Thứ Tư, 2 tháng 10, 2024

Hoàng Đăng Khoa viết để truy vấn nhân tính

Hoàng Đăng Khoa viết
để truy vấn nhân tính

Hoàng Đăng Khoa từng xuất hiện trên văn đàn với danh xưng nhà thơ, trình làng bằng tập thơ Kiếp lá (Nxb. Thuận Hóa, 2005). Sau đó, anh “rẽ ngang”, xuất bản cuốn phê bình văn học đầu tiên, Gặp (Nxb. Quân đội nhân dân, 2016). Từ đó đến nay, tay bút này liên tục “bay đôi”, thậm chí “bay ba” thể loại văn học (thơ, phê bình văn học, tuỳ bút). Tháng 9.2024, Hoàng Đăng Khoa gửi đến bạn đọc cuốn tiểu luận phê bình văn học có nhan đề khá lạ và hấp dẫn Ngắn dần đều (Nxb. Đà Nẵng và Book Hunter). Nhan đề sách cho biết các bài được sắp xếp thứ tự theo dung lượng chữ, chứ không theo thời gian hoàn thành bài viết.
Tập tiểu luận phê bình khai thác những khía cạnh khác nhau của văn học, từ nghệ thuật sáng tạo đến các vấn đề liên quan câu chuyện tiếp nhận, nghiên cứu, phê bình văn học… Nhan đề sách cũng cho thấy, tác giả đã đặt bày cuộc chơi riêng. Bạn đọc sẽ thấy thú vị, gặp bất ngờ trong cái ngẫu nhiên/hứng của sự viết, và ngược lại.
Với cuốn sách này, tác giả khái quát, điểm diện vấn đề hơn là đi vào phân tích tác giả hay tác phẩm cụ thể. Tính khái quát trong các bài viết khá cao, chứng tỏ, Hoàng Đăng Khoa luôn miệt mài tích lũy, đọc nhiều nhớ rộng nên có thể điểm diện hầu hết tên tuổi của nhiều triết gia, nhà lí luận, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng trong và ngoài nước. Trong bài Nghệ thuật của cái nhìn (có dung lượng dài nhất, mang đậm phong cách Hoàng Đăng Khoa), tôi nhận thấy, anh đã viện dẫn hoặc đưa ra nhận xét về 45 tác giả (trong đó có 13 tác giả nước ngoài). Hoàng Đăng Khoa thường chọn một số tác giả tiêu biểu, điểm xuyết tác phẩm của họ trong những nhận định súc tích, sâu sắc và bao quát. Chẳng hạn, để có khoảng hai mươi dòng về văn chương của Hoàng Công Danh, nhà phê bình đã đọc từ tập truyện ngắn đầu tay Cõng nhau trong một cõi người đến tác phẩm   Chuyến tàu vé ngắn của tác giả này. Khi muốn chứng minh một nhận định quan điểm nào, anh thường trích dẫn họ, như kiểu “nói có sách, mách có chứng”…
Điều tối quan trọng và cần thiết cho một tâm thế phê bình là phải đưa ra ý kiến nhận xét của mình một cách thuyết phục. Chẳng hạn, trong tiểu luận Người viết trẻ có đáng bị bắt bẻ, anh viết: “Không ai phủ định vốn sống thực tế là tài sản vô giá đối với người viết. Nhưng, nói như nhân vật nữ chính trong tiểu thuyết Người tình của nhà văn người Pháp Marguerite Duras thì ‘Tôi cảm nhận trước khi trải nghiệm’. Phải, nếu anten tâm hồn đủ thính nhạy, nếu vốn sống tưởng tượng đủ phong phú, thì chủ thể sáng tạo không cần phải ‘trải nghiệm’ thực tế cũng có thể ‘cảm nhận’ được những nông nỗi cắc cớ đời. Và nhà văn ngày nay, để chinh phục được con người thời đại, còn cần đến cả vốn sống tri thức sách vở…”. 
Hoàng Đăng Khoa thể hiện là một cây bút phê bình khẳng khái, thẳng thắn, anh không ngần ngại phản bác/ phản biện, kể cả đó là ý kiến của những “bậc trưởng thượng” trong văn giới: “Tôi thỉnh thoảng lại đọc đâu đó thấy các bậc trưởng thượng chê nhà văn trẻ là vừa nghèo vốn sống vừa lười làm văn. Nhưng đọc văn của những người thích chê ấy thì tôi chẳng thấy ‘vốn sống’ cũng chẳng thấy ‘văn’ đâu. Đọc truyện ngắn Bên dòng sông của Triều Dương chẳng hạn lại thấy văn đẹp, chắc đặc, và người viết thì mới 21 tuổi đầu nhưng cứ như đã sống cả mấy kiếp”. Khi có ý kiến bài bác “đề tài vụn vặt” trong văn chương Việt, anh phát biểu: “Tôi nghĩ, ‘tầm cỡ’ hay ‘tài năng và nhân cách’ của nhà văn không phụ thuộc vào ‘đề tài’ anh ta lựa chọn, mà phụ thuộc vào cách anh ta tiếp cận và xử lý đề tài đó. Tất thảy những gì thuộc về cuộc đời cuộc người này đều là nguồn đề tài đắc dụng của văn chương, và mọi đề tài đều bình đẳng trên một mặt sân giá trị”. Chính chủ kiến, tư duy phản biện đã làm nên một gương mặt phê bình uy tín.
Tác giả cuốn sách đặc biệt quan tâm đến văn đàn nước ta trong “gần 25 năm đầu thế kỉ XXI, mà chủ yếu là ở thập niên thứ hai”, trong đó, anh đặc biệt “ưu ái” các tác giả trẻ (từ 7x đến 10x) và những diễn ngôn sáng tạo mới mẻ của họ. Anh điểm diện hầu như đầy đủ tên tuổi của các cây bút đó. Anh nhìn thấy họ có “trữ lượng chữ vạm vỡ”, họ là “những tay bút đa năng, nhiều trong một”. Anh bao quát “sân trẻ”, nỗ lực làm cuộc tổng kiểm kê về văn trẻ.
Đối với các nhà phê bình, Hoàng Đăng Khoa cũng “chú mục” vào những cây bút cùng lứa. Trong bài: Đôi nét về thế hệ nữ chủ đạo nghiên cứu phê bình văn học hiện nay, anh đưa ra những nhận định thẳng thắn, xác đáng: “Văn nghiên cứu phê bình của các cây bút nữ thường khi tròn trịa, ‘phải đạo’, thiếu giọng, ít góc cạnh, ít cá tính. Những đầu sách đã xuất bản của họ đa phần được ‘chuyển thể’ từ luận văn, luận án, đề tài khoa học. Vì ‘tiền thân’ là luận văn, luận án, đề tài, nên những cuốn sách đó không nhiều hàm lượng tư kiến, chủ kiến, ‘của riêng’ tác giả; nặng về hàn lâm nghiên cứu, ít bay bổng thăng hoa phê bình. Trong số nhà nghiên cứu phê bình 7x, 8x có thể gọi là chuyên nghiệp thì cũng rất hiếm người đủ chuyên sâu và thành tựu để có thể gọi là chuyên gia về một lĩnh vực hẹp nào đó… Trên mặt bằng chung ấy, những ‘đốm sáng’ như Dám ngoái đầu nhìn lại của Nguyễn Thị Tịnh Thy, Âm thanh của tưởng tượng của Lê Hồ Quang hay Bày cuộc thơ của Đinh Thanh Huyền thực sự không nhiều. Những ‘của hiếm’ này cho thấy sự thông tuệ lịch duyệt, sự dấn nhập thấu triệt cũng như sự độc lập tự chủ về tư duy, tri kiến, ngôn từ… của chủ thể nghiên cứu phê bình”.
Hoàng Đăng Khoa luôn tích cực cổ xúy cho thơ cách tân và bản thân anh cũng thử nghiệm những cách viết mới mẻ. Chúng ta cứ đọc những lời đề từ trước mỗi tiểu luận của anh cũng có thể hình dung được phần nào phong cách thơ của Hoàng Đăng Khoa. Anh quan sát những nhận định trái chiều về cách tân thơ và thơ cách tân nên đã dùng những cụm từ đối nghĩa ngữ cảnh để gọi tên hai thái cực ấy:“Vô nghĩa”, “hũ nút” hay “có nghĩa”, “tạo sinh nghĩa”? “Phá chữ” hay “phu chữ”? “Làm bẩn chữ” hay “dân chủ chữ”, “táo bạo chữ”? “Vong bản” hay “dân tộc”? “Nhai lại bã phương Tây” hay “học hỏi cái mới phương Tây”? “Vác thang hiện thực chạy bộ” hay “vỗ cánh siêu thực bay”? “Cách tân” hay “giết thơ”? “Thơ đến tận cùng” hay “phản thơ”?…
Quan niệm của anh về cách tân thơ và thơ cách tân chắc chắn được nhiều người đồng tình: “Cách tân đích thực khác xa với phá bĩnh, với cách tân vô điều kiện”; “Những nhà văn sáng tác trên phông nền văn hoá tư tưởng triết mĩ vững chắc, làm chủ các lí thuyết hiện đại trên thế giới… khác xa với những người viết học đòi bắt chước tung hỏa mù hòng lòe bịp thiên hạ”. 
Khi đưa ra một luận điểm, Hoàng Đăng Khoa thường viện dẫn ít nhất vài ba minh chứng xác tín, cụ thể, rõ ràng với một cấu trúc “X/Y/Z … đã nói như thế” mà X,Y, Z đều là những nhân vật đáng tin cậy. Cách viết ấy vừa khoa học vừa tạo nhịp điệu và làm mềm hóa câu văn. Chẳng hạn, khi bàn về chủ đề nỗi buồn trong văn chương, anh viết: “Thảy hết đều có thể giải quyết, ‘chỉ có nỗi buồn là vô phương cứu vãn’ – nhà văn người Nhật Bản Dazai Osamu đã nói như thế. ‘Tất cả đều tủn mủn/ chỉ riêng khổ đau là hoành tráng’ – nhà thơ Dương Tường đã nói như thế. Mọi thứ đều là thoáng chốc, ‘chỉ có cô đơn là vĩnh hằng’ – nhà văn người Colombia Gabriel García Márquez (Nobel văn chương 1982) đã nói như thế”… Cách diễn đạt của Hoàng Đăng Khoa gọi về tên một cuốn sách “kinh điển” của Friedrich Nietzsche: Zarathustra đã nói như thế.
Tập sách “Ngắn dần đều” của Hoàng Đăng Khoa
Nhiều tên sách, tên bài tiểu luận của Hoàng Đăng Khoa cũng sử dụng trò chơi liên văn bản, gây ấn tượng với người đọc. Ví dụ, nhan đề cuốn sách trước của anh – Đứng về phe cái khác là có sự liên văn bản với bài thơ một câu nổi tiếng Tôi đứng về phe nước mắt của Dương Tường. Hoặc tên bài viết Bản sắc, như là mĩ học của cái khác là nhằm liên với cuốn tiểu luận phê bình nặng kí của Đỗ Lai Thúy: Thơ như là mĩ học của cái khác. Hay như tên tiểu luận Nhà văn thì đọc gì là liên với tên tập tạp văn Nhà văn thì chơi với ai của Nguyễn Việt Hà…
Hoàng Đăng Khoa thường chọn những chữ, những tác phẩm có sẵn để kết nối cho việc diễn giải nhưng hết sức tự nhiên, hợp lí, ăn nhập với vấn đề định nói. Ví dụ: “Ở nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao, tín hiệu của tính người được phát lộ vào khi tưởng chừng như đã bị triệt tiêu để nhường chỗ cho linh hồn quỷ dữ. Còn nhân vật chính trong tiểu thuyết Thoạt kì thuỷ của Nguyễn Bình Phương tên Tính nhưng xem ra ‘tuyệt không dấu vết’ tính người. Nam Cao xiển dương tình người đã có mặt kịp thời cứu sống tính người. Nguyễn Bình Phương cảnh tỉnh về nguy cơ băng hoại tính người vì sự ‘đi vắng’ của tình người”. Ở đây, Tuyệt không dấu vết là tên một cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, và Người đi vắng là tên một cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương.
Khi nhận định về thơ Minh Anh, Hoàng Đăng Khoa đã dùng những chữ có sẵn của cô trong ngoặc kép để diễn đạt đúng ý mình muốn nói: “Minh Anh bao dung chấp nhận tất cả sự ‘thô ráp’, ‘thô sơ’, ‘trần trụi’, ‘khiếm khuyết’, ‘dang dở’ của suy tưởng cũng như của ngôn từ, miễn là ‘chân thật’, ‘tự nhiên’, ‘nguyên thủy’… Thơ Minh Anh là ‘nghệ thuật của viết xuống’, áp sát cuộc sống, áp sát tiếng lòng. Mỗi lần cử hành nghi lễ ‘nghệ thuật của viết xuống’, thì ‘từ bản năng tự nhiên, từ sâu thẳm bên trong, tôi bước ra như một đứa trẻ chân thành một lần nữa’…”.
Hoặc, đánh giá Nguyễn Huy Thiệp, anh viết: “Nguyễn Huy Thiệp đến rồi đi, như ‘mưa Nhã Nam’, ‘như những ngọn gió’, khuấy đảo, tưới tắm lên cánh rừng văn Việt. ‘Muối của rừng’ kết đọng chắc hẳn sẽ loang thấm mặn mòi đến nhiều mùa sau. Ở đây, những chữ trong ngoặc đều là tên tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.
Tôi tâm đắc với cách diễn đạt sử dụng các cặp từ cùng trường nghĩa gây ấn tượng của Hoàng Đăng Khoa, như: vô chiêu – xuất chiêu; đường biên – vô biên… Chẳng hạn, khi bàn về thơ cách tân, anh viết: “Hồn nhiên tự nhiên là một biểu hiện đắc đạo của thơ, lúc này thơ tưởng như vô chiêu nhưng thực ra là sự xuất chiêu của một nội lực sung mãn thâm hậu”; “Đường biên của văn chương đang giãn mở, nhưng không có nghĩa là sẽ giãn mở đến vô biên, đến không còn là văn chương”…
Khoa thích cách diễn đạt hình ảnh: “Thiết nghĩ nếu không có đôi mắt được phát quang đến thoáng đãng trong veo, nếu không có tấm lòng được dọn dẹp đến thơm tho tinh sạch, thì Murakami khó có thể nhìn thế giới bằng ngôn từ một cách xuân mởn như thế”. Hoặc cách diễn đạt sử dụng một loạt từ Hán Việt trong đoạn văn sau cũng khiến người đọc lưu tâm: “Phải, văn chương nên thường xuyên biết phản tư, biết giải đại tự sự, lẩy hú hoạ những ‘ví dụ xoàng’, bớt tham vọng đúc kết khái quát… để trả con người từ tổng phổ cộng đồng về lược phổ cá nhân, từ trạng thái trời về trạng thái người, để giúp con người biết len sâu vào những tiểu ngạch của thế giới và bên trong chính mình nhằm bảo trì ý thức làm người. Văn chương chân chính là văn chương truy vấn về nhân tính”.
Điều khó nhất của một tiểu luận phê bình, theo tôi là chọn lựa nhan đề và lập hệ thống ý. Nhan đề bài viết phải mang chủ đề chung và mỗi mục là một chủ đề bộ phận phục vụ cho chủ đề chủ đạo; phần mở dù gián tiếp hay trực tiếp cũng phải giới thiệu khái quát được nội dung cần trình bày. Nghe có vẻ đơn giản thế, nhưng không phải người viết nào cũng làm được (nhất là những người viết dễ dãi theo cảm tính). Ở khía cạnh này, Hoàng Đăng Khoa đã thành công.
Trong bài: Biểu đạt giới trong “Cánh đồng bất tận” và “Chúa đất” – những tương đồng gặp gỡ, tôi rất tâm đắc với phần mở (khái quát được nội dung trình bày) và những tên mục (có sự đẳng cấu cấu trúc ngữ pháp và ngữ nghĩa) như: (1) “Khúc bi ca về thân kiếp đàn bà”, (2) “Khúc hoan ca về khoái lạc và tinh thần nổi loạn”, (3) “Khúc tụng ca về nhân vật nữ tận thiện tận mĩ. Cách viết khoa học ấy sẽ giúp cho độc giả nếu không có thời gian đọc hết thì vẫn có thể nắm được nội dung cơ bản của cả bài viết.
Hoàng Đăng Khoa quan sát thấy: “Nhiều người viết nghiên cứu phê bình cốt tải được ý mà không chú trọng nắn nót, sáng tạo câu chữ. Nhiều người lại say sưa ‘làm chữ’ quá mức, dẫn đến làm mệt, làm khó người đọc trong việc nắm ý”. Khi nghiên cứu phê bình văn học, anh luôn ý thức về sự chặt chẽ, hài hòa giữa nội dung cần biểu đạt với phương thức và phong cách diễn ngôn, bởi nếu khuyết thiếu một trong hai thứ đó đều chưa đạt tới tiêu chí của một cây bút phê bình chuyên nghiệp. Anh kiến tạo một phong cách phê bình độc đáo và trở thành gương mặt phê bình sáng giá của thế hệ 7x.
Ngắn dần đều bàn về nhiều vấn đề của nghệ thuật sáng tạo và tiếp nhận, nhưng mục đích sáng rõ nhất mà tác giả khuyến dụ bạn đọc là hướng đến những giá trị mới mẻ của văn học, dân tộc, hiện đại, mang tính nhân văn cao cả. Sáng tạo thơ, viết tiểu luận, phê bình văn học với Hoàng Đăng Khoa là cuộc truy vấn nhân tính, nhằm “bảo trì ý thức làm người”, và làm người viết.
Hà Nội, 1/9/2024
Hoàng Kim Ngọc
Theo vnhttps://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Thái Âm Phù Huy Khiêm đang cắm cúi đào cái ao cá sau vườn. Từ ngày mẹ mất, anh sống trơ trọi với căn nhà nhỏ tồi tàn nằm khuất sâu tro...