Hương thời gian thanh thanh,
Vào lúc mà đường phố đã chuẩn bị xong cho lễ hội đón giao thừa
với dàn pháo bông đã lên nòng, với đường hoa xuân tấp nập, lộng lẫy, đèn hoa
giăng kết khắp nẻo và hàng chục ngàn trang giai nhân tài tử chuẩn bị cho thời
khắc “Final countdown” đưa tiễn Ất Mùi đón Bính Thân, thì tôi lại thầm mơ một
giao thừa lặng lẽ như câu hát: Anh đến thăm em đêm ba mươi, còn đêm nào
vui bằng đêm ba mươi, anh nói với người phu quét đường, xin chiếc lá vàng làm bằng
chứng yêu em… Sao giao thừa xanh trong đôi mắt trong? Trời sắp Tết hay lòng
mình đang Tết.
Từ lâu rồi tôi đã ngộ ra: Giao thừa! Người phương Tây khui
sâm banh nổ trào, tụ tập, reo mừng, tung hoa giấy, pháo bông đầy trời... Còn
chúng ta, trong cái thời khắc của mình, chúng ta cũng vui, nhưng là một nỗi vui
trầm ngâm: nhang khói bên bàn thờ gia tiên, hương án cúng trời lập lòe trước mỗi
căn nhà, tiếng chuông chùa ngân nga, những bóng người chậm rãi đi hái lộc, ngay
cả thời còn đốt pháo đón giao thừa thì dường như người Việt càng lặng lẽ hơn
bên tiếng pháo ran trời.
Tiếng pháo như làm cho họ trầm ngâm hơn! Tôi gọi đó là niềm
vui cổ kính của một dân tộc cổ kính. Và tất cả dường như cô đọng trong “tiếng
lòng” của họ, vì cái quan trọng không chỉ là Tết mà còn là “lòng mình đang Tết”.
Tiếng lòng được ướp hương thời gian
Chuẩn bị giao thừa Bính Thân, tôi lần giở lại cảm xúc cũ hồi
giao thừa Giáp Thân 2004, đúng một con giáp trước, và gặp lại những ghi chép về
mạch cảm khái của niềm vui cổ kính ấy, mà vẫn thấy đúng đến tận giờ: “...
Hầu hết mọi tâm hồn Việt đều bần thần ngây ngất trước một mảng
tường rêu xanh bên một mái ngói cổ xiêu vẹo, một cảnh chùa thâm trầm buồn đến
thảng thốt nhưng lại làm cho những tâm hồn ấy hân hoan...
Dường như người Việt muốn chiết lấy từ mọi vật thứ tinh dầu
thời gian, khi họ có đủ một lượng tinh dầu thời gian lưu cữu như thế, họ đem ướp
mọi thứ mình yêu mến vào hương thời gian ấy, kể cả niềm vui. Nên chả trách niềm
vui của họ thâm trầm là thế, tĩnh tại là thế và say nồng là thế. Một dân tộc cổ
kính, một niềm vui cổ kính. Đó là gia tài của chúng ta”.
Và tôi kịp nhận ra chính các áng văn, ngôn ngữ, hồn thơ, tứ
nhạc... mà tôi xem là “tiếng lòng” của đất nước đã được người Việt ướp lâu nhất
trong chất tinh dầu thời gian ấy và giúp hình thành nên một loại di chỉ phi vật
thể vốn là bằng chứng lớn nhất về sự tồn tại của dân tộc.
Chẳng phải vậy sao, khi mà nhìn suốt dòng lịch sử ta gặp vô số
những trước tác quan trọng và ta nhanh chóng nhận ra chất nghệ sĩ, thi sĩ của
dân tộc này, vì chẳng có ở đâu vua làm thơ, tướng quốc làm thơ, tu sĩ làm thơ
như vậy:
Vua Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Thánh Tông... đều có
ngự tập, vua Lê Thánh Tông là một danh sĩ, vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đều
có những thi tập; các danh tướng Lý Thường Kiệt với Nam quốc sơn hà Nam đế
cư, Trần Quốc Tuấn với Hịch tướng sĩ, các tướng quốc như Nguyễn Trãi, các
nhà văn hóa như Nguyễn Du, các danh tăng cũng đều là thi sĩ: Khánh Hỉ thiền sư
từ cả ngàn năm trước đã có Ngộ Đạo thi tập, Bảo Giác thiền sư với Viên
Thông tập, tám trăm năm trước Huyền Quang thiền sư đã có Ngọc Tiên tập, rồi
Pháp Loa thiền sư...
Cho nên, gần đây ta thấy bên cạnh một vài di sản vật thể thì
nước Việt lại có khá nhiều di sản phi vật thể được thế giới công nhận. Không cần
là nhà nghiên cứu, bạn chỉ cần lật bảng liệt kê những tác giả và tác phẩm ở phần
cuối cuốn sách kinh điển Việt Nam văn học sử yếu của cụ Dương Quảng
Hàm sẽ gặp một danh sách những di sản phi vật thể khổng lồ, được sáng tác suốt
một ngàn năm qua.
Chẳng lạ, bởi từ một phong thổ không giàu có và một nền kiến
trúc gỗ dễ bị gặm nhấm bởi mối mọt, các tài sản hữu hình khó tồn tại dài lâu,
nhưng dấu vết của dân tộc lại được gửi gắm ở một “càn khôn” khác, nó nằm trong
“tiếng lòng” của họ: trong những áng thiên cổ hùng văn, trong thi tập, trong
kinh sách, trong ngôn ngữ, trong ca dao, tục ngữ...
Cho nên, nói không sợ sai, lịch sử của dân tộc này nằm trong
những áng văn. Ở đó ta sẽ gặp tiếng lòng của họ liên tục thầm thì suốt cả ngàn
năm qua:
Đoạt giáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu nỗ
lực
Vạn cổ thử giang san
(Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái
bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu).
Là tiếng lòng của danh tướng Trần
Quang Khải thổn thức tám thế kỷ trước khi lấy lại được Thăng Long.
Hay cái bảng lảng với một bông hoa cúc vừa nở giữa ngày xuân ở
vùng núi non hiu quạnh hồi tám trăm năm trước qua tiếng thở nhẹ của nhà sư Huyền
Quang:
Thân thế nào hay có với không
Một giường lạnh ngắt kẻ ngồi trông
Giữa
non năm cuối quên ngày tháng
Mách tiết trùng dương cúc nở bông.
Gió không thổi, nước sông trôi lạnh giá
Thuyền đi trong
bóng tối lũy thành xưa
Trên chòi cao, tự ngàn năm sực tỉnh
Trong giăng khuya bỗng
vẳng tiếng loa mơ
Lòng ta là những hàng thành quách cũ
Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng
loa xưa.
Cái mạch cảm khái dài từ ngàn năm trước cho đến tận giờ ta
nào thấy có khác chi, đó là một thứ “tiếng lòng bất tận” kéo dài cả ngàn năm và
dường như không khác, không dời, không đổi gì mấy.
Cổ kính hóa hiện đại và Hiện đại hóa cổ kính
Tôi là người viết lách nên tôi trú ngụ trong ngôn ngữ, trong
đó tôi yêu nhất chất nhạc trong tiếng Việt, nhưng vì chỉ viết văn xuôi, không vần,
kén điệu, nên dù có khao khát mấy tôi cũng không thể làm cho câu chữ rung lên
giai điệu như những nhà thơ, những nhạc sĩ viết ca khúc.
Nên với tôi, họ luôn là thần tượng vì đã giúp tạo ra cho cảm
xúc một chỗ trú ngụ tròn vẹn. Nhưng, may mắn nhất cho thế hệ mình, tôi được sống
cùng thời đại với rất nhiều tuyệt phẩm thơ phổ nhạc, sự kết tinh của nhạc và
thơ, một sự kết hợp kỳ diệu làm cho chất nhạc trong tiếng Việt được chiết lọc
ra và chuyển tải trọn vẹn cái hồn cổ kính lung linh của dân tộc này. Họ giúp
chuyển cái cổ kính vào hiện đại và lại làm cho cái hiện đại đẫm ướt hương thời
gian.
Paris có gì lạ không em
Mai anh về mắt vẫn lánh đen
Vẫn hỏi
lòng mình là hương cốm
Chả biết tay ai làm lá sen.
Nguyên Sa hỏi. Ngô Thụy Miên
họa và giai điệu valse phương Tây nhẹ nhõm, thánh thót, dập dìu đẩy cái cảm xúc
cổ kính ấy lơ lửng giữa làn sương trắng: hương cốm nồng nàn khi ủ trong lá sen,
như lòng mình chỉ đợi một bàn tay sen ôm lấy để bừng hương.
Rằng xưa có gã từ quan
lên non tìm động hoa vàng nhớ
nhau
Thôi thì em chẳng còn yêu tôi
Mai ta chết dưới cội đào/khóc ta xin nhỏ lệ vào thiên thu. Phạm Thiên Thư nhớ
chàng Từ Thức lạc Thiên Thai bằng một nhịp điệu lục bát thuần Việt, hồn hậu và
nghịch ngợm đã được Phạm Duy đẩy lên đến tận đỉnh sầu, nơi mà giọt lệ trở nên
long lanh, trong vắt và tinh tuyền như cõi vô tận.
Rồi cái tinh thần cổ kính Việt ấy đã chuyển hóa cho một cuộc
gặp gỡ tương giao với những tinh hoa cổ điển của các nền văn hóa khác.
Đêm
thánh vô cùng, giây phút tưng bừng
Đất với trời se chữ đồng
(Silent night, Holy
night
All is calm, all is bright).
Bài Silent night do Frank Xaver
Gruber sáng tác năm 1818 được chuyển dịch toàn bích bởi ý niệm cổ xưa Việt
nhưng ôm được cái thần của đêm Thánh theo tinh thần Kitô giáo: “Đất với trời se
chữ đồng”.
Hay Ave Maria, một tuyệt phẩm của Schubert với lời của
nhà thơ Walter Scott ra đời đã 200 năm, được Việt hóa đồng cảm một cách lạ thường: Dâng
về Maria/Đây những linh hồn đầy ưu tư/Khép nép trong lòng mẹ ôi hết ưu phiền/Đàn
con xin mẹ âu yếm cho lành duyên/Hãy ban cho hương đời đã tan vỡ trong ngày
qua/Và đưa tới nơi mơ hồ. Những “linh hồn ưu tư” “khép nép trong lòng mẹ”: là
tình yêu thương đậm chất mẹ Maria. Âu yếm cho “lành duyên”, “hương đời” tan vỡ:
là những hình ảnh đậm chất Việt.
Rồi Le Beau Danube bleu, bài Valse thành Vienne nổi tiếng
của Johann Strauss II sáng tác năm 1866 đã rộn ràng trong Việt ngữ:
Một
dòng xanh xanh xanh
Một dòng tràn mênh mông
Một dòng nồng ý biếc
Một dòng sầu mấy
kiếp...
Một dòng còn quyến luyến
Một dòng nhớ,
quay về miền đời lúc mơ huyền.
Làm được thế, ta đành phải mượn một khái niệm hiện đại trong
kinh tế: phải đủ vốn đối ứng. Văn hóa, ngôn ngữ Việt phải có đủ nội lực tương xứng
để ứng tác được với những tác phẩm kinh điển đỉnh cao như thế của nhân loại.
Tiếng nước tôi
Rời khỏi năm cũ khi ta vừa kỷ niệm 250 năm ngày sinh Nguyễn
Du và tác phẩm đỉnh cao của tiếng Việt: Truyện Kiều. Cũng vậy, gần 100 năm
trước, năm 1924, nhân kỷ niệm ngày giỗ của Nguyễn Du, cụ Thượng Chi Phạm Quỳnh
đã viết: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn.
Tiếng ta còn, nước ta còn”. Ông còn nhấn thêm: “Một nước
không thể không có quốc hoa, Truyện Kiều là quốc hoa của ta; một nước không thể
không có quốc túy, Truyện Kiều là quốc túy của ta; một nước không thể không có
quốc hồn, Truyện Kiều là quốc hồn của ta”.
Xem thế mới thấy cái sự tôn kính của các bậc tiền nhân với
“tiếng lòng, tiếng nước”. Đó cũng là rung động của chúng ta trong câu hát quen
thuộc của thời hiện đại:
Tiếng nước tôi,
bốn ngàn năm ròng rã buồn
vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi.
Và vào cái thời khắc chuyển giao của trời
đất này, khi mà Nguyễn Du và Truyện Kiều sẽ được “ngâm” sâu hơn nữa
trong “tinh dầu thời gian”, tôi chợt nhớ đến nỗi buồn tàn phai của cụ trong câu
thơ:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như (**)
(Ba trăm năm nữa ta đâu biết
Thiên hạ còn ai khóc Tố Như).
Nỗi buồn ấy cũng được cụ Đào Duy Anh họa lại trong bài
thơ Đáp Nguyễn Du:
Bác bảo ngày sau ai khóc mình?
Mà nay bốn bể lại lừng danh
Cho hay hết thảy đều mây nỗi
Còn với non sông một chút tình.
May quá, vì nỗi buồn hoang phế, tàn phai, quên lãng... vốn là
hệ lụy thường thấy của dòng thời gian ấy, trong văn hóa lại có tác dụng ngược lại:
càng lâu, càng chín muồi, càng đậm đặc, càng cổ kính và càng quý giá đối với
chúng ta.
(*): Lời bài thơ Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ viết
cách nay 80 năm.
(**): Tố Như là tên chữ của Nguyễn Du.
LƯU VĨ LÂN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét