Huy Cận và những đóng góp quan trọng
cho thơ ca hiện đại Việt
Nam
Huy Cận bắt đầu có thơ đăng báo từ năm 1936, tức là lúc tuổi
đời còn rất trẻ, đang học tú tài ở Huế. Năm 19 tuổi, Huy Cận xuất bản tập thơ đầu
tay “Lửa thiêng” và trở thành một trong những tên tuổi xuất sắc của phong trào
Thơ Mới (1932-1942). Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Huy Cận liên tiếp xuất bản
25 tập thơ thể hiện niềm vui và niềm tự hào trước cuộc sống mới của nhân dân, đất
nước. Huy Cận đã có những đóng góp xuất sắc vào tiến trình phát triển thơ ca hiện
đại Việt Nam.
Dấu mốc thứ nhất là những đóng góp của ông trong phong trào
Thơ Mới với ý nghĩa là một cuộc cách mạng trong thi ca, mở đầu cho sự phát triển
của thơ ca hiện đại. Huy Cận nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới bắt đầu từ bài
thơ Chiều xưa đăng trên Báo Ngày nay của Tự lực văn đoàn. Nguyên văn
bài thơ:
Huy Cận đã có công trong việc nâng cấp thể thơ lục bát lên một
khả năng biểu đạt và biểu cảm hoàn toàn mới mẻ trong Thơ Mới bằng sự kết hợp một
cách nhuần nhuyễn và tinh tế chất cổ điển Đường thi, cùng với những sáng tạo mới
về cấu trúc ngôn ngữ, hình ảnh mang tinh thần thời đại (ảnh hưởng văn học
Pháp).
Bài thơ Chiều xưa, cùng với những bài lục bát toàn bích
khác như Buồn đêm mưa, Ngậm ngùi…, được đưa vào tập Lửa thiêng, tập hợp
50 bài thơ in báo từ năm 1939-1940. Chiều xưa, Buồn đêm mưa, Ngậm ngùi cũng
nằm trong số những bài thơ quen thuộc và hay nhất trong Lửa thiêng, thể hiện
được “điệu hồn” thơ Huy Cận trước cách mạng: Buồn, cô đơn, ảo não, một nỗi buồn
tràn ngập không gian vũ trụ:
Xét trên phương diện đổi mới thi ca, Thơ Mới trước hết là một
cuộc “nổi loạn”, một sự “phá phách” để đoạn tuyệt với những khuôn phép gò bó của
“thơ cũ”, nhất là thơ luật, để giải phóng cho cảm hứng, đi tìm nhịp điệu cho
trái tim của cái “tôi”. Việc tự do đi tìm nhịp điệu cho cái “tôi”, tự do bộc lộ
nhu cầu của tâm hồn bằng một hình thức thơ linh hoạt nhất đã đưa đến “Một thời
đại trong thi ca”, mà theo như Hoài Thanh: “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện
cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng
tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê
mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn
như Xuân Diệu”. “Ảo não” như Huy Cận là sự “định danh” xác đáng về thơ Huy Cận trong
Thơ Mới. Là vì Lửa thiêng tràn ngập nỗi buồn, cô đơn, sầu não, “sầu từ
vạn cổ”, bao trùm lên cả mênh mông vũ trụ, xa thẳm thời gian, trở thành “nỗi
hiu hắt trong cõi trời”, “một linh hồn trời đất” hay “cái sầu của vũ trụ” (Xuân
Diệu, tựa tập “Lửa thiêng”):
Chính Huy Cận cũng đã tự nhận rằng: “Chàng Huy Cận khi
xưa hay sầu lắm”. Nhà phê bình Hoài Thanh gọi Huy Cận là “Người đã gọi dậy cái
hồn buồn của Đông Á, người đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm
trong cõi đất này”. Buồn, sầu, cô đơn, đìu hiu xa vắng trong Lửa thiêng đến
từ hư vô, từ tạng chất tâm hồn, đến từ cảm quan về cuộc đời và từ những biến động
của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX. Nếu Xuân Diệu là cái tôi rạo rực, đắm say, vồ
vập, cuống quýt trước thanh âm cuộc đời, “là nguồn sống dào dạt ở chốn nước non
lặng lẽ này” (Hoài Thanh), thì Huy Cận đắm chìm trong “mộng”, trong cái mênh
mông, vô biên của vũ trụ, của thời gian, đầy chất suy tư, triết lý.
Nhà thơ Huy Cận (hàng đầu, thứ hai bên phải sang)
và
các nhà thơ thời thơ mới. Ảnh tư liệu
Chính vì vậy, về hình thức thơ, nếu Xuân Diệu xuất hiện trong
Thơ Mới với “y phục thơ tối tân”, rất Tây, thì Huy Cận bên cạnh sự tiếp thu, ảnh
hưởng của thơ Pháp còn thấm đẫm chất Đường thi, thấm đẫm mạch nguồn thơ ca truyền
thống. Từ khi Lửa thiêng xuất bản ghi danh Huy Cận vào số những nhà
thơ xuất sắc của phong trào Thơ Mới, đã có hàng trăm công trình nghiên cứu lớn
nhỏ, đều nhất quán trong việc khẳng định tài năng xuất chúng của Huy Cận, khẳng
định giá trị, vẻ đẹp toàn bích của Lửa thiêng trên các phương diện
như cảm hứng thời đại, cảm hứng cô đơn của con người với nỗi sầu vũ trụ, nỗi buồn
thế kỷ, tình yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương, đất nước, yêu tiếng nói dân tộc,
và nỗi suy tư về cuộc đời… Lửa thiêng là “giọng điệu triết lý về cuộc
đời, về con người và về vũ trụ của tôi”. Chính chất triết lý trong thơ Huy Cận
đã nâng cấp cho Thơ Mới. Huy Cận đã góp phần vào sự phát triển của thơ ca hiện
đại cùng với những đổi mới về nội dung, hình thức nghệ thuật và ở sự gia tăng
chất triết lý cho thơ.
Từ trái sang phải: Xuân Diệu, Tố Hữu
và Huy Cận - năm
1946. Ảnh tư liệu
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Huy Cận cũng như Xuân Diệu hay
một số nhà thơ mới khác, mở lòng ra đón không khí cuộc sống mới, đất trời mới,
nhanh chóng hòa mình vào cuộc sống của nhân dân, đất nước. Những tập thơ với
tiêu đề tươi sáng, lạc quan, tràn đầy sự sống đã được xuất bản liên tục: “Trời
mỗi ngày lại sáng” (1958), “Đất nở hoa” (1960), “Bài thơ cuộc
đời” (1963), “Chiến trường gần đến chiến trường xa” (1973), “Ngày
hằng sống, ngày hằng thơ” (1975), “Ngôi nhà giữa nắng” (1978), “Hạt
lại gieo” (1984). Quả thực, chỉ nhìn vào tên mỗi tập thơ cũng đã thấy được
một tinh thần mới trong thơ Huy Cận. Giờ đây, cái “tôi” ấy đã từ bỏ tháp ngà của
những nỗi “sầu miên thảo” trở về với cuộc đời rộng lớn, hòa cùng nhịp sống với
con người mới và cuộc đời rộng lớn. Đề tài lao động, sản xuất, chiến đấu đi vào
thơ Huy Cận tự nhiên, chân thực với một tâm thế và cảm quan tươi sáng. Không
còn là “mộng”, “mộng ảo”, “mơ ước hão” trước kia, cuộc sống ùa vào
thơ ông là đời thực, sôi động của nhân dân, đất nước, của những năm tháng khó
khăn nhưng đầy tin yêu, lạc quan. Những băn khoăn trước đây của “chàng Huy Cận”
trong Thơ Mới:
đến giai đoạn này đã có câu trả lời thỏa đáng bằng những câu
thơ về cuộc sống ấm áp, căng tràn sự sống:
Huy Cận hay viết về mưa. “Mưa xưa”, trong Lửa thiêng hiu
hắt thê lương, giọt mưa là giọt sầu, mưa rơi là sự nối dài của “trăm muôn giọt
lệ”. “Mưa nay” là mưa xuân, là tươi mát, là gieo sự sống “mưa xuân tươi tốt
cả cây buồm”.
Tiếng gà gáy là âm thanh hay được Huy Cận chú ý. Nếu “tiếng
gà xưa” xa vắng, hoang lạnh:
thì tiếng gà nay:
Nếu trước cách mạng, nhà thơ cảm thấy cô đơn rợn ngợp trước
không gian vũ trụ mênh mông, hoang vắng: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp
điệp” thì sau cách mạng, vẫn là cảm hứng vũ trụ, nhưng là để khẳng định tư
thế mới của con người làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời
Nhà thơ Huy Cận - Những điều
còn mãi...
Khác với người bạn thơ thân thiết, người bạn đồng hương đồng
quận Xuân Diệu, phải đến 1958, nghĩa là 13 năm sau, Huy Cận mới xuất bản tập
thơ đầu tiên. Điều này cho thấy, thơ Huy Cận sau cách mạng là kết quả của những
cảm quan nghệ thuật mới về cuộc đời, con người đã được đúc kết, chắt lọc qua một
quá trình trải nghiệm và thâu nhận chất liệu của cuộc sống mới. Cả trong hai
giai đoạn sáng tác trước và sau cách mạng, nếu đọc kỹ sẽ thấy, thơ Huy Cận vẫn
là nhất quán trong một mối quan tâm chung về cuộc đời và con người, như ông đã
nói: “Dòng thơ tôi luôn nhất quán, đó là thơ của cuộc đời, của con người”.
Về hình thức biểu đạt, thơ Huy Cận được tiếp nguồn từ mạch chảy của thơ ca truyền
thống, mang vẻ đẹp cổ điển, hàm súc, dung dị, mộc mạc, dễ đi vào lòng người.
Vẻ đẹp, tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước là dòng mạch
xuyên suốt trong thơ Huy Cận. Chưa bao giờ rời xa sự sống, nhân sinh, thiên
nhiên, quê hương, đất nước, ông đến với cuộc đời và thơ bằng một tấm lòng chân
thật, một trí tuệ lớn và một vốn hiểu biết phong phú về nhiều lĩnh vực. Hành
trình sáng tác 70 năm của Huy Cận, vắt qua gần hết những mốc lớn trong quá
trình phát triển của thơ Việt Nam hiện đại đã đóng góp quan trọng vào tiến
trình phát triển ấy. “Rồi một ngày kia giã cõi này/ Xin cho gieo hết hạt
trong tay”, tâm nguyện ấy của Huy Cận đã được hoàn thành bằng những nhiệm vụ lớn
mà ông đã làm.
Từ trái qua phải: Huy Cận và Xuân Diệu tại Sài Gòn - năm
1940; Nhà thơ Huy Cận nói chuyện với Đoàn văn công tỉnh Hà Tĩnh tại xã Thạch
Linh, tháng 2/1971; Nhà thơ Huy Cận đồng chủ tịch Đại hội Nhà văn Á - Phi tại
Cairo (Ai Cập), tháng 2/1962.
29/5/2019
Nguyễn Thị Nguyệt
Theo https://baohatinh.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét