Tâm theo cảnh mà hóa, đụng đến là biết ngay. Rồi tự nhiên ý
niệm thôi móng khởi, tâm thức hết đường đi. Rồi hốt
nhiên đập vỡ óc não và từ đấy nhận ra rằng nguyên
lai Đạo vốn có trong mình. Bây giờ há chẳng phải là một bình sinh khoái
chí sao?”.
Đại Huệ là một đại luận sư về công
án của thế kỷ XII. Một trong những công án lừng danh của sư là
VÔ của Triệu Châu, nhưng sư cũng có một công án riêng của mình.
Sư thường mang cây gậy trúc ngắn đưa ra trước chúng tăng và bảo: “Nếu
các ngươi gọi đây là cây gậy, hãy nói là phải; nếu các ngươi không gọi nó là
cây gậy, hãy nói là không phải. Ngoài cái phải và không phải, các ngươi sẽ gọi
nó là gì?”. Trong trích dẫn sau đây rút ra từ các bài pháp của ngài nhan đề
là Đại Huệ Phổ Thuyết do Thủ Tịnh[76], 1190, soạn tập, ngài còn
nêu lên một công án khác cho vị tăng thị giả của mình là Tịnh
Quang[77].
“Pháp không do kiến văn giác tri mà biết rõ. Nếu pháp
kiến văn giác tri mà biết rõ, đấy chỉ là kiến văn giác
tri mà thôi; hoàn toàn không phải là cầu pháp[78]. Bởi
vì pháp không ở nơi những cái mà người ta nghe từ kẻ khác hay học tập
bằng thế trí. Bây giờ, người hãy bỏ đi những gì thấy, nghe và suy
nghĩ mà thấy nhưng gì trong chính ngươi. Chỉ có chân không, vô vật,
không thể bắt nắm được, không thể nghĩ tưởng đến được. Tại sao? Bởi
vì đó là nơi siêu việt giác quan. Nếu giác quan mà với tới
nơi này được, thì đó là cái có thể nghĩ tưởng có thể bám
víu; và như vậy, nó nằm trong vòng sống chết.
“Điều cốt yếu là khép chặt các giác quan, và biến tâm
thức thành như một khúc cây. Khi khúc cây này đột nhiên trỗi dậy
và khua vang, ấy là ngươi như sư tử cất tiếng rống tự
do, tự tại không ai quấy phá, hay như một con voi vượt
qua sông chẳng e dè dòng nước chảy xiết. Đấy là lúc không
còn dao động, không còn tạo tác, không có gì hết. Trưởng
lão P’ing t’ien (?) nói :
Trời trong không mây mù
Đạo thường tồn miên viễn
Ai bước vào cửa này
Không học, không luận biện
“Nhà ngươi phải biết rằng do kiến văn tri
giác mà bước vào đạo và cũng do kiến văn tri giác mà không
bước vào được. Tại sao? Hãy cầm lấy cây dao hai lưỡi, nó giết chết và cứu
sống; nơi này là chỗ kiến văn tri giác của ngươi, và ngươi có thể
dùng được cái kiến văn tri giác ấy. Nhưng nếu thiếu con dao hai
lưỡi này, nó vừa giết chết vừa cứu sống ấy thì kiến văn tri
giác của ngươi chỉ là một khối trở ngại lớn lao, nó xô ngươi té sấp mãi
mãi; con mắt Đạo của ngươi sẽ mù hẳn, ngươi sẽ lang thang trong bóng tối, mắt
mù, không biết sẽ làm sao để tự do tự tại. Nhưng nếu ngươi muốn mình
là một vị thầy tự tại của chính mình bằng cách dứt bỏ kiến
văn tri giác, hãy kềm lại cái tâm leo trèo như vượn, đừng để làm bậy; hãy
bắt nó đứng yên: hãy kiên quyết chú tâm vào bất cứ những gì
ngươi đang làm - đi đứng hay nằm ngồi, im lặng hay nói năng; hãy
giữ tâm ngươi như một sợi dây căng thẳng; đừng để nó vuột khỏi tay mình.
Ngay khi nó vuột khỏi vòng cân thúc, ngươi sẽ thấy nó lao đầu vào nơi kiến
văn tri giác. Trong trường hợp như thế, có cách nào đối trị? Phải đối
trị cách nào khả dĩ đây?
“Một thầy tăng hỏi Vân Môn: “Phật là cái gì?” “Đồ chùi
phân”. Đây là trị liệu; dù khi đi đứng hay nằm ngồi, hãy mãi
mãi để tâm trên cái “Đồ chùi phân” này. Thời cơ sẽ đến khi
tâm ngươi đột nhiên dừng lại như một con chuột già thấy mình
đang ở bước đường cùng. Rồi khi nhảy bổ vào cái tịt mù và kêu lên: “à, là
đây!”, khi tiếng kêu này được thốt lên, ngươi đã khám phá ra chính
mình. Cùng lúc ngươi thấy tất cả nhưng giáo thuyết quý
báu xưa kia được ghi trong Tam Tạng kinh điển, trong Bách Gia
Chư Tử, chỉ là những chú giải của tiếng kêu bất chợt của chính ngươi
“à, là đây”
Đại Huệ không hề mỏi lòng nhắc nhở môn đệ của
mình sự quan trọng của chứng ngộ siêu việt ngôn ngữ biện biệt,
vượt ngoài giới hạn của tâm hành. Những bức thư và những bài
pháp của ngài đầy cả khuyến thị và giáo huấn hướng về cứu
cánh này. Tôi trích dẫn một vài đoạn trong đó. Sự nhấn mạnh của
ngài trên điểm này chứng tỏ rằng đương thời Thiền đang sa đọa thành một hình
thức một chiều tịch mặc, và đằng khác thành biện biệt về
các công án của các bậc tôn túc để lại.
“Học Thiền phải đi đến chung cùng là chứng ngộ (ngộ
nhập). Như một chiếc thuyền hội được làm để giựt giải nay bị ném vào một góc vắng.
Các bậc tôn túc của Thiền cũng vậy; bởi vì chúng ta chỉ
biết rõ sự thành đạt đích thực của Thiền khi nào chúng
ta chứng ngộ. Bất cứ cách nào; phải đạt đến chứng ngộ; nhưng các
ngươi sẽ không bao giờ đạt được mong ước bằng cách ngồi
yên lặng một mình, ngồi như một người chết. Tại sao? Tổ
sư há chẳng có nói rằng khi các ngươi cố đạt cái tĩnh mặc các
ngươi lại càng quấy nhiễu hơn nữa? Dù các ngươi có hăng
hái để làm lắng đọng cái tâm tạp loạn của mình kết quả sẽ hoàn
toàn ngược lại những gì ước mong thể hiện được, khi mà tập
quán biện biệt vẫn còn tiếp tục. Vì vậy hãy vứt bỏ tập
quán biện biệt đó đi; phải vẽ ra trước mắt hai chữ sống và
chết và khăng khăng chú tâm vào công án sau đây như phải
gánh chịu một món nợ phải trả vô cùng nặng nề. Hãy nghĩ nhớ công
án dù đang lâm bất cứ việc gì, dù là ngày hay đêm. Một thầy tăng hỏi Triệu
Châu “Con chó có Phật tính không”. Châu nói Vô. Hãy chú
tâm vào chữ Vô này và hãy nhìn xem cái gì nằm trong đó. Đến lúc tâm đã định
ngươi sẽ thấy công án chẳng có mùi vị gì hết, nghĩa là chẳng
có đường lối phân biệt nào để dò vào trong lòng của nó.
Nhưng cùng lúc ấy, các ngươi có thể cảm thấy hoan lạc xâm
chiếm trong lòng mình, và ngay sau đó, một cảm giác khác tiếp
theo, lần này là một cảm giác bất an. Đừng để ý đến sự xen
kẽ của các xúc cảm này, hãy cố tiến tới công án, cho đến lúc
ngươi sẽ tự thấy là mình như một con chuột già lao vào đường cùng. Bây giờ cần
một bước quay lui, nhưng những kẻ hạ căn hay dao động và ngập
ngừng không bao giờ có thể làm vậy nổi.”
Nơi khác, Đại Huệ nói: “Hãy kiên trì công
án trong suốt cả bình sinh. Nếu một niệm khởi lên, đừng cố
ý dẹp xuống, mà cứ cố giữ công án hiện tiền với tâm. Dù khi
đi khi đứng hay nằm ngồi, chú tâm không gián đoạn. Đến khi bắt đầu
thấy nó không còn hương vị gì hết, ấy là lúc thời cơ quyết định đang
đến; đừng để nó vuột mất. Đến khi một vật đột nhiên chớp lên trong
tâm ngươi, ánh sáng của nó sẽ sáng rực cả vũ trụ, và ngươi sẽ thấy rằng quốc
độ của chư Phật hoàn toàn hiện lên trên đầu một sợi tóc, và
bánh xe Chánh pháp vĩ đại đang quay trong một hạt bụi”[79].
Không Cốc Long[80] đã từng khuyên các sư tăng tương
tự!
“Cái vô của Triệu Châu, trước khi các thầy thấu triệt nghĩa
lý của nó, thì nó như một hòn núi bạc hay như một bức tường sắt (đứng chắn
lối của nó các thầy). Nhưng khi các thầy tiến tới với cái vô ngày qua
ngày, cố bước vào trong lòng của nó, đừng để một khoảnh khắc dừng nghỉ, thời
cơ tối thượng nhất định sẽ đến, như một cơn lụt tràn ngập; và rồi
các thầy sẽ thấy rằng bức tường sắt hay hòn núi bạc chẳng chút gì đáng sợ.
Điều quan trọng là đừng tin gì ở cái học, mà để hết tâm trí vào việc giải
quyết vấn đề sanh tử.
Đừng phí thì giờ ngồi không suy nghĩ về
cái vô, hãy như một tên si ngốc không khác, đừng cố giải quyết sai
lầm bằng tư duy biện biệt. Hãy kiên quyết để kết tâm
chí là hiểu thấu cái vô. Rồi đột nhiên, khi các người buông tay xuống, toàn
thể tâm thức hoàn toàn đảo ngược và kể từ đây các người nhận
thấy vô cùng minh bạch nơi khốn tận cùng của nó
Tác giả của Thiền gia quy giám[81] xác nhân tất
cả những điều đã được trích dẫn trên, và mô tả đầy đủ về tâm
lý của thực tập công án.
“Người học Thiền cần phải nhìn vào chỗ sống động chứ
đừng nhìn vào chỗ chết[82]. Hãy cố tìm hiểu ý nghĩa công
án của mình, đồng thời đặt hết sức mạnh tinh thần vào
phận sự như gà mái ấp trứng, như chuột rình mèo, như người đói tìm thức
ăn, như kẻ khát tìm thức uống, như con nhớ mẹ. Nếu nỗ lực đến kỳ
cùng và kiệt lực như thế, chắc chắn thời cơ sẽ đến
khi ý nghĩa của công án soi tỏ trên mình.
“Có ba yếu tố khiến cho việc học Thiền được thành
tựu: l) Tín lớn; 2) Chí lớn và 3) Nghi lớn. Thiếu một trong ba cũng như cái đỉnh
gảy hết một chân, nó sẽ đổ. Trong suốt cả bình sinh, bất kể đang làm
gì, hãy nỗ lực tìm thấy nghĩ lý cái VÔ của Triệu Châu, luôn
luôn gìn giữ công án hiện tiền, đừng bao giờ xao
lãng tinh thần cầu hiểu. Hành trì liên tục bất đoạn,
các thầy sẽ thấy rằng chẳng có khúc mắc của trí thức nào ở
trong công án, thấy rằng nó hoàn toàn vô nghĩa khi các thầy
hiểu chữ này một cách bình thường, thấy rằng hoàn toàn nhạt nhẽo vô
vị, chẳng chút ngon ngọt nào, và rồi các thầy sẽ cảm thấy bồn chồn bất
an. Đến đây là lúc rút kiếm ra khỏi vỏ, buông mình xuống vực thẳm và
từ đó mà gieo trồng căn tính của Phật quả.
“Đừng nghĩ rằng ý nghĩa của công án hiện
ra khi các thầy nắm lấy nó để giải quyết; đừng biện biệt hay nghĩ
tưởng gì hết, đừng mong chờ chứng ngộ bằng cách lắng tâm dứt
hết các ý tưởng tạp loạn; chỉ chuyên tâm vào tính
cách bất khả tư nghì của công án, trên đó, tâm trí rõ
ràng không chút câu thúc[83]. Cuối cùng các thầy sẽ thấy
mình như một con chuột già lao vào góc kín đáo nhất của kho lúa nơi đây khi
nhìn tới nhìn lui đột nhiên nó tìm ra lối thoát. Cân
nhắc công án bằng tiêu chuẩn trí thức, như các thầy thường
làm với nhưng việc khác; sống cái kiếp sống trôi nổi trong
dòng sinh tử; luôn luôn bị dày vò bởi những cảm giác sợ
hãi, lo âu và lưỡng lự, tất cả những thứ đó đều do tưởng tượng
và tâm trí mưu toan mà ra. Các thầy phải biết cách đứng lên trên những
tế toái cuộc sống mà lắm người đang bị chìm đắm trong đó. Đừng
phí thời giờ để hỏi phải làm sao, chỉ cứ để hết tâm hồn vào
công việc. Như một con muỗi châm chích con bò mộng bằng sắt; ngay khi
tấm sắt đẩy ngược hẳn cái vòi yếu ớt của các thầy, nhưng hãy cố một
lần quên lãng mình đi, mà cứ bước vào, công trình sẽ thành
tựu
Đến đây chúng ta đã trích dẫn khá đủ những thẩm
quyền cho thấy đâu là sứ mệnh của công án dẫn đến chỗ gọi
là chứng ngộ và cũng cho thấy cái gì xảy ra trong lòng Thiền
sư khi ngài bắt đầu tập luyện tâm trí của môn nhân đưa họ đến chỗ thuần
thục của ý thức Thiền. Tôi kết luận vắn tắt chương
này với một đoạn trích từ tác phẩm của Bạch Ẩn Huệ Hạc, cha đẻ của
phái Thiền Lâm Tế Nhật Bản ngày nay. Trong trích dẫn
này chúng ta sẽ thấy tâm lý của Thiền tiến hành ra sao vốn
chẳng có thay đổi nhiều qua hơn một nghìn năm, từ thời Huệ Năng và
các môn đệ Trung Hoa của ngài.
“Nếu các ngươi muốn đạt được đạo lý thanh tịnh của vô
ngã, thì hãy cứ một lần buông tay rơi trên vực thẳm, rồi các
ngươi sẽ bừng tỉnh trỗi dậy trở lại và thành tựu bốn đức
thường, lạc, ngã, tịnh. Thế nào là buông tay xuống vực thẳm? Giả sử có
người dạo bước giữa những hòn núi xa xôi, nơi chưa từng có ai lưu lạc đến.
Người ấy đến bên bờ một vực thẳm không đáy, đá lởm chởm, rong
rêu phủ kín, vô cùng trơn tuột, không biết đặt chân đâu cho vững; y
không thể đi tới không thể bước lui, cái chết đối diện. Nguồn hy
vọng độc nhất là giữ lấy sợi dây sẵn trong tay; sinh mệnh của y
gởi vào sợi dây này. Nếu y bất cẩn buông tay, thân thể y sẽ lao thẳng
xuống vực, xương thịt sẽ tan ra từng mảnh.
“Người học Thiền cũng vậy. Khi y bám chặt công
án trong tay, rồi y sẽ thấy rằng mình đã bước tới cực độ khẩn
trương của tinh thần và đang ở trong bước đường cùng. Như một người bị
treo lơ lửng trên vực thẳm, chẳng còn biết phải làm gì. Trừ những cảm
giác bồn chồn bất an, từng lúc và từng lúc, y giống như một người đã
chết. Đột nhiên y thấy thân vô tâm của mình bị quét ra khỏi
cuộc sống cùng lúc với công án. Đấy gọi là “buông tay”; khi các
ngươi tỉnh khỏi cơn si ngốc và lấy lại hơi thở, giống khi uống nước
chỉ mình biết là lạnh. Đó là một niềm vui khôn tả”.
CÁC ĐẶC TÍNH TỔNG QUÁT TU TẬP CÔNG ÁN
Nhắc lại: Sự canh tân của lối tu tập công
án chắc chắn do bởi những hoàn cảnh sau đây:
1. Nếu Thiền học cứ trôi đều theo đà của nó, nó đã
đi đến chỗ tự tiêu diệt do bản chất thượng lưu về học
vấn và kinh nghiệm của nó.
2. Bởi vì, dần dần Thiền đã cạn nguồn sáng tạo trong
vòng hai hay ba trăm năm phát triển sau thời Lục Tổ Huệ Năng, nên đã
còn phải có một sinh khí mới mẻ bừng tỉnh dậy để có thể sống
còn, bằng cách ứng dụng một phương pháp triệt để nào
đó khả dĩ khuấy mạnh tâm thức Thiền.
3. Trải qua một thời hoạt động sáng tạo,
các chất liệu đã được tập đại thành gọi là “Thoại đầu”, “cơ duyên”
hay “vấn đáp” chúng tạo thành cốt cách của lịch sử Thiền;
nhưng những cái này lại mở ngõ cho giải thích của trí thức, có hại
cho sự chín muồi của kinh nghiệm Thiền.
4. Sự sinh trưởng như tằm ăn dâu của thứ mặc
chiếu Thiền kể từ khởi thủy của sử Thiền là mối đe dọa hiểm
nghèo nhất cho kinh nghiệm sống động của Thiền. Cả
hai xu hướng, chủ trương tịch mặc hay phái “mặc chiếu”, và chủ
trương trực giác hay kinh nghiệm trí năng, ngay từ đầu
đã tranh chấp nhau, nếu không công khai thì cũng âm thầm.
Vì những điều kiện đó, các Thiền sư ở thế
kỷ X và XI đã chấp nhận lối tu tập công án cốt để thực
hiện những sứ mệnh sau:
1 Đại chúng hóa Thiền tông để chận đứng bản
chất thượng lưu nó đưa Thiền đến chỗ tự hủy.
2. Mang lại một kích thích mới mẻ cho dòng phát triển tâm
thức Thiền, có thế mới thúc đẩy được sự thuần thục của kinh
nghiệm Thiền.
3. Bẻ gãy sự gia tăng của chủ trương duy trí trong
Thiền;
4. Cứu Thiền khỏi bị chôn sống trong bóng tối của chủ
trương tịch mặc.
Từ những trích dẫn đã được nêu lên ở trên về lối
tu tập công án, có thể nhặt ra các sự kiện tâm thần sau
đây:
1. Công án được đề ra cho người học là để
dẫn tới tâm trạng căng thẳng cực độ.
2. Khả năng biện biệt được gác lại, tức
là đình chỉ hoạt động phù phiếm hơn của tâm trí hầu
cho những phần ách yếu và sâu xa hơn, thường thường vùi
sâu, có thể được khai phát và thành tựu những bổn phận của chúng.
3. Những trung tâm hành sử, vốn dĩ là
nhưng căn cơ của một cá tính, được vận dụng đến mức tối đa để giải
quyết công án. Đây là điều mà Thiền sư nói đến khi ông nhắc đến
“tin lớn” và “nghi lớn” như là hai thế lực cốt yếu nhất cần có để quy
định phẩm tính của một môn đệ Thiền có khả năng. Còn như việc tất
cả người xưa quyết ý dâng hết thân tâm của mình cho sự thành
thục của Thiền, thì điều đó cho thấy cái vĩ đại của lòng tin tưởng
của họ nơi chân lý tối hậu, và cũng chứng tỏ sức mạnh của tinh
thần thám sách của họ, gọi là “Khổ cầu”; cái tinh thần ấy không
từng xao lãng hoạt động cho đến lúc đạt được mục
đích, nghĩa là cho đến lúc hiện chứng được Phật
tính (Buddhatà).
4. Khi sự viên mãn của tinh thần tới tột
độ như thế ở đây nổi bật là một trạng thái trung
tính của tâm thức mà các nhà tâm lý học khảo cứu về ý
thức tôn giáo gọi nhầm ra là “xuất thần”. Trạng thái tâm thức Thiền
này khác hẳn xuất thần vì rằng xuất thần là đình chỉ những thế lực tâm
lý trong khi tinh thần thì đắm chìm trong việc chiêm ngưỡng,
một cách thụ động; trái lại, trạng thái tâm thức của
Thiền là một trạng thái đã được thúc đẩy bởi sự thực tập vô
cùng tích cực của tất cả những khả năng cốt yếu tạo thành một nhân
cách. Ở đây chúng được tập trung hẳn vào một sở tri độc nhất, gọi
là trạng thái Nhất tâm (ekàgia). Nó cũng được coi như là một trạng
thái đại nghi.
Đây là lúc tâm thức thường nghiệm với tất cả nội
dung vừa hữu thức vừa vô thức, đang vượt qua ranh giới của
nó, và bằng trí năng, bắt liên lạc với cái Bất khả
tri, Siêu việt, Vô thức. Trong trạng thái xuất thần, không
có sự xé rào vượt qua như thế, bởi vì nó là một thứ cứu
cánh tĩnh, không cho phép tiến xa thêm nữa. Trong trạng
thái xuất thần, chẳng có tương đương nào với hành vi “nhảy xuống
vực thẳm” hay “buông tay”.
5. Sau hết, cái thoạt tiên có vẻ như đình chỉ tạm
thời tất cả mọi khả năng của tâm thần nay bỗng được chất đầy những tinh
lực mới mẻ chưa từng mơ tưởng đến. Sự biến đổi đột
nhiên này diễn ra thường thường là do tác động của một âm
thanh, một ảnh tượng hay một hình thức của hoạt tính điều động.
Một cái nhìn thấu suốt được phát sinh từ nhưng vùng sâu thẳm ngay giữa
lòng tâm thức, khi một nguồn suối của một đời sống mới đã tuôn
trào, và cùng lúc, công án vén mở những bí mật của nó.
Các Phật tử Thiền tông đề ra một lối giải
thích có tính cách triết lý về những sự kiện tâm thần này
như sau. Khỏi phải nói, Thiền chẳng là tâm lý học hay triết học,
mà là một kinh nghiệm mang đầy ý nghĩa sâu xa và chứa
đầy những nội dung sống động, siêu thoát. Kinh nghiệm là
chung quyết và là quyền năng của chính nó. Nó là chân lý cứu
cánh, không do từ tri kiến thế gian; nó thỏa mãn mọi khát vọng
của con người. Mỗi người phải thực hiện ngay trong chính mình,
không tựa vào những quyền năng bên ngoài. Ngay cả giáo của Phật, thuyết
của Tổ dù có thâm sâu và chân chính đi nữa, chẳng dính gì đến
ai cả nếu như người ta không tiêu hóa chúng thành sinh mệnh của
mình; ấy là nói rằng chúng phải xuất phát ngay từ những kinh
nghiệm riêng tư của mình. Thể hiện được như vậy thì gọi
là ngộ. Tất cả mọi công án là những phát ngôn của ngộ, không
qua trung gian tri thức; đó là cái đặc tính kỳ lạ và khó hiểu
của chúng.
Thiền sư không có riêng một họa đồ cẩn thận hầu phát
biểu sự chứng ngộ cho có vẻ kỳ lạ hay ngang chướng một
cách hợp lý; những phát biểu được nói lên từ bẩm tính của sư như
bông hoa nở mùa xuân hoặc như mặt trời tỏa ánh
sáng. Vì vậy, để thấu hiểu chúng, chúng ta phải như bông hoa
hay mặt trời; phải đi vào bẩm tính của chúng. Khi chúng
ta tái tạo cùng những điều kiện tâm thần ấy - mà từ đấy
các Thiền sư lôi ra cái công án này - chúng ta sẽ
thấu hiểu chúng. Như thế các Thiền sư tránh mọi biện giải bằng ngôn
từ - chúng chỉ được cái việc tạo ra trong lòng các môn đệ một thứ hiếu
kỳ nơi óc não ưa thăm dò huyền bí. Trí thức là một chướng
ngại hiểm trở nhất, đích danh một kẻ tử thù, ít nữa là trong lúc bắt
đầu học Thiền, tạm thời phải tống khứ nó ra khỏi lòng. Công
án quả thực là một khí cụ dẹp suy lý rất tốt. Vì lý
do đó, Thiền chỉ chịu coi trọng nhưng sự kiện tâm thần hơn
là khái niệm. Vì những sự kiện này được kinh nghiệm trực tiếp
và chứng tỏ là hoàn toàn thỏa mãn nên chúng lôi kéo mạnh
cái tâm “Khổ cầu” của Thiền giả.
Vì các sự kiện của kinh nghiệm cá biệt được
coi trọng trong Thiền môn, nên chúng ta có những công
án như "”Đồ chùi cứt khô” của Vân Môn, “Cây bách” của Triệu
Châu, “Ba cân gai” của Động Sơn v.v..., là những chuyện vặt rất quen
thuộc trong đời sống của mọi người. So với những lối diễn tả của Ấn
Độ như: “Tất cả đều Không, không sinh, vượt trên nhân quả” hay “Toàn
thể vũ trụ được chứa đựng trong một hạt bụi”; chúng có vẻ thổ sản Tàu
biết bao!
Do đó, Thiền đáng được coi là có ý hướng bài trừ tri
thức và dẫn tâm thức thường nghiệm của chúng ta đến những
cội nguồn sâu xa của nó. Nếu cốt đạt đến kinh nghiệm trí
năng thuộc một trật tự khác hẳn, chấm dứt mọi việc nỗ
lực khổ cầu của chúng ta, thì phải nghĩ đến cái hoàn
toàn không lệ thuộc những phạm trù tri thức. Nói rõ
hơn, sắc thái đặc biệt của Thiền là cái phi lý ngược ngạo
không thích hợp với lối luận thuật của trí óc. Như thế, tu tập công
án là dòng phát triển đương nhiên của ý thức Thiền trong lịch
sử theo đòi thực tại cứu cánh của nhân loại. Nhờ công
án mà toàn bộ hệ thống của bộ máy tâm thần của chúng
ta được vận dụng để làm chín muồi trạng thái chứng ngộ của tâm
thức.
11. TRUYỆN KÝ NHỮNG KINH NGHIỆM THIỀN
Ở đây ghi lại một vài truyện ký nói về vai trò của công
án trong việc làm chín muồi tâm thức Thiền. Trong THIỀN
LUẬN Bộ Thượng tôi đã đưa ra ba mẫu truyện như vậy.
Chính đấy là nhưng khảo cứu tâm lý, nhưng chủ
đích của tôi ở đây là trình bày vai trò của lối tu tập công
án trong việc việc hành trì của Thiền và nền minh triết của hệ
thống này như đã được các Thiền sư đời Tống canh cải.
Mông Sơn Đức Dị[84] đời thứ tám thuộc dòng Thiền của Ngũ
Tổ Sơn Pháp Diễn (chết năm 1104) kể lại nhưng kinh nghiệm Thiền
của mình như sau:
“Năm 20 tuổi tôi mới quen biết với Thiền, cho
đến 32 tuổi tôi đã thăm viếng 17, 18 Thiền sư, hỏi họ về
cách thực hành pháp môn Thiền, nhưng không ai chỉ ra manh mối.
Sau này, khi đến tìm trưởng lão Huân Sơn, ngài dạy
tới hãy nhìn vào ý nghĩa của “Vô”, và nói thêm “Hãy chăm chú vào chữ
Vô suốt cả ngày đêm không ngừng nghỉ, như con chuột đang rình mèo, như gà mái ấp
trứng. Khi chưa thấy rõ, hãy như con chuột gặm nhấm cái hòm gỗ và đừng
bao giờ xao lãng công phu. Thực hành công phu như vậy, chắc
chắn thời cơ bừng sáng của tâm ngươi sẽ đến.
“Y theo lời dạy này, tôi chăm chỉ thực hành ngày
đem không nghỉ. Rồi trái qua 18 ngày. Bỗng nhiên, khi đang uống trà tôi chợt hiểu
cái cười nụ của Ca Diếp khi Đức Phật đưa lên một cảnh hoa
trước đại chúng. Tôi mừng rỡ khôn xiết; đi cầu một vài vị trưởng
lão của Thiền quyết nghị cho. Nhưng các ngài không trả lời rõ rệt,
có vị bảo tôi hãy dùng Hải ấn tam muội (Sagara-mudra-Samadhi)[85]
mà ấn chứng cả mười phương thế giới, đừng bận lòng đến cái
gì khác. Tôi tin lời này, trải qua hai năm. Niên hiệu Cảnh Định thứ
năm (1265), tháng sau, tôi đang ở tại tỉnh Tứ Xuyên, phủ Trùng Khánh, đang
nguy kịch vì bị bệnh kiết nặng Không còn chút khí lực nào, cả đến Hải ấn
tam muội cũng không giúp gì trong lúc này. Kể cả cái hiểu về Thiền đã tưng
có cũng chẳng giúp tôi được. Lưỡi không chịu nói, thân thể không chịu cử
động; chỉ còn chờ chết là hết. Quá khứ diễn ra trước mắt;
nhưng điều đã làm, những cảnh ngộ đã từng trái: thế là tôi ở trong một trạng
thái tuyệt vọng ghê gớm và hết còn biết cách nào thoát khỏi cái
dày vò của nó.
“Sau cùng, cố gắng tự chủ, tôi phân phó ý muốn của
mình, rồi lặng lẽ đứng dậy, thắp một ít nhang, dọn lại cái bồ
đoàn cũ kỹ; làm lễ Tam Bảo, Thiên Long và thầm sám hối những tội
chướng tiền khiên. Tôi khấn nguyện rằng nếu tôi hết kiếp này thì mong
chờ năng lực của Bát-nhã mà tái sinh trong một gia
đình tốt đẹp và được xuất gia từ khi hãy còn bé bỏng. Nhưng
nếu tôi được lành bệnh, tôi muốn được xuất gia ngay và hiến cả cuộc
đời còn lại để học Thiền. Nếu được giác ngộ, tôi sẽ cứu giúp mọi
người cùng được giác ngộ như mình
“Sau lời khấn nguyện này, tôi đề khởi chữ Vô trong lòng và
quay ánh sáng soi vào trong mình. Không lâu, tôi nghe trong tạng phủ lay động
đôi ba lần, nhưng không để tâm đến; một lúc sau, lông mày tôi nghe cứng
không chịu chớp, và lát nữa tôi hết biết đến thân thể của mình; chỉ
có chữ Vô còn lại trong lòng thôi. Đến chiều, tôi rời chỗ ngồi và thấy bệnh
mình bớt được một nữa; tôi ngồi xuống trở lại cho đến khi gần
sáng. Bấy giờ bệnh hoạn hoàn toàn biến mất. Giờ là đã bình
phục, thân tâm thư thới.
“Tháng 8 năm ấy, tôi đến Giang Lăng thí
phát làm sư. Gần hết một năm, tôi đi hành cước, và lúc đang thổi cơm
thì thấy ra rằng việc tu tập công án phải giữ không gián đoạn và
với công phu liên tục. Rồi tôi đến trú ngụ tại Hoàng Long
“Lần thứ nhất buồn ngủ, tôi vận dụng
ý chí chống lại và vẫn ngồi như cũ, cơn ngủ bị chinh phục dễ
dàng. Lần thứ hai buồn ngủ, tôi tống khứ nó y như trước.
Lần thứ ba cơn buồn ngủ xâm chiếm nặng nề, tôi bước xuống khỏi
chỗ ngồi và đi lễ Phật, nhờ vậy mà thấy tỉnh táo lại. Trở
lại chỗ ngồi và tiếp tục tiến tới. Nhưng sau hết lúc phải đi ngủ
tôi dùng gối kê đầu và ngủ được một chút, sau đó, lấy cánh tay làm gối,
và cuối cùng hoàn toàn khỏi phải nằm dài xuống. Qua hai đêm như
thế đến đêm thứ ba, tôi mệt nhọc đến độ như thấy chân không chấm đất.
Bỗng đâu đám mây mù như che mắt nay được quét sạch, tôi thấy như
vừa tắm xong, hoàn toàn mát mẻ.
“Còn về công án thì nghi tình là nặng nhất
và công án sừng sững ra đấy mà không cần dụng công. Tất cả
những cảm giác ngoại thân, những ngũ dục và bát
phong không còn quấy phá nữa; tự mình trong suốt như một
chén pha lê đầy tuyết như trời thu quang đãng không
mây. Công phu cứ diễn tiến rất tốt đẹp như thế,
nhưng chưa có chút dứt khoát nào.
“Sau đó tôi từ giã chùa du hành sang Chiết
Giang. Dọc đường vì quá nhiều mệt nhọc nên công phu Thiền
theo đó mà phải suy giảm. Tôi đến chùa Thừa Thiên, nơi đây Cô Thiềm hòa
thượng đang trụ trì, và tạm thời dừng chân ở đó.
Tôi tự thệ là sẽ không rời khỏi nơi này cho đến khi
nào lãnh hội được đạo Thiền. Hơn một tháng, tôi lấy lại công
phu đã mất. Bấy giờ khắp mình ghẻ lở; nhưng quyết tâm giữ vững công
phu dù có đánh đổi cả cuộc đời.
“Nhờ thế mà tâm lực được mạnh mẽ thêm nhiều, và biết
cách giữ vững công phu của mình ngay trong lúc bệnh. Một hôm, được mời
đi thọ trai, suốt trên đường đến nhà trai chủ, vừa đi vừa đeo đuổi công
án, mải miết trong công phu tu tập cho tới ngang qua
nhà mà vẫn không hay mình đang ở đâu. Nhờ vậy mà tôi hiểu ra thế nào
gọi là thực hành công phu ngay trong mọi động dụng. Đến đây
thì tâm cơ của tôi như mặt trăng phản chiếu từ lòng
sâu của dòng nước đang chảy; mặt nước tuy chảy xiết, mặt trăng vẫn y
nhiên bất động.
“Ngày mồng 6 tháng 3, tôi đang ngồi trên bồ
đoàn, tâm niệm chữ Vô như thường lệ thì vị tăng thủ toa bước
vào thiền đường. Tinh cờ thầy làm rơi hộp nhang trên nền nhà, khua lên một
tiếng. Tiếng động chợt khơi tỏ tâm mình thấy một viễn tượng tâm
linh mới mẻ, và cùng với tiếng kêu tôi thấu triệt tự thể của
minh, chộp được ông già Triệu Châu (tác giả của chữ Vô). Tôi buột
miệng đọc ngay một bài tụng:
沒 興 路 頭 窮
Một hứng lộ đầu cùng
踏 翻 波 是 水
Đạp phiên ba thị thủy
趙 州 老 超 羣
Triệu Châu lão siêu quần
面 目 只 如 是
Diện mục chỉ như thị
Đường đi chợt hết bước
Dẫm ngược sóng là nước
Già Triệu Châu siêu quần
Mặt mày chẳng chi khác.
Suốt mùa thu, tôi tham vấn các đại
danh tăng như Tuyết Nham, Thối Canh, Thạch
Khanh và Hư Chu. Hư Chu khuyên tôi đến kiếm Hoàn Sơn.
Khi tôi đến gặp Hoàn Sơn, ngài hỏi: “Quang minh tịch chiếu khắp
cả hà sa thế giới - đây há không phải là lời của tú tài Trương
Chuyết?” Tôi sắp mở miệng thì Hoàn Sơn HÉT một tiếng và đuổi tôi đi
chẳng chút lễ độ. Nhờ đấy mà tôi đổi ngược hẳn, va từ đấy, tâm
tôi chuyên chú vào thái độ này của ngài. Khi đi hay ngồi,
ăn hay uống, tâm tôi phó thác vào đó.
“Sáu tháng trôi qua, vào một ngày mùa xuân năm
sau, khi đi dạo từ ngoài thành trở về, vừa bước lên bực thang
đá, thì giá lạnh đóng băng trong óc não từ lâu chợt tan chảy, tôi quên
mình đang đi trên đường. Tôi đi thẳng đến hòa thượng, và
khi ngài lặp lại câu hỏi của tôi trước kia, tôi bèn lật ngược thiền
sàng của ngài. Bây giờ tôi đã hiểu rõ trọn vẹn công
án mà những nút thắt thật là khó nối kết.
“Này các nhân giả: Hãy đi cho trọn lối tham thiền. Giả
sử tôi không bị bịnh ở Trùng Khánh, cuộc đời của tôi lẽ ra đã
trôi xuôi. Cần thiết phải gặp một vị thầy thật là sáng suốt. Hãy
xem cổ nhân đã dốc lòng hăng hái và bền bỉ cả ngày
đêm tham thiền hầu dễ thấu đáo đạo lý cứu cánh của Thiền.
Viên Châu Tuyết Nham Tổ Khâm (chết năm 1287) đệ
tử của Ngô Châu Thạch Khanh, nói về những kinh nghiệm của
mình như sau:
Tôi giã nhà từ lúc lên năm, và khi theo hầu Thầy, nhờ nghe
ngài luận bàn với khách, tôi bắt đầu biết rằng có một thứ gọi là Thiền, dần
dần tin tưởng việc ấy, và cuối cùng đề tâm tham học.
Năm 16 thọ giới làm sư và năm 18 cất bước vân du hỏi Thiền.
Lúc đến ngụ với Song Lâm Viễn, làm các công việc trong chùa từ sáng đến
tối, không bao giờ ra khỏi đất chùa. Ngay dù ở trong liêu chúng hay làm các
công việc của mình, tôi vẫn khoanh tay trước ngực và mặt ngó xuống đất không xa
ngoài ba bước.
“Công án đầu tiên của tôi là VÔ. Hễ khi tâm niệm máy
động tôi dằn ngay nó xuống; tâm ý tôi như một thời băng lạnh, sạch sẽ và mát dịu trong
suốt và không dao động. Một ngày trôi qua nhanh như khảy
móng tay. Không tiếng chuông tiếng trống lọt vào tai.
“Năm 19 tuổi, tôi ngụ tại chùa Linh Ấn, có quen biết với
viên thơ lại Xứ Châu Lai. Ông khuyên tôi: phương pháp của thầy
không linh hoạt, chẳng thành được gì hết. Có hai tướng trong đó; thầy coi
động và tĩnh như là hai thái cực ly cách của tư tưởng. Tự
mình tu tập Thiền, thầy phải ấp ủ nghi tình; vì tùy
theo nghi tình nặng nhẹ mà giác ngộ có sâu cạn.” Được lời
khuyên như thế, tôi đổi công án ra là “Càn thỉ quyết” (đồ chùi
phân). Tôi bắt đầu nghi đông nghi tây khán ngang khán dọc; lại bị tấn công bởi hôn
trầm và tán loạn, tôi không thể có lấy một phút quán tưởng thanh
tịnh. Tôi dời sang chùa Tịnh Từ, nơi đây kết bạn với bảy người, tất cả hăng
hái học Thiền; chúng tôi giao ước không đặt lưng xuống chiếu để
ngủ nghỉ. Có một nhà sư tên là Tu, không giao thiệp với chúng
tôi, nhưng thầy ngồi sững trên bồ đoàn như một cọc sắt cứng chắc. Tôi
muốn nói chuyện với thầy, nhưng thầy không chịu nói.
“Vì suốt cả hai năm tu tập không nằm, thân
tâm tôi hoàn toàn mệt rã. Sau hết, tôi buông xuống ngơi nghỉ như
thường tình. Trong hai tháng sức khỏe phục hồi và tinh thần khôi
phục nhờ thuận theo tính tự nhiên như thế. Thực
ra, tham Thiền không cần thiết phải thành tựu chỉ
bằng vào lối thực hành không ngủ ấy. Tốt hơn nên ngủ say một
ít giờ vào lúc nửa đêm để tâm trí lấy lại sự tươi tỉnh.
“Một hôm, tình cờ gặp Tu ở hành lang, và lần đầu được
nói chuyện với thầy. Tôi hỏi, “Năm rồi, tôi muốn hỏi chuyện thầy, sao thầy cứ
mãi tránh tôi thế?”. Thầy nói, “Một người hăng hái học Thiền, cả đến thì
giờ cắt móng cũng chẳng chịu, hà huống mất thì giờ bàn luận với
kẻ khác?”. Tôi nói: “Tôi đang bị bối rối bởi hôn trầm và tán
loạn; làm sao để chế ngự?” Thầy đáp: “Đó là do thầy không kiên quyết trong
việc tu tập. Hãy dọn bồ đoàn hơi khá cao, và giữ xương sống cho
thẳng, gom hết toan lực nơi mình vào công án. Nói đến hôn trầm và tán
loạn làm gì?”.
“Theo lời khuyên này, tôi thay đổi lối
tu tập, qua ba ngày đêm, thì chứng được một trạng thái không còn
có hai tướng thân và tâm nữa. Tôi cảm thấy mình rất trong suốt linh
hoạt đến nỗi mí mắt mở hẳn ra mãi. Ngày thứ ba, đi kinh
hành ngoài cổng chùa, vẫn thấy mình như đang ngồi kiết
già trên bồ đoàn. Chợt gặp Tu thượng tọa, thầy hỏi: “Thầy làm gì
ở đây?”. Tôi đáp: “Đang cố đạt đạo”. “Thầy nói thế nào là Đạo?” Tôi
không trả lời nổi, mà chỉ làm tăng thêm nỗi phiền muộn trong
lòng.
“Đang muốn trở lại Thiền đường, tôi bước thẳng về
phía ấy thì gặp vị thủ tòa. Thầy hỏi: “Hãy mở rộng đôi mắt ra mà
xem đấy là cái gì?. Nhờ thế, tôi được nung chí. Tôi trở về Thiền đường,
sắp sửa ngồi lên bồ đoàn thì tầm mắt thay đổi hoàn toàn. Một
quãng trời rộng mở ra và đất như tuồng sụp lở. Kinh nghiệm này vượt
ngoài mô tả và hoàn toàn không thể nói cho kẻ khác hay, vì
trong thế gian không có cái gì có thể thí dụ được.
Tôi bước xuống thiền sàng đi tìm Tu Thượng tọa. Thầy rất hài
lòng, không ngớt lặp lại: “Tốt lắm! Tốt lắm!”. Chúng tôi nắm tay
nhau rảo bước dọc theo hàng liễu ngoài cổng chùa. Tôi nhìn chung
quanh, nhìn lên nhìn xuống, biết bao cái thấy nghe trong trời đất nay hiện
ra hoàn toàn khác hẳn; những gì ghét bỏ trước kia, nào vô
minh nào phiền não, bấy giờ thấy vốn chỉ là lưu xuất từ chân
tánh của mình vẫn y nhiên ngời sáng, chân thật và trong suốt.
Tâm trạng này kéo dài hơn một nửa tháng.
“Tiếc thay, thời nay không có một bậc tôn túc sáng
suốt để mà hỏi đạo, nên tôi đã để trạng thái tỏ ngộ này dừng
lại một thời gian. Đây vẫn là một giai đoạn nửa chừng, mà nếu bám chặt lấy
coi như là cứu cánh thì nó sẽ cản trở sự tăng tiến của
cái nhìn thấu đáo đích thực. Những giờ ngủ và thức chưa hợp lại làm một.
Các công án thì hơi hiểu nhờ chút suy luận, ngoài cách đó ra
thì hoàn toàn chịu thua, chúng y như một vách tường sắt, vẫn
không cách gì với tới. Qua nhiều năm theo hầu ngài Vô Chuẩn, nghe
ngài thuyết pháp và xin hỏi khuyên bảo, nhưng không có lời nào mang lại
một giải pháp chung quyết cho mối bất an trong lòng mình.
Trong các kinh điển, trong các ngữ lục của các bậc tôn túc,
tôi không đọc thấy điều gì có thể chữa trị cái tâm bịnh này.
“Mười năm trôi qua như thế mà không thể xóa được
cái tâm chướng nặng nề. Một hôm, đang đi kinh hành trong Phật điện ở Thiên
mục, mắt chợt nhìn thấy một cội bách già ngoài điện. Vừa thấy cội cây già này
thì một tâm cảnh mới mẻ mở bày ra và cái khối cứng chướng ngại bỗng tiêu
tan. Tôi như vừa từ trong bóng tối bước vào ánh sáng mặt trời rực rỡ.
Từ đấy, tôi không còn ấp ủ nghi ngờ với sự sống, sự chết, Phật hay Tổ.
Bấy giờ lần đầu tiên tôi trực nhận cái cốt yếu trong đời sống nội
tâm của Ngài Vô Chuẩn, ngài thật đáng lãnh đủ 30 hèo đích đáng.
Thiết Sơn Quỳnh, đệ tử của Mông Sơn Đức Dị,
kể lại như sau:
“Tôi năm 13 tuổi thì có biết ít nhiều về Phật pháp; năm
18 tuổi xuất gia và 20 tuổi thọ giới làm tăng. Trước
tiên, tôi đến Thạch Sương, ở đây tôi được biết Tường am chủ thường
lúc nào cũng quán chót mũi và nhờ thế giữ tâm mình trong suốt Sau
này, một vị sư tăng từ Tuyết Nham đến có mang
theo “Tọa Thiền Châm Khán” của Ngài. Nhờ đó tôi thấy rằng lối thực
hành của mình là sai lạc. Rồi tôi đến Tuyết Nham, và theo những
lời chỉ dạy của ngài mà chỉ tự mình tu tập về chữ Vô. Đến đêm thứ tư,
mồ hôi tháo cùng mình, nhưng tâm sáng láng minh mẫn. Trong khi ở Tăng
đường, tôi không hề nói chuyện với ai, chỉ chuyên tâm tọa Thiền.
“Sau đó tôi đến kiếm ngài Cao Phong Diệu, ngài nói với tôi rằng:
“Đừng để công phu gián đoạn suốt cả ngày đêm sáu thời.
Hãy thức dậy lúc canh tư và tham cứu công án ngay để
cho nó luôn luôn hiện tiền. Lúc nào mệt và buồn ngủ, hãy đứng dậy đi
kinh hành nhưng lòng vẫn không rời công án. Dù ăn uống hay
làm các công việc trong chùa đừng bao giờ xao lãng công án. Công
phu ngày đêm như vậy, cho đến lúc nhồi thành một khối và chắc
chắn tâm trí sẽ phát huệ”
Ngày 20 tháng 3, Tuyết Nham giảng cho nghe một
bài pháp như vầy:
“Chư huynh đệ! Nếu cảm thấy ngủ gật quá nhiều vì ngồi
lâu trên bồ đoàn, hãy bước xuống đi một vòng quanh Thiền đường,
lấy nước lạnh xúc miệng và rửa mặt; sau đó ngồi trở lại bồ đoàn. Giữ
xương sống thẳng đứng như dốc thẳm cao chót vót, dồn hết công lực vào công
án. Nếu cứ tiếp tục như thế trong bảy ngày, ta đoán chắc rằng sẽ được
tỏ ngộ, vì điều này đã xảy ra cho ta bốn mươi năm về trước”. Tôi y lời khuyên
bảo này và thấy công phu sáng láng và mạnh mẽ khác thường. Ngày thứ
hai, tôi không còn khép mắt được nữa, dù muốn; ngày thứ ba, nghe như mình đi giữa hư
không; ngày thứ tư, không còn bận tới hết thảy công việc thế gian nữa.
Đêm ấy, tôi đứng dựa lan can một lúc, và khi kiểm điểm thì thấy rằng
cõi lòng hoàn toàn trống rỗng, duy chỉ có công
án là hiện tiền. Tôi trở vào và ngồi lại trên bồ đoàn, chợt.
nghe toàn thân từ đầu đến chân vỡ lở như một cái sọ người; y
như được kéo ra khỏi hố sâu rnuôn trượng đưa lên đến hư không. Niềm
vui vô hạn biết bao!
“Tôi trình bày kinh nghiệm này với Tuyết Nham,
nhưng chẳng được ngài ấn khả trọn vẹn. Ngài dạy tôi tiếp tục công
phu như trước. Khi tôi xin ngài chỉ dạy thêm, một trong những điều ngài bảo
cho tôi là:
绍 隆 佛 祖 向 上 事
Thiệu Long Phật tổ hướng thượng sự
腦 後 依 前 欠 一 鎚
Não hậu y tiền khiếm nhất chuỳ
Nếu thật tình muốn đạt đến đạo lý cao siêu của Phật
Tổ, trong óc não vẫn còn thiếu một cái, cái đó là một cái chùy quyết liệt. Hãy
tự nhủ: “Bởi đâu tôi vẫn còn thiếu một chuỳ?” Tôi không thể tin những lời của
ngài được, dù vậy, vẫn có cái bóng nghi ngờ lẩn quẩn trong
tâm. Rồi tôi thản nhiên tiếp tục toạ thiền mỗi ngày như trước,
trong chừng chín tháng nữa.
“Một hôm, nhức đầu và đang chưng thuốc thì một thầy tăng tên
là Giác Mũi Đỏ[86] hỏi tôi làm sao hiểu được chuyện Thái Tử Na
Tra (lóc thịt)?[87]
“Nghe hỏi như thế, tôi nhớ lại là đã từng được thầy tri
khách tên là Ngộ hỏi chuyện ấy mà không thể trả lời nổi. Nhớ lại
như vậy, tức thì phá vỡ được chỗ ngờ.
“Về sau, sau khi Tuyết Nham qua đời, tôi đến Mộng
Sơn, ngài hỏi: “Công phu tham thiền đến chỗ nào thì thấy là cùng tột?”
Tôi chẳng biết ăn nói làm sao; Sơn bèn dạy tôi hãy tự tu tập định lực để
cho bụi bặm của cõi đời hoàn toàn không dấy lên được. Nhưng mỗi khi
tôi bước vào thất của ngài và cố nói một lời thì ngài nhắc ngay: “Thiếu
một cái”. Một hôm, tôi bắt đầu tọa thiền từ giữa chiều và tiếp tục cho
đến giữa mai, nhờ năng lực tràn đầy của định, tôi đạt đến trạng
thai u vi màu nhiệm, lúc bước ra, tôi gặp ngài và kể lại cho ngài nghe.
Ngài liền hỏi: “Bản lai diện mục của ông là gì ?”. Vừa muốn nói,
ngài đóng cửa ngay mặt.
“Từ đó, tôi gắng sức tọa thiền, một ngày một tiến,
và có thể chứng nghiệm nhiều trạng thái màu nhiệm của tâm.
Dù tôi phải chứng kiến ngài Tuyết Nham mất đi quá sớm, trước
khi thâm nhập những vi tế của Thiền, nhưng may thay nhờ sự
hướng dẫn của bổn sư hiện thời mà được bước sâu vào chỗ chứng ngộ.
Sự thực, khi một người hăng hái và khá kiên quyết, những chứng
đắc sẽ đến rất thường và mỗi bước sẽ là một lần lột vỏ.
Một hôm, nhân nhìn vào bài “Tín Tâm Minh” của Tam Tổ Đạo
Tín, tôi đọc thấy câu: 歸 根 得 旨 隨 照 失 宗 “Qui căn đắc chỉ, tùy chiếu thất
tông”. Trở về cội thì được ý chỉ, chỉ theo bên ngoài thì mất bản
tông; thế là thêm một lần lột vỏ nữa. Ngài Mông Sơn bảo:
“Tham thiền cũng như mài dũa một hạt châu; càng dũa càng sáng, càng sáng thì
càng dũa và càng lột những lớp vỏ bên ngoài; đời này đáng giá hơn một
hạt châu”
“Nhưng, hễ khi tôi muốn thốt lên lời ngài lại nói ngay: “Còn
thiếu”. Một hôm đang trầm sâu trong thiền định, chợt đụng đến chữ còn thiếu
này. Tất cả những triền phược xưa kia trói buộc thân
tâm tôi, tức thì tiêu tan hết suốt từng khúc xương và tủy; giống
như thấy mặt trời chói lọi xuyên qua những đám
mây tuyết đọng và bừng sáng. Tôi không kềm chế được, nên nhảy
ngay xuống thiền sàng và chạy đến Mông Sơn, nắm lấy ngài kêu
lên: “Nào, tôi thiếu cái gì nào?” Ngài lắc tôi ba cái, tôi cung
kính lạy dài. Ngài bảo: “Này Thiết Sơn, bao nhiêu năm gắng sức chỉ
vì cái đó, đến nay mới hiểu được”.
Hương Sơn Vô Văn Thông, kế thừa Thiết Sơn
Quỳnh và sau đây là kinh nghiệm của ngài:
“Ban đầu, tôi đến kiếm Độc Ông hòa thượng để học
Thiền, ngài dạy tôi tham cứu: 不 是 心 不 是 佛 不 是 物 (Bất thị tâm, bất thị Phật, bất
thị vật) “Không phải tâm, không phải Phật, không phải vật”. Sau chúng
tôi lập thành một nhóm sáu người gồm Vân Phong, Nguyệt Sơn...,
khuyến khích nhau tập Thiền. Kế đến tôi yết kiến ngài Giáo Vô
Năng, ngài dạy chữ Vô. Kế nữa, tôi đến Trường Lô kết bạn để dốc
chí lẫn nhau. Tình cờ gặp sư huynh Hoài Thượng Kỉnh,
sư hỏi: “Sau nhiều năm học hỏi, ông hiểu Thiền như thế nào?” Tôi đáp:
“Ngày ngày một niệm không móng khởi”. Kỉnh lại hỏi: “Từ đâu ông có ý này?” Tôi
như tuồng hiểu mà chẳng dám trả lời chút nào. Thấy tôi không thấu suốt
chỗ ách yếu, Kỉnh bảo tôi rằng định thì đúng mà động thì hỏng. Tôi ngạc
nhiên và xin thầy chỉ dạy phải tu tập như thế nào để thấu
triệt được chỗ ách yếu. Kỉnh bảo: “Ông có nghe Xuyên Lão nói
không. 要 知 端 旳 意 北 斗 面 南 看 “Yếu
tri đoan đích ý, Bắc đẩu diện Nam khan”. Nói xong, liền bỏ đi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét