Thơ mới 1930-1945
Có nỗi buồn đau, sự “ra đi” trong Thơ mới, ngoài âm vọng của
lịch sử còn là sự dồn nén bi kịch của con người cá nhân: không có sự hòa hợp giữa
cá nhân với cộng đồng, giữa lý tưởng và hiện thực. Cái tôi trữ tình sầu buồn
này cũng thể hiện tâm thế của nhà thơ thời đại lúc bấy giờ. Đành rằng đây là
cái tôi cô đơn, bế tắc, nhưng phê phán gay gắt đến độ cho nó là “suy đồi, bạc
nhược, phản động” như quan niệm trong Sách giáo khoa Văn học lớp 11 cũ (Nxb
Giáo dục, H, 1984) thì chưa phù hợp. Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, cái tôi
bơ vơ còn hoài nghi về tương lai, quá khứ thì lùi xa nên họ không có chỗ bấu
víu. Vui thì lạc điệu nên buồn là đúng. Buồn cũng là một động thái tích cực phủ
nhận xã hội. Mà có yêu đời thì mới đau nỗi sầu đau, mới buồn cho thân phận, và
muốn “ra đi” để xóa bỏ buồn đau. Hơn nữa, quan điểm mĩ học của các thi sĩ lãng
mạn là thích nói về nỗi cô đơn, sầu buồn. Họ quan niệm: "Không rên xiết
là thơ vô nghĩa lý” (Hàn Mặc Tử). Càng gợi được nỗi u sầu, điệu buồn thương
thì thơ càng đạt đến sự "huyền nhiệm" giao tiếp của cái tôi cá nhân
đơn nhất, cá biệt. Theo họ, chỉ có bến sầu, đau khổ dở dang thì tình mới đẹp:
-
Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề,
Đời
chỉ đẹp những khi còn dang dở
Thơ
viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,
Cho
nghìn sau... lơ lửng... với nghìn xưa...
(Ngập
ngừng - Hồ Dzếnh)
-
Thuyền yêu không ghé bến sầu
Như
đêm thiếu phụ lên lầu không trăng.
(Một
mùa trăng - Lưu Trọng Lư)
Điều đáng quý là buồn thương nhưng chưa bao giờ các nhà Thơ mới
mất đi tinh thần dân tộc. Cái tôi trữ tình Thơ mới đã biết lấy "bi kịch"
cuộc đời để "gửi cả vào Tiếng Việt". "Họ dồn tình yêu quê hương
trong tình yêu Tiếng Việt" (Hoài Thanh). Sự phân hóa của cái tôi trữ tình
giai đoạn cuối đã đẩy thơ Việt bước vào địa hạt tượng trưng, siêu thực - một
con đường phát triển của quá trình thơ Việt Nam gia nhập vào qũy đạo chung của
văn học thế giới.
Nhìn tổng thể, bước vận động của cái tôi trữ tình trong Thơ mới
1932-1945 là một bước đi không ngưng nghỉ, một bước đi mau lẹ và biến chuyển
liên tục. Kiểu nhà thơ của Thơ mới 1932- 1945 vừa ra đời đã vụt lớn, khẳng định,
và phân hóa. Cái tôi trữ tình buổi đầu (trong vai trò kiểu nhà Thơ mới) có công
phá vỡ thành trì của hệ thống thi pháp trung đại, tiếp thu phương Tây, mở ra những
hình thức biểu đạt cảm xúc mới của con người cá nhân tự do. Cái tôi trữ tình
giai đoạn trưởng thành có công gạn đục khơi trong, vừa khẳng định mình vừa
chuyên môn hóa cao hơn "nghề thi sĩ", đưa thơ đến đỉnh viên mãn của
phong trào Thơ mới. Cái tôi trữ tình thời kì phân hóa đã tìm đến các
lối rẽ ngôn ngữ mới, đưa thơ Việt Nam hiện đại bước vào tượng trưng, siêu thực
- kết thúc một chặng đường lịch sử thi ca độc đáo trong tiến trình hiện đại hóa
văn học dân tộc.
Chương II
SỰ VẬN ĐỘNG CỦA THỂ THƠ, CÂU THƠ
Thể
thơ, câu thơ, các dạng thức của khổ thơ, bài thơ là hình thức tồn tại của cái
tôi trữ tình. Tùy theo nhu cầu thẩm mỹ và cơ tầng văn hóa tình cảm của con người
thời đại mà hình thức thể thơ, câu thơ biến đổi. Trong thơ cổ, cảm xúc được gợi
lên bằng thuộc tính khách thể nên thể thơ, câu thơ tuân theo sự quy định nghiêm
ngặt của các thể thơ định sẵn. Sự lựa chọn cũng chỉ khoanh vùng trong một số rất
ít các thể thơ Đường luật, tuân thủ những quy phạm nghiêm ngặt. Các hình thức
thơ quy phạm dường như đã phải bất lực trước những tâm trạng ngổn ngang, nhiều
chiều, nhiều biến động của con người thời mới. Trong thơ hiện đại, tính chủ
quan của cảm xúc đã mách bảo nhà thơ lựa chọn các thể thơ và câu thơ. Đó là sự
lựa chọn phù hợp điệu thức tâm hồn, phù hợp cảm xúc cần bộc lộ của kiểu nhà Thơ
mới. Trong sự vận động của các thể thơ, câu thơ, sự dao động, biến
hóa cũng rất lớn. Ở Tìm hiểu thơ, Mã Giang Lân giới thiệu 12 thể thơ: thơ hai
chữ (*), thơ ba chữ, thơ bốn chữ, thơ năm chữ, thơ sáu chữ, thơ bảy chữ, thơ tám
chữ, thơ lục bát, thơ song thất lục bát, truyện thơ - thơ dài và trường ca, một
số bài thơ có dạng đặc biệt. Trong Thơ mới, 12 thể thơ này hầu như đều
có mặt.
(*) Khi
nói về thể thơ, các nhà nghiên cứu thường có những các viết khác nhau, dùng: “ngôn”,
“từ”, “chữ”, “tiếng”. Chúng tôi trích chính văn nên giữ nguyên cách gọi đó của
các tác giả. Riêng chuyên luận dùng một cách gọi thống nhất là “tiếng”. Dùng
“ngôn” như ngũ ngôn, thất ngôn thường để chỉ Khảo
luận luật thơ trong Thơ mới, Lam Giang đi vào luật vận của thể thơ tám chữ, thơ
hai chữ và một số thể thơ “theo khuynh hướng phục cổ” [45]. Bùi Đức Tịnh khái
quát về Thơ mới nhận xét: “Các nhà Thơ mới đã dọ dẫm từ những câu thơ 2 chữ đến
những câu 12 chữ (mà có người mô phỏng thơ Pháp đã gọi là “vế”, dịch âm tiếng
Pháp pied). Nhưng rốt cuộc các thể câu đặc dụng nhứt là những câu 5 chữ, 7 chữ,
8 chữ (và đôi khi 9 chữ) [160,322]. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh cũng
cho rằng những thể thơ thất ngôn (7 tiếng), ngũ ngôn (5 tiếng), 8 tiếng là những
thể thơ phát triển của Thơ mới: “Thất ngôn và ngũ ngôn rất thịnh. Không hẳn là
cổ phong. Cổ phong ngày xưa đã thúc lại thành Đường luật. Thất ngôn và ngũ ngôn
bây giờ lại do luật Đường giãn và nới ra cho nên êm tai hơn. Cũng có lẽ vì nó
ưa vần bằng hơn vần trắc.
Ca
trù biến thành thơ tám chữ. Thể thơ này ra đời từ trước 1936, nghĩa là trước
khi ông Thao Thao đề xướng. Yêu vận mất. Phần nhiều vần liên chân. Lục bát vẫn
được trân trọng: ảnh hưởng chuyện Kiều và ca dao. Song thất lục bát cơ hồ chết,
không hiểu vì sao. Lục ngôn thể trước chỉ thấy trong Bạch vân thi tập thỉnh thoảng
cũng được dùng.
Từ
khúc mà hồi đầu người ta toan đưa làm thể chính thức của Thơ mới cũng đã chết dần
cùng với thể thơ tự do” [138,43].
Tác
giả Thơ ca Việt Nam - hình thức và thể loại cũng sớm nhận ra điều này: “Thơ mới
đã vận dụng nhiều hình thức nhưng phổ biến hơn cả là thể thơ 5 từ, 7 từ và 8 từ”
[112,289] thể thơ cổ; dùng “từ” rất khó xác định bởi từ có khi trùng,
có khi không trùng với “tiếng”; dùng “chữ” gần với “tiếng”, nhưng đặc điểm cơ bản
của thơ là âm vang nên dùng “tiếng” hợp lý hơn.
Qua
thống kê, khảo sát Thơ mới 1932-1945, ở góc nhìn sự vận động của thể thơ, câu
thơ, chúng tôi thống nhất theo các ý kiến trên, đi vào một số thể
thơ tiêu biểu mang tính đại diện, chủ lực của từng giai đoạn.
1.
SỰ CÁCH TÂN VỀ THỂ THƠ, CÂU THƠ
1.1. Bước khởi đầu của sự lựa chọn thể thơ, câu thơ
Cái tôi trữ tình cá nhân ra đời đã đưa đến những tư tưởng,
tình cảm mới. Thơ cũ với những niêm luật khắt khe không phù hợp và cũng không
thể chuyên chở được những tâm hồn mới nên tất yếu phải có sự thay đổi. Sự đổi mới
hình thức thơ của phong trào Thơ mới là một nhu cầu bức thiết, phù hợp với cơ tầng
văn hóa tình cảm của con người thời hiện đại.
Nói về hình thức của Thơ mới, Bùi Đức Tịnh lý giải: “Thơ mới
chỉ chung các loại thơ không áp dụng những quy tắc cố định của thơ cổ điển. Ban
đầu, khi phong trào mới phát khởi, Thơ mới là thơ không hạn định số chữ trong mỗi
câu, số câu trong mỗi bài, tiết điệu không nhứt định, gieo vần theo các lối được
áp dụng trong thơ Pháp. Nhưng về sau, các nhà làm Thơ mới vẫn giữ những thể 5
chữ, 8 chữ và làm cả thơ lục bát; tính cách mới về hình thức chỉ còn trong lối
phô diễn (tự nhiên như văn xuôi), trong ngôn ngữ được áp dụng và trong cách ngắt
câu (ở tất cả các phương diện này, đều biểu hiện ảnh hưởng của tiếng Pháp và
thơ Pháp)” [160,319]. Cũng theo Bùi Đức Tịnh, bài thơ được coi nguồn gốc của
Thơ mới là bài Con ve và con kiến (La Cigale et la Fourmi) được Nguyễn Văn Vĩnh
dịch từ thơ của La Fontaine theo lối gieo vần của thơ Pháp:
Ve
sầu kêu ve ve
Suốt
mùa hè.
Đến
kỳ gió bấc thổi,
Nguồn
cơn thực bối rối;
Một
miếng cũng chẳng còn;
Ruồi
bọ không một con
Vác
miệng chịu khúm núm
Sang
chị kiến hàng xóm,
Xin
cùng chị cho vay
Dăm
ba hạt qua ngày...
So với thơ cũ, bài dịch thơ này không có sự gò bó trong khuôn
phép. Chín câu 5 tiếng, có 1 câu 3 tiếng xen vào tự do. Vần được gieo là vần liền
của thơ Pháp. Thời kì này cũng có một số bài thơ được làm theo lối mới - gọi là
“thơ buông” nhưng chưa rõ nét, chưa gây được sự chú ý của dư luận. Mãi đến năm
1932, sau sự khởi phát của Phan Khôi, Thơ mới mới được “sinh hạ” và “khôn lớn”.
Dấu hiệu đầu tiên của sự đổi mới, sự tự do lựa chọn là việc bừng
nở về thể loại thơ. Vừa ra đời, các nhà Thơ mới đã làm cuộc thử nghiệm với tất cả
các thể thơ đối với loại hình đơn âm tiết, đa thanh của Tiếng Việt. Bảng thống
kê thể thơ qua một số tuyển tập Thơ mới dưới đây cho thấy rõ điều đó:
3
|
Thi nhân Việt Nam tiền chiến (Nguyễn
Tấn Long)
|
7
|
90
|
481
|
497
|
135
|
22
|
277
|
1509
|
|
2
|
Tuyển tập Tác giả -Tác phẩm Thơ mới 32
- 45
(Nxb NV,H, 2001)
|
8
|
54
|
450
|
241
|
154
|
8
|
169
|
1084
|
|
1
|
Thi nhân Việt Nam
(Hoài Thanh -Hoài Chân)
|
1
|
1
|
15
|
66
|
43
|
25
|
9
|
8
|
168
|
TT
|
Thể thơ
Tuyển tập
|
2
|
4
|
5
|
7
|
8
|
Lục bát
|
Song thất lục bát
|
Hợp thể và tự do
|
Tổng số
|
Tổng số
|
23
|
28
|
51
|
|
Hợp thể và tự do
|
9
|
11
|
20
|
39,2
|
Song thất lục bát
|
3
|
1
|
4
|
7,8
|
Lục bát
|
2
|
2
|
4
|
7,8
|
8
|
4
|
5
|
9
|
17,7
|
7
|
5
|
8
|
13
|
26
|
5
|
1
|
1
|
2
|
|
4
|
||||
2
|
||||
Thể thơ
Tập thơ
|
Tiếng sóng
Yêu đương (1934)
|
Mấy vần thơ (1935)
|
Cộng
|
Tỷ lệ (%)
|
TT
|
1
|
2
|
Tổng số
|
21
|
36
|
46
|
52
|
50
|
34
|
239
|
||||||||
Hợp thể và tự do
|
1
|
3
|
18
|
22
|
9,2
|
||||||||||
Song thất lục bát
|
|||||||||||||||
Lục bát
|
1
|
4
|
6
|
8
|
9
|
28
|
11,7
|
||||||||
8
|
32
|
11
|
17
|
60
|
25
|
||||||||||
7
|
16
|
4
|
22
|
25
|
18
|
23
|
108
|
45,1
|
|||||||
5
|
3
|
4
|
2
|
5
|
2
|
16
|
6,9
|
||||||||
4
|
2
|
1
|
2
|
5
|
2,1
|
||||||||||
2
|
|||||||||||||||
Thể thơ
Tập thơ
|
Gái quê (1936)
|
Điêu tàn (1937)
|
Thơ thơ (1938)
|
Tiếng thu (1939)
|
Lửa thiêng (1940)
|
Lỡ bước sang ngang (1940)
|
Tổng cộng
|
Tỷ lệ (%)
|
|||||||
TT
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
|||||||||
Tổng số
|
45
|
36
|
40
|
51
|
172
|
||||||||||
Hợp thể và tự do
|
1
|
8
|
1
|
10
|
5,8
|
||||||||||
Song thất lục bát
|
|||||||||||||||
Lục bát
|
1
|
5
|
3
|
9
|
5,2
|
||||||||||
8
|
44
|
3
|
10
|
21
|
78
|
45,4
|
|||||||||
7
|
24
|
21
|
25
|
70
|
40,7
|
||||||||||
5
|
3
|
1
|
4
|
2,3
|
|||||||||||
4
|
1
|
1
|
0,6
|
||||||||||||
2
|
|||||||||||||||
Thể thơ
Tập thơ
|
Bức tranh quê (1941)
|
Mây (1943)
|
Hoa niên (1945)
|
Gửi hương cho gió (1945)
|
Tổng cộng
|
Tỷ lệ
|
|||||||||
TT
|
1
|
2
|
3
|
4
|
|||||||||||
Thời
kỳ này, người làm thơ hầu như không chú ý đến thể thơ, câu thơ như trong thơ cổ.
Trong Phong hóa số 36, tháng 3 năm 1933, Nhất Linh viết, người làm thơ chỉ cần
điệu thơ, "muốn có điệu thơ, muốn cho câu văn "lướt theo ý tưởng",
nếu câu thơ bảy chữ không diễn đạt được thì dùng sáu hay năm, hay mười hai chữ,
bất cứ, miễn là sao cho tả được cái cảm của nhà viết thơ" (Phong
Hóa số 36, tháng 3 năm 1933). Bởi vậy, trong giai đoạn đầu
(1932-1935), chúng ta gặp cuộc thí nghiệm táo bạo các thể thơ với câu thơ dài
ngắn tùy ý. Ví dụ:
Câu 1, 2, 3 tiếng:
Lá
bàng
Như
lá vàng
Rụng.
Ôi!
Đìu hiu
Cánh
chiều
Đông!
(Mùa
đông - Nam Trân)
Câu thơ 3, 4 tiếng:
Gió
lọt phòng không
Tạt
hơi đồng
Lạnh
như đồng
Ngồi
tơ tưởng...
Tình
xưa phất phưởng
Ấm
dịu cõi lòng
(Viếng
phòng không - Nguyễn Thị Manh Manh)
Có khi 9, 10 đến 27 tiếng như bài Bà Lafugie nhà thám hiểm và
họa sĩ:
Người
từng lướt đi chẳng kể nắng nung, tuyết lạnh, đất nghiêng, đá vỡ.
Người
ăn vận như bạn trai, ngồi lưng tựa long chong
Mà
qua đèo, xuống hố, lên dốc, lội hào
Cùng
một bọn tùy tùng dân lạ, sấn đi giữa non núi chình
chòng...
Các
anh ơi, đó là nhà thám hiểm, lại là giống đàn bà đem cái trí, cái tài, cái gan
của mình để phục vụ khoa học...
(Nguyễn
Thị Manh Manh)
Trong thơ cổ, thể loại không nhiều, cấu trúc của nó là những
bài thơ của từng thể thơ cụ thể. Đến Thơ mới, sự phá vỡ các luật lệ khắt khe
trong cuộc thử nghiệm ban đầu đã đưa đến sự xuất hiện các bài thơ tự do, hợp thể,
thơ văn xuôi... Mục đích chính của thơ là xóa đi khuôn phép cũ, ghi lại kịp thời
những biến thái phức tạp, tế vi thoắt biến thoắt hiện của cái tôi trữ tình cá
nhân.
Lúc đầu nhiều người vẫn tưởng đổi mới thơ là đổi mới vần, luật,
thể. Có những "bài thơ" không làm theo niêm luật nào nên cho là Thơ mới
nhưng thực ra chẳng đáng là thơ. Ví dụ:
Sai
con
Mặt
bẩn sao không lau.
Con
ra lấy cái thau.
Đổ
nước, mang khăn mặt.
Mau!
(Phương Lan - Phong hóa số 26, tháng 12 năm 1932).
Thơ
Tết.
...
Cuối năm đẻ con gái
Tăng
phúc và tăng thọ.
Quanh
năm vất vả nhiều,
Tết
ăn chơi cho bõ.
Mấy
ngày tuyệt phong lưu
Rồi
kéo cày giả nợ.
(Nguyễn Lê Bông - Phong hóa số 31, tháng 1 năm 1933).
Đức
Thánh đồng đen
...
Tôi chưa hề thấy vị thánh thần nào to lớn như ngài!
Ngài
ngồi giữa gian chùa chật, cao nghiêm chễm chệ trên ngai!
Trong
cung vàng mờ tối ấy! Không ẩn hình một con muỗi!!
Da
thịt ngài đều bằng đồng. Ngài trạc năm sáu mươi tuổi.
(Nguyễn Vỹ - Phong hóa số
127, tháng 12 năm 1934).
Hoài
Thanh tâm sự rằng: "Tôi đã đọc tất cả một vạn bài thơ và trong số ấy có
non một vạn bài dở" [138,365]. Thực ra thì ở thời nào sáng tác văn học
cũng có những bài hay, bài dở. Song trong giai đoạn đầu này, nhiều người lầm tưởng
giữa cách nói nôm na với Thơ mới nên thơ dở có dấu ấn của sự thử nghiệm.
Phái Thơ mới hô hào đổi mới, "thơ ta phải mới, mới văn
thể, mới ý tưởng" (Lưu Trọng Lư, Phong Hóa số 31, tháng 1 năm 1933). Giọng
điệu thơ là giọng điệu của tiếng nói đời sống hàng ngày, không hoàn toàn bị bó
buộc bởi niêm luật cổ, song vẫn còn bóng dáng thơ truyền thống. Sự hồn nhiên,
chân thành của cái tôi mới được giải phóng lại đưa nó về gần với thơ ca dân
gian. Mã Giang Lân [74] cho rằng Lưu Trọng Lư có mối quan hệ về giọng
điệu giữa thơ ông với bài ca dân gian:
Rồi
ngày lại ngày
Sắc
màu: phai
Lá
cành: rụng
Ba
gian: trống.
Xuân
đi.
Chàng
cũng đi.
Năm
nay xuân còn trở lại
Người
xưa không thấy tới.
(Vắng
khách thơ - Lưu Trọng Lư)
…
Còn ba cái trứng nở ra ba con
Con
- diều tha
Con
- quạ bắt
Con
- cắt lôi.
Chớ
than phận khó ai ơi
Còn
da lông mọc, còn chồi nẩy cây.
(Ca dao Bình Trị Thiên).
Nguyễn Thị Manh Manh (Nguyễn Thị Kiêm) cũng tạo ra những câu
thơ giọng điệu dân ca, giọng điệu đồng dao:
Hai
cô thiếu nữ đi ra đồng
(Một
cô ở chợ, một cô ở đồng)
Hai
cô thiếu nữ đi ra đồng
Một
mảnh lụa hồng, một vốc vải đen.
(Nguyễn Thị Manh Manh - Phụ nữ Tân văn, 1933).
Lối câu văn xuôi nhịp điệu, biền ngẫu cũng được sử dụng khá
nhiều:
Hai
mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa.
Dưới
ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai mái đầu xanh,
Kề
nhau than thở:
Ôi
đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn là không đặng.
Để
đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau?
(Tình
già - Phan Khôi)
- Lần bước tiếng gieo thầm, bóng ai kia lủi thủi
Lẳng
lặng với sương gieo, im lìm cùng gió thổi,
Không tiếng, không tăm, không thưa, không hỏi.
Không
hát, không cười, không than, không tủi.
(Trên
đường đời - Lưu Trọng Lư)
Tình già và Trên đường đời là ghi lại giọng điệu của dòng cảm
xúc. Nó cũng thể hiện rõ sự tương tác thể loại giữa thơ và văn xuôi. Đến những
năm 1934 - 1935, học tập lối thơ Pháp, một số nhà thơ thể nghiệm thể thơ 12
chân (Nguyễn Vỹ, Mộng Sơn, Trương Tửu). Bài Viếng mồ lữ khách của Mộng Sơn sử dụng
câu thơ Alexandrin, 12 chữ:
Tôi đến đây,
lữ khách ơi, lòng quạnh hiu như bóng xế.
Tôi sẽ còn đến
đây với những cánh hoa đượm lệ.
Để tôi nghe
khóc hồn anh lâm ly suối chảy bên đồi
Để tôi nghe
khóc hồn anh những giọt lệ suối lòng tôi
(Viếng
mồ lữ khách - Mộng Sơn)
Có ý kiến cho rằng, thể loại của Thơ mới không có gì mới so với
thể loại thơ cũ, bởi vì các thể thơ Thơ mới dùng đều đã có trong thơ cũ. Thực
ra, đúng là ngoài những bài thơ tự do, thơ văn xuôi, thơ từ 9 tiếng trở lên,
Thơ mới đã sử dụng hầu hết các thể thơ truyền thống trong thơ ca dân gian, thơ
ca bác học, nhưng không phải là những thể thơ đi kèm với niêm luật khắt khe nữa
mà chỉ còn là những khuôn hình lỏng lẻo để ghi lại dòng cảm xúc, tâm
trạng. Điều này càng được biểu hiện rõ hơn trong sự vận động đổi mới của dòng
thơ, câu thơ, khổ thơ, bài thơ.
1.2. Sự năng động của dòng thơ, câu thơ, khổ thơ, bài thơ
Trong thơ cổ, dòng thơ có số tiếng cố định theo từng thể thơ.
Phổ biến là dòng 7 tiếng (thơ Đường luật), dòng 5 tiếng (thơ Ngũ ngôn), dòng 6,
8 (trong thơ Lục bát). Ở Thơ mới, dòng thơ bị phá vỡ về số lượng tiếng, thành
những phát ngôn dài ngắn tùy hứng.
THỐNG KÊ THỂ LOẠI DÒNG THƠ (SỐ TIẾNG/ DÒNG)
Tổng số
|
1043
|
1016
|
2059
|
|||||||||
12
|
13
|
1
|
14
|
0,7
|
||||||||
11
|
5
|
3
|
8
|
0,3
|
||||||||
10
|
21
|
25
|
46
|
2,2
|
||||||||
9
|
108
|
79
|
187
|
9,1
|
||||||||
8
|
467
|
480
|
947
|
46
|
||||||||
7
|
280
|
339
|
619
|
30,1
|
||||||||
6
|
102
|
62
|
164
|
8
|
||||||||
5
|
7
|
24
|
31
|
1,5
|
||||||||
4
|
12
|
1
|
13
|
0,6
|
||||||||
3
|
28
|
2
|
30
|
1,5
|
||||||||
2
|
||||||||||||
Tiếng
Tập thơ
|
Tiếng sóng yêu đương (1934)
|
Mấy vần thơ (1935)
|
Tổng cộng
|
Tỷ lệ
|
||||||||
TT
|
1
|
2
|
||||||||||
Tổng số
|
313
|
726
|
882
|
844
|
958
|
955
|
4678
|
|||||
12
|
||||||||||||
11
|
||||||||||||
10
|
||||||||||||
9
|
3
|
3
|
||||||||||
8
|
4
|
664
|
347
|
69
|
478
|
152
|
1714
|
36,6
|
||||
7
|
210
|
59
|
403
|
446
|
300
|
610
|
2028
|
43,4
|
||||
6
|
7
|
26
|
83
|
47
|
152
|
315
|
6,7
|
|||||
5
|
81
|
62
|
138
|
89
|
40
|
410
|
8,8
|
|||||
4
|
7
|
42
|
89
|
42
|
1
|
181
|
3,9
|
|||||
3
|
2
|
2
|
17
|
2
|
23
|
0,5
|
||||||
2
|
2
|
2
|
4
|
|||||||||
Tiếng
Tập thơ
|
Gái quê (1936)
|
Điêu tàn (1937)
|
Thơ thơ (1938)
|
Tiếng thu (1939)
|
Lửa thiêng (1940)
|
Lỡ bước sang ngang (1940)
|
Tổng cộng
|
Tỷ lệ
|
||||
TT
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
||||||
Tổng số
|
644
|
791
|
682
|
1195
|
3312
|
|
12
|
||||||
11
|
3
|
3
|
0,1
|
|||
10
|
1
|
22
|
23
|
0,7
|
||
9
|
30
|
1
|
31
|
0,9
|
||
8
|
638
|
172
|
251
|
660
|
1721
|
52
|
7
|
5
|
440
|
337
|
487
|
1269
|
38,3
|
6
|
36
|
25
|
22
|
83
|
2,5
|
|
5
|
46
|
44
|
20
|
110
|
3,3
|
|
4
|
35
|
24
|
6
|
65
|
2
|
|
3
|
7
|
7
|
0,2
|
|||
2
|
||||||
Tiếng
Tập thơ
|
Bức tranh quê (1941)
|
Mây (1943)
|
Hoa niên (1945)
|
Gửi hương cho gió (1945)
|
Tổng cộng
|
Tỷ lệ
|
TT
|
1
|
2
|
3
|
4
|
Xem
thống kê bảng 5, 6, 7 ở trên ta thấy có đủ các loại dòng thơ có số tiếng từ 2,
3, 4 đến 10, 11, 12, thậm chí có dòng dài 24, 27 tiếng (thơ Phan Khôi, Nguyễn
Thị Manh Manh). Việc đổi mới dòng thơ với những chuỗi phát ngôn kéo dài hay thu
ngắn cho phép nhà thơ diễn tả các trạng thái cảm xúc một cách dễ dàng hơn.
Đơn vị dòng thơ trong thơ cổ thường trùng với đơn vị câu thơ,
nhịp thơ vì thế cũng trung thành với khuôn sẵn có. Sang Thơ mới, nhìn tổng thể,
số dòng thơ tăng lên, số câu thơ giảm xuống và câu thơ trở nên phức tạp hơn, nhịp
thơ cũng từ đó mà linh hoạt, sống động hơn. Cái tôi trữ tình cũng thất thường
trong Thơ mới không có công ráp chữ, tỉa tót câu thơ như các cụ đồ nho ngày xưa
mà dựa vào quy luật "hơi" để tạo ra độ dài ngắn của câu thơ, bài thơ.
Chúng ta gặp ở Thơ mới trường hợp dòng lớn hơn câu:
Đường
nắng. Trong đâu tiếng nói cười
Bay
ra rộn rã ghẹo bên tai
(Trưa
- Thế Lữ)
Đã
lâu ngày. Ngõ um! Lá vàng rơi
Đón
ai vào mà ngõ kia em phải xới
(Lòng
cô phụ - Lưu Trọng Lư)
Hoặc câu lớn hơn dòng, câu thơ bắc cầu mà thơ cổ không có :
Tiếng
vi vút như khuyên van, như dìu dặt
Như
hắt hiu cùng hơi gió heo may
(Tiếng
trúc tuyệt vời - Thế Lữ)
Vì
tình duyên, ân nghĩa ở đời.
Cho
cả nỗi sầu tư đau xót nữa,
Cho
đến cả chân tình, than ôi! Tôi cũng sợ
Là
những trò giả dối của lòng ta
(Lời
mỉa mai - Thế Lữ)
Việc đổi mới kiểu ngắt câu, linh hoạt dòng thơ phần nào làm
tăng tính gợi cảm và màu sắc tự nhiên của thơ. Hình thức này ở các giai đoạn
sau của phong trào Thơ mới và thơ sau 1945 được dùng nhiều.
Cùng với sự biến hóa của câu thơ là sự biến đổi của khổ thơ.
Thơ trung đại không có khổ thơ tồn tại như một đơn vị cấu trúc của bài thơ mà
theo từng phần bố cục quy định sẵn của từng thể thơ cụ thể. Hễ thơ Đường luật
thất ngôn bát cú thì cứ 8 câu chia ra Đề - Thực - Luận - Kết. Song thất lục bát
thì cứ hai câu thất và một câu lục, một câu bát làm thành khổ. Bài thơ hát
nói thì có 11 câu không kể mưỡu đầu và mưỡu cuối. Đến Thơ mới khổ thơ đã được tồn
tại như một đơn vị cấu trúc ngôn ngữ. Một bài thơ có thể có nhiều khổ. Mỗi khổ
có số câu có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau. Bài thơ sau đây của Lưu Trọng
Lư có 6 câu được chia làm 2 khổ không đều: 4 - 2.
Hoa
lan quên nở trên giàn:
Nhớ
ai em để tiếng đàn ngừng đưa?
Tiếc
gì em nửa đường tơ!
Cho
hoa quên nở, trăng mờ quên soi...
Chờ
em đêm đã khuya rồi!
Rộn
ràng lá đổ, vàng rơi đầy thềm.
(Đã
khuya rồi - Lưu Trọng Lư)
Cấu trúc bài thơ của Thơ mới cũng không gắn với kiểu bài thơ
tứ tuyệt, bài thơ song thất lục bát... mà nó cũng đã là một đơn vị cấu trúc
ngôn ngữ loại thể nói chung. Bài thơ bây giờ cũng dài ngắn tùy "hơi'' thơ
của tác giả, tạo điều kiện cho cái tôi trữ tình bộc lộ mọi cung bậc tình cảm, mọi
trạng thái tâm trạng, mọi nhịp rung ngân tơ lòng lúc dài, lúc ngắn khác nhau.
Giai đoạn đầu là giai đoạn thử nghiệm, định hình của phong
trào Thơ mới. Theo quy luật vận động biện chứng, giai đoạn này là giai đoạn cái
mới ra đời và đấu tranh cho cái mới thắng lợi, để từ đó tạo ra thành tựu. Rõ
ràng, chúng ta không đòi hỏi gì hơn ở sự “chiến thắng” của Thơ mới. Song
rất may mắn là giai đoạn này đã định hình được một số gương mặt nổi bật như Lưu
Trọng Lư, Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp, J. LeiBa, Thái Can, Vũ Đình Liên... và
đặc biệt là Thế Lữ. Trên Phong hóa số 54 (tháng 7 năm 1933), Nhất Linh đã giành
cả một trang trân trọng giới thiệu "Nguyễn Thế Lữ - một nhà văn mới trong
làng Thơ mới": "Ông (Thế Lữ) còn ở trong cái thời kỳ "tìm
tòi", những thơ ông làm ra tuy chưa được là bao, nhưng rất có nhiều hy vọng.
Có cái linh - hồn thơ như ông, thêm được cái tài đặt câu, dùng chữ, lại đi vào
con đường Thơ mới rộng - rãi, phong - quang thì lo gì sau này ông không có cái
tương - lai - rực - rỡ; và làng Thơ mới cũng mừng rằng được một người
tiên - phong có giá - trị". Quả thật, bằng sáng tác của mình, Thế Lữ đã được
coi là người "xây nền đắp móng", người mang lại sự toàn thắng cho Thơ
Mới.
Nét đặc sắc nhất của Thế Lữ, đưa Thế Lữ lên hàng tiên phong
mà trước đó đã từng có Phan Khôi, Lưu Trọng Lư và nhiều nhà thơ khác là những
cách tân táo bạo và triệt để về thể cách, vần điệu. Giữa lúc Thơ mới và thơ cũ
đang hồi giao tranh quyết liệt, Nhớ rừng của Thế Lữ ra đời - nó như hòn đá làm
lệch đôi gánh vốn đang thăng bằng của người đi đường. Nhớ rừng mới về cả nội
dung lẫn hình thức so với thơ cũ. Nó làm cho "vần thơ Quốc ngữ có
tiếng là yếu - ớt, thế mà ở ngòi bút Ông (Thế Lữ) ra thì lại mạnh - mẽ như vậy"
(Nhất Linh, Phong Hóa số 54, tháng 7 năm 1933). Tập Mấy vần thơ của Thế Lữ ra đời
không chỉ "làm rạn vỡ những khuôn khổ ngàn năm không di dịch" mà còn
là "một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh
lệnh không thể cưỡng được" (Nhất Linh, Phong Hóa số 54, tháng 7
năm 1933). Tập Mấy vần thơ có 28 bài: thể thơ 5 tiếng 1 bài, 7 tiếng
8 bài, 8 tiếng 5 bài, lục bát 2 bài, song thất lục bát 1 bài, hợp thể
và tự do 11 bài. Thế Lữ đã huy động tất cả những thể cách đã có để thí nghiệm.
Và Thế Lữ đã thành công bởi ông luôn xông xáo đi tìm điệu mới cho thơ mình. Thế
Lữ là người đã nhanh chóng đáp ứng được thị hiếu bạn đọc lúc bấy giờ là ở mỗi
thể tài, mỗi cảm hứng thơ có một điệu riêng vừa nằm trong thể thơ vừa được biểu
đạt ở vần thơ, cách ngắt nhịp...
Đó là một tư thế mạnh mẽ, chững chạc trong câu
thơ 8 tiếng để tả tâm sự Nhớ rừng của con hổ trong vườn Bách thú:
Nhớ
cảnh sơn lâm bóng cả cây già.
Với
tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn thét núi
Với
khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta
bước chân lên dõng dạc đường hoàng.
Lượn
tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
(Nhớ
rừng - Thế Lữ)
Đó là cách ngắt nhịp bất nhất, âm vực cao thấp không đều để tả
tiếng trúc tuyệt vời uyển chuyển gợi những ấn tượng biến đổi bằng thể thơ tự do
hợp thể:
Tiếng
địch thổi đâu đây
Cớ
sao mà réo rắt?
Lơ
lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt
Mây
bay... gió quyến, mây bay.
(Tiếng
trúc tuyệt vời - Thế Lữ)
Thể thơ lục bát vốn đã định hình từ xưa đến Thế Lữ bỗng thoắt
mới lạ:
Trời
cao xanh ngắt - ô kìa!
Hai
con hạc trắng bay về bồng lai.
(Tiếng
sáo Thiên thai - Thế Lữ)
Có lẽ Thế Lữ là người đầu tiên trong phong trào Thơ mới đem đến
cho thơ lục bát lối thơ vắt dòng theo kiểu phương Tây. Ở đây, số tiếng trong một
dòng thơ lục bát hầu như không có gì thay đổi nhưng quan hệ giữa các dòng thơ
đã đưa đến sự phá bỏ hoàn toàn khuôn mẫu cũ. Dòng trên sáu tiếng vốn là một đơn
vị cú pháp hoàn chỉnh thì nay bị chẻ làm đôi. Bốn tiếng đầu là một tổ hợp mà về
mặt cú pháp không thể chấp nhận được. Còn hai tiếng cuối ("Ô kìa") vốn
có thể đứng độc lập giải quyết trọn vẹn nghĩa ở câu trên đằng này lại hướng tới
đối tượng được nhắc đến ở câu dưới. Sự thử nghiệm táo bạo này đã đưa đến sự mới
lạ trong tư duy và cảm nhận của người đọc, tạo ra sự hấp dẫn mới mẻ trong cái
quen thuộc. Sau này, thơ lục bát hiện đại đã tiếp tục sử dụng trở thành hiện tượng
thi pháp phổ biến.
Nét đặc sắc thứ hai ở Thế Lữ là sự mới lạ trong cảm xúc về tự
nhiên và không gian vũ trụ "dung chứa" cái tôi cá nhân buổi đầu. Vừa
mới bước sang Thơ mới nhưng thiên nhiên trong thơ Thế Lữ không hề có những điển
tích, những sáo ngữ, những niêm luật, những hình ảnh quen thuộc cũ. Cảnh sắc
trong thơ Thế Lữ thường trong sáng, trẻ trung. Tác giả thường hay nói đến bình
minh, mùa xuân. Đó là niềm vui của cái tôi được cởi trói, được tự do nhìn ngắm
đất trời bằng tâm hồn thoáng rộng của mình. Thế giới đơn sơ, hoang dã với lá
gai cỏ sắc, bóng cả cây già, những thảo hoa không tên không tuổi luôn chứa đựng
rung cảm của một hồn thơ có nhiều cảm nhận tinh tế của "cây bút muôn
màu", "cây đàn muôn điệu". Không gian vũ trụ mà Thế Lữ thường nhắc
tới là cõi tiên. Đó là một "cõi đẹp" có cái hư ảo và cái thực tại
liên hệ với nhau, gắn kết với nhau bằng tình yêu mang sắc thái riêng trong thế
giới nghệ thuật của thi nhân. Ở cõi tiên, Thế Lữ cũng gửi vào đó cái sầu mộng,
cái buồn như tâm trạng chung của cả một thế hệ đương thời. Song cái
sầu đó là sầu vương, cái buồn đó man mác, không ảo não bi thiết như các thi sĩ
giai đoạn sau.
Nếu sau này, Xuân Diệu nhập cuộc hẳn vào cuộc đời, thì ngược
lại Thế Lữ chỉ " ... đi bên cạnh cuộc đời/ Trăm năm theo dõi
áng mây trôi". Về nghệ thuật, thơ Thế Lữ giai đoạn đầu cũng chưa thật hàm
súc, yếu tố "xâm lăng" của văn xuôi còn quá nhiều. Nhiều câu thơ tác
giả trải ra quá gây rườm rà:
Tôi
muốn sống cuộc đời thi sĩ, để
Uống
say nồng, nhưng chỉ thấy chua cay.
(Lựa
tiếng đàn - Thế Lữ)
Câu thơ trên thêm chữ "để" không cần thiết. Không
có nó câu thơ sẽ lọn nghĩa, mạch lạc hơn.
Đầu năm 1936, tổng kết giai đoạn đầu của phong trào Thơ mới, Lê
Tràng Kiều đề nghị nên xóa bỏ hai chữ “Thơ mới” vì “hai chữ Thơ mới là biểu hiện
một cuộc cách mạng đương bồng bột” mà “Cuộc cách mạng về thi ca ngày nay đã yên
lặng như mặt nước hồ thu” [138,21]. Ý kiến trên cơ bản đã đặt dấu chấm cho thời
kì thử nghiệm của Thơ mới, để từ đó Thơ mới bước vào giai đoạn khẳng
định và cực thịnh.
2. Quá trình HOÀN THIỆN CÁC THỂ THƠ, CÂU THƠ
Cuộc tranh luận Thơ cũ - Thơ mới lắng xuống, Thơ mới bước vào
giai đoạn thứ hai: 1936- 1940 (tất nhiên ranh giới giữa các giai đoạn
là tương đối). Giai đoạn này các nhà thơ mới chú công đáng kể cho việc học hỏi
kinh nghiệm cả ở thơ cũ, thơ nước ngoài, đầu tư tìm tòi và sáng tạo.
Sau giai đoạn thử nghiệm, những thể thơ có dòng thơ 9, 10 tiếng
trở lên, lối thơ 12 chân của Pháp không hợp với tiếng Việt, dàn trải, nặng nề hầu
như không còn được sử dụng. Xem thống kê bảng 5 và bảng 6 (trang 87, 88) chúng
ta thấy: nếu ở giai đoạn trước, trong 2059 dòng của 2 tập thơ tiêu biểu có 245
dòng loại 9 đến 12 tiếng, thì giờ đây, trong 4678 dòng của 6 tập thơ tiêu biểu
thời điểm này chỉ có 3 dòng loại 9 tiếng (trong Điêu tàn của Chế Lan Viên). Loại
dòng 10, 11, 12 tiếng không còn. Loại dòng thơ dưới 5 tiếng có sử dụng nhưng tỉ
lệ đã giảm hơn trước. Trái lại, loại dòng thơ 5 tiếng, 7 tiếng, 8 tiếng và 6, 8
trong thơ lục bát được dùng nhiều. Nghĩa là các nhà Thơ mới trong giai đoạn này
có xu hướng trở về để học tập, cách tân các thể thơ truyền thống.
Thể thơ 5, 7, 8 tiếng và lục bát đạt tính ổn định cao "tạo
cho thơ Việt Nam ở giai đoạn này một phẩm chất cổ điển" ("cổ điển"
với nghĩa hoàn hảo về thể loại - Nguyễn Bá Thành) [149,324].
2.1. Từ thể thất ngôn trong thơ cũ đến thể thơ 7 tiếng trong
Thơ mới
Trong thơ cổ điển, câu thơ 7 tiếng xuất hiện ở thể thất ngôn,
cổ phong, ở thể Đường luật và thể song thất lục bát. Đến Thơ mới, thể thất ngôn
bát cú Đường luật có đổi mới về đường lối và ý nhưng vì quá gò bó nên chỉ xuất
hiện ở Quách Tấn với tác phẩm Một tấm lòng và Mùa cổ điển. Thể song
thất lục bát giai đoạn 1932 - 1935 trong tập Tiếng sóng yêu đương (Huy Thông)
và Mấy vần thơ (Thế Lữ) có 4 bài. Giai đoạn 1936 - 1940, trong cả 6 tập thơ
tiêu biểu chúng tôi thống kê không có bài nào, không hiểu vì sao.
Thể thất ngôn được nâng lên qua những sự cách tân về khổ
thơ, vần điệu. Việc Thơ mới tìm về, cách tân thể thơ 7 tiếng "là sự hòa giải
tỉnh táo của ý thức thể loại" [5,36]. Đây là xu hướng tiếp thu quá khứ để
phản ánh chân thực con người thời đại, thể hiện dạng thức mới theo quan điểm thẩm
mĩ đương thời. Sự vận động này là sự vận động kết hợp giữa yếu tố truyền thống
với yếu tố tiếp nhận mới từ phương Tây để đưa đến sự hoàn chỉnh thể loại. Hệ thống
thơ Đường luật với những niêm luật chặt chẽ không còn phù hợp với cái tôi trữ
tình tiểu tư sản phương Tây, song thơ Đường luật vốn biểu trưng cho cái đẹp hài
hòa, cân đối, phù hợp quan niệm thẩm mỹ của dân tộc lại dễ thích ứng
với con người cá nhân vốn tiềm tàng các cung bậc tâm trạng phức tạp nên thể thơ
7 tiếng được các nhà Thơ mới ưa dùng.
Thời kỳ đầu, một vài thi sĩ sử dụng kiểu niêm luật cũ để biểu
đạt tình ý mới (Hàn Mặc Tử, Thái Can, J. LeiBa... một bài thơ gồm nhiều khổ, mỗi
khổ gần với một bài thơ Đường luật), nhưng không thành. Sự cách tân đã nhanh
chóng đưa thể thơ 7 tiếng thành phổ thông, phổ biến. Khác với các loại thơ cổ,
câu 7 trong Thơ mới gần như là câu thơ tự do, không còn bị ràng buộc chặt chẽ về
niêm luật. So sánh:
Người
ta bằng mặt, chẳng bằng lòng
Đo
đắn cho hay sự sá phòng
Lưỡi
thế ngẫm xem mềm tựa lạt
Miệng
người toan lại sắc như chông
(Thơ nôm, Bài 127 - Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Này
lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say
người như rươụ tối tân hôn
Như
hương thấm tận qua xương tủy
Âm
điệu thần tiên thấm tận hồn
(Huyền
diệu - Xuân Diệu)
Rõ ràng, hai khổ thơ trên tuy cùng khuôn hình 7 tiếng nhưng
nhịp điệu, dòng cảm xúc khác nhau hoàn toàn. Ở Thơ mới có khi thi sĩ còn dùng
toàn thanh bằng, cách ngắt nhịp, từ ngữ mới lạ để diễn tả nỗi buồn triền miên
kéo dài:
Lam
nhung ô! màu lưng chừng trời;
Xanh
nhung ô! màu phơi nơi nơi.
Vàng
phai nằm im ôm non gầy;
Chim
yên co mình nương xương cây.
(Hoàng
hoa - Bích Khê)
Hoặc có khi khổ thơ toàn thanh trắc, thể hiện sự trúc trắc của
tình cảm:
Lắng
tiếng gió suối thấy tiếng khóc
Một
bụng một dạ một nặng nhọc
Ảo
tưởng chỉ để khổ để tủi
Nghĩ
mãi, gỡ mãi lỗi vẫn lỗi
(Tình
hoài - Lê Ta)
Thể thơ 7 tiếng không hạn định về số dòng, số câu nhưng thường
4 dòng lập thành một khổ do cách gieo vần của Thơ mới tạo thành. Ở Thế Lữ chúng
ta gặp bài thơ 9 khổ 36 dòng (Giây phút chạnh lòng), 7 khổ 28 dòng (Vẻ đẹp
thoáng qua). Về sau, ngoài thể Hành (Thâm Tâm - Tống biệt hành,...) phần nhiều
thể thơ 7 tiếng ổn định ở 4 khổ 16 dòng (như Huy Cận Tràng Giang, Nguyễn Bính
Cô hái mơ, Tế Hanh Vu vơ,...). Thể thơ 7 tiếng trong Thơ mới có nhiều điểm gần
gũi với Sonnet phương Tây. Ta thường thấy điều đó ở thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Huy Cận... So sánh Tràng Giang của Huy Cận với Thu ca của Baudelaire
thấy hoàn toàn giống nhau về bố cục. Trong Thơ mới, thể thơ 7 tiếng
giai đoạn này đã đạt đến độ hoàn hảo, tạo ra được nhiều kiệt tác. Trong cuốn Một
thời đại trong thi ca, hội đồng biên tập sách đã tuyển chọn 18 bài thơ hay,
trong đó có 7 bài thuộc thể thơ 7 tiếng: Nguyệt cầm (Xuân Diệu), Tràng Giang
(Huy Cận), Đây thôn Vỹ Dạ (Hàn Mặc Tử), Thu (Chế Lan Viên), Mưa xuân (Nguyễn
Bính), Tống biệt hành (Thâm Tâm), Hai sắc hoa tigôn (T.T.K.H) [39,255 - 256].
2.2. Sự biến đổi của thể thơ 8 tiếng
Thể thơ 8 tiếng chiếm tỉ lệ khá lớn trong Thơ mới. Ở
Thi nhân Việt Nam có 41/ 168 bài, ít hơn thể 7 tiếng 27 bài. Ở tuyển tập Thơ mới
1932 -1945, Tác giả tác phẩm có 239/1084 bài, ít hơn thể 7 tiếng 213
bài. Nhưng ở Việt Nam thi nhân tiền chiến có tới 495/14593, nhiều hơn thể 7 tiếng
12 bài, (Xem thống kê bảng 1). Điều đó chứng tỏ càng nới rộng đường biên sự tuyển
chọn, thể thơ 8 tiếng càng chiếm tỉ lệ cao.
Các
nhà nghiên cứu từ trước đến nay như Hoài Thanh, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Phạm
Thế Ngũ, Lê Đình Kỵ... đều xem thể thơ 8 tiếng là một sáng tạo độc đáo của Thơ
mới và đều có nhận xét chung là thơ 8 tiếng thoát thai từ Hát nói. Năm 1992,
khi Giới thuyết Thơ mới, Văn Tâm cho rằng kiểu câu 8 như Thơ mới đã từng có
trong "các đoạn nói sử, nói lệch, nói đếm, nói hạnh trong chèo"
[11,168]. Năm 2001 trong bài Thể 8 tiếng trong thơ Việt Nam Lê Tiến Dũng viết
"Thật ra, thơ 8 tiếng đã từng tồn tại trước phong trào Thơ mới không chỉ ở
dạng câu như trong ca trù, hay ở "các đoạn nói sử, nói lệch, nói đếm, nói
hạnh trong chèo" mà đã có xuất hiện ở dạng bài hoàn chỉnh" [94,168].
Lê Tiến Dũng đã chứng minh bằng số liệu trong Phan Bội Châu toàn tập (tập 5) với
56 bài 8 tiếng. Nhưng cuối cùng, ông kết luận "Do vậy chúng ta cho rằng
câu 8 loại này là do hai câu 4 tiếng ghép lại chứ không phải câu 8 tiếng kiểu
như trong thơ mới" [94,169]. Ý kiến đó lại càng chứng minh sự sáng tạo của
thể 8 tiếng trong Thơ mới và sự tiếp thu từ Hát nói.
Trước hết, thể 8 tiếng trong Thơ mới có sự tiếp thu tiết điệu
Hát nói. Hát nói thường được ngắt làm 3 tiết điệu với khuôn nhịp 3/2/3 hoặc
3/3/2 hoặc có thể rút gọn lại là nhịp 3/5 thì Thơ mới cũng thế. Ví dụ:
Một buổi trưa/ không biết/ ở thời nào (3/2/3)
Như buổi trưa/ nhè nhẹ/ trong ca dao (3/2/3)
Có cu gáy/ có bướm vàng nữa chứ (3/5 hoặc 3/3/2)
Mà đôi lứa/ đứng bên vườn/ tình tự (3/3/2)
(Đi
giữa đường thơm - Huy Cận)
Chúng ta cũng gặp ở Thơ mới luật bằng trắc và cách gieo vần của
Hát nói. Ví dụ:
Vàng
đẹp quá (t) giăng tơ (b) và xối chỉ (t)
Trời
mênh mông (b) nên rất đỗi (t) nhớ nhung (b)
Chiều
buồn buồn (b) giữa hương sắc (t) tưng bừng (b)
Như
nắng xế (t) nằm trong vườn (b) mờ thủy (t)
(Hòa
điệu - Huy Cận)
Em
sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo.
Trời
đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da.
Người
giai nhân bến đợi dưới cây già,
Tình
du khách thuyền qua không buộc chặt.
Lời
kỹ nữ đã vỡ vì nước mắt.
(Lời
kỹ nữ - Xuân Diệu)
Không chỉ tiếp thu từ Hát nói, thể 8 tiếng trong Thơ mới còn
tiếp thu sáng tạo nguồn ảnh hưởng của thơ phương Tây. Nhiều bài thơ thể 8 tiếng
của Thơ mới phỏng theo cách gieo vần của thơ Pháp như vần liền, vần gián cách,
vần ôm, vần hỗn hợp...
Làng
tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước
bao vây cách biển nửa ngày sông
Khi
trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân
trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Chiếc
thuyền nhẹ băng như con tuấn mã
(Quê
hương - Tế Hanh)
Tiếng
ve ran trong bóng cây râm mát
Giọng
chim khuyên ca ánh sáng mặt trời
Gió
ngừng reo trên hồ xa rào rạt
Mùa
xuân còn, hết? Khách đa tình ơi!
(Hoài xuân - Thế Lữ)
Cấu trúc bài thơ thể 8 tiếng trong Thơ mới không có hạn định
số dòng, chia đoạn như trong Hát nói mà dài ngắn tùy ý, gần gũi cách tổ chức
bài thơ của phương Tây. Xuân Diệu ở thể này có bài 15 dòng (Yêu), có bài 63
dòng (Dối trá).
Vì sao Thơ mới lại thành công ở thể 8 tiếng? Trong Thơ mới,
thể thơ này xuất hiện muộn hơn các thể 7 tiếng, Lục bát, và khi Thơ mới ra đời
nó chưa có sẵn kinh nghiệm để sử dụng ngay. Qua giai đoạn sáng tạo, thử nghiệm,
khoảng giữa 1933 thể 8 tiếng mới xuất hiện và thành công với Nhớ rừng của Thế Lữ.
Từ đó, các nhà Thơ mới vừa sử dụng, vừa tiếp tục sáng tạo, cách tân, đến lúc
nhiều nhà Thơ mới hầu như lấy thể 8 tiếng làm thể thơ chính cho một
giai đoạn sáng tác hoặc cho cả sáng tác của mình: Điêu tàn của Chế Lan Viên có
32/36 bài, Bức tranh quê của Anh Thơ có 44/45 bài... Khác với thơ cũ, cái tôi
trữ tình Thơ mới đã trở thành một phương thức biểu hiện trữ tình. Thơ mới là
hình thức giãi bày tâm trạng, bộc lộ cái tôi, và do đó nó gặp gỡ với thể Hát
nói, dễ dàng tiếp thu Hát nói. So với thể 8 tiếng thì thể 7 tiếng khó dung nạp
nhiều cách gieo vần khác hơn. Ví dụ, bài Nhị Hồ của Xuân Diệu. Khổ 1 mở đầu bằng
lối gieo vần quen thuộc của Đường luật, khổ 2 chuyển sang vần gián cách, khổ 6,
7 lại trở về vần ôm... tạo âm điệu mới mẻ nhưng để lại cảm giác rời rạc. Thể 8
tiếng có sự phóng túng của câu, chữ, nhịp điệu linh hoạt, sử dụng vần hỗn hợp
và sự giãn nở gần văn xuôi hơn nên mở rộng được sức dung chứa cuộc sống. Từ đó,
câu thơ dễ giãi bày chất tự sự, lời kể, nên nó có khả năng thể hiện tiếng nói
sâu kín của tâm hồn con người, thích hợp với kiểu con người cá nhân thành thực,
con người tâm linh.
Các nhà Thơ mới đã phá vỡ bố cục, kết cấu, tứ thơ của
bài Hát nói để sắp xếp lại theo ý mình:
Chán
nản ư? các anh đừng than thở,
Cứ
im đi rồi bảo cho tôi hay.
Lựa
giọng buồn tôi sẽ vặn trầm giây,
Và
gọi gió, gọi thông, lên tiếng họa.
Nỗi
buồn sẽ theo mây mờ mịt tỏa,
Bạn
hữu ôi! Cất tiếng ta chung cười
-
Để cho tôi được chút vui cùng
(Lựa
tiếng đàn - Thế Lữ)
Chế Lan Viên sắp xếp bài thơ theo âm vang của tiếng trống cầm
canh trong đêm lặng ngắt, chỉ có bóng ma hời ẩn hiện dưới trăng:
Trống
cầm canh đâu đây gieo nặng trĩu
Trong
tha ma dày đặc khí u buồn
Và
vô tình, lay động những linh hồn.
(Tiếng
trống - Chế Lan Viên)
Trong phần tuyển chọn những bài thơ hay, cuốn Một thời đại
trong thi ca, thể 8 tiếng có 3 bài: Nhớ rừng (Thế Lữ), Lời kỹ nữ (Xuân Diệu),
Tiếng địch sông Ô (Huy Thông).
Sự xuất hiện và khẳng định của thể 8 tiếng đã chứng minh sự tìm
tòi, sáng tạo, nghệ thuật của các nhà Thơ mới. Từ giai đoạn đầu đến
giai đoạn cuối, thể thơ 8 tiếng được sử dụng thông dụng. Giữa nhà thơ này với
nhà thơ khác tỉ lệ có chênh lệch nhau nhưng trên mặt bằng chung, sự tăng giảm của
nó giữa các giai đoạn ít hơn thể 7 tiếng.
Đến Thơ mới, yêu cầu về vần, nhịp điệu được đặt ra
cấp thiết. Thể thơ 5 tiếng dễ làm nhưng dễ nhạt, vì số chữ ít nên cần nhiều câu
mới chuyển tải được hết một ý. Thơ lục bát nếu không cao tay thì dễ bị rơi vào
hình thái ca dao. Thơ tự do rất khó viết để vừa hay, vùa có vần, có nhịp. Bởi vậy,
thể 7 tiếng, 8 tiếng thuận lợi cho cái tôi phô diễn cảm xúc và cá tính nên được
các nhà Thơ mới dùng nhiều.
2.3. Bước đi của thể thơ 5 tiếng và thơ lục bát
So với thể thơ 7, 8 tiếng, thể 5 tiếng và lục bát có sự vận động
biến đổi nhanh hơn.
Thể thơ 5 tiếng vốn đã có trong thơ dân gian, hát dặm Nghệ
Tĩnh và các loại ngũ ngôn. Đến Thơ mới, các nhà Thơ mới đã mở rộng hơn mạch
thơ, tứ thơ cho thanh điệu nhịp nhàng, thanh thoát, bay bổng, diễn tả được tâm
hồn mới thường lâng lâng trước nỗi buồn hay cảm xúc suy tư bất chợt. Khác với
ngũ ngôn trong thơ cổ có sự quy định chặt chẽ của luật bằng trắc, vần, niêm, đối,
nhịp, thể 5 tiếng trong Thơ mới thường có âm điệu êm dịu, mát mẻ, mượt mà:
Trên
đường về nhớ đầy…
Chiều
chậm đưa chân ngày,
Tiếng
buồn vang trong
mây…
Nhớ
nhà châm điếu thuốc.
Khói
huyền bay lên cây
(Màu cây trong khói - Hồ Dzếnh)
Bài
thơ chỉ 65 tiếng mà có 45 tiếng thanh bằng, thể hiện được đúng nhịp rung nỗi buồn
man mác của lữ khách. Lối tổ chức câu thơ cũng rất mới - khổ đầu 3 dòng, khổ giữa
4 dòng, khổ cuối 6 dòng, nhịp thơ càng lúc càng gấp có tác dụng tăng dần tâm trạng,
dồn dập ý thơ như nỗi buồn càng lúc càng dâng cao, siết chặt tâm hồn lữ khách
đang cô độc giữa buổi chiều tà. Cùng ảnh hưởng cách gieo vần mới của Thơ mới
nên thể thơ 5 tiếng có lối gieo vần của từng cặp một chéo nhau, ôm nhau hoặc
gián cách nên có sự ngắt bài thơ ra thành từng khổ 4, 5 câu mà ở thơ cổ không
có. (Ông Đồ của Vũ Đình Liên, Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp...). Kết cấu bài
thơ và vần điệu của thể thơ 5 tiếng ở Thơ mới cũng đã được cách tân. Bài thơ có
thể chia thành khổ 4 câu, mỗi khổ có dáng dấp một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt,
nhiều khổ gắn với nhau trong một hơi thơ thành bài thơ dài, như Ông Đồ của Vũ
Đình Liên, Tết của Đoàn Văn Cừ, Một mùa đông (I) của Lưu Trọng Lư...; Bài thơ
cũng có thể chia khổ tự do như Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, Mầu cây trong khói của
Hồ DZếnh hoặc kéo dài liên tiếp như Tình quê của Hàn Mặc Tử.
Thể 5 tiếng nói chung được sử dụng ít, ở cả 3 giai đoạn có
nhiều tập thơ không có bài nào. Tuy nhiên, nó lại có nhiều bài thơ hay như Tiếng
thu (Lưu Trọng Lư), Ông Đồ (Vũ Đình Liên), Chùa Hương (Nguyễn Nhược Pháp) [39].
Lục bát vốn là thể thơ phù hợp yêu cầu bộc lộ tình cảm, từ ca
dao, dân ca, nay được các nhà Thơ mới tìm đến như một sự hòa điệu. Các nhà Thơ
mới đã bắt nhịp nhanh với lục bát, sáng tạo, nâng cao lên theo thi pháp hiện đại.
Sau sự thử nghiệm táo bạo có tính chất khai phá của Thế Lữ, kiểu dạng lục bát
có câu ngắt dòng, vắt dòng theo lối thơ phương Tây tiếp tục được sử dụng:
Mùa
thi sắp tới! - Em thơ!
Cái
hôn âu yếm xin chờ năm sau!
(Mùa
thi - Xuân Diệu)
Sự
đổi mới của lục bát trong Thơ mới chủ yếu theo hai hướng: khuynh hướng hiện đại
hóa và khuynh hướng trở về với ca dao. Khuynh hướng thứ nhất thể hiện chủ yếu
trong thơ Huy Cận, Thế Lữ, Xuân Diệu, Thanh Tịnh. Khuynh hướng thứ hai thể hiện
rõ nhất trong thơ Nguyễn Bính.
Hôm
nay, trời nhẹ lên cao.
Tôi
buồn không hiểu vì sao tôi buồn...
Lá
hồng rơi lặng ngõ thuôn,
Sương
trinh rơi kín tự nguồn yêu thương.
(Chiều
- Xuân Diệu)
Hướng về hiện đại, các nhà Thơ mới khai thác ưu thế nhịp điệu
nhẹ nhàng, uyển chuyển ngân vang để diễn tả những nỗi buồn mơ hồ, kéo dài, những
cảm xúc bâng khuâng thương nhớ "Mờ mờ nhân ảnh" của cái tôi trữ tình
bơ vơ, vô định:
Nắng
chia nửa bãi; Chiều rồi...
Vườn
hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu...
Tay
anh em hãy tựa đầu,
Cho
anh nghe nặng trái sầu rụng rơi...
(Ngậm ngùi - Huy Cận)
Cách
ngắt nhịp của câu thơ lục bát cũng mang nhiều dáng vẻ mới lạ: khi kéo dài ở dấu
ba chấm (...), khi thu gọn ở dấu chấm (.), khi như đối thoại, bày tỏ ở dấu chấm
than (!) hay phần đầu dấu hai chấm (:):
Sợi
buồn con nhện giăng mau,
Em
ơi! hãy ngủ... anh hầu quạt đây.
(Ngậm ngùi - Huy Cận)
Rồi
ông kết: (giọng bất bình)
-
Trời cay nghiệt thế cho đành? Thưa ông.
(Dòng dư
lệ - Nguyễn Bính)
Hướng về ca dao, Nguyễn Bính đã thành công trong việc tạo ra
thể thơ lục bát kiểu mới, mang đậm phong cách ca dao từ hình ảnh, ngôn ngữ đến
nhịp điệu và lối diễn đạt.
Nhà
em có một giàn trầu,
Nhà
anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn
Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cau
thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?
(Tương
tư - Nguyễn Bính)
Có nhiều câu thơ lục bát của Nguyễn Bính nhiều người lại ngỡ
là ca dao:
Gió
mưa là bệnh của giời
Tương
tư là bệnh của tôi yêu nàng.
(Tương
tư - Nguyễn Bính)
Hoặc Trần Huyền Trân đã đưa lối thơ bậc thang kiểu thơ thường
gặp ở Maiacôpxki vào trong thơ lục bát:
Tôi
say?
Thưa,
trẻ chưa đầy
Cái
đau nhân thế thì say nỗi gì
Đường
xa ư Cụ?
Quản
chi.
Đi
gần hạnh phúc là đi xa đường
(Với
Tản Đà - Trần Huyền Trân)
Trong đoạn thơ trên, hai câu lục mỗi câu tách thành hai dòng,
quãng ngắt ngập ngừng như để thể hiện cách ngắt quãng ngập ngừng của bầu tâm sự.
Lục bát cũng đã có mặt trong danh sách những bài Thơ mới hay
với Ngậm ngùi của Huy Cận [39]. Nhìn tổng thể cả ba giai đoạn (Xem thống kê bảng
2, 3, 4) thể thơ lục bát trong Thơ mới tuy có sự bắt nhịp nhanh nhưng tỉ lệ sử
dụng còn ít, mạch vận động qua các giai đoạn biến đổi không nhiều (Chiếm số lượng
lớn là ở Nguyễn Bính, Huy Cận, Lưu Trọng Lư).
Khác với giai đoạn thứ nhất, giai đoạn 1936 - 1940 thời kì
hưng thịnh nhất của Thơ mới, có đông đảo gương mặt nổi bật như Xuân Diệu, Chế
Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Huy Cận... Trong số đó, Hoài Thanh gọi Xuân Diệu
là "nhà Thơ mới nhất" trong các nhà Thơ mới và Thế Lữ đã phải nhường
ngôi "đệ nhất thi sĩ" cho Xuân Diệu.
Trong
Thơ thơ và Gửi hương cho gió, Xuân Diệu sử dụng hầu hết các thể thơ
có trong phong trào Thơ mới, tuy nhiên tỉ lệ không đều và mức độ sử
dụng mỗi tập một khác. Xuân Diệu sử dụng nhiều nhất là thể thơ 7, 8 tiếng. Tham
khảo Bảng thống kê thể thơ sau đây, qua Thơ Thơ và Gửi hương cho gió của Lê Tiến
Dũng [23,164] sẽ thấy rõ hơn điều đó:
Tổng cộng
|
884
|
1223
|
2107
|
|
Bát
|
17
|
41
|
1,9
|
|
Luc
|
17
|
41
|
1,9
|
|
10 tng
|
1
|
1
|
||
9
tng
|
5
|
5
|
||
8 tng
|
325
|
963
|
45,7
|
|
7 tng
|
406
|
910
|
43,1
|
|
6 tng
|
9
|
9
|
0,4
|
|
5 tng
|
60
|
82
|
3,9
|
|
4 tng
|
40
|
52
|
2,3
|
|
3 tng
|
2
|
4
|
||
2 tng
|
||||
1 tng
|
1
|
|||
Loại câu
|
Thơ Thơ
|
Gửi hương cho gió
|
Tổng cộng
|
Tỷ lệ
|
Ở Thơ thơ, thể 7 tiếng nhiều hơn thể 8 tiếng (406/325). Ở Gửi
hương cho gió, quan hệ giữa hai thể gần tương đương nhau (910/963). Sự vận động
tăng dần đó trong thơ Xuân Diệu tỉ lệ thuận với Thơ mới nói chung, chứng tỏ
Xuân Diệu là một trong những thi sĩ có công sáng tạo thể thơ 8 tiếng hiện đại ở
Thơ mới. Về câu thơ, Xuân Diệu không dùng loại câu 1, 2 tiếng và loại câu 9 tiếng
trở lên. Là nhà thơ ảnh hưởng phương Tây nhiều nhưng Xuân Diệu không chịu ảnh
hưởng lối câu thơ nhiều chân của Pháp, có lẽ ông đã rút được kinh nghiệm từ sự
không thành công của các thi sĩ đã thử nghiệm ở giai đoạn đầu để chuyển hóa sử
dụng trong các thể 7, 8 tiếng. Khi Xuân Diệu xuất hiện, điều làm người ta ngỡ
ngàng nhất là việc ông trình làng những câu thơ có vẻ quá Tây, những ý tứ vay
mượn rất Tây mà không cần “kín đáo” gì cả. Những cách nói:
Hơn
một loài hoa đã rụng cành
Trong
vườn sắc đỏ rũa màu xanh...
Non
xa khởi sự nhạt sương mờ...
(Đây
mùa thu tới - Xuân Diệu)
thì chỉ có Xuân Diệu sử dụng sớm.
Nét đặc sắc nhất của Thế Lữ, đưa Thế Lữ lên hàng tiên phong
mà trước đó đã từng có Phan Khôi, Lưu Trọng Lư và nhiều nhà thơ khác là những
cách tân táo bạo và triệt để về thể cách, vần điệu. Giữa lúc Thơ mới và thơ cũ
đang hồi giao tranh quyết liệt, Nhớ rừng của Thế Lữ ra đời - nó như hòn đá làm
lệch đôi gánh vốn đang thăng bằng của người đi đường. Nhớ rừng mới về cả nội
dung lẫn hình thức so với thơ cũ. Nó làm cho "vần thơ Quốc ngữ có
tiếng là yếu - ớt, thế mà ở ngòi bút Ông (Thế Lữ) ra thì lại mạnh - mẽ như vậy"
(Nhất Linh, Phong Hóa số 54, tháng 7 năm 1933). Tập Mấy vần thơ của Thế Lữ ra đời
không chỉ "làm rạn vỡ những khuôn khổ ngàn năm không di dịch" mà còn
là "một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh
lệnh không thể cưỡng được" (Nhất Linh, Phong Hóa số 54, tháng 7
năm 1933). Tập Mấy vần thơ có 28 bài: thể thơ 5 tiếng 1 bài, 7 tiếng
8 bài, 8 tiếng 5 bài, lục bát 2 bài, song thất lục bát 1 bài, hợp thể
và tự do 11 bài. Thế Lữ đã huy động tất cả những thể cách đã có để thí nghiệm.
Và Thế Lữ đã thành công bởi ông luôn xông xáo đi tìm điệu mới cho thơ mình. Thế
Lữ là người đã nhanh chóng đáp ứng được thị hiếu bạn đọc lúc bấy giờ là ở mỗi
thể tài, mỗi cảm hứng thơ có một điệu riêng vừa nằm trong thể thơ vừa được biểu
đạt ở vần thơ, cách ngắt nhịp...
Đó là một tư thế mạnh mẽ, chững chạc trong câu
thơ 8 tiếng để tả tâm sự Nhớ rừng của con hổ trong vườn Bách thú:
Nhớ
cảnh sơn lâm bóng cả cây già.
Với
tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn thét núi
Với
khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta
bước chân lên dõng dạc đường hoàng.
Lượn
tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
(Nhớ
rừng - Thế Lữ)
Đó là cách ngắt nhịp bất nhất, âm vực cao thấp không đều để tả
tiếng trúc tuyệt vời uyển chuyển gợi những ấn tượng biến đổi bằng thể thơ tự do
hợp thể:
Tiếng
địch thổi đâu đây
Cớ
sao mà réo rắt?
Lơ
lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt
Mây
bay... gió quyến, mây bay.
(Tiếng
trúc tuyệt vời - Thế Lữ)
Thể thơ lục bát vốn đã định hình từ xưa đến Thế Lữ bỗng thoắt
mới lạ:
Trời
cao xanh ngắt - ô kìa!
Hai
con hạc trắng bay về bồng lai.
(Tiếng
sáo Thiên thai - Thế Lữ)
Có lẽ Thế Lữ là người đầu tiên trong phong trào Thơ mới đem đến
cho thơ lục bát lối thơ vắt dòng theo kiểu phương Tây. Ở đây, số tiếng trong một
dòng thơ lục bát hầu như không có gì thay đổi nhưng quan hệ giữa các dòng thơ
đã đưa đến sự phá bỏ hoàn toàn khuôn mẫu cũ. Dòng trên sáu tiếng vốn là một đơn
vị cú pháp hoàn chỉnh thì nay bị chẻ làm đôi. Bốn tiếng đầu là một tổ hợp mà về
mặt cú pháp không thể chấp nhận được. Còn hai tiếng cuối ("Ô kìa") vốn
có thể đứng độc lập giải quyết trọn vẹn nghĩa ở câu trên đằng này lại hướng tới
đối tượng được nhắc đến ở câu dưới. Sự thử nghiệm táo bạo này đã đưa đến sự mới
lạ trong tư duy và cảm nhận của người đọc, tạo ra sự hấp dẫn mới mẻ trong cái
quen thuộc. Sau này, thơ lục bát hiện đại đã tiếp tục sử dụng trở thành hiện tượng
thi pháp phổ biến.
Nét đặc sắc thứ hai ở Thế Lữ là sự mới lạ trong cảm xúc về tự
nhiên và không gian vũ trụ "dung chứa" cái tôi cá nhân buổi đầu. Vừa
mới bước sang Thơ mới nhưng thiên nhiên trong thơ Thế Lữ không hề có những điển
tích, những sáo ngữ, những niêm luật, những hình ảnh quen thuộc cũ. Cảnh sắc
trong thơ Thế Lữ thường trong sáng, trẻ trung. Tác giả thường hay nói đến bình
minh, mùa xuân. Đó là niềm vui của cái tôi được cởi trói, được tự do nhìn ngắm
đất trời bằng tâm hồn thoáng rộng của mình. Thế giới đơn sơ, hoang dã với lá
gai cỏ sắc, bóng cả cây già, những thảo hoa không tên không tuổi luôn chứa đựng
rung cảm của một hồn thơ có nhiều cảm nhận tinh tế của "cây bút muôn
màu", "cây đàn muôn điệu". Không gian vũ trụ mà Thế Lữ thường nhắc
tới là cõi tiên. Đó là một "cõi đẹp" có cái hư ảo và cái thực tại
liên hệ với nhau, gắn kết với nhau bằng tình yêu mang sắc thái riêng trong thế
giới nghệ thuật của thi nhân. Ở cõi tiên, Thế Lữ cũng gửi vào đó cái sầu mộng,
cái buồn như tâm trạng chung của cả một thế hệ đương thời. Song cái
sầu đó là sầu vương, cái buồn đó man mác, không ảo não bi thiết như các thi sĩ
giai đoạn sau.
Nếu sau này, Xuân Diệu nhập cuộc hẳn vào cuộc đời, thì ngược
lại Thế Lữ chỉ "... đi bên cạnh cuộc đời/ Trăm năm theo dõi
áng mây trôi". Về nghệ thuật, thơ Thế Lữ giai đoạn đầu cũng chưa thật hàm
súc, yếu tố "xâm lăng" của văn xuôi còn quá nhiều. Nhiều câu thơ tác
giả trải ra quá gây rườm rà:
Tôi
muốn sống cuộc đời thi sĩ, để
Uống
say nồng, nhưng chỉ thấy chua cay.
(Lựa
tiếng đàn - Thế Lữ)
Câu thơ trên thêm chữ "để" không cần thiết. Không
có nó câu thơ sẽ lọn nghĩa, mạch lạc hơn.
Đầu năm 1936, tổng kết giai đoạn đầu của phong trào Thơ mới, Lê
Tràng Kiều đề nghị nên xóa bỏ hai chữ “Thơ mới” vì “hai chữ Thơ mới là biểu hiện
một cuộc cách mạng đương bồng bột” mà “Cuộc cách mạng về thi ca ngày nay đã yên
lặng như mặt nước hồ thu” [138,21]. Ý kiến trên cơ bản đã đặt dấu chấm cho thời
kì thử nghiệm của Thơ mới, để từ đó Thơ mới bước vào giai đoạn khẳng
định và cực thịnh.
2. Quá trình HOÀN THIỆN CÁC THỂ THƠ, CÂU THƠ
Cuộc tranh luận Thơ cũ - Thơ mới lắng xuống, Thơ mới bước vào
giai đoạn thứ hai: 1936- 1940 (tất nhiên ranh giới giữa các giai đoạn
là tương đối). Giai đoạn này các nhà thơ mới chú công đáng kể cho việc học hỏi
kinh nghiệm cả ở thơ cũ, thơ nước ngoài, đầu tư tìm tòi và sáng tạo.
Sau giai đoạn thử nghiệm, những thể thơ có dòng thơ 9, 10 tiếng
trở lên, lối thơ 12 chân của Pháp không hợp với tiếng Việt, dàn trải, nặng nề hầu
như không còn được sử dụng. Xem thống kê bảng 5 và bảng 6 (trang 87, 88) chúng
ta thấy: nếu ở giai đoạn trước, trong 2059 dòng của 2 tập thơ tiêu biểu có 245
dòng loại 9 đến 12 tiếng, thì giờ đây, trong 4678 dòng của 6 tập thơ tiêu biểu
thời điểm này chỉ có 3 dòng loại 9 tiếng (trong Điêu tàn của Chế Lan Viên). Loại
dòng 10, 11, 12 tiếng không còn. Loại dòng thơ dưới 5 tiếng có sử dụng nhưng tỉ
lệ đã giảm hơn trước. Trái lại, loại dòng thơ 5 tiếng, 7 tiếng, 8 tiếng và 6, 8
trong thơ lục bát được dùng nhiều. Nghĩa là các nhà Thơ mới trong giai đoạn này
có xu hướng trở về để học tập, cách tân các thể thơ truyền thống.
Thể thơ 5, 7, 8 tiếng và lục bát đạt tính ổn định cao "tạo
cho thơ Việt Nam ở giai đoạn này một phẩm chất cổ điển" ("cổ điển"
với nghĩa hoàn hảo về thể loại - Nguyễn Bá Thành ) [149,324].
2.1. Từ thể thất ngôn trong thơ cũ đến thể thơ 7 tiếng trong
Thơ mới
Trong thơ cổ điển, câu thơ 7 tiếng xuất hiện ở thể thất ngôn,
cổ phong, ở thể Đường luật và thể song thất lục bát. Đến Thơ mới, thể thất ngôn
bát cú Đường luật có đổi mới về đường lối và ý nhưng vì quá gò bó nên chỉ xuất
hiện ở Quách Tấn với tác phẩm Một tấm lòng và Mùa cổ điển. Thể song
thất lục bát giai đoạn 1932 - 1935 trong tập Tiếng sóng yêu đương (Huy Thông)
và Mấy vần thơ (Thế Lữ) có 4 bài. Giai đoạn 1936 - 1940, trong cả 6 tập thơ
tiêu biểu chúng tôi thống kê không có bài nào, không hiểu vì sao.
Thể thất ngôn được nâng lên qua những sự cách tân về khổ
thơ, vần điệu. Việc Thơ mới tìm về, cách tân thể thơ 7 tiếng "là sự hòa giải
tỉnh táo của ý thức thể loại" [5,36]. Đây là xu hướng tiếp thu quá khứ để
phản ánh chân thực con người thời đại, thể hiện dạng thức mới theo quan điểm thẩm
mĩ đương thời. Sự vận động này là sự vận động kết hợp giữa yếu tố truyền thống
với yếu tố tiếp nhận mới từ phương Tây để đưa đến sự hoàn chỉnh thể loại. Hệ thống
thơ Đường luật với những niêm luật chặt chẽ không còn phù hợp với cái tôi trữ
tình tiểu tư sản phương Tây, song thơ Đường luật vốn biểu trưng cho cái đẹp hài
hòa, cân đối, phù hợp quan niệm thẩm mĩ của dân tộc lại dễ thích ứng
với con người cá nhân vốn tiềm tàng các cung bậc tâm trạng phức tạp nên thể thơ
7 tiếng được các nhà Thơ mới ưa dùng.
Thời kỳ đầu, một vài thi sĩ sử dụng kiểu niêm luật cũ để biểu
đạt tình ý mới (Hàn Mặc Tử, Thái Can, J. LeiBa... một bài thơ gồm nhiều khổ, mỗi
khổ gần với một bài thơ Đường luật), nhưng không thành. Sự cách tân đã nhanh
chóng đưa thể thơ 7 tiếng thành phổ thông, phổ biến. Khác với các loại thơ cổ,
câu 7 trong Thơ mới gần như là câu thơ tự do, không còn bị ràng buộc chặt chẽ về
niêm luật. So sánh:
Người
ta bằng mặt, chẳng bằng lòng
Đo
đắn cho hay sự sá phòng
Lưỡi
thế ngẫm xem mềm tựa lạt
Miệng
người toan lại sắc như chông
(Thơ nôm, Bài 127 - Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Này
lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say
người như rươụ tối tân hôn
Như
hương thấm tận qua xương tủy
Âm
điệu thần tiên thấm tận hồn
(Huyền
diệu - Xuân Diệu)
Rõ ràng, hai khổ thơ trên tuy cùng khuôn hình 7 tiếng nhưng
nhịp điệu, dòng cảm xúc khác nhau hoàn toàn. Ở Thơ mới có khi thi sĩ còn dùng
toàn thanh bằng, cách ngắt nhịp, từ ngữ mới lạ để diễn tả nỗi buồn triền miên
kéo dài:
Lam
nhung ô! màu lưng chừng trời;
Xanh
nhung ô! màu phơi nơi nơi.
Vàng
phai nằm im ôm non gầy;
Chim
yên co mình nương xương cây.
(Hoàng
hoa - Bích Khê)
Hoặc có khi khổ thơ toàn thanh trắc, thể hiện sự trúc trắc của
tình cảm:
Lắng
tiếng gió suối thấy tiếng khóc
Một
bụng một dạ một nặng nhọc
Ảo
tưởng chỉ để khổ để tủi
Nghĩ
mãi, gỡ mãi lỗi vẫn lỗi
(Tình
hoài - Lê Ta)
Thể thơ 7 tiếng không hạn định về số dòng, số câu nhưng thường
4 dòng lập thành một khổ do cách gieo vần của Thơ mới tạo thành. Ở Thế Lữ chúng
ta gặp bài thơ 9 khổ 36 dòng (Giây phút chạnh lòng), 7 khổ 28 dòng (Vẻ đẹp
thoáng qua). Về sau, ngoài thể Hành (Thâm Tâm - Tống biệt hành,...) phần nhiều
thể thơ 7 tiếng ổn định ở 4 khổ 16 dòng (như Huy Cận Tràng Giang, Nguyễn Bính
Cô hái mơ, Tế Hanh Vu vơ,...). Thể thơ 7 tiếng trong Thơ mới có nhiều điểm gần
gũi với Sonnet phương Tây. Ta thường thấy điều đó ở thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Huy Cận... So sánh Tràng Giang của Huy Cận với Thu ca của Baudelaire
thấy hoàn toàn giống nhau về bố cục. Trong Thơ mới, thể thơ 7 tiếng
giai đoạn này đã đạt đến độ hoàn hảo, tạo ra được nhiều kiệt tác. Trong cuốn Một
thời đại trong thi ca, hội đồng biên tập sách đã tuyển chọn 18 bài thơ hay,
trong đó có 7 bài thuộc thể thơ 7 tiếng: Nguyệt cầm (Xuân Diệu), Tràng Giang
(Huy Cận), Đây thôn Vỹ Dạ (Hàn Mặc Tử), Thu (Chế Lan Viên), Mưa xuân (Nguyễn
Bính), Tống biệt hành (Thâm Tâm), Hai sắc hoa tigôn (T.T.K.H) [39,255 - 256].
2.2. Sự biến đổi của thể thơ 8 tiếng
Thể thơ 8 tiếng chiếm tỉ lệ khá lớn trong Thơ mới. Ở
Thi nhân Việt Nam có 41/ 168 bài, ít hơn thể 7 tiếng 27 bài. Ở tuyển tập Thơ mới
1932 -1945, Tác giả tác phẩm có 239/1084 bài, ít hơn thể 7 tiếng 213
bài. Nhưng ở Việt Nam thi nhân tiền chiến có tới 495/14593, nhiều hơn thể 7 tiếng
12 bài, (Xem thống kê bảng 1). Điều đó chứng tỏ càng nới rộng đường biên sự tuyển
chọn, thể thơ 8 tiếng càng chiếm tỉ lệ cao.
Các
nhà nghiên cứu từ trước đến nay như Hoài Thanh, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Phạm
Thế Ngũ, Lê Đình Kỵ... đều xem thể thơ 8 tiếng là một sáng tạo độc đáo của Thơ
mới và đều có nhận xét chung là thơ 8 tiếng thoát thai từ Hát nói. Năm 1992,
khi Giới thuyết Thơ mới, Văn Tâm cho rằng kiểu câu 8 như Thơ mới đã từng có
trong "các đoạn nói sử, nói lệch, nói đếm, nói hạnh trong chèo"
[11,168]. Năm 2001 trong bài Thể 8 tiếng trong thơ Việt Nam Lê Tiến Dũng viết
"Thật ra, thơ 8 tiếng đã từng tồn tại trước phong trào Thơ mới không chỉ ở
dạng câu như trong ca trù, hay ở "các đoạn nói sử, nói lệch, nói đếm, nói
hạnh trong chèo" mà đã có xuất hiện ở dạng bài hoàn chỉnh" [94,168].
Lê Tiến Dũng đã chứng minh bằng số liệu trong Phan Bội Châu toàn tập (tập 5) với
56 bài 8 tiếng. Nhưng cuối cùng, ông kết luận "Do vậy chúng ta cho rằng
câu 8 loại này là do hai câu 4 tiếng ghép lại chứ không phải câu 8 tiếng kiểu
như trong thơ mới" [94,169]. Ý kiến đó lại càng chứng minh sự sáng tạo của
thể 8 tiếng trong Thơ mới và sự tiếp thu từ Hát nói.
Trước hết, thể 8 tiếng trong Thơ mới có sự tiếp thu tiết điệu
Hát nói. Hát nói thường được ngắt làm 3 tiết điệu với khuôn nhịp 3/2/3 hoặc
3/3/2 hoặc có thể rút gọn lại là nhịp 3/5 thì Thơ mới cũng thế. Ví dụ:
Một buổi trưa/ không biết/ ở thời nào (3/2/3)
Như buổi trưa/ nhè nhẹ/ trong ca dao (3/2/3)
Có cu gáy/ có bướm vàng nữa chứ (3/5 hoặc 3/3/2)
Mà đôi lứa/ đứng bên vườn/ tình tự (3/3/2)
(Đi
giữa đường thơm - Huy Cận)
Chúng ta cũng gặp ở Thơ mới luật bằng trắc và cách gieo vần của
Hát nói. Ví dụ:
Vàng
đẹp quá (t) giăng tơ (b) và xối chỉ (t)
Trời
mênh mông (b) nên rất đỗi (t) nhớ nhung (b)
Chiều
buồn buồn (b)giữa hương sắc (t) tưng bừng(b)
Như
nắng xế (t) nằm trong vườn (b) mờ thủy (t)
(Hòa
điệu - Huy Cận)
Em
sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo.
Trời
đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da.
Người
giai nhân bến đợi dưới cây già,
Tình
du khách thuyền qua không buộc chặt.
Lời
kỹ nữ đã vỡ vì nước mắt.
(Lời
kỹ nữ - Xuân Diệu)
Không chỉ tiếp thu từ Hát nói, thể 8 tiếng trong Thơ mới còn
tiếp thu sáng tạo nguồn ảnh hưởng của thơ phương Tây. Nhiều bài thơ thể 8 tiếng
của Thơ mới phỏng theo cách gieo vần của thơ Pháp như vần liền, vần gián cách,
vần ôm, vần hỗn hợp...
Làng
tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước
bao vây cách biển nửa ngày sông
Khi
trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân
trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Chiếc
thuyền nhẹ băng như con tuấn mã
(Quê
hương - Tế Hanh)
Tiếng
ve ran trong bóng cây râm mát
Giọng
chim khuyên ca ánh sáng mặt trời
Gió
ngừng reo trên hồ xa rào rạt
Mùa
xuân còn, hết? Khách đa tình ơi!
(Hoài xuân - Thế Lữ)
Cấu trúc bài thơ thể 8 tiếng trong Thơ mới không có hạn định
số dòng, chia đoạn như trong Hát nói mà dài ngắn tùy ý, gần gũi cách tổ chức
bài thơ của phương Tây. Xuân Diệu ở thể này có bài 15 dòng (Yêu), có bài 63
dòng (Dối trá).
Vì sao Thơ mới lại thành công ở thể 8 tiếng? Trong Thơ mới,
thể thơ này xuất hiện muộn hơn các thể 7 tiếng, Lục bát, và khi Thơ mới ra đời
nó chưa có sẵn kinh nghiệm để sử dụng ngay. Qua giai đoạn sáng tạo, thử nghiệm,
khoảng giữa 1933 thể 8 tiếng mới xuất hiện và thành công với Nhớ rừng của Thế Lữ.
Từ đó, các nhà Thơ mới vừa sử dụng, vừa tiếp tục sáng tạo, cách tân, đến lúc
nhiều nhà Thơ mới hầu như lấy thể 8 tiếng làm thể thơ chính cho một
giai đoạn sáng tác hoặc cho cả sáng tác của mình: Điêu tàn của Chế Lan Viên có
32/36 bài, Bức tranh quê của Anh Thơ có 44/45 bài... Khác với thơ cũ, cái tôi
trữ tình Thơ mới đã trở thành một phương thức biểu hiện trữ tình. Thơ mới là
hình thức giãi bày tâm trạng, bộc lộ cái tôi, và do đó nó gặp gỡ với thể Hát
nói, dễ dàng tiếp thu Hát nói. So với thể 8 tiếng thì thể 7 tiếng khó dung nạp
nhiều cách gieo vần khác hơn. Ví dụ, bài Nhị Hồ của Xuân Diệu. Khổ 1 mở đầu bằng
lối gieo vần quen thuộc của Đường luật, khổ 2 chuyển sang vần gián cách, khổ 6,
7 lại trở về vần ôm... tạo âm điệu mới mẻ nhưng để lại cảm giác rời rạc. Thể 8
tiếng có sự phóng túng của câu, chữ, nhịp điệu linh hoạt, sử dụng vần hỗn hợp
và sự giãn nở gần văn xuôi hơn nên mở rộng được sức dung chứa cuộc sống. Từ đó,
câu thơ dễ giãi bày chất tự sự, lời kể, nên nó có khả năng thể hiện tiếng nói
sâu kín của tâm hồn con người, thích hợp với kiểu con người cá nhân thành thực,
con người tâm linh.
Các nhà Thơ mới đã phá vỡ bố cục, kết cấu, tứ thơ của
bài Hát nói để sắp xếp lại theo ý mình:
Chán
nản ư? các anh đừng than thở,
Cứ
im đi rồi bảo cho tôi hay.
Lựa
giọng buồn tôi sẽ vặn trầm giây,
Và
gọi gió, gọi thông, lên tiếng họa.
Nỗi
buồn sẽ theo mây mờ mịt tỏa,
Bạn
hữu ôi! Cất tiếng ta chung cười
-
Để cho tôi được chút vui cùng
(Lựa
tiếng đàn - Thế Lữ)
Chế Lan Viên sắp xếp bài thơ theo âm vang của tiếng trống cầm
canh trong đêm lặng ngắt, chỉ có bóng ma hời ẩn hiện dưới trăng:
Trống
cầm canh đâu đây gieo nặng trĩu
Trong
tha ma dày đặc khí u buồn
Và
vô tình, lay động những linh hồn.
(Tiếng
trống - Chế Lan Viên)
Trong phần tuyển chọn những bài thơ hay, cuốn Một thời đại
trong thi ca, thể 8 tiếng có 3 bài: Nhớ rừng (Thế Lữ), Lời kỹ nữ (Xuân Diệu),
Tiếng địch sông Ô (Huy Thông).
Sự xuất hiện và khẳng định của thể 8 tiếng đã chứng minh sự tìm
tòi, sáng tạo, nghệ thuật của các nhà Thơ mới. Từ giai đoạn đầu đến
giai đoạn cuối, thể thơ 8 tiếng được sử dụng thông dụng. Giữa nhà thơ này với
nhà thơ khác tỉ lệ có chênh lệch nhau nhưng trên mặt bằng chung, sự tăng giảm của
nó giữa các giai đoạn ít hơn thể 7 tiếng.
Đến Thơ mới, yêu cầu về vần, nhịp điệu được đặt ra
cấp thiết. Thể thơ 5 tiếng dễ làm nhưng dễ nhạt, vì số chữ ít nên cần nhiều câu
mới chuyển tải được hết một ý. Thơ lục bát nếu không cao tay thì dễ bị rơi vào
hình thái ca dao. Thơ tự do rất khó viết để vừa hay, vùa có vần, có nhịp. Bởi vậy,
thể 7 tiếng, 8 tiếng thuận lợi cho cái tôi phô diễn cảm xúc và cá tính nên được
các nhà Thơ mới dùng nhiều.
2.3. Bước đi của thể thơ 5 tiếng và thơ lục bát
So với thể thơ 7, 8 tiếng, thể 5 tiếng và lục bát có sự vận động
biến đổi nhanh hơn.
Thể thơ 5 tiếng vốn đã có trong thơ dân gian, hát dặm Nghệ
Tĩnh và các loại ngũ ngôn. Đến Thơ mới, các nhà Thơ mới đã mở rộng hơn mạch
thơ, tứ thơ cho thanh điệu nhịp nhàng, thanh thoát, bay bổng, diễn tả được tâm
hồn mới thường lâng lâng trước nỗi buồn hay cảm xúc suy tư bất chợt. Khác với
ngũ ngôn trong thơ cổ có sự quy định chặt chẽ của luật bằng trắc, vần, niêm, đối,
nhịp, thể 5 tiếng trong Thơ mới thường có âm điệu êm dịu, mát mẻ, mượt mà:
Trên
đường về nhớ đầy…
Chiều
chậm đưa chân ngày,
Tiếng
buồn vang trong
mây…
Nhớ
nhà châm điếu thuốc.
Khói
huyền bay lên cây
(Màu cây trong khói - Hồ Dzếnh)
Bài
thơ chỉ 65 tiếng mà có 45 tiếng thanh bằng, thể hiện được đúng nhịp rung nỗi buồn
man mác của lữ khách. Lối tổ chức câu thơ cũng rất mới - khổ đầu 3 dòng, khổ giữa
4 dòng, khổ cuối 6 dòng, nhịp thơ càng lúc càng gấp có tác dụng tăng dần tâm trạng,
dồn dập ý thơ như nỗi buồn càng lúc càng dâng cao, siết chặt tâm hồn lữ khách
đang cô độc giữa buổi chiều tà. Cùng ảnh hưởng cách gieo vần mới của Thơ mới
nên thể thơ 5 tiếng có lối gieo vần của từng cặp một chéo nhau, ôm nhau hoặc
gián cách nên có sự ngắt bài thơ ra thành từng khổ 4, 5 câu mà ở thơ cổ không
có. (Ông Đồ của Vũ Đình Liên, Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp...). Kết cấu bài
thơ và vần điệu của thể thơ 5 tiếng ở Thơ mới cũng đã được cách tân. Bài thơ có
thể chia thành khổ 4 câu, mỗi khổ có dáng dấp một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt,
nhiều khổ gắn với nhau trong một hơi thơ thành bài thơ dài, như Ông Đồ của Vũ
Đình Liên, Tết của Đoàn Văn Cừ, Một mùa đông (I) của Lưu Trọng Lư...; Bài thơ
cũng có thể chia khổ tự do như Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, Mầu cây trong khói của
Hồ DZếnh hoặc kéo dài liên tiếp như Tình quê của Hàn Mặc Tử.
Thể 5 tiếng nói chung được sử dụng ít, ở cả 3 giai đoạn có
nhiều tập thơ không có bài nào. Tuy nhiên, nó lại có nhiều bài thơ hay như Tiếng
thu (Lưu Trọng Lư), Ông Đồ (Vũ Đình Liên), Chùa Hương (Nguyễn Nhược Pháp) [39].
Lục bát vốn là thể thơ phù hợp yêu cầu bộc lộ tình cảm, từ ca
dao, dân ca, nay được các nhà Thơ mới tìm đến như một sự hòa điệu. Các nhà Thơ
mới đã bắt nhịp nhanh với lục bát, sáng tạo, nâng cao lên theo thi pháp hiện đại.
Sau sự thử nghiệm táo bạo có tính chất khai phá của Thế Lữ, kiểu dạng lục bát
có câu ngắt dòng, vắt dòng theo lối thơ phương Tây tiếp tục được sử dụng:
Mùa
thi sắp tới! - Em thơ!
Cái
hôn âu yếm xin chờ năm sau!
(Mùa
thi - Xuân Diệu)
Sự
đổi mới của lục bát trong Thơ mới chủ yếu theo hai hướng: khuynh hướng hiện đại
hóa và khuynh hướng trở về với ca dao. Khuynh hướng thứ nhất thể hiện chủ yếu
trong thơ Huy Cận, Thế Lữ, Xuân Diệu, Thanh Tịnh. Khuynh hướng thứ hai thể hiện
rõ nhất trong thơ Nguyễn Bính.
Hôm
nay, trời nhẹ lên cao.
Tôi
buồn không hiểu vì sao tôi buồn...
Lá
hồng rơi lặng ngõ thuôn,
Sương
trinh rơi kín tự nguồn yêu thương.
(Chiều
- Xuân Diệu)
Hướng về hiện đại, các nhà Thơ mới khai thác ưu thế nhịp điệu
nhẹ nhàng, uyển chuyển ngân vang để diễn tả những nỗi buồn mơ hồ, kéo dài, những
cảm xúc bâng khuâng thương nhớ "Mờ mờ nhân ảnh" của cái tôi trữ tình
bơ vơ, vô định:
Nắng
chia nửa bãi; Chiều rồi...
Vườn
hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu...
Tay
anh em hãy tựa đầu,
Cho
anh nghe nặng trái sầu rụng rơi...
(Ngậm ngùi - Huy Cận)
Cách
ngắt nhịp của câu thơ lục bát cũng mang nhiều dáng vẻ mới lạ: khi kéo dài ở dấu
ba chấm (...), khi thu gọn ở dấu chấm (.), khi như đối thoại, bày tỏ ở dấu chấm
than (!) hay phần đầu dấu hai chấm (:):
Sợi
buồn con nhện giăng mau,
Em
ơi! hãy ngủ... anh hầu quạt đây.
(Ngậm ngùi - Huy Cận)
Rồi
ông kết: (giọng bất bình)
-
Trời cay nghiệt thế cho đành? Thưa ông.
(Dòng dư
lệ - Nguyễn Bính)
Hướng về ca dao, Nguyễn Bính đã thành công trong việc tạo ra
thể thơ lục bát kiểu mới, mang đậm phong cách ca dao từ hình ảnh, ngôn ngữ đến
nhịp điệu và lối diễn đạt.
Nhà
em có một giàn trầu,
Nhà
anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn
Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cau
thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?
(Tương
tư - Nguyễn Bính)
Có nhiều câu thơ lục bát của Nguyễn Bính nhiều người lại ngỡ
là ca dao:
Gió
mưa là bệnh của giời
Tương
tư là bệnh của tôi yêu nàng.
(Tương
tư - Nguyễn Bính)
Hoặc Trần Huyền Trân đã đưa lối thơ bậc thang kiểu thơ thường
gặp ở Maiacôpxki vào trong thơ lục bát:
Tôi
say?
Thưa,
trẻ chưa đầy
Cái
đau nhân thế thì say nỗi gì
Đường
xa ư Cụ?
Quản
chi.
Đi
gần hạnh phúc là đi xa đường
(Với
Tản Đà - Trần Huyền Trân)
Trong đoạn thơ trên, hai câu lục mỗi câu tách thành hai dòng,
quãng ngắt ngập ngừng như để thể hiện cách ngắt quãng ngập ngừng của bầu tâm sự.
Lục bát cũng đã có mặt trong danh sách những bài Thơ mới hay
với Ngậm ngùi của Huy Cận [39]. Nhìn tổng thể cả ba giai đoạn (Xem thống kê bảng
2, 3, 4) thể thơ lục bát trong Thơ mới tuy có sự bắt nhịp nhanh nhưng tỉ lệ sử
dụng còn ít, mạch vận động qua các giai đoạn biến đổi không nhiều (Chiếm số lượng
lớn là ở Nguyễn Bính, Huy Cận, Lưu Trọng Lư).
Khác với giai đoạn thứ nhất, giai đoạn 1936 - 1940 thời kì
hưng thịnh nhất của Thơ mới, có đông đảo gương mặt nổi bật như Xuân Diệu, Chế
Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Huy Cận... Trong số đó, Hoài Thanh gọi Xuân Diệu
là "nhà Thơ mới nhất" trong các nhà Thơ mới và Thế Lữ đã phải nhường
ngôi "đệ nhất thi sĩ" cho Xuân Diệu.
Trong
Thơ thơ và Gửi hương cho gió, Xuân Diệu sử dụng hầu hết các thể thơ
có trong phong trào Thơ mới, tuy nhiên tỉ lệ không đều và mức độ sử
dụng mỗi tập một khác. Xuân Diệu sử dụng nhiều nhất là thể thơ 7, 8 tiếng. Tham
khảo Bảng thống kê thể thơ sau đây, qua Thơ Thơ và Gửi hương cho gió của Lê Tiến
Dũng [23,164] sẽ thấy rõ hơn điều đó:
Tổng cộng
|
884
|
1223
|
2107
|
|
Bát
|
17
|
41
|
1,9
|
|
Luc
|
17
|
41
|
1,9
|
|
10 tng
|
1
|
1
|
||
9
tng
|
5
|
5
|
||
8 tng
|
325
|
963
|
45,7
|
|
7 tng
|
406
|
910
|
43,1
|
|
6 tng
|
9
|
9
|
0,4
|
|
5 tng
|
60
|
82
|
3,9
|
|
4 tng
|
40
|
52
|
2,3
|
|
3 tng
|
2
|
4
|
||
2 tng
|
||||
1 tng
|
1
|
|||
Loại câu
|
Thơ Thơ
|
Gửi hương cho gió
|
Tổng cộng
|
Tỷ lệ
|
Ở Thơ thơ, thể 7 tiếng nhiều hơn thể 8 tiếng (406/325). Ở Gửi
hương cho gió, quan hệ giữa hai thể gần tương đương nhau (910/963). Sự vận động
tăng dần đó trong thơ Xuân Diệu tỉ lệ thuận với Thơ mới nói chung, chứng tỏ
Xuân Diệu là một trong những thi sĩ có công sáng tạo thể thơ 8 tiếng hiện đại ở
Thơ mới. Về câu thơ, Xuân Diệu không dùng loại câu 1, 2 tiếng và loại câu 9 tiếng
trở lên. Là nhà thơ ảnh hưởng phương Tây nhiều nhưng Xuân Diệu không chịu ảnh
hưởng lối câu thơ nhiều chân của Pháp, có lẽ ông đã rút được kinh nghiệm từ sự
không thành công của các thi sĩ đã thử nghiệm ở giai đoạn đầu để chuyển hóa sử
dụng trong các thể 7, 8 tiếng. Khi Xuân Diệu xuất hiện, điều làm người ta ngỡ
ngàng nhất là việc ông trình làng những câu thơ có vẻ quá Tây, những ý tứ vay
mượn rất Tây mà không cần “kín đáo” gì cả. Những cách nói:
Hơn
một loài hoa đã rụng cành
Trong
vườn sắc đỏ rũa màu xanh...
Non
xa khởi sự nhạt sương mờ...
(Đây
mùa thu tới - Xuân Diệu)
thì chỉ có Xuân Diệu sử dụng sớm.
Nét đặc sặc nhất của thơ Xuân Diệu là việc ông khẳng định sâu
sắc cái tôi cá nhân bản thể của mình một cách "thành thật" nhất.
Trong lúc các thi sĩ khác tìm mọi nẻo để lánh đời thì Xuân Diệu cứ “hai tay
chín móng” bấu chặt lấy đời.
Ta muốn ôm
Cả
sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta
muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta
muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta
muốn thâu trong một cái hôn nhiều...
(Vội
vàng - Xuân Diệu)
Ông là nhà thơ của niềm giao cảm hết mình với sự sống, hết
mình với tình yêu:
Hãy
sát đôi đầu! hãy kề đôi ngực!
Hãy
trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài!
(Xa
cách - Xuân Diệu)
Đặc
điểm nổi bật nhất của Xuân Diệu trong việc sử dụng thể thơ 7 tiếng là vừa rất mới
mẻ, lại vừa rất cổ điển, cho thấy sự cách tân có nguồn mạch truyền thống vững
chắc. Hầu như tất cả các bài thơ thể 7 tiếng của Xuân Diệu đều chia khổ bốn câu
như một bài tứ tuyệt. Chẳng hạn bài Vì sao có sáu khổ như sáu bài tứ tuyệt. Đặc
biệt, cơ bản khổ nào cũng gieo vần theo kiểu đặc trưng của thơ tứ tuyệt (4 câu
3 vần). Cắt ngắt nhịp của bài thơ cũng chủ yếu là 4/3 theo khuôn nhịp đặc trưng
của thất ngôn cổ điển:
Bữa
trước giêng hai dưới nắng đào,
Nhìn
tôi cô muốn hỏi “vì sao?”
Khi
tôi đến kiếm trên môi đẹp
Một
thoáng cười yêu thoả khát khao...
Rồi
một ngày mai, tôi sẽ đi.
Vì
sao, ai nỡ hỏi làm chi!
Tôi
khờ khạo lắm, ngu ngơ quá
Chỉ
biết yêu thôi, chẳng biết gì.
Ngược
lại, đặc điểm nổi bật nhất trong thể thơ 8 tiếng của Xuân Diệu là tổ chức theo
lối tự do. Hầu như ở thể thơ này, nhà thơ không chia khổ như ở thể 7 tiếng, bài
thơ dài thoải mái theo hơi cảm xúc. Cách gieo vần chủ yếu là vần liền phỏng
theo thơ Pháp. Cách ngắt nhịp bài thơ lại theo đặc trưng nhịp 3/2/3 hoặc 3/3/2
của ca trù. Ví dụ bài Tương tư chiều:
Bữa
nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm;
Anh
nhớ em, em hỡi! anh nhớ em.
Không
gì buồn bằng những buổi chiều êm
Mà
ánh sáng đều hòa cùng bóng tối.
Cũng
như Xuân Diệu, Chế Lan Viên chủ yếu sử dụng thể thơ 7, 8 tiếng. Trong tập Điêu
tàn có 4/36 bài thể 7 tiếng, 32/36 bài thể 8 tiếng. Tính số câu thơ thì có 59
câu 7 tiếng, 664 câu 8 tiếng, 4 câu 9 tiếng. Rõ ràng, với điệu tâm hồn phức hợp,
giàu suy tư như Chế Lan Viên, thể 5 tiếng, lục bát không thể phù hợp. Ngược lại,
thể 8 tiếng lại là “đất dụng võ”.
Đến
Chế Lan Viên, kiểu nhà thơ lãng mạn với gió, mây, tình, mộng du dương đã nhường
chỗ cho cái cực đoan, dị thường. Nhà thơ đã gởi cả sự chán chường, tuyệt vọng
vào cảnh đổ nát của nước Chàm với thế giới u huyền của hồn ma, bóng qủy:
Đây,
những Tháp gầy mòn vì mong đợi
Những
đền xưa đổ nát dưới Thời Gian
Những
sông vắng lê mình trong bóng tối
Những
tượng Chàm lở lói rỉ rên than.
Đây,
những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn
Muôn
Ma Hời sờ soạng dắt nhau đi
Những
rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn
Lừng
hương đưa, rộn rã tiếng từ qui!
(Trên
đường về)
Khác
với thể 8 tiếng trong thơ Xuân Diệu, thể 8 tiếng trong Điêu tàn của Chế Lan
Viên chỉ có hai bài không chia khổ, 30 bài khác đều chia khổ. Nhưng cách chia
khổ lại hoàn toàn linh hoạt, không phải chỉ có bốn câu làm thành một khổ như
bài thơ tứ tuyệt. Chẳng hạn, bài Ta có 15 câu được chia hai khổ, khổ đầu 5 câu,
khổ sau 9 câu; bài Đọc sách có 12 câu, khổ đầu 8 câu, khổ sau 4 câu; bài Máu
xương có 20 câu, khổ đầu 5 câu, khổ sau 15 câu... Cách chia khổ này không theo
khuôn nhịp gò bó nào cả mà theo bước đi của trường cảm xúc bất chợt, tự do của
cái tôi trữ tình Thơ mới. Cách gieo vần cũng chủ yếu là vần liền và vần gián
cách. Ngay cả 4 câu thơ 9 tiếng xen trong các bài thể 8 tiếng, cách gieo vần
cũng như vậy:
-
Hồn say sưa vào khắp cõi Trời Mơ,
Ai
kêu ta trong cùng thẳm Hư Vô?
Ai
réo gọi trong muôn sao, chới với?
- Nàng, nàng, nàng, thôi chính nàng đương mong đợi
(Ngủ
trong sao)
- Giữa ngàn rậm, muôn cây chen lá thắm
Voi
Chàm đi lẳng lặng, dáng uy linh
Cùng
rung chuyển, dưới chân ngài, rừng núi thẳm
Dưới
chân ngài rên rỉ lá vàng, xanh
(Chiến
tượng)
-
Hỡi yêu tinh (mà dấu răng còn tỏ rõ
Trên
nền xương, mà chân dẫm chửa phai mờ
Trên
nấm mộ) mau vang lời nức nở!
Ta
chờ ngươi trong những buổi đêm mơ!
(Xương
khô)
-
Ai trần gian không uống máu đào tươi?
Không
hút tận tủy xương bao kẻ khác?
Trong
tiếng cười, trong câu ca, trong điệu hát,
Trong
những đêm đầy thịt, sáng nư mơ.
(Máu
xương)
Điều này, Chế Lan Viên khác với Xuân Diệu. Xuân Diệu dùng nhiều
vần liền, Chế Lan Viên dùng nhiều vần gián cách. Chế Lan Viên ảnh hưởng ít hơn
cách gieo vần liền phỏng theo thơ Pháp.
Theo đúng sự vận động của cái tôi trữ tình trong Thơ mới đến
giai đoạn 1936 - 1940, cái tôi trữ tình trong Điêu tàn nhìn cuộc đời rất u tối,
luôn muốn lẩn tránh sự ràng buộc với cuộc đời hiện tại để đến một cõi hư vô nào
đó. Đã nhiều lần nhà thơ kêu gọi:
Hãy
cho tôi một tinh cầu giá lạnh,
Một
vì sao trơ trọi cuối trời xa!
Để
nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những
ưu phiền, đau khổ với buồn lo!
(Những
sợi tơ lòng)
Tác giả đã dựng lên trong Điêu tàn hai thế giới hoàn
toàn trái ngược nhau của một nước non Chàm. Nhưng quá khứ
được nhắc đến rất ít với cảnh đất nước thanh bình, còn hiện tại là mất mát,
điêu linh xâm chiếm tất cả. Rồi từ đó, nhà thơ lý giải rằng, hiện tại chính là
nguyên nhân gây nên đau khổ:
Cả Dĩ Vãng là chuỗi mồ vô tận,
Cả Tương Lai là chuỗi huyệt chưa thành.
Và Hiện Tại biết cùng chăng hỡi bạn,
Cũng đương chôn lặng lẽ chuỗi ngày
xanh! (Những
nấm mồ)
Sống trong xã hội cũ, sự phủ nhận hiện tại là một động thái
tích cực. Sự mất mát của nước Chàm gợi thức bao suy tư trong tâm hồn Việt khi
đang sống trong cảnh nô lệ. Chế Lan Viên đã từng tâm sự: “Điêu tàn có riêng gì
cho nước Chiêm Thành yêu mến của tôi đâu? Kia kìa nó đang đục sọ dừa anh. Tiếng
xương rạn vỡ dội thấu đáy hồn tôi” [Theo Vũ Tuấn Anh: 3,282].
Điều này thể hiện trong Điêu tàn bằng những câu thơ được cấu
tạo theo dạng nghi vấn. 25/36 bài thơ có câu hỏi, có dấu chấm hỏi (?) đặt ở cuối
câu. Nhiều khổ thơ câu hỏi được xếp liên tục:
- Sao ở đâu mọc lên trong đáy giếng
Lạnh như hồn u tối vạn yêu ma?
Hồn của ai trú ẩn ở đầu ta?
Ý của ai trào lên trong đáy óc,
Để bay đi theo tiếng cười, điệu khóc?
(Ta)
- Trên thảm lá máu chim muông loang lổ,
Tiếng ai đi rung động cả ngàn sâu?
Hay im lặng chuyển mình trên máu đỏ?
Hay rừng xanh lăn nhẹ khối U Sầu?
(Chiến tượng)
Chất vấn mình, chất vấn cuộc đời nhiều bởi cái tôi Chế Lan
Viên luôn muốn tìm hiểu, khám phá. Nhưng càng trở trăn, nhà thơ càng rơi vào bi
kịch. Những câu hỏi liên tiếp chỉ là để phơi bày sự đớn đau, chết chóc, sự trói
buộc của hiện thực phũ phàng không lối thoát:
Ngươi khóc lóc, thở than, ngươi run sợ?
Có gì đâu cuồng dại, hỡi ngươi ơi?
Ai trần gian không uống máu đào tươi?
Không hút tận tủy xương bao kẻ khác?
(Máu
xương)
Nhưng chẳng ai trả lời cả. Nhà thơ thấu hiểu điều đó:
Trời
xanh ới hỡi! xanh khôn nói
Hồn
tôi muốn hiểu chẳng cùng cho!
(Đọc
sách)
Hiểu thế nhưng vẫn hỏi, vẫn quẫy đạp. Điều này chửng tỏ nhà
thơ buồn, thất vọng với hiện tại nhưng không bất lực. Vẫn còn đó một tâm hồn
khát khao lẽ sống cao đẹp đang được nuôi dưỡng, kiếm tìm lối đi. Và tâm hồn đó
đã thật xanh khi Cách mạng tháng Tám về!
Không có số lượng tác phẩm lớn như Xuân Diệu, Chế Lan
Viên,... nhưng Phạm Hầu cũng có những vần thơ chứa nhiều tín hiệu nghệ thuật mới
lạ. Trong Thi nhân Việt Nam, Phạm Hầu được giới thiệu và tuyển in hai bài thơ.
Trong Việt Nam thi nhân tiền chiến, nhà thơ xứ Quảng này lại được Nguyễn Tấn
Long giới thiệu kĩ hơn và in 13 bài thơ. Tuy vậy, việc nghiên cứu, đề cập đến
Phạm Hầu còn ít. Gần đây, tuyển tập Phạm Hầu mới được giới thiệu [103]. Tuy số
lượng tác phẩm không nhiều, nhưng thơ Phạm Hầu lại hội tụ gần như đầy đủ các dạng
thức thể thơ và nhiều cung bậc khác nhau của cái tôi trữ tình cá nhân Thơ mới.
Trong 25 bài thơ đăng trong tuyển tập của Phạm Hầu, có 16 bài
thể thơ 7 tiếng, 5 bài thể thơ 8 tiếng, 2 bài thể thơ 5 tiếng, 1 bài thể thơ 4
tiếng, 1 bài lục bát. Xét về thể thơ, so sánh với thống kê ở bảng 1,2,3,4 chúng
tôi thấy phương thức biểu hiện của thơ Phạm Hầu nằm trong xu thế vận động cơ bản
của thể thơ 7, 8 tiếng ở giai đoạn này. Dấu ấn đậm nét của Phạm Hầu là ở khía cạnh
góp phần cách tân dòng thơ, câu thơ. Thơ Phạm Hầu có nhiều câu ngắt dòng, vắt
dòng, dòng dài hơn câu, đặc biệt thán từ với dấu chấm than dày đặc ở một số khổ
thơ là điều ít thấy ở các nhà thơ đương thời:
-
Chao ôi! Chết cả lời thơ,
Chao
ôi! Điếng cả tim thờ quạnh hiu.
Gió
ôi! Dâng ngọn thủy triều,
Mau
đi rửa sạch tiêu điều dáng thu
(Thu)
-
Ôi bạn ngọc! Ôi em của anh
Ôi
chim! Ôi bướm! Ôi ngày xanh!
Đã
bay đi hết, bay đi hết
Ghê
gớm, tôi như một khổ hình.
(Riêng
tây)
Con
người tâm trạng sầu vương muôn nẻo và nỗi buồn khi “Theo tư tưởng vô cùng tận/
Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu” (Lý tưởng) đã tạo cho thơ Phạm Hầu những tiếng
kêu, lời than đứt quãng, những nỗi đau đứt đoạn rỉa rói tâm
can!
Trong 25 bài thơ của Phạm Hầu thì 24 bài đã nói đến buồn, cô đơn hoặc mang âm hưởng buồn, cô đơn. Thi nhân đã sớm mang mối sầu tình như Tản Đà năm xưa, để rồi vì tình câm lặng, tình tuyệt vọng khiến nhà thơ cay đắng đổ lỗi cho mộng hờ. Nỗi buồn, cô đơn, sầu đau gần với Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử... nhưng tình yêu đôi lứa trong thơ Phạm Hầu lại gần với Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Nguyễn Nhược Pháp... buổi đầu.
Trong 25 bài thơ của Phạm Hầu thì 24 bài đã nói đến buồn, cô đơn hoặc mang âm hưởng buồn, cô đơn. Thi nhân đã sớm mang mối sầu tình như Tản Đà năm xưa, để rồi vì tình câm lặng, tình tuyệt vọng khiến nhà thơ cay đắng đổ lỗi cho mộng hờ. Nỗi buồn, cô đơn, sầu đau gần với Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử... nhưng tình yêu đôi lứa trong thơ Phạm Hầu lại gần với Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Nguyễn Nhược Pháp... buổi đầu.
Nếu
làm thống kê, chúng ta sẽ thấy những từ: buồn, sầu, lệ, cô đơn, xuất hiện dày đặc
ở thơ Phạm Hầu. Chỉ riêng Chiều buồn và Vọng Lâu, mỗi bài 20 câu thơ mà buồn, sầu,
lệ, cô đơn xuất hiện 11 lần. Cũng như cái tôi trữ tình cá nhân Thơ mới nói
chung, cái tôi cô đơn Phạm Hầu “càng đi sâu càng lạnh” [138,52]:
-
Tôi buồn cô độc, ôi lầu vọng!
-
Tôi buồn rưng rức bên lầu vọng.
-
Lầu dựng buồn cao ngập ý thơ.
(Vọng
lâu)
Đó
là những biểu hiện “vọng hải đài” của lòng mình, của chính mình khi đã dựng
trong lòng cảnh “vọng lâu”! Nỗi đau đích thực này chính là động lực giúp nhà
thơ luôn mang theo bên mình một hoài bão to lớn. Hoài bão đó, trước hết, có lẽ
là việc Phạm Hầu chọn cho mình một con đường sống có trách nghiệm với đồng loại.
Bài thơ Tấm lòng son giãi bày một quan điểm sống và ý muốn thoát ly khỏi gia
đình quyền qúy để lên đường theo tiếng gọi của đất nước. Đây là bài thơ dài nhất
của Phạm Hầu, như cảm xúc tuôn trào một mạch không dứt.
Là người thi sĩ
trong xã hội đô thị hiện đại, Phạm Hầu tự hào về nghề nghiệp của mình. Bên cạnh
tiếng nói mạnh dạn xưng danh thi sĩ của Thế Lữ, Xuân Diệu... có tiếng nói của
Phạm Hầu.
- Thuở
nhỏ đêm nằm mơ thấy bướm
Giờ
không mơ bướm lại mơ thơ
(Lý
tưởng)
-
Cái cây thi sĩ vô tình đã
Biên
những dòng “thơ lá” bẽ bàng
(Y
Lan)
Điểm
qua hai nhà thơ tiêu biểu và một gương mặt đã “quen” nhưng “còn mới”, chúng tôi
muốn minh chứng rõ hơn cho sự vận động của thể thơ, câu thơ, và một vài khía cạnh
mà qua đó, sắc thái cái tôi cá nhân biểu hiện trong quá trình cách tân thơ. Rõ
ràng, trong cuộc hành trình của mình, các nhà Thơ mới đã đi vững chắc bằng hai
chân: vừa giữ những nét rất truyền thống của dân tộc, vừa tiếp thu những nét rất
mới từ thơ Pháp như một sản phẩm ngôn từ độc đáo ở nửa đầu thế kỉ. Phạm Hầu là
người có năng lực cảm thụ cái đẹp. Nhà thơ đã từng khóc hoa rụng (Tám hoa), tiếc
nhạc dừng (Dạ nhạc). Cái lạ hóa của cảm xúc thi nhân luôn bất tận: “Trời là
trang giấy rộng như mơ/ Ghi chép hồn cây phải một tờ/ Khốn nỗi bao người lơ
đãng quá/ Vô tình không hiểu đó là thơ”(Y Lan). Phạm Hầu có một cái “vẫy ngoài
vô tận”, “một cái nhìn hương” mà trong Thơ mới chưa ai dùng. Giống Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Phạm Hầu quan niệm nghệ thuật phải đưa ta đến sự vô biên, tuyệt đích:
“Ta đợi người đây, tuyệt đích ơi!”, “Tôi theo tư tưởng vô cùng tận”... Đó là
khát vọng cao cả mà Phạm Hầu luôn có ý thức dâng hiến!.
3. NHỮNG KẾ THỪA VÀ THỬ NGHIỆM
3.1. Sự tiếp nối và hoàn thiện các thể thơ, câu thơ
Các
thể thơ 7 tiếng, 8 tiếng, 5 tiếng, lục bát vốn đã mang vẻ đẹp cổ điển trong
giai đoạn trước, giờ được các nhà Thơ mới tiếp tục sử dụng. Tuy nhiên, cái tôi
trữ tình giai đoạn này không còn dừng lại ở nỗi buồn mênh mông nên các thể thơ
vốn chỉ hợp với âm điệu du dương, êm nhẹ như thể thơ 5 tiếng, lục bát ít được sử
dụng dần. Các thể thơ 7, 8 tiếng có sự gia công, gọt đẽo nhiều hơn, tính nhạc
được tăng cường nhiều hơn. So sánh bài Trăng và Nguyệt cầm của Xuân Diệu có thể
thấy được điều đó. Hai bài cùng viết theo thể 7 tiếng, mỗi bài 4 khổ, đề tài gần
nhau. Ở Trăng, thế giới tâm hồn nhà thơ chủ yếu là thế giới bên ngoài, đi cùng
người yêu "Tôi với người yêu qua nhè nhẹ.../ Im lìm không dám nói năng
chi". Nhịp thơ đều đặn 2/ 2/ 3 như bước đi còn điềm nhiên, lặng lẽ vương
chút bơ vơ giữa đêm "Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá". Đến Nguyệt
cầm, ngay câu đầu tiên từ "nhập" đã chuyển cả thế giới tâm hồn nhà
thơ vào bên trong, nhập vào, hòa lẫn vào "Dây cung nguyệt lạnh". Nhịp
thơ 2/ 2/ 3 đã bị cắt vụn, xen vào một số nhịp thơ khác, có khi cả câu như một
hơi dài cuốn theo dòng cảm xúc không cần ngắt nghỉ "Đã chết đêm rằm theo
nước xanh", "Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê". So với Trăng, Nguyệt
cầm có nhịp điệu dồn dập hơn. Các từ láy được sử dụng nhiều, gieo vần cả vần
ôm, vần chân, vần liền, vần luyến trong một câu làm tính nhạc được tăng cường
cao độ:
Mây
vắng, trời trong, đêm thủy tinh
Linh
lung bóng sáng bỗng rung mình.
Vì
nghe nương tử trong câu hát
Đã
chết đêm rằm theo nước xanh.
(Nguyệt
cầm - Xuân Diệu)
Thể thơ 8 tiếng giai đoạn này được dụng công ngắt
nhịp rõ ràng, tách bạch, các dấu chấm câu được tận dụng một cách tối đa để
chuyên chở nhiều cảm giác xô bồ:
...
Anh bước đi là lảo đảo hai chân
Mắt
rất mát và miệng nghe ngòn ngọt
Đây
bay ra! Bay ra... êm rót rót
Anh
ghé tai! Tiếng nhạc dẫn hồn hoa
- Cả
trăm hoa, phong vị sắc quần thoa,
Đi
vào cõi mê ly không bờ bến...
(Một
cõi trời - Bích Khê)
Điều đáng chú ý là ở giai đọan này, thể thơ tự do vốn đã có từ
giai đoạn đầu, giảm đi ở giai đoạn giữa, nay lại trở về với tỉ lệ lớn hơn trong
thơ Vũ Hoàng Chương. Lúc đầu, có ý kiến cho Thơ mới là thơ tự do. Hiểu như thế
chỉ là sự phân biệt với loại thơ cũ có niêm luật. Thơ tự do được hiểu đúng
nghĩa là loại thơ không tuân theo quy tắc nào cả như các thể thơ Đường, thơ lục
bát, các thể thơ 5, 7, 8 tiếng của Thơ mới… Số tiếng trong mỗi câu
thơ tự do nhiều ít không đều. Vần có thể gieo vần trắc hoặc vần bằng, có thể
gieo vần lưng, vần chân, vần liền, vần gián cách, vần hỗn hợp hoặc không có vần
nào cả. Trong một số bài Từ khúc của Tản Đà có dáng dấp tự do, cách điệu tự do
nhưng chưa vươn lên được một hình thức thơ ổn định. Còn trong bài Tiếng trúc
tuyệt vời, Thế Lữ đã tận dụng tính nhạc trong tiếng Việt để tạo nên những âm điệu
và tiết tấu đặc biệt, không theo một sự ràng buộc nào cả nhưng lôgic trong nhạc
điệu, tạo âm hưởng thiết tha, trầm bổng thích hợp với chủ đề và tâm hồn du
dương của cái tôi mới:
Tiếng
địch thổi đâu đây,
Cớ
sao nghe réo rắt,
Lơ
lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt,
Mây
bay... gió quyến mây bay…
(Tiếng
trúc tuyệt vời - Thế Lữ)
Giai đoạn 1936 - 1940, thơ tự do chỉ xuất hiện chủ yếu trong
một số sáng tác của Lưu Trọng Lư và rải rác ở Nam Trân (Mùa Đông), Võ Liêm Sơn
(Thiên đường và địa ngục). Giai đoạn 1941 - 1945 thơ tự do có ở sáng tác của Phạm
Văn Hạnh (Thư, thơ...) và đặc biệt ở Vũ Hoàng Chương. Cùng với việc sử dụng thơ
tự do, loại câu thơ 9, 10, 11 tiếng bị mất đi ở giai đoạn giữa cũng xuất hiện lại
nhiều trong thơ Vũ Hoàng Chương (Xem thống kê bảng 7). Vũ Hoàng Chương là nhà
"thơ say". Ông say, sầu, và ngao ngán "không còn biết chi đời".
Ông là người đại diện tiêu biểu cho cái tôi cá nhân Thơ mới ở giai đoạn cuối đã
đào sâu vào tận cùng bản thể để thấm thía nỗi cô đơn trống lạnh. Một cái tôi gấp
gáp tìm cách trốn mình, trốn đời, thật phù hợp với những bài thơ tự do, những
câu thơ ít, nhiều tiếng xen kẽ bày tỏ lối say quay cuồng, lời thơ giục giã, riết
róng và nhịp điệu điêu luyện, dễ dàng đổi thay cung bậc:
Ta
quá say rồi!
Sắc
ngã màu trôi...
Gian
phòng không đứng vững,
Có
ai ghì hư ảnh sát kề môi?
Chân
rã rời
Quay
cuồng chi được nữa,
Gối
mỏi gần rơi!.
(Say
đi em - Vũ Hoàng Chương)
Say quá rồi thì còn đâu giữ được bước nhịp nhàng theo điệu nhảy,
lời nói lúc này cũng dài ngắn đứt đoạn. Lời thơ đang trên âm vực cao nhất bỗng
buông chùng như ngả trôi trong cơn say, rã rời theo cảm giác của thân thể thì
chỉ có thơ tự do mới diễn tả được điều đó. Say đi em của Vũ Hoàng Chương là bài
thơ tự do duy nhất được tuyển chọn trong danh sách các bài thơ hay [39].
Sau Cách mạng tháng Tám, đặc biệt là những năm đầu kháng chiến,
thơ tự do được phát triển với nhiều hình thức phong phú, cách thức sử dụng táo
bạo, hình ảnh tiết tấu mới lạ (Nhớ - Hồng Nguyên; Nhớ máu và Tình sông núi - Trần
Mai Ninh…)
3.2. Thể thơ văn xuôi
3.2.1. Sự tương tác trong hệ thống thể loại
Đời sống thể loại của văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX rất
sôi động. Đây là thời kỳ có nhiều đổi thay quan trọng trong sự đổi mới từ phạm
trù văn học trung đại sang phạm trù văn học hiện đại. Nhiều thể loại văn học cũ
được cách tân, nhiều thể loại văn học mới ra đời từ công cuộc lao động sáng tạo
của các nhà văn nhằm đưa văn học Việt Nam hội nhập nhanh chóng với văn học thế
giới. Cái mới ra đời ngoài sự chịu tác động của các yếu tố nội sinh và ngoại nhập,
nó còn chịu sự tác động qua lại lẫn nhau để làm nên diện mạo thể loại phong
phú, đa dạng. Thể loại thơ văn xuôi, kịch thơ có mặt trong Thơ mới 1932-1945
chính là sản phẩm của sự tác động thể loại đó.
Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân có nhận
xét đáng lưu ý: “Phong trào Thơ mới lúc bột phát
có thể xem như một cuộc xâm lăng của văn xuôi. Văn xuôi
tràn vào địa hạt thơ, phá phách tan tành. Một đặc tính của văn xuôi là nói nhiều.
Cho nên, trong thơ hồi bấy giờ thi tứ hình như giãn ra. “Ta là một khách chinh
phu - Cả ý thơ dồn lại trong hai chữ “Chinh phu”, bốn chữ kia thừa... Nhưng rồi
Thơ mới cũng mất dần tính cách văn xuôi: câu thơ càng thêm hàm súc”
[138,38-39]. Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã nêu lên một vài nhận xét
có liên quan về vấn đề tương tác thể loại. Theo ông: “... những thi ca và tiểu
thuyết của những nhà văn lớp đầu có những tính chất nửa cũ, nửa mới, nửa pha
Hán học, nửa nhuộm Tây học kia, thật là những tấm gương phản chiếu buổi giao thời,
đáng là những tài liệu qúy báu cho các nhà khảo cứu” [118,408]. Nhận xét về Phấn
thông vàng của Xuân Diệu, ông viết: “Xuân Diệu ở đâu cũng đem theo một hồn thơ
bát ngát và mơ màng. Trong quyển Phấn thông vàng mà Xuân Diệu cho là một tập
truyện ngắn, tôi thấy chỉ rặt thơ là thơ. Không phải thơ bằng những câu có vần
có điệu, không phải thơ ở những lời đẽo gọt mà thơ ở lối diễn trình cùng tư tưởng,
ở những cảnh vật cỏn con mà tác giả vẽ nên những nét tỉ mỉ, khi ảm đạm, lúc
xanh tươi, tùy theo cái hứng của tác giả” [118, 721]; Ý kiến nhận xét về Thế Lữ:
“Có điều này ta nên để ý là thơ và tiểu thuyết của Thế Lữ rất liên lạc với
nhau” [118,704].
Mỗi một thể loại, nhất là những thể loại lớn thể hiện một
thái độ thẩm mĩ đối với hiện thực, một cách cảm thụ, nhìn nhận, giải minh thế
giới và con người. Thể loại là cái trí nhớ siêu cá nhân của nghệ thuật, nơi
tích lũy, đúc kết những nhận thức thẩm mĩ thế giới. Mỗi thời đại lịch sử có hệ
thống thể loại của mình, trong đó những thể loại chính thể hiện tập trung nhất,
nổi bật nhất tâm thức, tầm nhìn, những mối quan tâm, những quan niệm và chuẩn mực
giá trị con người trong thời đại đó. Những thể loại chính ấy như những mặt trời
thu hút những thể loại khác vào trong qũy đạo của chúng.
Trong văn học trung đại Việt Nam, hệ thống thể loại không nhiều,
đường biên giữa chúng khá nhòe mờ. Sự nhòe mờ này không phải do vấn đề tương
tác giữa các thể loại diễn ra mạnh mẽ mà do quan niệm, phạm vi văn chương chưa
rõ ràng. Trong điều kiện văn, sử, triết bất phân, vấn đề phân loại văn học rất
khó khăn. Lê Quí Đôn, Phan Huy Chú là người sớm có ý thức về thể loại, “văn
không thể tạp loạn, thể tài phải tự khác nhau” (Lời tựa Đại Việt thông sử),
nhưng công trình Đại Việt thông sử của ông và Lịch triều hiến chương loại chí của
Phan Huy Chú không phải là phân loại văn học. Hơn nữa, hệ thống thể loại của
văn học trung đại rất phức tạp bởi dùng song ngữ. Thơ thì có nhiều hình thức,
loại hình (có loại dùng cả chữ Hán và chữ Việt) như lục bát, song thất lục bát,
Đường luật, diễn ca, truyện nôm, ngâm khúc, vãn, hát nói. Văn xuôi thì chỉ có
văn xuôi chữ Hán và cũng còn thưa thớt, nên hầu như sự tác động giữa các thể loại
không rõ. Trong thời kì này, biểu hiện rõ nhất là sự tác động của các chức năng
ngoài văn học. Trong công trình Mấy vấn đề Thi pháp văn học trung đại Việt Nam,
Trần Đình Sử nhận xét: “Các thể loại văn học trung đại như mọi người đều biết,
trước hết có chức năng ngoài văn học. Các chức năng đó một mặt làm chậm bước
phát triển của văn học nghệ thuật như một nghệ thuật ngôn từ, nhưng mặt khác chức
năng ngoài văn học cũng góp phần tạo thành nét đặc trưng của văn học trung đại.
Chẳng hạn, sử học và các thể loại của sử học như bi, ký, lục, truyện, minh,
chí, dật sự, dã sử với thể thức của chúng, tinh thần thực lục, bút pháp xuân
thu của chúng đã ảnh hưởng tới diện mạo văn xuôi trung đại. Không thể nghiên cứu
nghệ thuật văn xuôi mà không thể đối chiếu với các thể loại của sử. Thơ xưa làm
không phải để xuất bản lãnh nhuận bút mà chỉ là để dâng tặng mà bày tỏ chí
(khen, chê, hoài bão), chức năng bao phiếm, phúng gián, ngôn hoài gắn với yêu cầu
giáo huấn, can dự đời sống. Người đọc thơ là quan chí (xem chí) mà trau đức. Do
vậy thơ thống nhất với các thể loại tụng, tán, biểu, tấu, châm, giới, dụ. Do vậy
thể loại văn học trung đại có một sự thống nhất nội tại trong chức năng nghệ
thuật và thực dụng, mỹ học và xã hội học.” [129,107-108].
Sang
thế kỷ XX, quá trình hiện đại hóa văn học đã làm cho văn học Việt Nam thay đổi
một cách cơ bản. Các yếu tố nội sinh, ngoại nhập cùng sự tương tác giữa các thể
loại văn học diễn ra gay gắt, mạnh mẽ nhằm đưa văn học sớm hội nhập với văn học
thế giới. Dấu ấn thâm nhập của văn xuôi vào thơ chưa rõ nét trong văn học trung
đại, nay bắt đầu lộ rõ trong các sáng tác của Thơ mới.
3.2.2. Sự ra đời của thể thơ văn xuôi
Thể thơ văn xuôi trong Thơ mới không nhiều nhưng đó là sự thử
nghiệm táo bạo. Thực ra thì thơ văn xuôi đã có từ “đêm trước”của Thơ mới với Giọt
lệ thu của Tương Phố, Linh Phượng ký của Đông Hồ... Đến Thơ mới, ngay bài Tình
già của Phan Khôi cũng đã có ý kiến cho đó là thơ văn xuôi. Nhưng trong quá
trình phát triển của Thơ mới, giai đoạn cuối, thể thơ văn xuôi in dấu đậm nét
hơn. Khác với văn học Pháp, Mỹ, Ấn Độ... mảnh đất đã nuôi dưỡng thơ văn xuôi tồn
tại hơn một thế kỉ với tên tuổi của các nhà thơ nổi tiếng Baudelaire, Valéry,
Whitman, Tagore,... Ở Việt Nam, thể thơ văn xuôi đến Thơ mới vẫn hầu như còn mới
lạ. Trong văn học trung đại, chúng ta có thể tìm thấy bóng dáng thơ văn xuôi ở
các thể loại văn vần như phú, văn tế, hoặc các loại biền văn như hịch, cáo (Hịch
tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Văn tế chị của Nguyễn Hữu Chỉnh, Văn tế Trương Quỳnh
Như của Phạm Thái...). Đó có thể là những sáng tác làm cơ sở cho thể thơ văn
xuôi sau này. Đến Thơ mới, một thể loại thơ như thơ văn xuôi, thơ tự do mới có
diện mạo, có tên rõ ràng. Chúng tôi thống nhất với ý kiến của Hữu Đạt khi
tác giả cho rằng: "Chính sự phát triển mạnh mẽ, phong phú của thơ tự do, trong
nền thơ ca Việt Nam hiện đại, chẳng mấy chốc đã ra đời một thể Thơ mới - thơ
văn xuôi. Dừng trên phương diện ngôn ngữ thì thơ văn xuôi là đỉnh cao nhất của
thơ tự do" [29,244].
Sự
ra đời của thơ văn xuôi là do nhu cầu của kiểu nhà thơ hiện đại. Đến Thơ mới,
cái tôi trữ tình cá nhân đã không chấp nhận sự ràng buộc của quy phạm đạo lý, họ
đề cao ảo giác và sự linh cảm bản năng. Vì vậy, thơ văn xuôi với hình thức tự
do hóa các thể thơ truyền thống, mạch câu chảy tràn ra không theo sự ràng buộc
của nhịp điệu, niêm luật nào cả nên chuyên chở được cảm xúc mãnh liệt, nhiều
chiều. Chẳng hạn:
"Thu đã về đây, tôi làm lữ khách đi hết sông này sông
khác, cả núi cả đèo và cả rừng, cả suối, bây giờ tôi cũng về đây để hiểu thêm một
ít, nhớ thêm một ít, và yêu thêm rất nhiều" (Cảm thu - Đinh Hùng)
..."Đất thơm. Ta tưởng tượng sự dồi dào bốc tự lòng say
đất nước
Đất
cũng trầm tư, cũng chuyên chú, đất kiên nhẫn ta mến yêu
Ta
ca ngợi hạnh phúc đơn sơ ngọn lúa
Ta
cũng cảm cái thi vị chất phác những ngày mùa, họp bạn rủ nhau đi tìm lúa mới
xa” (Đất thơm - Nguyễn Xuân Sanh)
Chủ
nghĩa tượng trưng và siêu thực tìm đến vẻ đẹp siêu nghiệm mà then chốt là trực
giác, âm thanh, màu sắc. Kiểu nhà thơ này thường hướng tới điệu tâm hồn mới lạ
của đắm say, mơ mộng, có khi cuồng điên, réo rắt. Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc
Tử phần nào mang đậm sự thể hiện đó:
“Trăng
là ánh sáng, nhất là trăng giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm kỳ ảo, thơm thơm,
và nếu ngừng thở lắng nghe một cách ung dung sẽ nhận thấy có nhiều miếng nhạc
say say gió xé rách lả tả...". Không gian ba chiều rợn ngợp, ngập ánh
trăng. Nhưng là trăng siêu hình, vô lượng, hoang vu, ngây ngất, đê mê.
Kiểu
nhà Thơ mới luôn có khát vọng vượt thoát ra ngoài sự kìm tỏa. Bằng chứng của nó
thể hiện ở việc dùng câu, từ, ngữ... càng ít sự gò bó càng tốt. Thơ văn xuôi
chính là thể thơ ít giới hạn nhất trong các thể thơ. Nó chỉ cần thi tứ, nhịp điệu
câu văn xuôi có chất thơ, ngôn ngữ gần với đời thường nhưng không phải lời nói
thường ngày. Theo Hữu Đạt, “Về hình thức câu, thơ văn xuôi có dáng dấp gần với
một câu văn xuôi nhưng khác văn xuôi ở chỗ mang nhiều hình ảnh, nhiều chất thơ
và được hình thành do cảm xúc trực tiếp của nhà thơ... So với các thể trước nó,
thơ văn xuôi có ưu điểm là diễn tả được cùng một lúc những cảm xúc trùng điệp,
những hình ảnh, những ý thơ liên tiếp, bề bộn những sự kiện” [29.244]. Họ cảm
giác về thế giới, về thiên nhiên, về mùa thu... cũng chính là cảm giác về mình,
về lẽ đời, sự kiện có khi từ muôn năm trước vậy.
Hãy nghe Đinh Hùng Cảm thu:
“Nước trong như một cặp mắt tuyệt vời. Những cây liễu xanh đứng
buồn như những nàng cung nữ thời xưa... Nắng ở đây vẫn là nắng ngày xưa, và
linh hồn vẫn là linh hồn tôi năm trước... Chân ai đi xa vắng ngày xưa, hay đó
chỉ là gió thoảng mong manh?” (Cảm thu - Đinh Hùng).
Nguyễn Xuân Sanh cảm nhận về âm thanh và giọt mưa: “Giọt
mưa rơi, mưa rơi, giọt mưa rơi... Mưa rơi kết tinh suy tưởng của hồn ta. Tương
tư của hai ta có phải cầm giữ đâu vô bờ bến? Nó thành giọt, để đọng giọt nhớ
thương. Nó nhẹ nhàng, êm ái, nhưng nó bao la như những cõi vô cùng, hàng vạn
triệu. Chiều nay ngoài khung cửa sổ đời ta, từng giọt, từng giọt, từng giọt,
nhưng ta biết lấy gì đếm được” (Giọt mưa rơi - Nguyễn Xuân Sanh).
Cảm nhận về hương vị: “Tháng lúa chín: vụ gặt trong nắng
xanh. Hồn của đất: lúa thơm. Sự sống thầm, và hoa mỹ. Nghĩ rằng một hạt cốm nếp
mang đọng bao nhiêu hương đất, bao nhiêu tháng ái ân...” (Đất thơm
- Nguyễn Xuân Sanh).
Thơ văn xuôi thể hiện nhu cầu xã hội của thời đại, một nhu cầu
đa dạng, phức tạp, lắm biến đổi. Cũng như thơ nói chung, thơ văn xuôi thuộc
phương thức biểu hiện trữ tình nhưng nó mượn yếu tố hình thức của văn xuôi để
biểu đạt. Thơ xưa đặt ý tại ngôn ngoại làm trọng nên đề cao sự tinh lọc đến mức
ước lệ, sáo mòn. Cuộc sống hiện đại không phải không cần tinh lọc nhưng sự tinh
chọn phải luôn đi kèm với mới lạ. Do đó, một thể loại “hơi mềm hơi cứng” như
văn xuôi mới có thể tiếp cận được mô hình nguyên chất của đời thường, cập nhập
được thông tin nhiều bề, gai góc để rồi từ đó nâng lên thành tầm khái quát,
thành tư tưởng. Sự mở rộng, phóng khoáng, sẵn sàng dung nạp nhiều hàm lượng
thông tin, là nhân tố thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng, vượt bậc của xã hội
hiện đại so với những thời đại trước nó.
Tuy số lượng tác phẩm ít nhưng sự thể nghiệm này thật đáng
quý, đã có những tác phẩm kinh điển mà về sau được nhắc tới nhiều. Có thể kể đến
Chơi giữa mùa trăng của Hàn Mặc Tử; Bông hồng của Huy Thông; Giọt mưa rơi, Đất
thơm của Nguyễn Xuân Sanh; Giọt sương hoa của Phạm Văn Hạnh...
Như vậy, từ sự tương tác trong đời sống thể
loại của văn học hiện đại, thể thơ văn xuôi đã có mặt sớm trong Thơ
mới. Thể thơ này xuất hiện rõ nét ở giai đoạn giữa và tiếp tục phát triển ở
giai đoạn cuối. Tuy chưa phù hợp ở diện rộng với tâm lý sáng tác và tâm lí tiếp
nhận lúc bấy giờ nhưng thể thơ văn xuôi đã định hình. Đó là nền tảng quan trọng
để thời kỳ từ sau 1945 thể thơ văn xuôi được khẳng định và có nhiều thành tựu.
Chính những nhà Thơ mới thời kỳ này như Chế Lan Viên, Huy Cận đã sáng tác những
bài thơ văn xuôi có giá trị, về sau bắt buộc mọi người phải thừa nhận, xem những
thể nghiệm trước đây không còn là ngông cuồng, kỳ quái nữa.
1/9/2010
Hoàng Sỹ Nguyên
Nguồn: Thơ Mới 1930-1945 - Nhìn từ sự vận động thể loại.
Khảo luận của Hoàng Sỹ Nguyên. NXB Văn học, 7-2010.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét