết tất cả quang cảnh cực kỳ kinh tởm này, tôi
chỉ kể lại những điều khủng khiếp nhất mà về sau mọi người trong nước Nam đều
biết” (Ký sự Bissachère, t. 117-118)[1].
Đoạn văn này cho thấy:
1- Việc Gia Long hành hình mà Bissachère mô tả sau đó, không
phải ông được xem tận mắt, mà do người đầy tớ của ông kể lại.
2- Người “đầy tớ” này được ông sai vào triều để xin một giấy
phép của vua (hay xin phép vua) để làm gì, không thấy viết rõ.
3- Tại sao “người đầy tớ” của một giáo sĩ, không có chức gì đặc
biệt trong triều, lại được quyền đứng trước mặt vua trong một tháng?
4- Tạm hiểu là y được phép hầu vua trong một tháng. Tại sao
nhà vua lại có chung người hầu với một giáo sĩ? Nhất là vị giáo sĩ này, mới đây
còn phải sống lẩn lút trong rừng.
5- Ngay cả Giám mục Labartette, người cai quản giáo phận Bắc
hà (tương đương với Giám mục Bá Đa Lộc ở trong Nam) cũng sống lẩn trốn, khi Gia
Long chiếm Phú Xuân không dám ra trình diện. Theo thư của Barisy gửi M.
Marchini, ngày 15/7/1801 (Launay, III, t. 423) vua đã sai anh ta đi kiếm vị thủ
lãnh đạo Gia Tô này. Theo Labartette (ông ở Huế) việc được vua vời ra là một ân
huệ lớn. Một giáo sĩ vô danh như Bissachère làm sao có thể “giao thiệp” với
vua, chưa nói đến việc gửi đầy tớ vào triều, xin vua này, nọ?
6- Bissachère không hiểu nghi lễ triều đình nước Nam, hoặc cố
tình viết loè người Pháp rằng triều đình Việt Nam như chỗ không người, ai vào
cũng được. Ông “thế lực” đến độ có quyền gửi “đầy tớ” vào cung xin giấy của
vua. Ông không biết là sứ thần các cường quốc Anh, Pháp đến xin yết kiến mà
không có quốc thư cũng không được vua tiếp.
7- Việc xử tử không thể xẩy ra ở trong cung (palais), như “đầy
tớ” kể lại. Theo Thực Lục, xử tử ở ngoại thành.
Bẩy điểm trên, chứng tỏ Bissachère bịa chuyện để phô trương sự
quan trọng của mình.
Sau đó, Bissachère “mô tả” sự hành hình:
“Việc đầu tiên chiếu cố đến ông vua Tây Sơn trẻ [Cảnh Thịnh]
là họ bắt ông mục kích cảnh đau đớn: quật xác cha mẹ chết từ 10, 12 năm, cùng
xác những người thân. Xương cốt cha mẹ [vua Quang Trung và Hoàng Hậu] được bầy
lại rồi chém đầu theo đúng hình thức, làm cho nhục nhã, và theo sự mê tín của
nước này, chính là để cho [hương hồn] những hài cốt này không thể phù hộ phúc lộc
cho con cháu. Sau đó, họ bỏ tất cả xương cốt Tây Sơn vào một cái thúng lớn, bắt
lính đi tiểu lên, rồi nghiền nát thành bột, bỏ sang thúng khác để cho vua trẻ
Tây Sơn nhìn thấy mà đau lòng.
Cho vua ăn một bữa thật sang trọng, đúng như thủ tục ở đây đối
với tử tội; người em út, can đảm hơn, thấy vua ăn, trách, và vì cái bàn để đồ
ăn có dấu hiệu vương giả, y nói: “Nhà ta không thiếu gì bàn ăn mà anh phải ăn
bàn mượn”; sau bữa, người ta nhét giẻ vào miệng y và nhiều người khác vì sợ y lại
nguyền rủa vua mới, rồi buộc tứ chi của y vào bốn con voi để xé xác. Bị voi xé
xong đùi và gân cốt rồi, y còn ngoảnh lại nhìn cái thúng đựng xương cốt cha mẹ.
Những kẻ hành hình, dùng một thứ dụng cụ mà bên Âu Châu không thể tưởng tượng nổi,
chia làm bốn những phần hãy còn dính nhau, cùng với cái đùi đã rời, thành năm
phần thịt, đem bầy ở năm chợ đông nhất thành phố, mỗi miếng trên một cột rất
cao; được canh gác ngày đêm; kẻ nào xâm phạm sẽ bị tội nặng. Đợi cho thối tha
hay bị qụa riả hết.
Còn về ông tướng Thiên Phô nổi tiếng [Thiếu phó Trần Quang Diệu]
được gia đình và những ai quen biết kính trọng và thương tiếc, ngày hôm trước
hay chính ngày chết, ông đã hiếu thảo xin vua tha chết cho mẹ già 80 tuổi,
không thể làm hại ai, và ông được toại nguyện; ông bị chặt đầu, ông có người
con gái tuổi 15, hết sức khả ái, khi cô trông thấy con voi lớn sừng sững tiến đến
quật cô, cô hét lên một tiếng thất thanh thê thảm về phía mẹ, nói với bà rằng:
“Ôi mẹ ơi cứu con với!” Mẹ cô là người đã cầm đầu quân đội, bảo con: “Mẹ cứu
thân mẹ còn chưa được làm sao cứu nổi con. Con phải chịu chết như cha và cả gia
đình, còn hơn sống nhục với những kẻ này…” Nhiều người xem muốn cứu cô gái, đã
phải quay mặt đi để khỏi nhìn thấy cảnh cô bị hai lần voi tung lên trời, rơi xuống
trúng hai sừng voi đâm thủng.
Khi đến lượt vị nữ anh hùng, tức vợ của vị Thiếu Phó, bà hiên
ngang tiến đến trước voi để kích thích nó. Khi bà đến gần, người ta hét lên bắt
bà phải quỳ xuống cho voi dễ quật, nhưng bà không quỳ, bà tiếp tục đi tới; người
ta kể rằng, mặc dù con vật bị kích thích mạnh, vẫn phải bắt buộc nó mới ném bà
lên, vì nó đã nhận ra bà là một trong những chủ cũ của nó; trước khi bị hành
hình, người đàn bà can đảm này đã cho đem vào nhà tù nhiều tấm lụa để quấn chân
và thân mình tới ngực, tránh cho thân khỏi bị loã lồ khi chịu cực hình.
Những kẻ hành hình, nghe nói để có can đảm, đã ăn tim, gan,
phổi, và cánh tay mập mạp của bà, vì bà đã làm cho bao nhiêu quân lính sợ hãi,
cả tướng của chúng nữa, khi leo tường [Trấn Ninh], họ giao chân tay bà cho sự
háu đói của bọn ăn thịt người này. Ở Bắc Hà, thịt người nhắm rượu ăn sống
(nhưng người ta chỉ ăn trong những dịp như vậy)”. (Les exécuteurs pour avoir
dit-on son courage, mangèrent son coeur, son foie, ses poumons et ses bras
potelés, elle avait causé tant de peur aux soldats et même à leur Chef à
l’escalade de la muraille qu’on livra ses membres à la voracité de ces
cannibales. Au Tonquin, la chair humaine se mange crue en buvant du vin (mais
on n’en mange que dans de semblables occasions) (Ký sự Bissachère, t. 121).
Maybon cho in lại những dòng như thế này và cũng không có một
lời chú thích. Chúng ta thử tưởng tượng trường hợp ngược lại: một tác giả Việt
Nam kể chuyện người Pháp ăn thịt người được Hoàng Xuân Hãn hay Đào Duy Anh cho
in lại mà không chú thích, thì người Pháp sẽ đánh giá dân tộc mình ra sao?
Trở lại những điều Bissachère viết trên đây: Việc quật mộ
Quang Trung và hoàng hậu, Thực Lục ghi làm hai giai đoạn:
- Tháng 12/1801 (tháng 11 Canh Thân) “Phá huỷ mộ Tây Sơn Nguyễn
Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu ở chợ. Con trai, con gái, họ hàng và tướng hiệu,
31 người, đều bị lăng trì cắt nát thây” (TL. I, t. 473).
- Ngày 6/12/1802 (ngày Giáp Tuất tháng 11 Nhâm Tuất), làm lễ
hiến phù (lễ dâng tù binh): đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ
giã nát rồi vứt đi, còn xương đầu lâu của Nhạc và Huệ thì đều giam ở nhà Đồ Ngoại.
(TL. I, t. 531).
Như vậy, mọi việc khá rõ ràng: Tháng 12/1801: quật mồ, phơi
thây, bêu đầu. Một năm sau, tháng 12/1802, làm lễ hiến phù: đem xương giã nát
và giam đầu lâu vào ngục. Vậy còn đâu xác nữa mà quật lên trước mắt anh em
Quang Toản, như Bissachère tưởng tượng ra.
Những gì Bissachère viết về việc Gia Long hành hình Tây Sơn,
được Sainte-Croix in nguyên văn năm 1810, Montyon tóm lược, in năm 1811. Maybon
tái bản Ký sự Bissachère, năm 1820. Taboulet trích in đoạn hành hình này, năm
1955, trong bộ sách La geste française en Indochine, tập II, t. 265-266. Theo
Nguyễn Quốc Trị, thì Hoàng Xuân Hãn cũng trích dịch Montyon, để lên án Gia
Long. Riêng cảnh hai mẹ con tướng Bùi Thị Xuân “bị voi dầy” được tác giả Quỳnh
Cư mô tả lại toàn bộ trong tiểu thuyết lịch sử “Đô đốc Bùi Thị Xuân” (nxb Phụ Nữ,
1985), trừ đoạn ăn thịt người! Như vậy đủ biết tác dụng tai hại của Bissachère.
Nguyễn Quốc Trị trong bộ Nguyễn Văn Thành, (quyển I, t.
350-368), đã tố cáo các sự bịa đặt vu cáo cho Gia Long, đặc biệt vụ bắt lính đi
tiểu lên sọ các vua Tây Sơn.
Việc Gia Long tiêu diệt gia đình Tây Sơn nằm trong bối cảnh
trả thù dòng họ, đã được Thực Lục ghi rõ tên từng người và chúng tôi đã trích dẫn
trong chương ba Tóm tắt lịch sử. Ở đây chỉ ghi lại những đoạn Thực Lục viết về
việc hành hình, tương đối khá đầy đủ:
“Tháng 11 [Nhâm Tuất, tức tháng 12/1802] làm lễ tuyên cáo võ
công. Ngày Quý Dậu [5/12/1802] tế thiên địa thần kỳ. Ngày Giáp Tuất [6/12/1802]
hiến phù ở Thái Miếu.
Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô Thống chế dinh Túc Trực. Nguyễn
Đăng Hựu là Tham tri hình bộ áp dẫn Nguyễn Quang Toản và em là Quang Duy, Quang
Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì cho 5 voi xé xác (dùng 5
con voi chia buộc vào đầu và hai tay hai chân, rồi cho voi xé, đó là một thứ cực
hình), đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vứt đi,
còn xương đầu lâu của Nhạc và Huệ thì đều giam ở nhà Đồ Ngoại [Ngoại đồ gia,
sau đổi là Vũ khổ] (năm Minh Mệnh thứ hai đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi
mãi). Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu
đầu cho mọi người biết” (TL, I, t. 531).
Bài chiếu ở đoạn sau, viết rõ hơn:
“Ngày mồng 6 tháng này, tế cáo Trời Đất; ngày mồng 7 yết tế
Thái miếu, làm lễ hiến phù, bọn Nguyễn Quang Toản và ngụy thái tể Quang Duy,
Nguyên súy Quang Thiệu, Đốc trấn Quang Bàn, Thiếu phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Võ
Văn Dũng, Tư mã Nguyễn Văn Tứ, Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp,
Thống tướng Lê Văn Hưng, cùng vời bè lũ đầu sỏ đều đã bắt giam, đều đem giết cả,
bêu đầu bảo cho dân chúng. Nhạc Huệ trời đã giết rồi, cũng đem phanh xác tan
xương, để trả thù cho Miếu Xã, rửa hận cho thần nhân.” (TL, I, t. 532-533).
Xem như vậy, bốn người có tội nặng nhất là bốn con vua Quang
Trung bị voi xé xác: Gia Long báo oán sự Tây Sơn giết gia đình mình, đào mả các
chúa Nguyễn.
Còn các đại tướng Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng… cùng với bè
lũ đầu sỏ, đều bị chém bêu đầu. Bùi Thị Xuân, như chúng tôi đã nhắc đến trong
chương ba Tóm lược lịch sử, không thấy Thực Lục ghi tên bà trong số những vị tướng
bị bắt, cũng không thấy tên bà trong danh sách các tướng bị hành hình. Liệt
Truyện có câu: “Quang Diệu từ Quy Hợp xuống Hương Sơn (Nghệ An), nghe thấy Nghệ
An đã phá, bèn qua Thanh Chương sang sông Thanh Long, những người đi theo dần dần
tản đi cả. Diệu và vợ là Thị Xuân đều bị quan quân bắt sống” (Liệt truyện II,
t. 570). Vì Liệt truyện muốn kể một câu chuyện cho nên có thể tác giả đã “suy
ra” việc Bùi Thị Xuân bị bắt cùng với Trần Quang Diệu; nhưng nếu đọc kỹ Thực Lục
và Liệt truyện về giai đoạn cuối cùng của Trần Quang Diệu, cầm quân từ Qui Nhơn
về, lội đèo vượt suối, luôn luôn phải phòng bị quân Nguyễn truy kích mọi ngả;
khi bị bắt, cả quân tướng đều hoàn toàn kiệt sức không còn chống nổi nữa. Như vậy
thì khó có thể ông gặp được vợ, mà bà Bùi Thị Xuân có muốn đi tìm chồng cũng
không biết đâu mà kiếm; nhất là Thực Lục chuyên chép những dữ kiện xác thực,
không ghi việc này. Cho nên việc bắt được Bùi Thị Xuân hay không cũng còn là một
nghi vấn lịch sử.
Á Đông có sự kính trọng nhân tài mà những người thiển cận như
Bissachère không thể hiểu được: các tướng tài khi bị bắt thường được dụ hàng, nếu
không theo mới xử tử. Trong thời gian nội chiến, có những tướng của Nguyễn Ánh
sang hàng Tây Sơn và ngược lại. Trần Quang Diệu vào thành Bình Định, khóc trước
thi hài Võ Tánh, làm lễ chôn cất vị anh hùng của nhà Nguyễn, tử tiết, rất trọng
thể. Bà Bùi Thị Xuân thực quả cảm đã được sử thần triều Nguyễn mô tả với sự
khâm phục kính nể, nếu bà bị xử tử, chắc chắn đã có vài dòng trong Thực Lục hoặc
Liệt Truyện.
Bissachère coi nước ta là man di mọi rợ, ăn thịt người, không
có luật pháp gì cả, nên ông muốn viết sao thì viết. Ngoài ra ông còn mắc thêm bệnh
phô trương và khoác lác, ta có thể thấy sự này trong sách của Montyon. Đây là
những điều Bissachère nói với Montyon và được Montyon ghi lại trong bài tựa
sách của ông:
“Ông Bissachère đã sống 18 năm ở Bắc Hà và Nam Hà, đã đi hầu
hết khắp nơi trên nước này và các nước lân cận; ông nghe và nói được tiếng [Việt]
và đã có quan hệ với tất cả mọi tầng lớp dân chúng ở đây. Là vị cha thực tế,
tâm giao, cố vấn của giáo dân, khá nhiều trong xứ này, ông giao thiệp với những
nhân vật hàng đầu của quốc gia, ông thường hội họp với các quan, chính ông cũng
có văn bằng làm quan; theo lệnh triều đình, ông có những người Bắc phục dịch
riêng cho ông; nhiều lần ông được bệ kiến Hoàng đế.” (Montyon I, Introduction,
t.7-8)
Bissachère đến Nghệ An năm 1790, khi Quang Trung trị vì, phải
trốn chui trốn nhủi qua các đợt đán áp đạo giáo năm 1795, 1798, 1799, như
Maybon ghi trong tiểu sử Bissachère. Vậy Bissachère làm quan với ai, vào lúc
nào? Nhiều lần bệ kiến Hoàng đế nào? Quang Trung hay Quang Toản?
Ngay cả việc Maybon kể: khi Gia Long hành quân ra Bắc qua Nghệ
An, Giám Mục Castorie [La Mothe] và La Bissachère đến chào, cũng chẳng có gì là
chắc chắn, vì lúc ấy, bề trên của các ông là Giám Mục Labartette còn đi trốn,
vì chưa biết thái độ của Gia Long như thế nào. Đến khi Gia Long, vị tình với Bá
Đa Lộc mà sai Barisy đi tìm, giám mục Labartette mới dám ra. Tạm cho là
Bissachère có thể đã gặp Gia Long năm 1802 ở Nghệ An. Năm 1806, Bissachère về
Macao. Trong thời gian ở giữa 1802 đến 1806, Bissachère đã lập được những “công
trạng” gì để thành quan trong triều Gia Long và được nhiều lần bệ kiến Hoàng đế?
Không thấy Maybon giải quyết những vấn đề này.
Tội tử hình ở Việt Nam
Nhân việc Bissachère kể hai mẹ con bà Bùi Thị Xuân bị xử “voi
dầy”. Chúng ta thử xem lại các loại hành hình trong luật pháp Việt Nam. Về tội
xử tử, đời Lê, Phan Huy Chú viết:
“Tử hình (giết chết) có ba bực (từ giảo, trảm đến lăng trì gồm
làm ba bực. Giảo với trảm kể là một bực, khiêu và lăng trì kể riêng là 2 bực,
có thêm bớt):
1- Giảo (thắt cổ) và trảm (chém đầu)
2- Khiêu (chém bêu đầu)
3- Lăng trì (chặt chân tay, xẻo thịt, làm cho chết dần).
Xét: Phép ngũ hình, từ trước đời Tuỳ (589-618) là: mặc (thích
chữ vào mặt), giảo, trảm, khiêu, liệt (xé xác) (…) Đến nhà Tuỳ mới định lại
(…), tử hình còn hai bực: giảo, trảm; bỏ những hình tàn khốc, đánh tiên (đánh
roi da hoặc sắt), bêu đầu, xé thây. Nhà Đường (618-907) cũng theo như thế (…)
thành phép đời sau không thay đổi (…) Đến đời Nguyên (1206-1368) lại đặt thêm
hình lăng trì, tức đời trước gọi là “oa”. Đời trước hình này dầu có dùng ở
ngoài pháp luật, nhưng chỉ là để xử trị những kẻ ác nghịch cực nặng, không ghi
vào hình thư. Đến đời nhà Nguyên mới thấy ở hình thư mà luật triều Lê ta cũng
nhân theo đó.” (Phan Huy Chú, Lịch Triều Hiến Chương, Tập II, Hình Luật Chí, t.
306)
Tội xử tử đời Nguyễn, theo Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ:
Có 5 tội hình: 1- Tội đánh roi. 2- Tội đánh trượng. 3- Tội đồ.
4- Tội lưu. 5- Tội xử tử.
Tội xử tử lại chia làm 5 loại như sau:
“Có tội giảo, tội trảm và tội lăng trì, cưu thủ, lục thi. Nếu
kẻ nào tội ác quá nặng, thì đem thi hành ngay, không phải đợi đến kỳ xét án;
còn các tội khác đều đợi đến hạn mùa thu mới đem thi hành án” (Khâm Định Đại
Nam Hội Điển Sử Lệ, Trần Huy Hân dịch, tập 11, t. 19)
Giảo là thắt cổ, trảm là chém đầu, lăng trì là xẻo từng miếng
thịt, cưu thủ là chém rồi lấy đầu đem bêu, lục thi là băm xác ra.
Như vậy, Gia Long cho thêm tội lục thi là băm xác khi xử tử
Tây Sơn, và ông đã áp dụng ba loại cực hình sau đây:
Đối với các con của Quang Trung: Quang Toản, Quang Duy, Quang
Thiệu, Quang Bàn “xử án lăng trì cho 5 voi xé xác (dùng 5 con voi chia buộc vào
đầu và hai tay hai chân, rồi cho voi xé, đó là một thứ cực hình), đem hài cốt của
Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vứt đi” “Còn đồ đảng là bọn Trần
Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết.” (TL,
I, t. 531), tức là:
- Lăng trì: xử các con Quang Trung, nhưng không cắt từng miếng
thịt, mà cho voi xé xác.
- Lục thi: nghiền hài cốt Quang Trung và Hoàng hậu.
- Cưu thủ: chém bêu đầu các đại tướng Trần Quang Diệu, Võ Văn
Dũng, vv…
Không nói gì đến Bùi Thị Xuân.
Luật Gia Long trong Hội Điển không ghi cực hình “voi dầy”. Và
trong các hình luật trước, từ đời Lê ngược lên đến nhà Tuỳ bên Tầu, cũng đều
không thấy ghi lối xử tử này.
Đó là những chứng cớ cho thấy những điều Bisschère viết ra là
không có cơ sở.
Án tử hình ở Pháp
Cũng nên nhắc lại cho Bissachère biết về án tử hình ở Pháp:
trước cách mạng 1789, có những cách xử tử sau đây: la potence (treo cổ), le
bucher (đốt), la roue (nghiền xay bánh xe), l’écartèlement (xé xác bằng ngựa),
còn décapitation (chém) chỉ dành cho quý tộc.
Sự nghiền xay bằng bánh xe, sự đốt cháy và ngựa xé xác còn độc
ác hơn bị voi xé xác.
Ngày 11/11/1789, bác sĩ Guillotin, nghị viên, đòi sự công bằng
trước cái chết. 1/12/1789, ông tuyên bố: “Chém, dưới hình thức đơn giản máy
móc”. 1791, luật hình ghi: “Mọi án tử hình đều chém”. Antoine Louis được lệnh
sáng tạo máy chém. 17/4/1792, thử máy ở bệnh viện Bicêtre trên ba xác người.
Máy được đặt trên bệ cao, gọi là échafaud (đoạn đầu đài). Tên Guillotin được bất
tử hoá thành tên máy chém: La Guillotine. Pháp bước vào giai đoạn Kinh Hoàng
(La Terreur): Vua Louis XVI lên đoạn đầu đài ngày 21/1/1793 tại quảng trường La
Révolution (nay là Concorde), hoàng hậu Marie Antoinette ngày 16/10/1793. Trong
thời Kinh hoàng (1792-1794), số người lên máy chém ước lượng 16.000 đến 17.000;
tổng cộng số người bị giết khoảng 100.000.
Chú thích:
[1] Nguyên văn: “Le Roy Gia Long étant arrivé à la Capitale de la Cochinchine s’y reposa pendant deux mois ou environ. Ensuite il s’occupa du supplice de ses prisonniers; un de mes gens que j’avais envoyé à la cour, pour m’obtenir une permission du roy et qui fut porté sur la liste de ceux qui pouvoient entrer au palais et se tenir devant Sa Majesté pendant un mois, se trouva de service le jour de l’éxécution, et il la vit tout entière depuis le commencement jusqu’à la fin. A son retour il m’en a fait le récit, je ne puis m’en rappeler aujourd’hui toutes les circonstances qui d’ailleurs sont extrêmement dégoutantes, je ne rapporterai dont ce que je me souviens, ou ce qui m’a frappé le plus du récit qui m’en a été fait et qui depuis a été publique dans tous les états du roy de Cochinchine” (t. 117-118).
Thụy Khuê
Theo http://vietnamthuquan.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét