Quy luật kế thừa và cách tân của
Thơ mới Việt Nam (1932-1945).
Chứng minh qua một tác phẩm
Kế thừa và cách tân là quy luật của những nấc thang phát triển.
Ở Việt Nam giai đoạn 1930-1945 xuất hiện một phong trào văn học mang
tên “THƠ MỚI”. Nhắc đến phong trào văn học này người ta thường nới đến những
cái gì là mới mẻ nhất, là cách tân nhất,có thể nói là mới từ “tính cách” đến
“tâm hồn”. Dù vậy nhưng Thơ Mới cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Phong trào
này đã kế thừa nghệ thuật thi ca truyền thống và vận dụng đầy sáng tạo vào
trong sáng tác
Trong phong trào Thơ Mới (1932-1945) ta nhận
thấy rõ sự đổi mới về hình thức đó là không tuân theo những phép tắc niêm luật
của thơ cũ mà đi theo lối sáng tác phóng túng, tự do về câu chữ, nhịp điệu. Còn
về nội dung đó là thơ của cái tôi cá nhân cá thể với tinh thần chung đó là cái
nhìn đầy mới mẻ, ngơ ngác, trẻ trung trước thế giới mà lần đầu tiên họ được tiếp
xúc, phát hiện bằng chính cặp mắt của mình.
Nhưng trong thơ của
họ ta vẫn thấy xuất hiện không ít những hình ảnh, thủ pháp nghệ thuật phổ biến
của thi ca truyền thống được vận dụng. Lý giải điều này phải nói đến trước hết
về lực lượng sáng tác của phong trào Thơ Mới. Các ông: Thế Lữ, Nam Trân,
Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử... đều là nhưng con người sinh ra và lớn lên
trong nền văn học Nho, ảnh hưởng và ngấm sâu lề lối sáng tác của một nền văn học
đã tồn tại mấy mươi thế kỉ trung đại. Bởi vậy các ông đều thông thạo chữ Hán và
giỏi làm Đường thi.Vây nên khi tiếp nhận chủ nghĩa lãng mạn, nhập hồn vào Thơ Mới
các ông chưa thể gột sạch hết những tồn tại của văn học cũ. Cũng nên thấy rằng
tính chất giao thoa của văn hóa nói chung hay văn học nói riêng. Giống như một
ông tây khi sang Việt Nam cũng nên biết ăn phở, đội nón lá. Có lẽ như
vậy sẽ dễ sống, dễ được mọi người đón nhận hơn chăng.
Phong trào Thơ Mới phát
triển đến đỉnh cao ở giai đoạn 1936 -1939. Tôi xin đi phân tích một tác phẩm điển
hình trong giai đoạn này để thấy rõ quy luật kế thừa của nó.
Tràng giang là bài thơ tiêu biểu của
Huy Cận được sáng tác năm 1939 - là một đại biểu của Thơ Mới. Tác phẩm này dày
đặc những thi liệu, thủ pháp nghệ thuật được kế thừa sáng tạo từ thơ ca truyền
thống.
Huy Cận chọn một đề tài không mới mà hoàn toàn thân thuộc
trong thi ca cổ. Đó là viết về dòng sông, về “tràng giang.”
Quen thuộc trong thơ ca dân gian:
Dòng sông ai đã đặt tên
Để người đi nhớ mãi không quên
Trong thơ ca trung đại người ta cũng xem
đây là đề tài quen thuộc mà tiểu biểu là dòng Bạch Đằng trong “Bạch Đằng giang
phú” của Trương Hán Siêu.
Giương buồm dong gió chơi vơi
Lướt bể chơi trăng mải miết...
Hơn thế trong “Tràng giang” người đọc có thể nhận mặt một
cách dễ dàng những hình ảnh thơ, những từ ngữ vốn là thi liệu của thơ ca truyền
thống.
Ví như “con thuyền xuôi mái” trong câu:
Con thuyền xuôi mái nước song song
Câu thơ làm ta liên tưởng đến hai câu thơ trong bài thơ Đương
nổi tiếng - Phong kiều dạ bạc:
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Từ láy “lơ thơ”,“đìu hiu” trong câu “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu
hiu” cũng lấy từ thơ cổ:
Lơ thơ tơ liễu buông mành
(Nguyễn Du)
Và
Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò
(Chinh phụ ngâm - Đặng Trần Côn)
Tiếp nữa là hình ảnh “chợ chiêu” trong “Đâu tiếng làng xa vãn
chợ chiều”
Cũng làm vang vọng về một ý thơ:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
(Nguyễn Trãi)
Đặc biệt là hình ảnh “bến” trong “Sông dài trời rộng bến cô
liêu”
Đó là “Thuyền về có nhớ bến chăng” trong thơ ca dân gian.
Hay Trong thơ Đỗ Phủ:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách.
Hình ảnh “bèo” trong câu “bèo dạt về đâu hàng nối hàng” cũng
làm gợi nhớ câu thơ của Nguyễn Du nói về thân phận nàng Kiều:
Giữa dòng trong đục cánh bèo lênh đênh
Cũng không thể bỏ qua “chuyến đò ngang” và cây “cầu” trong
hai câu thơ:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Đều là những hình ảnh hết sức quen thuộc trong thơ ca truyền
thống.
Trong khổ thơ cuối thì cái hồn thơ mang đậm màu sắc cổ điển
càng toát lên rõ rệt:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Động từ “đùn” làm ta
liên tưởng đến câu thơ “Mặt đất mây đùn cửa ải xa” của Đỗ Phủ. Đặc biệt những
“lòng quê”, những “khói hoàng hôn”,”nhớ nhà” khiến ta liên tưởng đến một áng
thơ:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khí sóng cho buồn lòng ai (Thôi Hiệu)
Không chỉ dừng lại ở việc sử dụng nguồn thi liệu phong phú
trong thơ cổ, nhà văn còn kế thừa những thủ pháp nghệ thuật đặc trưng. Cả bài
là bức tranh tả cảnh ngụ tình “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, "tức cảnh
thì sinh tình". Sau bức tranh thiên nhiên là thế giới tình cảm, những tâm
tư, nỗi niềm ẩn chứa.
Huy Cận cũng vận dụng nghệ thuật lấy điểm vẽ diện bằng những
nét chấm phá tạo nên bức tranh toàn diện, rộng lớn. “thuyền”, ”củi”, ”bèo”, ”chim”... là
những hình ảnh nhỏ bé trong cái nền rộng lớn là”trăm ngả, mấy dòng,mênh mông,
bóng chiều...” càng làm tăng thêm sự rộng lớn bao la đến vô cùng, vô tận của
không gian sông nước mây trời.
Vậy là qua việc tìm hiểu bài thơ Tràng giang ta đã thấy rõ tính kế thừa của Thơ
Mới. Đây chỉ là một bài thơ tiêu biểu tôi muốn lấy làm ví dụ minh chứng. Màu sắc
cổ điển còn xuất hiện trong nhiều bài thơ mới khác như Đây mùa thu tới, Vội
vàng, Đây thôn Vĩ dạ... Đây là quy luật kế thừa phát triển của tiến trình văn học
mà người nghiên cứu văn học cần nắm rõ để có những hiểu biết sâu sắc về các
sáng tác văn học trong mỗi giai đoạn khác nhau.
Dương Đạt
Theo https://www.dayhocvan.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét