Đêm. Dòng sông Nerañjarā lấp lánh ánh trăng. Gió thổi rì rào
xuyên qua rừng cây trầm mặc. Hương hoa cỏ dịu dàng, thoang thoảng giữa không
gian. Siddhattha Gotama sau khi chiến thắng nội ngoại ma, ngài ngồi yên tĩnh
theo dõi hơi thở với tâm và trí hoàn toàn tỉnh thức và thanh khiết…
Bây giờ, cả một khối thân tâm đã trở nên thuần nhất, được
giác niệm lung linh soi chiếu; không thấy trong, không thấy ngoài, không thấy
ngã, không thấy ngã sở; ngài chỉ thấy hơi gió vào ra, càng lúc càng nhẹ, càng mỏng…
Rồi dần dần, làn gió ấy chợt trở nên trong vắt, sáng như ánh trăng rằm vừa ra
khỏi sương mù… Siddhattha Gotama lần lượt đi vào sơ thiền, nhị thiền, tam thiền,
tứ thiền một cách dễ dàng, không có một gắng sức nào… Với năng lực của tâm định
hoàn toàn vững chắc, kiên cố, Siddhattha Gotama xuống cận hành, sử dụng tầm và
tứ hướng tâm đến tiền kiếp… Chỉ một sát-na sau, ngài lần lượt thấy rõ các kiếp
sống quá khứ của mình. Từ một kiếp, hai kiếp… mười kiếp, hai mươi kiếp, trăm kiếp,
ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp, kiếp quả đất, nhiều đại kiếp quả đất vô giới hạn…
Ngài thấy rõ mỗi kiếp, với hình ảnh rõ ràng, với vóc dáng như vậy, dòng họ như
vậy, tuổi tên như vậy, y báo, chánh báo như vậy, khổ vui như vậy, nghiệp đến
đây như vậy, nghiệp ra đi như vậy… Nhờ định tĩnh sâu xa, và cũng nhờ nội tâm đã
lắng dứt mọi tùy miên kiết sử nên Siddhattha Gotama không hề khởi lên kinh cảm
khi thấy mình từng mang lốt nhiều kiếp thú như chó, ngựa, voi, chim, chuột… Còn
làm cả dạ-xoa, a-tu-la, thọ thần, chư thiên, phạm thiên… cũng rất nhiều kiếp nữa.
Nhưng nhiều nhất là làm người: thương gia, triệu phú, nông dân, tiều phu, giáo
sư, vua chúa, quan đại thần, quốc sư… Và vô lượng kiếp tu tập, xuất gia, hành
các pháp ba-la-mật… Trong vô lượng vô biên kiếp sống ấy, ngài không tìm thấy
đâu là con người thực của mình. Tất cả chúng đều do dòng nghiệp vẽ ra, tạo nên.
Sự sinh, sự diệt trùng trùng, hóa thân trùng trùng, sầu bi khổ ưu não cũng
trùng trùng… Tất cả chúng đều như từ sương khói mà hiện ra, từ sương khói mà diệt
mất, dường như vô căn, vô cội nhưng chỉ có một dòng chảy – dòng chảy của sinh mệnh,
nghiệp lực – là liên lỉ từ vô thỉ đến vô chung… Tuy liên lỉ nhưng không phải hằng
hữu. Chúng chuyển biến, dịch hóa, thay đổi liên tục, mới mẻ liên tục… Chẳng có
gì mất đi mà cũng chẳng có gì thường tại…
Siddhattha Gotama xả thiền, lúc ấy chỉ vừa qua canh một. Thế
là ngài đã chứng đắc Túc mạng minh (Pubbenivāsānussatiññāṇa) khi mặt trăng từ hướng Đông mới lên đến đầu tàn cây
Assattha. Mỉm nụ cười vi diệu như nụ hoa hàm tiếu ở trong tâm, rồi không để uổng
phí một sát-na nào, Siddhattha Gotama lại nhiếp niệm đi vào tứ thiền sắc giới,
kiên trú định; trở lại cận hành, dùng tầm và tứ, hướng tâm đến sự sanh tử của
chúng sanh. Thế rồi, như cuốn phim quay nhân quả hiển hiện rõ ràng trong nội
tâm, ngài thấy sự đi về, tới lui, thấp hèn, cao thượng, xấu đẹp, khổ vui của tất
cả chúng sanh từ quá khứ, hiện tại hay vị lai. Nếu thân hành ác, khẩu hành ác,
ý hành ác thì rơi vào bốn cảnh khổ. Ngược lại, thân hành thiện, khẩu hành thiện,
ý hành thiện thì được sanh thú cõi người, cõi trời nào đó tương ứng với hành
nghiệp ấy. Tiếp tục đi sâu, đi xa, theo dõi dòng nghiệp của chúng sanh,
Siddhattha Gotama còn thấy được tâm hướng của từng chúng sanh một, với quả báo
vị lai xa xăm cho đến hằng sa sinh diệt của quả địa cầu! Vậy là tất cả tác nhân,
quả báo tạo nên sanh thú của tất cả chúng sanh đều được ngài nhìn thấy rõ như
các đường chỉ trong lòng bàn tay của mình. Như thế là vào cuối canh hai, khi mặt
trăng vừa chênh xế cội cây Assattha, Siddhattha Gotama chứng đắc Thiên nhãn
minh (Dibbacakkhuññāṇa).
Trở lại tứ thiền, nuôi dưỡng phỉ lạc thâm sâu, vào an chỉ định,
trở lại cận hành, dùng tuệ minh sát quán chiếu tự thân; ngài thấy rõ rằng, chẳng
còn một phiền não nào liên hệ đến ngũ trần (kāmasavakilesa), chẳng còn một phiền
não nào liên hệ đến những chấp thủ ta, của ta, người và chúng sanh (diṭṭhāsavakilesa), chẳng còn một phiền não nào liên hệ đến những
dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu (bhavāsavakilesa), chẳng còn một phiền não nào liên
hệ đến si mê, vô minh (avijjāsavakilesa). Khởi chánh tư duy, Siddhattha Gotama
tự nghĩ: Tất cả những phiền não ngủ ngầm, vi tế ấy chẳng có ai hay biết dẫu
loài người thông tuệ hoặc chư thiên, phạm thiên có nhiều năng lực. Cho chí những
đạo sĩ tuyệt luân đắc bát thiền và ngũ thông như Kāḷadevila cũng đành chịu. Hai vị đạo sư nổi danh về chứng đắc
cùng với sự chấp thủ của họ cũng chỉ làm duyên nối dài cho sự sanh tử, luân hồi
vô tận mà thôi!
Thế rồi, với tuệ giác vô nhiễm, rạng ngời, trong sáng như pha
lê, Siddhattha Gotama thấy rõ gốc nguồn căn cội của mọi khổ đau, phiền não là
vô minh và ái dục. Nó tạo ra tất thảy thế gian sinh tử. Vì vô minh, si mê, lầm
lạc nên chúng sanh tạo tác các nghiệp trắng, nghiệp đen, nghiệp không trắng
không đen. Duyên các nghiệp ấy, và cũng do năng lực của nghiệp ấy, một thức tâm
tái sanh đi tìm kiếm cảnh giới tương thích. Nó nương gá tinh cha và huyết mẹ để
tượng thành một thai bào, ở đấy có sự sống và ẩn tiềm dòng nghiệp riêng biệt của
chính mình. Khổ vui, hèn sang, giàu nghèo, trí ngu, thọ yểu… kể cả di truyền,
cá tính, thói quen, văn hóa, tín ngưỡng… đều được hạt giống ấy mang theo, bất
ly, bất hoại – để hình thành một chúng sanh mới, đời sống mới. Những danh tâm
và sắc tướng với đầy đủ chủng nghiệp sẽ tượng hình nên mắt tai mũi lưỡi thân ý.
Rồi, với thời gian, trong tương quan xúc đối với ngoại giới, chúng sẽ xuất hiện
cảm giác, tri giác, tâm hành, nhận thức. Cái gì vừa lòng, thích thú thì ôm nắm,
níu giữ; cái gì không vừa ý, bất toại nguyện thì ghét bỏ, chối từ, phủ nhận.
Tham sân khởi sanh để tạo tác những nghiệp hữu trong ba cõi, sáu đường. Rồi
sanh, rồi già, rồi chết, rồi sầu, bi, khổ, ưu, não… như một vòng quay tất định
không bao giờ ra khỏi. Vòng luân hồi luẩn quẩn loanh quanh ấy được kết nối với
nhau bởi những chiếc khoen trong sợi xích sắt vĩ đại… Vào giữa canh ba,
Siddhattha Gotama đã thấy rõ chúng. Muốn chấm dứt luân hồi sinh tử, khổ đau,
phiền não thì phải biết tháo gỡ những chiếc khoen- mà chiếc khoen vô minh, si
mê, lầm lạc là quan trọng nhất. Nếu sáng suốt, tỉnh giác, tỉnh thức, tuệ minh
chiếu soi thì sẽ không có hành nghiệp, tạo tác nhân để mai sau gặt quả. Thức
tìm kiếm tái sanh không còn thì ước vọng trở thành sẽ không có cơ hội nẩy mầm.
Và nếu không tham đắm, mê say các cảm thọ thì các chấp thủ làm sao hiện hữu được?
Thủ không có thì hữu, tái sanh, già lão, sầu bi khổ ưu não sẽ rã tan như những
hạt sương treo trên đầu nắng…
Khi thấy rõ toàn bộ sự vận hành duyên khởi ấy- tâm và tuệ của
Siddhattha Gotama sáng trong như viên ngọc maṇi không
tì vết. Ngài trú vào miền tĩnh lặng thâm sâu với sự hỷ hoan, lạc phúc như tràn đầy
nội tâm và cả hư không giới. Như ai ăn người ấy no, như uống nước, nóng lạnh tự
biết, Siddhattha Gotama chứng nghiệm được điều mà thế gian chưa từng ai chứng
nghiệm. Sự sinh, sự diệt của từng sát-na duyên khởi vô ngã tính giải thích toàn
bộ khối khổ đau, nguyên nhân của nó, và con đường dập tắt mọi ảo tưởng, ảo giác
của chúng hữu tình. Khi ảo tưởng, ảo giác không còn thì những sanh niệm trôi
lăn sẽ tự động chấm dứt. Sự chấp thủ các uẩn, các hữu chợt rã tan như những đốm
hoa, không thực hữu – khi có tuệ nhãn, trí thông, trí minh chiếu soi. Mọi tham
muốn lầm lạc, sái với các định luật của nhiên giới, tâm giới, pháp giới sẽ
không còn ảo ảnh để đeo níu, mê đắm nữa. Tất cả đều được trả về nguyên trạng
khi nó chưa từ biệt cố hương. Chưa bị vấy bẩn bởi bụi đỏ, bùn đen và cát tía.
Trăng sáng. Hoa nở. Chim hót. Sương mù. Lá rơi. Suối chảy. Nhận biết. Lắng
nghe. Cảm giác… Tất thảy chúng đều hiện ra như chân như thực. Không cái gì bị
che kín. Không cái gì bị mất đi. Không cái gì thường còn. Bất tử là vậy. Giá trị
hằng cửu và ý nghĩa tối thắng của cuộc đời này phải được lập cước từ cái thấy
biết toàn diện và chơn chánh ấy. Và đó là chánh kiến. Có cái thấy đúng ấy mới
có cái suy nghĩ đúng – chánh tư duy. Có cái suy nghĩ đúng mới có nói năng đúng
– chánh ngữ. Có nói năng đúng mới có hành động đúng – chánh nghiệp. Có hành động
đúng mới có nuôi mạng đúng – chánh mạng. Có nuôi mạng đúng mới có nhiệt tâm, nỗ
lực, tinh cần đúng – chánh tinh tấn. Có nỗ lực, tinh cần đúng mới có chú tâm,
ghi nhận đúng – chánh niệm. Có chú tâm, ghi nhận đúng mới có được yên tĩnh,
bình tĩnh, định tĩnh, trạm nhiên bất động trước mọi cơn gió bão của nội ngoại
ma – chánh định. Đấy là con đường. Là đạo lộ diệt tận khổ đau, phiền não. Là yếu
chỉ, bí quyết giải thoát tất cả mọi bộc, mọi lưu, mọi triền, mọi phược, mọi kiết,
mọi sử… ngủ ngầm trong hố thẳm vô thức từ vô lượng kiếp. Là giáo pháp vô năng
thắng. Là cái mà từ quá khứ, hiện tại, vị lai chưa có mặt trên cuộc đời…
Như vậy là cái thấy của Siddhattha Gotama đã ở ngoài sinh tử,
đã vượt thoát sinh tử. Chẳng còn cái lưới nào bủa vây, nhốt kín tuệ giác của
ngài được nữa. Sáng trong vằng vặc. Ngài mỉm cười như nụ hoa sen hàm tiếu. Hào
quang từ nơi vầng trán của ngài chợt tỏa ra, vừa rực rỡ, ấm áp như tia nắng mặt
trời, vừa dịu dàng mát mẻ như ánh sáng mặt trăng…
Thế là vào canh cuối, trăng sắp lặn, sao mai vừa mọc, tháng
Vesākha, dưới cội cây Assattha, bên sông Nerañjarā, gần tụ lạc Uruvelā,
Siddhattha Gotama đã chứng đắc quả vị Đại A-la-hán, Chánh Đẳng Giác; lúc ấy
ngài vừa đúng ba mươi lăm tuổi…
Mười ngàn thế giới ngay sát-na ấy rung động dữ dội, quả đất
dày bốn mươi do-tuần chao qua đảo lại như địa chấn. Giờ phút ấy đi vào vĩnh cửu.
Chư thiên, phạm thiên hoan ca, vui mừng vì một đấng Toàn Giác đã xuất hiện trên
thế gian. Giữa hư không, hoa trời tung bay và nhạc trỗi để cúng dường thời khắc
linh thiêng và trọng đại này. Nếu ai có thiên nhĩ, sẽ nghe những lời đồng vọng
tự lưng chừng trời:
– Sādhu! Sādhu! Buddho uppanno! Sādhu! Sādhu! Buddho uppanno!
(Lành thay! Đức Phật đã xuất hiện trên thế gian rồi!)
Và cũng nhiệm mầu thay là những hiện tượng phi thường ở ngoài
mọi định luật tâm giới và nhiên giới, chưa từng có trên thế gian, lại đồng lúc
phát sanh một cách diệu kỳ. Đó là:
– Dẫu trái tiết, trái mùa nhưng muôn hoa đua nhau nở rộ và tỏa
sắc, tỏa hương…
– Mọi quả trái dù đắng, dù chua, dù chát chợt trở nên ngon,
ngọt, thơm…
– Những kẻ mù lòa, thong manh bẩm sinh, vui mừng vì đôi mắt bỗng
trở nên sáng quắc, thấy rõ mọi vật xung quanh mình.
– Những kẻ điếc lãng từ lúc chào đời chợt nghe được mọi âm
thanh..
– Những kẻ bại liệt, từ nay có thể đi lại một cách dễ dàng…
– Đặc biệt là tại địa ngục Lokantarika – cõi giới có từ
quả báo của những chúng sanh dày sâu tà kiến, dù bảy mặt trời cũng không bao giờ
rọi tới – hôm ấy, hào quang của đức Phật từ cội Assattha xuyên qua những lớp
bóng tối để chiếu soi tận ngục sâu âm u lạnh lẽo. Những chúng sanh này bỗng thấy
được lẫn nhau.
Đức Phật Gotama – bây giờ chúng ta gọi ngài là thế – đang rọi
ánh sáng để nhìn ngắm tự tâm nhưng đồng thời, ngài thấy biết luôn toàn bộ thế
gian, thế giới. Thật bi mẫn, thương xót thay chúng sanh ngu muội. Chúng đã tạo
tác những nhà tù thể xác rồi tự nhốt mình vào đấy, rồi khóc lóc, rồi sầu bi khổ
ưu não. Ta cũng đã lang thang muôn triệu kiếp mới tìm ra khuôn mặt của kẻ tạo
tác ấy. Nó chính là vô minh và ái dục. Chính nó đã tạo nên các uẩn, chồng chất
từ lớp này đến lớp kia. Nói rõ và chi tiết hơn, người thợ – tên kiến trúc sư
sinh tử – xây cái nhà tù chính là ái dục (taṇhā – rāga), cái đòn dông chính là vô
minh (vijjā). Còn toàn bộ cái sườn nhà là những ô nhiễm, phiền não (kilesa)
như: Tham (lobha), sân (dosa), si (moha), ngã mạn (māna), tà kiến (micchādiṭṭhi), hoài nghi (vicikicchā), tật (issā), hối (kukkucca), xan
(macchariya), hôn trầm (thīna), thụy miên (middha), phóng dật (uddhacca), không
biết hổ thẹn tội lỗi (ahirika), không biết ghê sợ tội lỗi (anottappa); rồi còn
phỉ báng, cố chấp (mukkha-thambha), sợ hãi (bhaya), bạc ơn, phản phúc… Khi có định
lực sung mãn, tuệ giác vằng vặc chiếu soi thì chúng hoàn toàn rã tan, rỗng
không, vô tự tánh… Bất giác, đức Phật Gotama thốt lên một cảm hứng ngữ nội tâm
trầm hùng, siêu thoát – có thể vang xa đến tận cùng vô lượng, vô biên thế giới:
“- Anekajāti saṃsāraṃ
Sandhāvissaṃ anibbisaṃ
Gahakārakaṃ gavesanto
Dukkhā jāti punappunaṃ
Gahakāraka! Diṭṭho’ si
Puna gehaṃ na kāhasi
Sabbā te phāsukā bhaggā
Gahakūṭaṃ visaṅkhitaṃ
Visaṅkhāra gataṃ cittaṃ
Taṇhānaṃ khayam ajjhagā”
Sandhāvissaṃ anibbisaṃ
Gahakārakaṃ gavesanto
Dukkhā jāti punappunaṃ
Gahakāraka! Diṭṭho’ si
Puna gehaṃ na kāhasi
Sabbā te phāsukā bhaggā
Gahakūṭaṃ visaṅkhitaṃ
Visaṅkhāra gataṃ cittaṃ
Taṇhānaṃ khayam ajjhagā”
(Lang thang muôn kiếp luân hồi
Tìm không gặp kẻ xây ngôi nhà tù
Não phiền, đau khổ mịt mù
Vòng xoay, dòng chuyển thiên thu nhọc nhằn
Hỡi này anh thợ làm nhà!
Rui, mè, kèo, cột tiêu ma hết rồi
Đòn dông ái dục gãy đôi
Vô minh tạo tác muôn đời hoài công
Như Lai giải thoát sạch không
Niết-bàn vô lậu thong dong vĩnh hằng)
Tìm không gặp kẻ xây ngôi nhà tù
Não phiền, đau khổ mịt mù
Vòng xoay, dòng chuyển thiên thu nhọc nhằn
Hỡi này anh thợ làm nhà!
Rui, mè, kèo, cột tiêu ma hết rồi
Đòn dông ái dục gãy đôi
Vô minh tạo tác muôn đời hoài công
Như Lai giải thoát sạch không
Niết-bàn vô lậu thong dong vĩnh hằng)
Đạo lớn đã tìm ra. Con đường bất tử đã được khai quang. Đức
Phật Gotama xả thiền, rời cội cây Assattha – bây giờ được gọi là cây bồ-đề – hoặc
cây tuệ giác (bodhirukkha) – lúc ấy phương đông trời vừa hửng sáng. Tràn đầy,
sung mãn trạng thái giải thoát, ngài đi tới đi lui thọ hưởng hạnh phúc siêu thế.
Gió ban mai nhè nhẹ thổi, mát lạnh mang theo rất nhiều mùi thơm hương rừng cỏ nội.
Ngài cảm nhận rất vẹn toàn, sâu sắc và tinh tế ngay cả những âm thanh cao thấp,
gần xa của chim, của giun dế, của từng chiếc lá rơi khẽ. Mù sương bàng bạc lan
kín cả mặt sông. Hoa đủ màu, đủ sắc từng chùm li ti chợt lay động, loang loáng
nước. Dường như vạn vật xung quanh đều hiển hiện những niềm vui thầm lặng, nhiệm
mầu. Tất cả đều nhiệm mầu dưới một ánh sáng khác lạ, mới mẻ. Có cái gì đổi mới,
khoác lên cảnh vật một chiếc áo phiêu diêu, nhẹ nhàng, thanh khiết. Khổ đau
không có mặt. Phiền não không có mặt. Nhưng cảm giác, tri giác, tâm hành, nhận
thức đều trôi chảy hòa bình, an lạc, trong lành và vô nhiễm. Sự sống bây giờ được
vận hành trong dòng chảy tinh khôi, trong lành và vô nhiễm ấy…
Suốt tuổi vị thành niên ưu tư, trăn trở, đến tuổi lập gia
đình thấy mọi niềm vui, khoái lạc đều phù du, trống rỗng; tháng năm dài tìm
cách giúp vua, cứu nước, đức Phật Gotama luôn cảm thấy mình làm cái việc của
con dã tràng xe cát – vì không giải mã được hố thẳm của lòng người. Với ý chí
kiên định, ngài thoát ly gia đình, vợ con, vương vị, quyết tìm ra con đường
thoát khổ, giải trình giá trị và ý nghĩa vĩnh cửu cho nhân sinh. Suốt sáu năm
dài đằng đẵng, nếm mật, nằm gai, chịu đựng sự khổ hạnh tối thượng, với nỗ lực
siêu phàm, bây giờ lộ trình bất tử mở toang cánh cửa, đã được khai thông.
Chưa có ai vĩ đại như ngài, chưa có ai kiêu dũng như ngài, và cũng chưa có ai cô độc như ngài. Cho chí những giây khắc khó khăn nhất, bên mình ngài cũng chẳng có ai, may nhờ những giọt sữa vi diệu của cô bé Punnā. Có thể nói rằng, ngài đã nỗ lực tự mình, không nương nhờ ai mà cũng không có bất kỳ một vị thầy nào trên lộ trình khám phá sự thật (Na me ācariyo atthi – một đạo sư, ta không có – ngài đã từng nói vậy). Tuy thế, chẳng phải ngài sáng tạo con đường, mà ngài chỉ tìm ra con đường xưa cũ, đã bị mù sương của vô lượng thời gian che khuất. Ngài chỉ là một con người, sinh ra và lớn lên như một con người, với xương thịt, ngũ quan, tình cảm, tinh thần cũng chỉ là một con người; nhưng nhờ tư duy có chiều sâu, biết giữ cảm xúc chừng mực, biết tra vấn và học hỏi, biết hoài nghi và biết trung thực; không dễ dàng chấp nhận những chân lý có sẵn, những lối mòn sơn son thếp vàng; dám đơn độc chiến đấu với cám dỗ, với truyền thống, với bản ngã cho đến lúc đứng trên đỉnh đầu sinh tử để ca khúc khải hoàn. Vậy ngài đúng là một vị Toàn Giác, một bậc Chánh Đẳng Giác do sự thấy biết chơn chánh và toàn diện. Ngài còn có khả năng truyền bá giáo pháp nên người ta tôn xưng ngài là bậc Chánh Biến Tri, là người phi thường (Acchariya manussa), là bậc làm chủ giáo pháp (Dhammassāmi – Pháp vương), là người ban bố pháp bất tử (Amatassa dātā), là người cho vật báu (Varado- vật báu chính là tâm từ bi thanh khiết nhất, trí tuệ sâu xa nhất và chân lý vi diệu nhất). Ngài còn được gọi Như Lai (Tathāgata – bậc đến như vậy), Ứng Cúng (Arahaṃ – xứng đáng được cung kính, tôn trọng, cúng dường), Minh Hạnh Túc (Vijjā-carana-sampanno – Trí vô thượng, Đức vô thượng), bậc Thiện Thệ (Sugato – khéo đi ra khỏi luân hồi), bậc Thế Gian Giải (Lokavidū – bậc thông suốt tam giới), Vô Thượng Điều Ngự Trượng Phu (Anuttaro Purisadammasārathi – bậc trượng phu vô thượng có khả năng chế ngự, nhiếp phục thân, khẩu ý mình và chúng sanh), Thiên Nhân Sư (Satthādevamanussānaṃ – bậc thầy của chư thiên và nhân loại), Thế Tôn (Bhagavā – xứng đáng được xưng tán, tôn vinh), Phật (Buddho – bậc tỉnh giác, sáng suốt, tỉnh thức).
Chưa có ai vĩ đại như ngài, chưa có ai kiêu dũng như ngài, và cũng chưa có ai cô độc như ngài. Cho chí những giây khắc khó khăn nhất, bên mình ngài cũng chẳng có ai, may nhờ những giọt sữa vi diệu của cô bé Punnā. Có thể nói rằng, ngài đã nỗ lực tự mình, không nương nhờ ai mà cũng không có bất kỳ một vị thầy nào trên lộ trình khám phá sự thật (Na me ācariyo atthi – một đạo sư, ta không có – ngài đã từng nói vậy). Tuy thế, chẳng phải ngài sáng tạo con đường, mà ngài chỉ tìm ra con đường xưa cũ, đã bị mù sương của vô lượng thời gian che khuất. Ngài chỉ là một con người, sinh ra và lớn lên như một con người, với xương thịt, ngũ quan, tình cảm, tinh thần cũng chỉ là một con người; nhưng nhờ tư duy có chiều sâu, biết giữ cảm xúc chừng mực, biết tra vấn và học hỏi, biết hoài nghi và biết trung thực; không dễ dàng chấp nhận những chân lý có sẵn, những lối mòn sơn son thếp vàng; dám đơn độc chiến đấu với cám dỗ, với truyền thống, với bản ngã cho đến lúc đứng trên đỉnh đầu sinh tử để ca khúc khải hoàn. Vậy ngài đúng là một vị Toàn Giác, một bậc Chánh Đẳng Giác do sự thấy biết chơn chánh và toàn diện. Ngài còn có khả năng truyền bá giáo pháp nên người ta tôn xưng ngài là bậc Chánh Biến Tri, là người phi thường (Acchariya manussa), là bậc làm chủ giáo pháp (Dhammassāmi – Pháp vương), là người ban bố pháp bất tử (Amatassa dātā), là người cho vật báu (Varado- vật báu chính là tâm từ bi thanh khiết nhất, trí tuệ sâu xa nhất và chân lý vi diệu nhất). Ngài còn được gọi Như Lai (Tathāgata – bậc đến như vậy), Ứng Cúng (Arahaṃ – xứng đáng được cung kính, tôn trọng, cúng dường), Minh Hạnh Túc (Vijjā-carana-sampanno – Trí vô thượng, Đức vô thượng), bậc Thiện Thệ (Sugato – khéo đi ra khỏi luân hồi), bậc Thế Gian Giải (Lokavidū – bậc thông suốt tam giới), Vô Thượng Điều Ngự Trượng Phu (Anuttaro Purisadammasārathi – bậc trượng phu vô thượng có khả năng chế ngự, nhiếp phục thân, khẩu ý mình và chúng sanh), Thiên Nhân Sư (Satthādevamanussānaṃ – bậc thầy của chư thiên và nhân loại), Thế Tôn (Bhagavā – xứng đáng được xưng tán, tôn vinh), Phật (Buddho – bậc tỉnh giác, sáng suốt, tỉnh thức).
Thế là một vầng nhật nguyệt vừa xuất hiện trên thế gian. Lừng
lững. Vằng vặc. Trí tuệ và từ bi. Còn soi sáng đêm ngày cho đến hết năm ngàn năm
cùng nhân duyên với chúng sanh hữu trí.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
Nguồn: Trích từ Một Cuộc Đời
Một Vầng Nhật Nguyệt - Tập 1
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét