Thứ Ba, 1 tháng 10, 2024

Nguồn gốc các loài 3

Nguồn gốc các loài 3

CHƯƠNG VII
Bản năng
Bản năng có thể so sánh được với thói quen, nhưng khác biệt về nguồn gốc - Bản năng đã thay đổi -Các con rệp vừng và kiến - Các bản năng có thể biến đổi - Các bản năng trong điều kiện thuần hóa, nguồn gốc của chúng - Bản năng tự nhiên của chim cu cu, ostrict, và ong nghệ - Kiến thợ - ong, và bản năng xây tổ của nó - Những khó khăn liên quan tới lý thuyết về sự lựa chọn tự nhiên của bản năng - Các con côn trùng vô tính và không có khả năng sinh sản - Tổng kết
Chủ đề về bản năng có thể hữu dụng trong các chương trước, nhưng tôi nghĩ là sẽ tốt hơn nếu thảo luận chủ đề này một cách riêng rẽ, đặc biệt là khi bàn về bản năng xây tổ tuyệt vời của các con ong, và bản năng này đối với nhiều bạn đọc có lẽ sẽ là một khó khăn đủ lớn để có thể quang bỏ đi lý thuyết của tôi. Phải nói trước rằng tôi không có liên quan gì tới nguồn gốc của các sức manh tinh thần chủ đạo, hơn là với sức bản thân sức mạnh của cuộc sống. Chúng ta chỉ quan tâm tới tính đa dạng của bản năng và các đặc tính tinh thần khác của các coấn động vật thuộc cùng lớp.
Tôi không có ý định đưa ra bất cứ định nghĩa nào về bản năng. Chúng ta có thể dễ dàng chứng minh là vài biểu hiện xúc cảm được xếp vào dạng bản năng; nhưng tất cả mọi người đều hiểu nó có nghĩa là gì, khi người ta nói bản năng thúc đẩy con chim cu cu di cư và đẻ trứng trên tổ của các con chim khác. Một hành động mà bản thân chúng ta cần phải trải qua và có kinh nghiệm mới thực hiện được, khi được thực hiện bởi một con vật, nhất là bởi con con, không có trải nghiệm nào, và khi được thực hiện bởi nhiều con vật theo cùng một cách, không biết với mục đích gì để chúng thực hiện hành động này, thì thường được coi đó là mang tính bản năng. Nhưng tôi có thể chứng minh là không một đặc điểm nào của bản năng là phổ biến. Như ông Pierre Huber phát biểu, một phần nhỏ của phán xét và lý lẽ, thường có vai trò nhất định, thậm chí trong các con vật rất bé nhỏ trong tự nhiên.
Frederick Cuvier và vài nhà tâm lý học khác đã so sánh thói quen với bản năng. Sự so sánh này, tôi nghĩ, đưa ra một quan niệm chuẩn xác đáng chú ý về khung của tư duy mà trong đó một hành động bản năng được thực hiện, nhưng cho biết nguồn gốc của nó. Có biết bao hành động vô thức theo thói quen được thực hiện, thực sự là có những đối nghịch với mong muốn có ý thức của chúng ta! Nhưng chúng có thể được thay đổi bởi mong muốn và lý lẽ. Các thói quen có thể dễ dàng trở nên liên quan với nhau, và với các khoảng thời gian và tình trạng cơ thể nhất định. Khi đã hình thành, chúng thường không thay đổi trong suốt quá trình tồn tại. Vài điểm giống nhau giữa thói quen và bản năng có thể chỉ ra được. Khi hát lại một bài hát nối tiếng, như thế trong bản năng, một hành động này kế tiếp hành động khác bởi giai điệu; nếu một người bị ngat khi đang hát giữa chừng; hay khi đang lặp lại một điều gì đó theo thói quen, anh ta thông thường buộc phải quay trở lại từ đầu để khôi phục lại chuỗi ý nghĩ quen thuộc: như là ông p. Huber phát hiện ra với một con bướm con, mà tạo ra một cái cái võng rất phức tạp; bởi vì nếu ông lấy một con bướm con đã xây xong cái võng của nó, cứ cho là sáu tầng và đặt nỏ trong một cái cái võng chỉ có ba tầng thì con bướm con này đơn thuần chỉ thực hiện xây lại nốt tầng bốn, năm và sáu. Còn nếu một con bướm con lấy ra khi nó đang xây, cứ cho là ba tầng và đặt nó vào một cái cái võng xây xong sáu tầng sao cho phần lớn công việc đã làm hộ nó, không hề cảm thấy có lợi gì cả, nó cảm thấy xấu hổ và để hoàn thành cái cái võng của mình, nó có vẻ ép bản thân bắt đầu từ tầng thứ ba, nơi mà mà nó đang dang dở, và do đó cố gắng hoàn thành công việc đã được hoàn thành.
Nếu chúng ta giả định bất cứ hành động theo thói quen nào được di truyền - và tôi nghĩ nó có thể chứng minh thực tế này đã xảy ra - thì sự giống nhau giữa cái ban đầu là một thói quen và một bản năng trở nên rất gần gũi tới mức không thể phân biệt. Nếu thiên tài Mozart, không chơi pianô lúc ba tuổi khi hầu như chưa thực hành gì, mà chơi bản nhạc đúng như kiểu không thực hành, ông ta đã có thể được nói thực sự chơi theo bản năng của mình. Nhưng chúng ta sẽ mắc phải một lỗi nghiêm trọng khi giả định rằng nhiều bản năng hơn có được nhờ vào thói quen trong một thế hệ, và sau đó chuyển lại nhờ vào di truyền cho các thế hệ kế tiếp. Người ta có thể chứng minh rõ ràng những bản năng tuyệt vời nhất mà chúng ta biết tới, những bản năng của con ong và kiến, không thể học được.
Mọi người đều công nhận bản năng là quan trọng như cấu trúc hiện hữu hình đối với lợi ích của mỗi loài, trong điều kiện sống hiện tại của nó. Trong điều kiện sống thay đổi, ít nhất có thể là các biến đổi nhỏ của bản năng có thể có lợi cho một loài; và nếu người ta chứng minh được các bản năng thực sự thay đổi ít thì tôi không thấy có khó khăn nào để sự lựa chọn của tự nhiên duy trì và tích tụ liên tục các biến đổi của bản năng tới mức độ có lợi. Tôi tin chính như thế mà tất cả các bản năng phức tạp nhất bắt nguồn. Vì các chỉnh đổi của cấu trúc hữu hình xuất hiện, được tăng lên bởi việc sử dụng hay thói quen, và bị làm suy giảm hoặc mất đi bởi sự không sử dụng, tôi không nghi ngờ bản năng cũng tưcmg tự thế. Nhưng tôi tin các ảnh hưởng của thói quen chi là phụ nếu so với các ảnh hưởng của sự lựa chọn tự nhiên của cái có thể được gọi là các biến đổi ngẫu nhiên của bản năng; chính là những biến đối hình thành từ những nguyên nhân chưa biết tới tạo ra các sai lệch nhỏ của cấu trúc cơ thể.
Không một bản năng phức tạp nào có thể được tạo ra bởi sự lựa chọn của tự nhiên, trừ khi bởi sự tích tụ chậm chạp, dần dần, các biến đổi nhỏ bé nhưng có lợi. Do vậy như trong trường hợp của cấu trúc cơ thể, chúng ta phải tìm ra trong tự nhiên, không phải các là các sự chuyển hóa thực sự mà thông qua đó các bản năng phức tạp được hình thành - bởi vì những cái đó chỉ có thể tìm thấy trong các cá thể khai sinh của mồi loài - nhưng chúng ta phải tìm thấy trong các nhánh con cháu sau này vài bằng chứng cho những kiểu chuyển đổi như vậy; hoặc ít nhất chúng ta phải có thể chứng minh những thay đổi của vài dạng loại là có thể xảy ra; và điều này là chúng ta chắc chắn có thể làm được.. Tôi đã vô cùng ngạc nhiên khi tìm ra, tính đến cả các bản năng của động vật ít được quan sát trừ ở châu âu và Bắc Mỹ, và cả không bản năng nào được biết tới trong sổ các loài đã bị tuyệt chủng, rất thường xuyên các bước chuyển hóa dẫn tới sự hình thành các bản năng phức tạp nhất có thể tìm ra được. Quan điểm của Natura non facit saltum áp dụng được với độ thích hợp gần như tưorng tự cho các bản năng của các bộ phận cơ thể. Sự thay đổi của bản năng có thể đôi khi được trợ giúp bởi cùng loài có các bản năng khác biệt trong các giai đoạn sống khác nhau, hay trong các mùa khác nhau của năm, hay ở trong các tình huống khác nhau...; trong trường hợp đó hoặc một bản năng này hay bản năng khác được sự lựa chọn của tự nhiên duy trì. Và như thế tính đa dạng của bản năng trong cùng loài có thể được chứng minh xuất hiện trong tự nhiên.
Một lần nữa như trong trường hợp cấu trúc cơ thế, và khá đúng với lý thuyết của tôi, bản năng của mỗi loài là có ích cho bản thân chúng; nhưng như chúng ta được biết, không bao giờ tạo ra chỉ tốt cho các loài khác. Một trong những ví dụ cụ thể nhất về một động vật thực hiện một hành động chi có lợi cho một con khác, mà tôi quen thuộc, là aphide sằn sàng tiết chất ngọt cho loài kiến: chúng tự nguyện làm việc này như thế nào thì xin mời các bạn xem sự miêu tả này của tôi. Tôi loại ra tất cả các con kiến từ một nhóm khoảng mười hai con aphide trên một phiến lá cây, và không cho chúng tụ họp lại trong vòng vài giờ. Sau khoảng thời gian này, tôi cảm thấy chắc chắn rằng con rệp vừng muốn tiết chất dịch ngọt. Tôi quan sát chúng một lúc qua kính hiển vi, nhưng không con nào tiết dịch cả; tôi sau đó vuốt ve chúng bằng một sợi tóc theo đúng một cách giống nhất như kiểu của con kiến sử dụng ăng ten của nó đối với con rệp vừng; nhưng cũng không con nào tiết dịch. Sau đó, tôi để một con kiến chạy vào chỗ các con rệp vừng, và nó ngay lập tức có vẻ như, thông qua sự phấn khích chạy quanh của nó, nhận biết rõ có một đám rệp vừng rất đông; con kiến bẳt đầu trò chơi ăng ten của nó trên bụng của từng con aphis, và mỗi con rệp vừng, sau khi cảm nhận ăng ten, ngay lập tức nâng bụng của nó và tiết ra một giọt chất lỏng ngọt, mà con kiến vô cùng thích thú khi hút vào. Thậm chí là những con rệp vừng nhỏ cũng làm như vậy, chứng tỏ rằng hành động này là mang tính bản năng, không phải là đúc rút từ kinh nghiệm. Nhưng do chất dịch này vô cùng dính, có lẽ tiện lợi cho con rệp vừng nếu tách bỏ đi chất dịch đó; và có lẽ là con rệp vừng theo bản năng tiết chất dịch không chỉ tốt cho kiến. Mặc dù tôi không tin rằng có bất cứ động vật nào trên thế giới này thực hiện một hành động chỉ tốt cho con khác của loài riêng rẽ; nhưng mỗi loài cố gắng tận dụng các bản năng của con khác, như mỗi con tận dụng cấu trúc cơ thể yếu hơn của các con khác. Do đó một lần nữa, trong vài trường hợp, những bản năng nhất định không thể được coi là hoàn hảo tuyệt đối; nhưng vì chi tiết về các điểm này và điểm khác không phải là không thể thiếu, chúng có thể bỏ qua ở đây.
Như mức độ nào đó của biến đổi của bản năng trong điều kiện tự nhiên, và sự kế thừa của những biến đổi như vậy, là không thể thiếu đối với tác động của sự lựa chọn tự nhiên, như nhiều ví dụ có thể được đưa ra ở đây; nhưng do thiếu thời gian và giấy bút đã cản trở tôi. Tôi chỉ có thể khẳng định chắc rằng các bản năng thực sự là thay đổi -chẳng hạn như bản năng di trú, trong cả phạm vi và phương hướng, và trong toàn bộ sự mất mát của nó. Tương tự như thế với tổ của các con chim, mà một phần thay đổi phụ thuộc vào các tình huống lựa chọn, và vào thiên nhiên và nhiệt độ của đất nước cư cư trú; nhưng thường do nguyên nhân chúng ta không biết; ông Audubon đã đưa ra một vài trường hợp đáng chú ý về sự khác biệt trong các tổ của cùng loài thuộc miền Bẳc và Nam nước Mỹ. Sự sợ hãi kẻ thù nhất định chắc chắn là một đặc tính của bản năng như có thể tìm thấy trong những con chim non, mặc dù nó mạnh thêm thông qua kinh nghiệm, và bởi sự sợ hãi chính kẻ thù của các con vật khác. Nhưng nồi sợ con người dần dần thu được, như tôi ở đâu đó đã chứng minh, bởi rất nhiều cá thể ngụ cư trên các đảo hoang vắng; và tôi có lẽ đã nhìn thấy một ví dụ như thế, thậm chí ở nước Anh, trong sự hoang dại hơn của tất cả các con chim lớn so với của con chim nhỏ hơn của chúng ta; bởi vì những con chim lớn thường bị con người quấy nhiễu. Chúng ta hoàn toàn có thể coi tính hoang dã hơn của các con chim lớn là do nguyên nhân nêu trên; bởi vì ở trên những đảo không có người ở, những con chim lớn không đáng sợ hơn những con chim nhỏ; con chim ác là, hết sức thận trọng ở nước Anh, được thuần hóa ở Na Uy, giống như con quạ màu ở Ai Cập.
Cấu trúc thông thường của của các cá thể cùng loài, sinh ra trong tế giới tự nhiên, là vô cùng đa dạng có thể chứng minh bằng vô số thực tế. Vài trường hợp về thói quen bất thường của một số loài nhất định có thể đưa, những cái nếu có lợi thì có thể sẽ tạo điều kiện phát triển, thông qua sự lựa chọn của tự nhiên, những bản năng hoàn toàn mới. Nhưng tôi nhận thức đầy đủ rằng những lời tuyên bố chung này, nếu không có các chứng cứ đi kèm, khó có thể làm người đọc tin tưởng. Tôi chỉ có thể lặp lại sự đảm bảo của tôi rằng tôi không nói nếu không có chứng cứ xác thực.
Khả năng, thậm chí là xác suất, của các biến đổi được di truyền của bản năng trong điều kiện tự nhiên sẽ được làm mạnh thêm bởi việc xem xét một vài trường hợp trong điều kiện thuần hóa. Chúng ta sẽ không có khả năng đế nhận ra những phần tưomg ứng mà thói quen và sự lựa chọn của cái gọi là các biến đổi ngẫu nhiên đã đóng vai trò trong chỉnh đổi các đặc điểm tư duy của các con vật thuần hóa của chúng ta. Một số vì dụ gây tò mò nhưng đáng tin cậy về sự di truyền tất cả các hình dạng của cấu trúc và sở thích, và tưomg tự như thế những mưu mẹo, mánh khóe kỳ lạ nhất, liên quan đến khung tư duy trong những giai đoạn nhất định có thể được đưa ra. Nhưng chúng ta hãy nhìn vào các trường hợp tương tự của vài giống chó: người ta không thể nghi ngờ là những con chỏ săn non (chính tôi đã biết một ví dụ đáng kinh ngạc) sẽ đôi khi chỉ thậm chí là hỗ trợ những con chó khác ở những lần đầu tiên được mang ra ngoài; tha mồi về chắc chắn là trong một mức độ nào đó đã được di truyền lại bởi loài chó tha mồi; và khuynh hướng chạy xung quanh, thay vì ở một chỗ, đàn cừu bởi con chó chăn cừu. Tôi không thể biết rằng những hành động này, được thực hiện bởi những con chó non chưa hề tiếp xúc với thế giới bên ngoài, và trong cách gần-như tương tự của mỗi cá thể, được thực hiện với sự sung sướng bởi mỗi giống, và mục đích cũng không được biết -bởi vì con chó săn con không biết hơn là nó đánh hơi tìm mồi để giúp chủ nhân của nó, so với con bướm trắng biết tại sao nó đẻ trứng trên lá của cải bắp - Tôi không thấy rằng những hành động này cơ bản là khác nhau khi xét trên góc độ của bản năng thực sự. Nếu chúng ta bắt gặp một loại sói, khi còn bé và chưa được huấn luyện, ngay khi nó trông thấy con mồi, nó đứng yên một chỗ không động đậy gì như là một bức tượng, và sau đó bò từ từ đến với tư thế lạ lùng; và loại sói khác thì chạy xung quanh đàn hươu, thay vì đứng yên một chỗ, và đưa chúng tới một nơi xa, chúng ta chắc chắn có thể gọi đây là những hành động bản năng. Bản năng thuần hóa, như chúng ta có thể gọi nó, thì kém cố định và kém không thay đổi hơn nhiều như bản năng tự nhiên; nhưng chúng lại bị ảnh hưởng bởi sự lựa chọn kém mãnh liệt hơn nhiều; và đã được truyền lại trong một khoảng thời gian ngắn không gì có thể so sánh được, trong điều kiện sống ít cố định hơn.
Những bản năng thuần hóa, thói quen và cấu trúc này được di truyền mạnh mẽ như thế nào và chúng trờ nên hòa lẫn vào nhau một cách đáng tò mò như thế nào, được thể hiện đầy đủ khi những giống chó khác biệt được lai với nhau. Mọi người biết rằng một sự lai ghép với chó bun đã ảnh hưởng tới sự dũng cảm và cứng rắn của chó săn thỏ qua nhiều thế hệ; một sự lai ghép với chó săn thỏ đã mang tới cho toàn bọ họ nhà chó chăn cừu xu hướng săn thỏ "rừng. Những bản năng thuần hóa, được thử nghiệm bằng cách lai ghép, giống với bản năng tự nhiên, mà trong cách tuông tự trở nên hòa trộn vào với nhau một cách thú vị nhưng khó hiểu, và trong một thời gian dài thể hiện dấu vết của bản năng bố hoặc của mẹ: ví dụ như, ông Le Roy miêu tả một con chó, mà cụ của nó là chó sói, và con chó này chỉ thể hiện tính hoang dã của bố mẹ chúng theo đúng một cách, không đi theo đường thẳng tới chủ nhân khi được gọi.
Bản năng thuần hóa đôi khi được nhắc tới như là các hành động đã di truyền từ lâu chỉ từ thói quen ép buộc và lâu dài liên tục, nhưng tôi nghĩ điều này không đúng. Không ai từng nghĩ đến việc dạy, hoặc có lẽ đã dạy chim bồ câu nhào lộn cách nhào lộn - một hành động, như tôi đã từng chứng kiến, được con chim non thực hiện, nhưng con mà chưa bao giờ nhìn một con chim bồ câu nhào lộn. Chúng ta có thể tin rằng một con chim bồ câu nào đó đã thể hiện xu hướng yếu tới thói quen kỳ lạ này; và rằng sự Iựa chọn lâu dài liên tục những cá thể tốt nhất trong các thế hệ kế tiếp nhau đã biến những con chim nhào lộn trở thành như hiện nay; và ở gần vùng Glasgow có các con house-tumbler, như tôi nghe từ ông Brent, những con không thể bay cao quá bốn mươi centmét mà đầu không vượt quá chân sau. Một điều đáng nghi ngờ là liệu đã từng có ai có ý định dạy con chó đánh hơi, nếu như không có con chó nào một cách tự nhiên thể hiện xu hướng kiểu này, và điều này đôi khi được biết là xảy ra, như tôi đã từng thấy một con chó sục thuần chủng. Khi xu hướng đầu tiên đã biểu hiện, sự lựa chọn có chọn lọc và các ảnh hưởng di truyền của sự huấn luyện ép buộc trong mỗi thế hệ kế tiếp nhau sẽ sớm hoàn thành công việc; và sự lựa chọn vô thức vẫn còn làm việc, do mỗi người đều cố mua được, không hề có ý định cải thiện con giống, những con chó đánh hơi và đi săn tốt nhất; mặt khác, trong một vài trường hợp chỉ cần thói quen không là đủ; huấn luyện con thỏ non là khó nhất trong tất cả các con vật; hầu như không có bất cứ con vật nào lại thuần hóa hơn con thỏ nhưng tôi không cho rằng con thỏ đã từng được lựa chọn vì tính thuần hóa của nó; tôi coi chúng ta phải gán toàn bộ sự thay đổi từ tính hoang dã vô cùng tới tính thuần hóa vô cùng, đơn thuần là do thói quen và sự giam hãm lâu dài và kín.
Bản năng tự nhiên mất đi trong điều kiện thuần hóa: ví dụ cụ thể về tình trạng này biểu hiện trong những con giống của gà mà hiếm khi thậm chí là không bao giờ "gà ấp trứng", tức là không bao giờ muốn ngồi trên trứng của chúng. Chi tính quen thuộc thôi khiến mọi người không nhìn ra cách tư duy suy nghĩ của các động vật thuần chủng của chúng ta đã bị chỉnh sửa phổ biến và nhiều như thế nào bởi sự thuần hóa. Mọi người khó có thể ngờ tình yêu con người đã trở thành bản năng trong con chó. Tất cả chó sói, cáo, chó rừng và các loài thuộc họ mèo, khi được thuần hóa, hầu như đều rất thích tấn công gia cầm, cừu và lợn; và xu hướng này đã thấy là không thể thay đổi được trong loài chó được mang về nhà khi còn bé từ các nước như Tierra del Fuego và úc, noi những người kém phát triển không giữ các con vật thuần hóa này. Mặt khác, những con chó được huấn luyện của chúng ta, thậm chí là khi con rất bé, cần được dạy là không tấn công gia cầm, cừu và lợn! Một điều chắc chắn là đôi khi chúng cũng tấn công, và sau đó bị đánh; và nếu không dạy được, chúng sẽ bị tiêu diệt; và như thế thói quen, với mức độ nhất định của sự lựa chọn, có lẽ đã phối hợp thông qua sự di truyền trong việc huấn luyện loài chó của chúng ta. Trong khi đó những con gà con đã mất đi, hoàn toàn là do thói quen, sự sợ hãi các con chó và mèo mà chắc chắn là nỗi sợ này trước đây là bản năng của chúng, theo cách tưomg tự như là nó rõ ràng là bản năng của con gà lôi non, mặc dù được nuôi nấng bởi gà mái. Không phải là gà con mất đi toàn bộ nỗi sợ hãi, mà chỉ là nỗi sợ mèo và chó, vỉ khi gà mái kêu cục tác báo hiệu nguy hiểm, chúng sẽ chạy (nhất là đối với con gà tây non) từ chỗ nam dưới con gà mái, ẩn mình trong đám cỏ hay bụi cây xung quanh đấy; và hành động này chắc chán là do bản năng, như chúng ta thấy trong những con chim đất, con chim mẹ của chúng bay mất.
Nhưng bản năng này được giữ lại trong các con gà bé đã trở nên vô dụng trong điều kiện thuần hóa, bởi vì con gà mái mẹ đã hầu như mất khả năng bay do không sử dụng đến.
Với lý do này, chúng ta có thể kết luận rằng bản năng thuần hóa đã thu được và bản năng tự nhiên bị mất đi một phần do thói quen, và một phần bởi do sự lựa chọn của con người và sự tích tụ, trong suốt các thế hệ, thói quen và hành động tư duy lạ lùng, mà ban đầu do không hiểu biết nên chúng ta gợi chúng xuất hiện do ngẫu nhiên. Trong vài trường hợp, chỉ thói quen bắt buộc đã đủ đế tạo ra những thay đổi trí óc dược di truyền lại như vậy; trong những trường hợp khác thì thói quen ép buộc không có ảnh hưởng gì, và tất cả đều là kết quả của sự lựa chọn, theo đuổi một cách có phương pháp và không ý thức, nhưng trong hầu hết các trường hợp thì cả sự lựa chọn và thói quen cùng tác động.
Có lẽ chủng ta sẽ hiểu thấu đáo nhất những bản năng trong thế giới tự nhiên được chỉnh đổi như thế nào bởi sự lựa chọn, bằng cách xem xét vài trường hợp. Tôi chỉ chọn ra ba trong vài trường hợp mà tôi thu thập được. Tôi sẽ để những trường hợp còn lại cho các tác phẩm sau này của mình - chủng là bản năng khiến con chim cu cu đẻ trứng trên tổ của các con chim khác; bản năng làm nô lệ của vài loại kiến nhất định, và khả năng làm lược của ong: hai bản năng sau cùng đã và hiện tại được các nhà tự nhiên học coi là hai bản năng tuyệt vời nhất trong số tất cả các bản năng được biết tới.
Mọi người hiện tại đều thừa nhận nguyên nhân trung gian và cuối cùng của bản năng của chim cu cu, là con mái đẻ trứng, không phải hàng ngày, mà hai hay ba ngàv một lần; tức là nếu mà con mài này định làm tổ cho chính nó và ngồi trên những quả trứng của nó thỉ những quả ra đầu tiên sẽ không được ấp trong một thời gian nhất định, hoặc là sẽ có những quả trứng và con chim non có tuối khác nhau trong cùng một tổ. Nếu đúng là như thể thì quá trình đẻ và ấp trứng có thể là quá dài, không thuận tiện, nhất là khi chim mái phải di cư rẩt sớm; và những con chim nở sớm sẽ có thẻ chỉ được chim bô cho ăn. Nhưng con chim cu cu Mỹ đúng là đang gặp tình cảnh khó khăn này; con mái tự làm tố cho mình roi lần lượt ấp các quả trứng của nó, tất cả việc làm cùng lúc. Có người khẳng định đôi khi con chim cu cu Mỹ cũng đẻ trứng trên tô của các con chim khác; nhưng theo như tiên sỳ Brewer, một người giàu kinh nghiệm và hiểu biết sâu, thì lời khắng định đó là sai lầm. Tuy nhiên tôi có thể đưa ra vài ví dụ về các loại chim khác nhau mà người ta biết là đôi khi đẻ trứng trên tổ của cảc con chim khác. Bây giờ chúng ta hãy giả thiết những con tổ tiên của loài chim cu cu châu âu của chúng ta có thói quen của loài chim cu cu Mỳ; nhưng con mái đôi khi đẻ trứng trên tổ của các con chim khác. Nếu nhũng con chim hưởng lợi từ thói quen không thường xuyên này, hay nếu những con non trở nên mạnh mẽ hơn nhờ lợi thế được tận dụng bản năng cha mẹ lâm lẫn của chim khác, hơn là của chính cha mẹ chúng nó, con mái có gánh nặng nhung không thể làm nó suy sụp bằng cách sinh ra những đứa con và quả trứng có tuôí khác nhau trong cùng một thời điểm, thì con chim già và con chim non được nuôi nấng sẽ thu được một lợi thế. Và sự so sánh dẫn tôi tin rằng con chim non nhờ đó được chăm sóc sẽ, thông qua sự di truyền rất dễ theo thói quen không thường xuyên và kỳ lạ của mẹ đẻ chúng, và đến lượt mình chúng sẽ có xu hướng đẻ trứng lên tổ của các con chim khác, và nhờ đó thành công trong việc nuôi con. Thông qua quá trình liên tục của tự nhiên này, tôi tin rằng bản năng kỳ lạ của con chim cu cu của chúng ta có thể, và đã, được tạo ra. Tôi xin nói thêm rằng, theo như tiến sỹ Gray và vài người quan sát khác, con chim cu cu châu âu không hoàn toàn mất đi tình yêu cha mẹ đối với con cái.
Thói quen không thường xuyên của của các con chim đẻ trứng trên tổ của con chim khác hoặc là của cùng loài hay khác loài, không phải là hiếm đối với loài Gallinaceae; và điều này có lẽ giải thích nguồn gốc của một bản năng kỳ lạ trong nhóm họ hàng của ostrict. Đối với vài con mái ostrict, ít nhất là trong trường họp của loài nước Mỹ, giao phối rồi đẻ ra những quả trứng đầu tiên trong một tố và sau đó trong tổ khác; và những quả trứng này được con đực ấp. Bản năng này có thể được giải thích bằng thực tế là những con mái đẻ số lượng trứng lớn; nhưng như trong trường họp của con cuckoo, trong khoảng thời gian hai hoặc ba ngày. Tuy nhiên bản năng này của loài ostrict Mỹ vẫn chưa được hoàn thiện; vì một số lượng lớn đáng ngạc nhiên trứng nằm rải rác khắp các cánh đồng đến mức trong một ngày đi tìm kiếm tôi nhặt được không ít hơn hai mươi quả trứng bị thất lạc và lãng phí.
Nhiều con ong là dạng sống nhờ ở đợ, và luôn luôn đẻ trứng trên tổ của con ong khác loại. Trường hợp này còn đáng chú ý hơn là trường hợp của con chim cu cu; bởi vì loài ong không chỉ có bản năng mà còn có cả cấu trúc được điều chỉnh cho phù hợp với thói quen tầm gửi của chúng; vì chúng không sở hữu cơ quan thụ phấn hoa cáí mà có thể sẽ cần thiết nếu chúng muốn chứa thức ăn cho con ong con của chính chúng. Tương tự vậy, vài loài của sphegidae (các con côn trùng giống như con rệp vừng) sống ãn bám trên các loài khác; và ông Fabre mới đây đã trinh bày những lý do thuyết phục để tin rằng mặc dù Tachytes nigra thông thường làm tố cho chính nó và chứa trong đó các con mồi đã bị tẻ liệt để những con ấu trùng của nó sau này có thức ăn, nhưng khi loài côn trùng này tìm thấy một tổ đã được đào sẵn và có chứa thức ăn của con khác, nó tận dụng phần thưởng này, và trong tình huống này trở thành con vật ăn bám. Trong trường hợp này, giống như trường hợp của con cuckoo, tôi biết chác là sự lựa chọn của tự nhiên đã biến một thói quen không thường xuyên trở thành thường xuyên, nếu là có lợi cho loài, và nếu con côn trùng mà tổ và thức ãn chứa trong đó của nó bị chiếm đoạt trắng trợn, không bị tuyệt chủng.
Bản năng làm nô lệ - Bản năng đáng chú ý này lần đầu tiên được phát hiện ra trong Formica (Polyerges) rufescens của ông Pierre Huber, một nhà quan sát tốt hơn, thậm chí là cả người bố nổi tiếng của ông ta. Những con kiên này hoàn toàn phụ thuộc vào những kẻ nô lệ của nó; nếu không có sự trợ giúp của những tên nô lệ, thì loài kiến này sẽ bị tuyệt chủng ngay trong vòng một năm. Những con đực và con cái có khả năng sinh sản không làm việc. Những con kiến thợ và con cái không cỏ khả năng sinh sàn, mặc đù đa số chúng đều đầy năng lượng và mạnh mẽ trong việc bắt giữ các con nô lệ, không hề làm việc gì khác. Chúng không thể tự làm tổ cho mình, hay cho con ấu trùng của chúng ăn. Khi cái tổ cũ trở nên không còn tiện dụng nữa, và chúng buộc phải di cư, chính là nhừng con nô lệ quyết định sự di cư, và thực tế là trở thành những chủ nhân của nó bàng hàm của chúng. Những chủ nhân này hoàn toàn vô tích sự đến mức mà khi ông Huber nhốt ba mươi con không có bất cứ con nô lệ kèm theo, nhưng lại có rất nhiều thức ăn mà con chủ thích nhất, và cùng với con ấu trùng và con kén để khiến chúng làm việc, nhưne những con kiến này chang làm gì cả, thậm chí chúng còn không tự ăn nổi, và nhiều con đã bị chết vì đói. Ông Huber sau đó đưa vào duy nhất một con nô lệ (F. fusca), và con này ngay lập tức làm việc, cho ãn và cứu sống những con chủ còn sống sót; làm vài cái tô, chăm sóc ấu trùng; và làm mọi thử trở nên bình thường. Điều gì có thể kỳ diệu hơn là những thực tế rõ ràng này? Nếu chúng ta đã không biết bất cứ một con kiến sinh ra để làm nô lệ nào khác, sẽ là vô vọng để tiên đoán một bản năng tuyệt vời như vậy đã được hoàn thiện.
Formica sanguinea, tương tự như vậy, lần đầu tiên được phát hiện bởi ông p. Huber là một loại kiến nô lệ. Loài này được tìm thấy ở vùng phía nam nước Anh, và ông F. Smith đã quan sát nghiên cứu những thói quen của chúng. Trong viện bảo tàng nước Anh mà tôi mang nợ nhiều với những thône tin quý báu mà tôi được cung cấp về chủ đề này và các chủ đề khác. Mặc dù hoàn toàn tin vào những phát hiện của ông Huber và ông Smith, tôi đà cố gắng tiếp cận chủ đề với sự nghi ngờ, vỉ bất cứ ai cũng đều có lý do xác đáng để nghi ngờ tính đúng đan của một bản năng phi thường và khỏ hiểu như là tự biến mình thành kẻ nô lệ. Do đó ở đây tôi xin đưa ra sự quan sát mà tự chính tôi thực hiện, ít chi tiết hơn một chút. Tôi mở mười bổn tổ của F. sanguima, và trong tất cả các tổ tìm thấy vài con nô lệ. Những con đực và con cái sinh nở được của loài nô lệ chỉ được tìm thấy trong những cộng đồng chuẩn mực và chưa bao giờ được nhìn thấy trong các tổ của F. sanguinea. Những con nô lệ màu đen và không quá nửa cỡ của con kiến chủ màu đỏ, khiến cho sự tương phản bề ngoài của chúng là rất lớn. Khi các tổ có xáo động nhỏ, con nô lệ đôi khi đưa ra, và giống như chủ nhân của chúng, rất tức giận và bảo vệ cái tổ: khi tổ bị xáo động nhiều ấu trùng và kén có nguy cơ gặp nguy hiểm, các con nô lệ làm việc tích cực cùng với chủ nhân để mang những âu trùng này đi tới một nơi an toàn. Như vậy thì chúng ta thây rõ là những con nô lệ cảm thấy hoàn toàn như ở nhà. Trong suốt tháng sáu và tháng bảy, ba năm liên tiếp, tôi đã quan sát nhiều giờ các tổ kiến ở Suưeỵ và Sussex, không bao giờ nhìn thấy một con nô lệ hoặc là rời hoặc vào một cái tô. Do trong những tháng này, con nô lệ có số lượng rât ít, tôi nghĩ chúng có thể cư xử khác đì nếu số lượng đông đúc; nhưng ông Smith đã cho tôi biết rằng ông đã quan sát những cái tổ đó vào tháng năm, sáu và tám, ở cả Surrey và Hampshire, và không bao giờ nhìn thấy một con nô lệ, cho dù số lượng của chúng là lớn ở tháng tám, ra khỏi hoặc đi vào tổ. Vì thế ông ta coi chúng là các con nô lệ trong nhà tuyệt đối. Trong khi đó, thì các con chủ được trông thấy thường xuyên mang chất liệu vào tố, và tất cả thức ăn kiểu loại. Tuy nhiên trong tháng bảy năm nay, tôi bắt gặp một cộng đồng có số lượng các con nô lệ lớn bất bình thường, và tôi trông thấy một số con nô lệ trà trộn lẫn vào với các con chủ rời khỏi tổ và đi dọc cùng con đường tới một cây thông Scotch cao, cách tổ gần hai mươi nhăm centimet. Chúng trèo lên cây này cùng nhau, có lẽ là đê tìm con aphide hay cocci. Theo như ông Huber, người có rất nhiều cơ hội để quan sát, trong nước Thụy Sỳ, các con nô lệ thường xuyên làm việc xây tổ cùng với con chủ, và chỉ mình chúng mở và đóng cửa vào buổi sáng và buổi toi; và như ông Huber diễn đạt rõ, nhiệm vụ chính của nó là đế tìm ra các con aphide. Điểm khác biệt trong các thói quen thường xuyên của con nô lệ và con chủ trong hai nước có lẽ chỉ tùy thuộc vào việc con nô lệ bị bắt với số lượng lớn hơn ở Thụy Sỹ hơn là ở Anh.
Một ngày tôi may mắn có cơ hội chứng kiến sự di cư từ tổ này sang tổ khác, và nó là một trong những cảnh thú vị nhất để chứng kiến các con chủ thận trọng, như ông Huber đã tuyên bố, những con nô lệ của nó bằng quai hàm. Một ngày khác tôi vô cùng ngạc nhiên bởi một so lượng lớn các con nô lệ bâu xung quanh một chồ. chàc chắn là không để tìm thức ăn; chúng tiến tới và bị đuối đi quyết liệt bởi một cộng đồng độc lập của một loài nô lệ (F. fusca)\ và đôi khi tới tận ba trong số này bám vào chân của của loài nô lệ F. sanguinea. Con sau một cách tàn nhẫn giết chết các đối thủ nhỏ hơn, và mang xác chết của những con này tới tổ của chúng làm thức ăn, cách đẩy khoảng hai mươi bảy centimet; và chúng bị cản không để cho nuôi con ấu trùng như là nô lệ. Sau đó tôi đào một nhóm các con ấu trùng của F. ỷusca từ tổ khác, và đặt chúng xuống ở một nơi gần nơi xảy ra đụng độ; chúng bị bắt giữ ngay, và mang đi bởi những con bạo chúa, những con thích làm điều này vô cùng, rốt cuộc thì chúng là kẻ chiến thắng trong cuộc chiến.
Cùng lúc đó, tôi đặt trên cùng một nơi một hộp nhỏ các con ấu trùng của loài khác, F. flava, với một số ít các con kiến nhỏ màu vàng vẫn bám vào khu vực tổ như thế. Loài này đôi khi, mặc dù khi hiếm, bị biến thành nô lệ, như đã được ông Smith miêu tả. Mặc dù loài này vô cùng nhỏ bé nhưng chúng lại rất dũng cảm và tôi đã thấy chúng tấn công ác liệt các con kiến khác. Trong một ví dụ, tôi thấy hết sức ngạc nhiên khi tìm ra một cộng đồng kiến F. flava độc lập dưới một tảng đá nằm phía dưới tổ của loài F. sanguinea nô lệ, và khi tôi vô tình dẫm phải hai tổ này, các con kiến nhỏ tấn công các con kiến lớn với sức dũng cảm phi thường. Bây giờ tôi tò mò là liệu F. sanguinea có thể phân biệt con ấu trùng của F. fusca, con thường biến thành nô lệ, với những con của loài F.flava nhỏ nhưng mãnh liệt, mà chúng không bao giờ bắt; và tôi có bằng chứng là chúng đã ngay lập tức phân biệt được; chúng không vui mừng ngay lập tức bắt giữ con ấu trùng F. fusca, trái lại chúng rất sợ hãi khi chúng bắt gặp con ấu trùng, hay thậm chí đất từ tổ của F.flava và ngay lập tức bỏ chạy; nhưng trong khoảng mười lăm phút, ngay sau khi tất cả các con kiến vàng nhỏ đã bỏ đi, chúng lấy lại can đảm và mang con ấu trùng đi.
Một buổi tối tôi đã thăm một cộng đồng khác của F. sanguinea, và tìm thấy một số các con kiến này vào tổ của chúng, mang xác chết của F. fusca (cho thấy rằng nó không phải lậ một sự di cư) và nhiều con ấu trùng. Tôi theo dấu vết của chúng khoảng ba mươi nhăm centimet tới một bụi cây rậm rạp, cho tới khi con F. sanguinea cuối cùng đi ra, mang theo một con ấu trùng, nhưng tôi không thể tìm ra cái tổ cô lập này trong bụi cây. Tuy nhiên cái tổ chắc đã phải ở đâu đó, bơi vì hai hay ba con F. fusca đã chạy xung quanh với sự kích động mạnh mẽ và một con đứng nguyên không nhúc nhích với con ấu trùng của nó trên mồm, gần ngôi nhà hoang tàn của chúng.
Đây chính là những thực tế như vậy, cho dù không cần tôi khẳng định lại, đối với bản năng tuyệt vời của việc trở thành nô lệ. Chúng ta đã thấy sự tương phản cực lớn giữa thói quen bản năng của F. sanguinea với của F. rufescens. Con sau không tự xây tổ cho mình, không tự quyết định sự di cư, không thu lượm thức ăn cho bản thân và cho con cái, thậm chí còn không tự ăn được: nó tuyệt đối phụ thuộc vào những con nô lệ đông đúc. Trong khi đó, Formìca sanguinea, sở hữu ít nô lệ hơn nhiều, và càng ít hơn vào thời gian đầu và hè. Các con chủ quyết định xem khi nào và ở đâu thì sẽ xây tô, và khi chúng di cư, chúng mang theo con nô lệ. Cả ở Thụy Sỹ và Anh, con nô lệ có vẻ như rất chăm lo tới con ấu trùng, còn con chủ thì tự nó đi tìm kiếm, săn bắt các con nô lệ. Ớ Thụy Sỹ, những con chủ và nô lệ làm việc cùng nhau, cùng xây và mang thức ăn về tổ: cả hai, nhưng chủ yếu là nô lệ có xu hướng chăm lo, như nó có thể được gọi là như thế, con aphide của chúng; và do vậy cả hai cùng thu lượm thức ăn cho cộng đồng. Tại nước Anh, con chủ thường một mình đi ra ngoài để tìm kiếm vật liệu làm tổ và thức ăn cho bản thân chúng, các con nô lệ và con ấu trùng. Tức là con chủ ở nước Anh thì ít được nô lệ phục vụ hơn nhiều so với con chủ ở Thụy Sỹ.
Thông qua những bước nào mà F. sanguinea bắt nguồn, tôi không đủ kiến thức để tiên đoán. Nhưng như những con kiến, mà không phải là nô lệ, sẽ, như tôi thấy, mang đi những con ấu trùng của loài khác, nếu đặt rải rác xung quanh tổ của chúng. Có thể là những con ấu trùng này ban đầu định để làm thức ăn có thể đã phát triển; và các con kiến đó không hề có ý định nuôi nấng theo bản năng đó, và làm công việc mà chúng sẽ làm. Nếu sự xuất hiện của chúng chứng tỏ có ích cho loài đã bắt chúng -nếu nó có ích hơn nữa đối với loài để bắt giữ các con kiến thợ hơn là nuôi nấng chúng - thói quen thu thập con ấu trùng để làm thức ăn có lẽ thông qua sự lựa chọn của tự nhiên đã được làm mạnh mẽ thêm và trở thành cố định cho mục đích khác biệt là nuôi nấng nô lệ. Một khi bản năng này được hình thành, nếu được triển khai trong chừng mực nhỏ hơn nhiều thậm chí là nhỏ hơn so với F. sanguinea của nước Anh, mà như chúng ta biết ít được trợ giúp từ các con nô lệ hơn so với loài cùng loại tại Thụy Sỳ, tôi không thấy có bất cứ khó khăn nào sự lựa chọn của tự nhiên tăng và biến đổi bản năng - luôn giả định rằng mỗi biến đổi là có ích đối với loài - cho tới khi một con kiến được hình thành hoàn toàn phụ thuộc vào các con nô lệ của nó như loài Formica rufescens.
Bản năng xây tổ của đàn ong - Tôi ở đây sẽ không đi vào chi tiết nhỏ nhặt của chủ đề này, mà chỉ trình bày phần cơ bản của các kết luận mà tôi đã rút ra. Ai đó chắc chắn phải là vô cảm và ngu ngốc khi mà xem xét cấu trúc hoàn mỹ của một con ong, cực kỳ thích hợp với các mục đích của nó, mà không cảm thấy thán phục, trầm trồ. Chúng ta nghe từ các nhà toán học cho biết các con ong trên thực tế đã giải quyết được một vấn đề hết sức phức tạp và khó hiểu, xây nên cái tổ với hình dáng chuẩn xác để giữ lại được nhiều mật ong nhất có thể, với sự tiêu tốn ít nhất có thể của sáp ong quý báu trong việc xây dựng. Người ta nói rằng kể cả một người thợ thủ công khéo tay, với các dụng cụ và phương pháp thích họp, cũng khó có thể tạo ra được ô trên tổ ong như thực mà một đàn ong xây nên. Nếu được ban cho bất cứ bản năng nào mà bạn muốn, và đầu tiên là không thể hình dung nổi làm cách nào mà chúng tạo ra được tất cả các góc và cái bào cần thiết như thế, hoặc thậm chí hình dung ra khi nào chúng được làm hoàn chỉnh. Nhưng sự khó khăn không lớn như là ban đầu nó có vẻ như thế: Tôi nghĩ tất cả các công việc đẹp đẽ này có thể được làm rõ dựa vào vài bản năng rất đơn giản.
Tôi được ông Waterhouse hướng dẫn điều tra chủ đề này, người mà đã chứng minh hình dáng của các ô có mối quan hệ gần gũi với sự xuất hiện của các các ô xung quanh; và quan điểm dưới đây có lẽ chỉ nên coi là một sự điều chỉnh lý thuyết của ông ta thôi. Chúng ta hãy nhìn vào nguyên tắc vĩ đại của sự chuyển hóa, và xem liệu Tự nhiên có để lộ cho chúng ta biết phương pháp làm việc của bà hay không. Ở phía bên kia của chùm sêri ngắn, chúng ta có đàn ong nghệ sử dụng cái kén để giữ mật của chúng, đôi khi thêm vào chúng các ống sáp, và tương tự thế tạo nên những ô tròn kỳ lạ và khác biệt của sáp ong. Ở đầu bên kia của chuỗi, chúng ta có thể có các ô lỗ ong của ong hive, đặt trên một lớp đôi: mọi người đều biết mỗi ô này là hình lục lăng đều với các cánh bên của sáu mặt luôn vuông góc với nhau và hợp với nhau thành kim tự tháp, tạo thành bởi ba hình thoi. Ba hình thoi này cỏ các góc nhất định và ba góc mà tạo thành đế hình kim tự tháp của một ô đơn ở một mặt của lỗ tổ ong, đi vào hợp thành nền móng của ba ô liên kết bên mặt đối diện. Trong cái chuỗi giữa sự cực kỳ hoàn hảo của các ô của ong hive và tính đơn giản của ô của những con ong nghệ, chúng ta có các ô của Melipona domestica Mê-xi-cô, được miêu tả và vẽ ra bởi một cách cẩn thận bởi ông Pierre Huber. Chính loài Melipona là có cấu trúc trung gian giữa ong nghệ và ong hive, nhưng giống với con sau hơn: nó tạo ra một cái lỗ sáp ong gần như thông thường của các ô hình trụ, trong đó các con non được ấp và ngoài ra vài ô to của sáp ong để giữ mật. Những cái ô sau này có dạng gần như hình cầu và kích cỡ gần bằng nhau, và gộp lại thành khối lớn dị thường. Nhưng điểm quan trọng cần chú ý là những ô này luôn được tạo thành theo mức độ tương đồng với nhau khiến chúng có thể đặt hoặc vỡ vào nhau, nếu hình cầu không hoàn thành; nhưng tình trạng này không bao giờ được phép xảy ra, những con ong xây các bức tường sáp phang giữa các quả cầu có xu hướng lắp ghép với nhau. Do vậy mỗi ô tạo thành bởi phần cầu bên ngoài và hai, ba, hoặc hơn các mặt phẳng tuyệt đối, theo như ô kết nối hai, ba, hoặc hơn nữa các ô khác. Một ô tiếp xúc với ba ô khác, mà, từ khối cấu có kích thước gần như tương tự, rất hay xảy ra, ba mặt phẳng kết hợp thành một kim tự tháp; và kim tự tháp này, như ông Huber đã nhận xét, là một sự bắt chước như in của bệ hình kim tự tháp ba mặt của ô của ong hive. Giống như trong ô của con ong hive, như thế ở đây, ba mặt phẳng trong bất cứ ô nào cần thiết đi vào sự xây dựng của ba ô gắn với nhau. rõ ràng là loài Melipona tiết kiệm sáp ong bằng cách xây dựng này; bởi vì các bức tường phang giữa những ô gắn với nhau không nhân đôi, nhưng có độ dày giống như phần cầu bên ngoài, và mỗi phần phẳng tạo một phần của hai ô.
Suy nghĩ về trường hợp này, tôi cảm thấy là nếu Melipona tạo hình cầu của nó ở một khoảng cách cho trước giữa mồi khối và tạo chúng có kích cỡ giống nhau và đã sắp xếp chúng theo trục đối xứng trên một lớp đôi, cấu trúc được tạo thành có lẽ đã hoàn hảo như là của lỗ to ong của ong hive. Theo đó tôi viết cho giáo sư Miller của trường đại học Cambridge, và nhà hình học này đã dành thời gian quý báu của ông để đọc qua lời nhận định của tôi, và dựa trên thông tin của ông, nói với tôi rằng điều này hoàn toàn chính xác:
Nếu một số các hình cầu giống nhau được tạo thành với tâm của chúng đặt trên hai lớp song song, với tâm của mỗi quả cầu cách khoảng bán kính nhân với căn bậc 2 hay bán kính nhân với 1,41421 (hoặc ở khoảng cách ngắn hơn), từ các tâm của sáu quả cầu bao quanh trong cùng lớp; và ở cùng khoảng cách từ tâm của các quả cầu gắn với nhau trong lớp khác song song; thì nếu mặt phẳng của các khu vực giao nhau giữa vài hình cầu trong cả hai lớp đều được hình thành; điều này sẽ hình thành nên một lớp đôi của lăng trụ sáu cạnh liên kết với nhau bởi ba nền hình kim tự tháp tạo thành bởi ba hình thoi; và các hình thoi màu và các mặt của hình lục lăng sẽ có mọi góc bằng nhau với các kích thước tốt nhất được tạo ra từ các ô của ong hive.
Với lý do đó chúng ta có thể kết luận chắc chắn là nếu chúng ta có thể thay đổi chút ít bản năng mà loài Melipona đã có sẵn, và trong chúng không tuyệt hảo cho lắm, loài ong này sẽ tạo ra những cấu trúc tuyệt vời như của loài ong hive. Chúng ta phải thừa nhận loài Meỉipona tạo ra những cái ô có hình cầu tuyệt đối và có kích thước giống nhau; và chúng ta không nên ngạc nhiên khi nhìn thấy các con ong này đã đã làm như vậy trong chừng mực nào đó; cũng như khi nhìn thấy những hang hình trụ hoàn hào mà những con côn trùng khác đã xây ở trên các thân cây, thông qua cách xoay vòng quanh một điểm cố định. Chúng ta phải thừa nhận loài Melipona sắp xếp các ô của
chúng theo tầng lớp như chúng làm với các ô hình trụ của chúng. Và chúng ta còn phải tiến xa hơn nữa để thừa nhận, điều này là khó khăn lớn nhất, chúng bằng cách nào đó phán đoán chính xác ở khoảng cách nào đứng cách những con ong thợ bạn bè của chúng khi vài con đang làm tổ hình cầu; nhưng cho đến này các con Melỉpona là có khả năng phán đoán khoảng cách, chúng luôn xây tổ của mình sao cho phần lớn giao nhau; như thế sau đó chúng sẽ tập hợp các điểm giao nhau lại trên một mặt phẳng tuyệt đối. Chúng ta vẫn tiếp tục phải thừa nhận, nhưng trái với sự thừa nhận ngay trước đó, sự thừa nhận này không hề có khó khăn gì, là sau khi các hình lục lăng được tạo thành bởi các phần giao nhau của các hình cầu gắn liền nhau trong cùng một mặt, các con ong có thể kéo dài những hình sáu cạnh đó tới bất kỳ độ dài cần thiết nào để giữ khối lượng mật; theo đúng như cách mà các con ong nghệ thô sơ thêm những trục xoay sáp ong vào các miệng tròn của cái kén cũ kỹ. Thông qua những biến chỉnh như vậy các bản năng chưa hoàn hảo trong chúng - khó có thể nói là hoàn chỉnh hơn bản năng xây tổ của các con chim - Tôi tin rằng loài ong hive đã thu được, nhờ vào sự lựa chọn của tự nhiên, khả năng kiến trúc không thể bắt chước được.
Nhưng lý thuyết này cỏ thể được kiểm chứng thông qua thí nghiệm. Theo mẫu của ông Tegetmeier, tôi tách riêng hai lỗ tổ ong, đặt giữa chúng một một miếng sáp ong hình vuông dày, các con ong ngay lập tức đào những cái hố bé hình tròn trên đó; và khi chúng đào sâu những cái hố bé này, chúng làm các lỗ ngày một rộng ra cho tới khi cho tới khi các cái lỗ chuyển thành những lòng chảo nông, mà chúng ta thấy như là một hình cầu hoặc một phần của hình cầu tròn thật sự và khoảng đường kính của một ô. Đối với tôi điều thú vị nhất là khi quan sát vài con ong bắt đầu đào những cái lòng chảo gần nhau, chúng bắt đầu công việc ở những khoảng cách cố định so với nhau, và cho tới khi các lòng chảo đã đạt được độ rộng như nêu ở trên (chẳng hạn như khoảng độ rộng của một ô bình thường), và ở độ sâu khoảng sáu lần đường kính của hình tròn mà chúng tạo thành một phần, các vành lòng chảo giao nhau hoặc chạm vào nhau. Ngay khi tình hình này xuất hiện, các con ong thôi không đào nữa, và bắt đầu xây những bức tường sáp phẳng trên các đường của sự giao nhau giữa các lòng chảo sao cho mỗi hình lục lăng được xây trên các cạnh trang trí bàng hoa của một lòng chảo mịn, thay vì trên những đường thẳng của kim tự tháp ba mặt như trong trường hợp của các ô tổ ong bình thường.
Sau đó tôi đặt các con ong hive này vào, thay vì một mảng sáp hình vuông dày, mà là một miếng mỏng như lưỡi dao, hẹp và bé, có màu som đỏ. Các con ong ngay lập tức trên mỗi bên đào những lòng chảo bé gần nhau theo giống như cách trước đó; nhưng miếng sáp quá mỏng đến nỗi đáy của các lòng chảo, nếu như chúng đã đào tới cùng một độ sâu như trong thí nghiệm trước sẽ chạm vào nhau từ hai phía đối lập. Nhưng các con ong không muốn để điều này xảy ra, và chúng dừng sự đào bới của mình đúng lúc, ngay khi chúng đã đào sâu một chút và lòng chảo trở nên phang; và những lòng chảo phẳng này, được tạo thành bởi các cái đĩa nhỏ có màu sáp đỏ có vị trí, như là con mắt chúng ta cảm nhận, ở chính xác mặt phang của phần giao nhau tưởng tượng giữa các lòng chảo trên hai mặt đối nhau của miếng sáp. Trong các phần, chỉ một ít, tỷ lệ lớn đĩa hình thoi được để giữa hai lòng chảo đối diện, nhưng tác phẩm, từ tình trạng không tự nhiên của các thứ, không được thực hiện cẩn thận. Những con ong chắc đã phải làm việc với cùng một tốc độ gần như nhau trên hai mặt đối diện của miếng sáp ong mỏng màu som đỏ, vì chúng gặm theo hình tròn và làm sau lòng chảo ở cả hai mặt, với mục đích để có được những cái đĩa phẳng như thế giữa các lòng chảo; bằng cách dừng làm việc trên mặt phảng trung gian hay mặt phẳng của sự giao nhau.
Xem miếng sáp ong mỏng rất mềm và linh động, tôi không thấy có bất cứ khó khăn nào đối với các con ong, trong khi làm việc ở hai mặt của miếng sáp mỏng, hình dung khi chúng đã gặm dần miếng sáp tới độ mỏng thích hợp, và sau đó dừng làm việc. Trong những lỗ ong bình thường, tôi cảm thấy là các con ong không phải lúc nào cũng làm việc thành công với cùng một tốc độ như nhau từ hai mặt đối lập, bởi vì tôi đã để ý những hình thoi hoàn thiện nửa chừng tại đáy của một ô vừa mới bắt đầu, mà hơi lõm ở một mặt, nơi tôi cho rằng những con ong đã đào quá nhanh; và lồi về phía đối diện, nơi mà những con ong làm việc chậm hơn. Trong một ví dụ điển hình, tôi đặt cái lỗ vào lại tổ ong, và để cho bọn ong tiếp tục làm việc trên đó trong khoảng thời gian ngắn, và kiểm tra lại ô này, tôi nhận thấy những cái đĩa hình thoi đã được hoàn thành, chúng trở nên cực kỳ phang: điều này tuyệt đối là không thể, nếu tính đến sự độ mỏng dính của những cái đĩa hình thoi bé, rằng chúng đã có thể tạo ra điều này bằng cách gặm dần phần lồi ra; thế là tôi nghi ngờ là trong trường họp này con ong đứng ở phía đối diện của lỗ tổ ong này để đẩy và bẻ cong miếng sáp mỏng và ấm này (tôi đã thử và điều này dễ dàng thực hiện được) thành một mặt phang trung gian hoàn chỉnh và, đó làm phẳng nó.
Từ thí nghiệm trên miếng sáp ong mỏng sơn màu đỏ, chúng ta nhận thấy rõ ràng là nếu những con ong muốn xây cho bản thân chúng một bức tường sáp mỏng, chúng có thể tạo các ô tổ ong thành các hình phù hợp bằng cách đứng ở những khoảng cách thích họp so với nhau; và bằng cách đào với cùng tốc độ; cũng như bằng cách gặm nhấm để làm ra những lỗ hình cầu có kích thước bằng nhau, nhưng không bao giờ để các hình cầu vỡ vào nhau. Bây giờ các con ong, có thể nhận thấy rõ bằng cách xem xét cạnh của một lỗ đang lớn dần, thật sự tạo được một bức tường cứng và điều chỉnh được theo hoàn cảnh cụ thể hoặc làm viền xung quanh cho cái lồ đó; và chúng gặm nhấm dần từ mặt đối diện vào, luôn đào sâu theo hình tròn. Chúng không làm hoàn toàn đáy ba mặt hình kim tự tháp của bất cứ một ô nào trong cùng một thời điểm, mà chỉ là một đĩa hình thoi đứng trên phần ngoài cùng mép đang lớn, hoặc hai đĩa, như trường họp có thể xảy ra; và chúng không bao giờ hoàn thành phần mép trên của đĩa hình thoi, cho tới khi tường hình lục lăng bắt đầu được xây. Vài nhận xét trên là khác biệt đối với nhà tiền bối sinh học nổi tiếng ở giai đoạn gần đây, ông Huber, nhưng tôi tin vào tỉnh chính xác của chúng, và nếu có thời gian và giấy bút, tôi sẽ chứng minh chúng phù hợp với lý thuyết của tôi.
Lời nhận định của ông Huber là chính cái ô đầu tiên được đào ngoài một bức tường mặt song song, là không, hoàn toàn đúng; sự bắt đầu đầu tiên thường là một phần đầu nhỏ của sáp; nhưng ở đây tôi sẽ không đi vào chi tiết. Chúng ta thấy vai trò vô cùng quan trọng của việc đào trong cấu trúc của ô; nhưng sẽ là sai lầm lớn khi ai đó giả thiết rằng những con ong không thể xây nên một bức sáp ong tường cứng ở vị trí thích hợp - tức là dọc theo mặt phẳng của phần giao nhau giữa hai hình cầu liền nhau. Tôi có một vài mẫu chứng minh là chúng có thể làm được. Thậm chí là trong cái vành tròn hay bức tường xung quanh một cái lỗ đang lớn, đôi khi chúng ta cũng nhìn thấy cả sự uốn cong, tương ứng với vị trí của mặt phang của đĩa hình thoi nằm dưới các ô sau này. Nhưng một bức tường sáp ong cứng trong mọi trường hợp được hoàn thành phần cuối cùng, chủ yếu bằng cách gặm nhẩm từ hai phía. Cách mà con ong xây tổ là khá kỳ lạ; chúng luôn xây bức tường sáp đầu tiên với độ dày hơn hai mươi hoặc ba mươi lần những tường hoàn chỉnh quá là mỏng của các ô, mà cuối cùng thì cũng chỉ để đấy không dùng. Tôi có thể hiểu chúng làm việc như thế nào bằng cách coi là những người thợ xây đầu tiên trát đầy một lớp xi măng, và sau đó bắt đầu cắt chúng đi một cách đều nhau từ hai phía, cho tới khi một bức tường rất mỏng và mượt nằm ở giữa được hoàn thành; những người thợ xây luôn chất đống lại những phần xi măng bị cắt bỏ đi, và thêm xi măng mới vào đỉnh của tường mỏng đó. Và như thế chúng ta sẽ có một bức tường mỏng ngày một dày, nhưng luôn được bao quanh bởi một mái tường khổng lồ. Từ tất cả các ô, những ô mới bắt đầu và những ô đã hoàn thành. Do đó được bao quanh bởi mái tường sáp cứng chắc, và các con ong có thể tụ hợp và bò trên những ô mà không làm tổ thường những bức tường lục lăng tinh tế yếu ớt mà chỉ là một phần bốn trăm của một inch[1] về độ dày; các đĩa của nền mỏng hình kim tự tháp có độ dày gấp đôi. Bằng cách xây dựng kỳ lạ này, độ cứng chắc tiếp tục được truyền cho các ô với việc tiết kiệm sáp ong tối đa.
[1] 1 Một inch tương đương với 2,54 cm
Đầu tiên có vẻ như điều này thêm vào những khó khăn để hiểu một ô được tạo ra như thế nào, rằng vô số các con ong làm việc cùng nhau; một con sau khi làm việc trong khoảng thời gian ngắn trên một ô sẽ chuyển sang ô khác; sao cho như ông Huber nói nhiều cá thể thậm chí làm việc ngay lúc bắt đầu xây ô đầu tiên. Trên thực tế tôi có thể minh chứng điều này, bằng cách che các phần rìa của các bức tường hình lục lăng của duy nhất một ô, hoặc lề bên ngoài tận cùng của một vành hình tròn, với một lớp sáp ong lỏng màu son đỏ vô cùng mỏng; và tôi lúc nào cùng nhận thấy rằng màu được khuyếch tán tinh tế nhất bởi các con ong - tinh tế như một họa sĩ có thể làm với cây cọ của anh ta - bởi các nguyên tử màu được lấy từ điểm mà chúng được đặt trên đó và tới trong các rìa mép đang lớn dần của tất cả các ô xung quanh. Công việc xây dựng dường như là một sự cân bằng tạo ra giữa nhiều con ong, tất cả đều theo bản năng đứng cách xa một khoảng nhất định bàng nhau, tẩt cả đều cố bao trùm các hình cầu và sau đó xây đắp lên hay để không, mặt phẳng của phần giao nhau giữa các quả cầu. Thật là tò mò khi ghi chú trong các trường họp của khó khăn, khi hai lỗ ong gặp nhau ở một góc độ, các con ong thường phá vỡ hoàn toàn và xây lại theo cách khác các ô đó, đôi khi lặp lại hình dáng đầu tiên chúng đã không chấp nhận.
Khi mà các con ong tìm ra vị trí đứng làm việc thích họp - chẳng hạn như trên cành của một thân gỗ, đặt ngay dưới phần giữa của một lỗ đang phình ra về phía dưới sao cho lỗ đó phải được xây trên một mặt của cành - trong trường họp này con ong có thể xây nền mỏng của một trong các bức tường của một lục lăng mới, tại nơi hoàn toàn thích họp của nó, đặt trên những ô đã được hoàn thành khác. Các con ong có khả năng đứng tại vị trí cách nhau thích họp so với nhau và so với các bức tường cửa những ô hoàn thành cuối cùng, rồi sau đó bằng cách đập vào các hình cầu tưởng tượng, chúng cỏ thể xây một bức tường trung gian giữa hai quả cầu gắn với nhau; nhưng như tôi đã thấy, chúng không bao giờ gặm đi và hoàn thành phần cuối cùng các góc của một ô cho tới khi phần lớn của cả ô đó và các ô xung quanh đã được xây. Khả năng này của các con ong trong những hoàn cảnh nhất định nằm dưới một cái tường cứng ở vị trí thích hợp của nó giữa hai ô mới bẳt đầu xây dựng, là quan trọng và vì nó chứa đựng thực té, mà ban đầu có vẻ như rất trái ngược với lý thuyết trên của tôi; tức là những ô trên lề ngoài cùng của những con ong bắp cày đôi khi hoàn toàn có dạng hình lục lăng; nhưng tôi không có điều kiện để đi vào chi tiết về chủ đề này. Tôi cũng không gặp khó khăn gì trong trường hợp có một con côn trùng duy nhất (như trong trường hợp của con ong chúa) tạo ra những ô hình lục lăng, nếu nó làm việc một cách khác từ bên trong và bên ngoài của hai hoặc ba ô cùng bắt đầu xây dựng, luôn đứng ở khoảng cách tưomg đối thích hợp từ các phần của các ô mới được bất đầu, tràn qua các hình cầu và hình trụ, và xây nên mặt phang trung gian. Người ta thậm chí còn hình dung là một con côn trùng có thể, bằng cách cố định trên một điểm mà tại đó bắt đầu một ô, và sau đó tiến ra bên ngoài, đầu tiên tới một điểm và sau đó tới năm điểm khác, tại các khoảng cách thích hợp tương đối từ điểm trung tâm và từ các điểm khác với nhau, đập vào mặt phang của phần tương giao do đó tạo nên một hình lục lăng tách biệt; nhưng tôi không biết là trường hợp như thế đã trông thấy chưa; và có điều gì tốt mang lại từ việc xây một hình lục lăng duy nhất, vì trong quá trình xây dựng của nó thì cần nhiều vật liệu hơn là so với một hình trụ.
Do sự lựa chọn của tự nhiên chỉ tác động thông qua sự tích tụ các biến đổi nhỏ bé trong cấu trúc hay bản năng, mỗi cái đều có lợi cho cá thể trong điều kiện sống, ai đó có lý khi hỏi làm thế nào mà một sự kế tiếp dài và nhiều bước của các bản năng kiến tạo được chỉnh đổi, tất cả đều có xu hướng tiến tới kế hoạch hoàn hảo hiện tại của việc xây dựng, có thể có lợi cho con tổ tiên của ong hive? Tôi nghĩ câu trả lời không khó khăn gì: mọi người đều biết rằng các con ong luôn cố gắng lấy đủ mật hoa; và ông Tegetmeier đã nói với tôi qua thí nghiệm người ta tim ra một con ong hive tiêu tốn không ít hơn từ sáu đến bảy cân đường cát để tạo ra nửa cân sáp ong; tức là những con ong phải hút và tiêu thụ một khối lượng khổng lồ mật hoa trong một cái tố để đủ sản sinh ra khối lượng sáp cần thiết cho xây dựng tổ. Hom nữa, nhiều con ong phải nghỉ không làm việc trong nhiều ngày trong suốt quá trình tiết sáp. Một sự tích trữ khối lượng mật ong lớn là không thể thiếu để duy trì sự tồn tại số lượng lớn các con ong trong mùa đông; và độ an toàn của tổ ong thì như mọi người biết là dựa chủ yếu vào số lượng ong có thể sống được dựa vào khối lượng mật ong đó. Do đó sự tiết kiệm sáp phần lớn là nhờ tích kiệm mật chắc chắn phải là nhân tố quan trọng nhất cho sự thành công của bất kỳ họ nhà ong nào. Tất nhiên là sự phát triển của bất kỳ loài ong nào cũng sẽ phụ thuộc vào các con vật sống ký sinh trên chúng và kẻ thù của chúng, hoặc vào những nguyên nhân khác biệt khác, như thế có nghĩa là tất cả chúng đều không phụ thuộc vào khối lượng mật ong mà chúng có thể thu thập. Nhưng chúng ta hãy giả định rằng các tác nhân sau quyết định, như chúng có lẽ đãthường quyết định trong thực tế, số lượng của ong nghệ có thể tồn tại trong một đất nước; và chúng ta hãy tiếp tục giả định cộng đồng ong đó sống qua được mùa đông, và như vậy sẽ cần phải có mật ong: trong trường họp này không ai có thể nghi ngờ rằng ong nghệ sẽ có một lợi thế nếu một sự chỉnh đổi nhỏ trong bản năng của chủng khiến chúng xây những cái ô sáp ong gần nhau để giao nhau một chút; bởi vì bức tường chung, thậm chí là của hai ô kề nhau, có thể tiết kiệm chút sáp. Chính vì thế nó sẽ càng có lợi cho các con ong nghệ của chúng ta nếu chúng làm những ô chuẩn mực hơn và gần nhau hơn và kết hợp lại thành một khối lớn giống như là ô của loài Melipona; bởi trong trường hợp này, một phần lớn của bề mặt bao bọc của mỗi ô sẽ có đóng vai trò như là bề mặt bao bọc của ô khác, và nhờ đó khối lượng lớn sáp ong sẽ được tiết kiệm. Một lần nữa, cũng với nguyên nhân tưorng tự, loài Melipona sẽ được hưởng lợi ích nếu chúng làm các ô gần nhau hơn; và đồng đều hơn theo mọi hướng so với như hiện tại; vì sau đó, như chúng ta đã thấy những mặt cầu sẽ hoàn toàn biến mất, và chúng sẽ được thay thế bằng các mặt phang; và loài Melipona sẽ xây được những cái tổ hoàn hảo như là tổ của ong hive. Ngoài sự hoàn hảo trong kiến trúc, sự lựa chọn của tự nhiên không thể làm được; vì tổ của ong hive, như chúng ta thấy, là hoàn toàn hoàn mỹ trong việc tiết kiệm sáp.
Vì thế, như tôi tin tưởng, bản năng tuyệt vời nhất trong tất cả các bản năng được biết đến, bản năng của ong hive, có thể được giải thích bàng sự lựa chọn của tự nhiên đã tận dụng hàng loạt các chỉnh đổi nhỏ liên tục, kế tiếp nhau của những bản năng đơn giản hơn; sự lựa chọn của tự nhiên, chậm chạp từ từ, ngày càng hoàn thiện, đã điều khiển những con ong tràn qua những hình cầu bằng nhau tại một khoảng cách cho trước trong một lớp đôi; xây nên và đào sáp dọc mặt phẳng của phần giao nhau. Tất nhiên là những con ong không biết chúng đang tràn qua những quả cầu với khoảng cách xa nhau cho trước hơn là chúng biết về vài góc của hình lục lăng và của các đĩa hình thoi đáy là gì. Động lực của quá trình lựa chọn tự nhiên tiết kiệm sáp ong; những đàn ong nào lãng phí ít sáp ong nhất, thành công nhất, và đã truyền lại thông qua sự di truyền bản năng tiết kiệm sáp thì mới thu được cho con cháu sau này, cơ hội tốt nhất để tồn tại trong cuộc đấu tranh cho sự sinh tồn.
Chắc chắn là nhiều bản năng rất khỏ giải thích có thể trái ngược với lý thuyết về sự lựa chọn của tự nhiên -những trường họp trong đó chúng ta không thể hiểu một bản năng có thể bắt nguồn như thế nào; những trường hợp mà trong đó các bước chuyển hóa trung gian không hề được biết tới hay tìm thấy; những trường hợp bản năng không hề quan trọng gì khiến chúng khó có thể được nói là chịu ảnh hưởng của sự lựa chọn của tự nhiên; những trường hợp mà bản năng hoàn toàn giống nhau trong các con vật rất cách biệt trong tự nhiên đến mức mà chúng ta không thể lý giải được sự tương đồng của nó bàng hiện tượng di truyền từ một cha mẹ chung, và như thế phải tin là chúng thu được bản năng nhờ vào các tác động độc lập của của sự lựa chọn của tự nhiên. Tôi ở đây sẽ không bàn về các trường họp này, nhưng sẽ chỉ quan tâm đến một khó khăn đặc biệt, mà ban đầu tôi cảm thấy không thể vượt qua. Tôi muốn nói đến nhũng con cái vô sinh hoặc vô tính trong cộng đồng các loài côn trùng: vì các cá thể vô tính này thường khác nhau rõ nét trong bản năng và trong cấu trúc so với cả con đực và con cái có khả năng sinh sản, và do không thể sinh sản, chúng không thể để lại con cháu cho đời sau.
Chủ đề này rất đáng được thảo luận kỹ nhưng tôi ở đây chỉ xin bàn tới một trường hợp duy nhất, đó là của những con kiến thợ hay còn gọi là kiến vô sinh. Tại sao những con kiến thợ lại không sinh sản được là một điều khó khăn để giải thích; nhưng cũng không lớn hơn khó khăn để giải thích của bất cứ biến đổi đáng chú nào của cấu trúc; vì người ta có thể chứng minh vài loài côn trùng và những động vật có đốt khác trong tự nhiên đôi khi trở nên vô sinh; và nếu các con côn trùng đó có xu hướng xã hội chúng có lợi cho cộng đồng tức là một số lượng chúng được sinh ra hằng năm để làm việc nhưng số này không thể đẻ con, tôi thấy không khó lắm để nhận ra ảnh hưởng của sự lựa chọn của tự nhiên. Nhưng tôi phải bỏ qua khỏ khăn ban đầu này. Khó khăn lớn nhất nằm ở chỗ những con kiến thợ khác hẳn so với cả các con kiến đực và kiến cái sinh đẻ được trong cấu trúc, cũng như trong hình dáng của phần chính giữa và tình trạng mất cánh và đôi khi là cả mẳt nữa, và trong bản năng.Chỉ xét đến bản năng thôi, sự khác biệt lớn giữa con kiến thợ và con kiến cái hoàn chỉnh sẽ có thể tốt hơn nhiều minh họa bằng ong hive. Nếu một con kiến thợ hay một con côn trùng đơn tính nào khác có thể trạng bình thường, tôi sẽ không chần chừ gì khi thừa nhận ngay tất cả các đặc điểm của nó có được thông qua tác động lâu dài chậm chạp của sự lựa chọn của tự nhiên; tức là một có thể sinh ra với sự biến chỉnh nhỏ có lợi trong cấu trúc; biến đổi này được di truyền lại cho đứa con, mà một lần nữa lại biến đổi và lại được lựa chọn, và cứ như thế mãi; nhưng trong trường hợp của con kiến thợ, chúng ta có một con côn trùng khác biệt hẳn so với cha mẹ của nó, nhưng hoàn toàn vô sinh; tức là nó không bao giờ có thể truyền lại những biến đổi cấu trúc thu được liên tục cho con cháu. Ai đó sẽ hỏi làm cách nào để có thể giậi thích trường hợp này thích ứng với lý thuyết về sự lựa chọn của tự nhiên?
Đầu tiên hãy nhớ lại rằng chúng ta có vô số ví dụ, cả ở trong các loài thuần chủng của chúng ta và cả ở trong tự nhiên, của tất cả các loại khác biệt của cấu trúc mà đã trở thành tương quan với nhau về các độ tuổi nhất định và với một trong giới tính. Chúng ta có những điểm khác nhau không chỉ tương quan trong giới tính, mà còn cả với giai đoạn ngắn khi hệ thống sinh sản đang hoạt động, như là bộ lông cước của nhiều con chim, và trong cái hàm móc câu của cá hồi đực; của những con bò đực thiến, những giống nhất định có sừng dài hơn các loài bò giống khác, so với sừng của con bò đực hay bò cái của cùng giống đó. Do đó không có khó khăn thực sự nào trong bất cứ đặc điểm nào trờ nên tương quan với tình trạng vô sinh của những thành viên nhất định của cộng đồng côn trùng: sự khó khăn nằm ở việc hiểu bằng cách nào những thay đổi tương quan như thế trong cấu trúc có thể được tích tụ một cách chậm chạp bằng sự lựa chọn của tự nhiên.
Khó khăn này, mặc dù có vẻ như không thể vượtqua nổi, nhưng đã được làm giảm nhẹ, hay như tôi tin tưởng, đã biến mất khi chúng ta nhớ lại rằng sự lựa chọn có thể tác động tới cả một họ, cũng như tới cá thể và như vậy có thể đạt được mục đích mong muốn. Như thế, một loại rau ưa chuộng đem đi nấu, và cá thể đó bị tiêu diệt; nhưng những người làm vườn đã gieo giống nhiều cá thể như thế, và tự tin sẽ có được biến thể gần giống vậy; những người nhân giống gia súc thích thịt béo và tươi ngon cùng nhau; con vật bị đem đi giết mổ, nhưng người nhân giống vẫn tiếp tục tạo ra các con khác cùng với họ đó. Tôi cũng có niềm tin tương tự vào sức mạnh của sự lựa chọn, tôi không nghi ngờ một giống bò luôn cho ra con bò thiến với cái sừng rất dài, có thể được tạo ra bằng cách chăm sóc kỹ lưỡng những cá thể bò đực và bò cái, khi đem giao phối cho ra con bò với cái sừng dài nhất; và không một con bò thiến nào có thể đã từng sinh ra giống của mình. Như thế tôi tin điều này cũng xảy ra với các con côn trùng có thiên hướng xã hội: một sự biến chỉnh nhỏ của cấu trúc hoặc của bản năng, có mối quan hệ tương tác với tình trạng vô sinh của những thành viên nhất định của cộng đồng, là cỏ lợi cho cộng đồng đó: kết quả là các con cái có khả năng sinh sản và các con đực của cùng cộng đồng đó phát triển mạnh mẽ, và truyền lại cho những đứa con của chúng xu hướng sinh ra các thành viên vô sinh có cùng biến đổi. Và tôi tin quá trình này đã được lặp đi lặp lại cho tới khi khối lượng khác biệt rất lớn giữa con cái có khả năng sinh sản và con cái vô sinh của cùng loài nổi lên.
Nhưng chúng ta vẫn chưa tới đỉnh điểm của sự khó khăn: thực tế là những con vô sinh của vài loài kiến khác không chỉ so với con cái có khả năng sinh sản và con đực mà còn khác nhau tới mức độ khó tin là được chia thành hai hoặc thậm chí ba đẳng cấp. Nhưng cấp độ này nói chung không chuyển hóa lẫn nhau, mà có thể được định nghĩa rành mạch; khác nhau hẳn hoi; như là của hai loài thuộc cùng một chi, hoặc hơn là hai chi thuộc cùng một họ. Như thế trong Eciton, có các con kiến thợ và kiến lính, với cái hàm và bản năng khác nhau hoàn toàn: trong Cryptocerus, con kiến thợ của riêng chỉ một đẳng cấp mang một kiểu lá chắn tuyệt vời trên đầu của chúng,tác dụng của nó vẫn chưa được biết; trong Myrmecocystus Mêxicô, con kiến thợ của đẳng cấp không bao giờ rời khỏi tổ của nó; chúng được cho ăn bởi các con kiến thợ thuộc đẳng cấp khác và chúng có một cái bụng cực kỳ to để tiết chất dịch dạng mật ong, thay thế chỗ của chất tiết ra bởi các con rệp vừng, hay bởi vài gia súc thuần hóa như chúng có thể được gọi như vậy, mà các con kiến châu âu của chúng ta canh giữ hay cầm tù.
Ai đó có thể sẽ nghĩ tôi đã quá tự tin vào nguyên lý về sự lựa chọn của tự nhiên, khi tôi không thừa nhận những thực tế tuyệt vời và rõ ràng như thế ngay lập tức làm lý thuyết của tôi đổ vỡ hoàn toàn. Trong trường hợp đơn giản hơn đối với con côn trùng đơn tính, tất cả trong một đẳng cấp hay trong cùng loại, mà do sự lựa chọn của tự nhiên, như tôi tin là hoàn toàn có thể, là cho khác biệt so với con cái sinh sản và con đực - trong trường hợp này chúng ta có thể tự tin kết luận thông qua sự so sánh các biến đổi bình thường rằng mỗi biến đổi nhỏ, liên tục, và có lợi ban đầu có lẽ không xuất hiện trong tất cả các con vô sinh của cùng một tổ, mà chỉ một vài con thôi; và rằng thông qua sự lựa chọn lâu dài liên tục của bố mẹ có khả năng sinh sản mà sinh ra những con đơn tính với các biến đổi có lợi, tất cả các con đơn tính cuối cùng cũng sẽ có những đặc điểm mong muổn. Dựa trên quan điểm này, chúng ta đôi khi phải tìm thấy trong những con côn trùng đơn tính của cùng loài, trong cùng tổ cho thấy sự chuyển hóa của cấu trúc; và điều này chúng ta tìm thấy, thậm chí là thường xuyên, khi xem xét vài con côn trùng đơn tính trong số ít các con côn trùng châu âu được nghiên cứu của chúng ta. Ông F. Smith đã cho mọi người thấy rằng những con đơn tính của vài loài kiến nước Anh khác nhau về kích thước và đôi khi về màu sắc; và rằng những dạng thực hoàn toàn trái ngược đôi khi có thể có mối liên kết hoàn hảo bởi các cá thể trong cùng một tổ: Bản thân tôi đã từng so sánh sự chuyển hóa tuyệt vời của kiểu này. Thường thì những con kiến thợ to hơn hoặc bé hơn sẽ có số lượng đông đảo nhất; và rằng cả con to lẫn con nhỏ đều đông, trong khi những con có kích cỡ trung gian là ít. Formica ílava có kiến thợ to và nhỏ hơn, với vài con có kích cỡ trung gian; và trong loài này như ông F. Smith đã quan sát những con kiến thợ to hơn có mắt đơn giản (ocelli), mặc dù nhỏ những dễ dàng nhận ra, trái lại những con kiến thợ bé hơn có ocelli của chúng thô sơ. cẩn thận lấy ra vài mẫu của những con kiến thợ này, tôi có thể khẳng định chắc rằng đôi mắt của các con kiến bé hơn thô sơ hơn nhiều và điều đó chỉ có thể được giải thích là do kích cỡ của chúng bé hơn, và tôi hoàn toàn tin tưởng, mặc dù không dám khẳng định những con kiến có kích cỡ trung bình thì cũng có đôi mắt to trung bình. Ở đây chúng ta có hai cơ thể của những con kiến vô sinh trong cùng một tổ, khác nhau không chỉ về kích cỡ mà còn trong cơ quan thị giác, nhưng lại được liên kết bởi vài thành viên trung gian. Tôi xin nói thêm rằng nếu những con kiến thợ nhỏ hơn là có ích nhất đối với cộng đồng, và những con đực và con cái đã được lựa chọn liên tục, mà ngày càng cho ra nhiều con kiến thợ bé hơn, cho đến khi tất cả các con kiến thợ trở nên tình trạng hiện nay, thì chúng ta sẽ có một loài kiến vô sinh gần giống như những con của Myrmica. Vì những con kiến thợ của Myrmica thậm chí ;òn không có ocelli thô sơ, mặc dù những con đực và con cái của chi này có ocelli phát triển đầy đủ.
Tôi có thể đưa ra một trường hợp nữa: tôi tự tin nói rằng tôi đã tìm thấy những bước chuyển hóa trong các bộ phận quan trọng của cấu trúc giữa những đẳng cấp của các con vô sinh trong cùng một loài, và tôi đã được ông F. Smith cung cấp nhiều mẫu từ cùng một tổ của con kiến dẫn đường (Anomma) khu vực Tây Phi. Bạn đọc có lẽ sẽ đánh giá cao khối lượng khác biệt trong các con kiến thợ này, bằng cách không đưa ra những đo đạc thực tế của tôi, mà bằng ví dụ minh họa cụ thể: sự khác biệt là giống như những gì chúng ta thấy một tập hợp những người thợ đang xây một ngôi nhà trong đó có nhiều người thợ lm60, và nhiều người cao tầm lm80; nhưng chúng ta phải giả định những người công nhân to lớn có đầu to gấp bốn thay vì ba lần so với đầu của những công nhân bé, và quai hàm to gấp 5 lần. Hom nữa phần hàm của các con kiến thợ mà kích thước khác nhau thì khác biệt to lớn trong kiểu dáng, và trong hình dạng và số lượng của răng. Nhưng thực tế quan trọng đối với chúng ta là mặc dù những con kiến thợ có thể được chia vào các đẳng cấp của các kích cỡ khác nhau, nhưng chúng chuyển hóa lẫn nhau một cách không cảm nhận được, như là cấu trúc khác nhau lớn trong hàm của chúng.
Với những thực tế trước mặt, tôi tin rằng sự lựa chọn của tự nhiên, bằng cách tác động lên những bố mẹ sinh sản được, có thể sẽ tạo ra một loài mà thường sinh ra các con đơn tính, hoặc là tất cả có kích cỡ to hơn với một dạng của quai hàm, hoặc là tất cả các kích cỡ nhỏ với các hàm hoàn toàn khác nhau; hay cuối cùng, đây là điểm khó khăn nhất của chúng ta, một bộ các con kiến thợ của một cấu trúc và một kích cỡ; cùng một bộ các con kiến thợ với kích thước và cấu trúc khác nhau; một loạt các dạng chuyển đổi đầu tiên đã được hình thành, như trong trường hợp của con kiến dẫn đường, và sau đó là các dạng đối lập, từ có ích nhất đối với cộng đồng, sinh ra với số lượng ngày một nhiều thông qua sự lựa chọn của tự nhiên của cha mẹ mà sinh ra chúng; cho tới khi không con nào có cấu trúc trung gian được sinh ra.
Do đó tôi tin rằng thực tế tuyệt vời của hai đẳng cấp khác biệt rõ ràng của các con kiến thợ vô sinh sống trong cùng một tổ, cả hai đều có khác biệt lớn so với nhau và so với cha mẹ chúng, đã hình thành. Chúng ta có thể thấy chúng có ích như thế nào cho một cộng đồng xã hội của các con côn trùng, dựa trên nguyên lý phân công lao động là có ích đối với con người văn minh. Vì các con kiến làm việc theo bản năng được di truyền lại với các công cụ và vũ khí được di truyền, và không phải bởi kiến thức thu lượm được và các công cụ mới được hình thành, một sự phân chia lao động hoàn hảo có thể ảnh hưởng tới chúng chi vì các con kiến thợ bị vô sinh; vì nếu chúng đã không bị vô sinh, chúng đã giao phối với nhau, bản năng và cấu trúc của chúng đã hòa lẫn vào nhau. Tôi tin tự nhiên đã gây ra sự phân chia lao động đáng ngưỡng mộ của cộng đồng các con kiến, thông qua sự lựa chọn của tự nhiên. Nhưng tôi buộc phải thú nhận là, với tất cả sự tin tưởng của mình vào nguyên lý này, tôi không bao giờ nên tiên đoán sự lựa chọn của tự nhiên đạt tới mức độ cao như vậy, nếu trường hợp của những con vô sinh này không thuyết phục tôi. Do vậy tôi đã thảo luận trường hợp này một chút nhưng không thể đủ dài, nhằm cho thấy sức mạnh của sự lựa chọn của tự nhiên, và tưcmg tự như vậy cho tới nay điều này là khó khăn lớn nhất đối với lý thuyết của tôi. Trường hợp cũng rất thú vị vì thấy rằng với động vật, cũng như với thực vật, bất kỳ khối lượng thay đổi nào trong cấu trúc có thể bị tác động của sự tích tụ hàng loạt các biến đổi nhỏ và như chúng ta phải gọi chúng là mang tính ngẫu nhiên, mà xét trên bất cứ góc độ nào đều có ích, không cần đến sự tác động của luyện tập và thói quen. Vì không sự luyện tập thói quen hay volition, trong các thành viên hoàn toàn bị vô sinh của một cộng đồng có thể đã ảnh hưởng tới cấu trúc hay bản năng của các thành viên sinh sản được, và chỉ những con này mới đế lại con cháu. Tôi ngạc nhiên là không ai phát triển trường hợp này điển hình của các con côn trùng đơn tính này, chống lại học thuyết nối tiếng của Lamarck.
Kết luận - Tôi đã cố gắng hết sức trong chương này để ngắn gọn chứng minh những đặc điểm trí óc của các con vật thuần chủng của chúng ta là thay đổi, và rằng những thay đổi đó được di truyền lại. Và còn ngắn gọn hơn cho thấy các bản năng thực sự biến đổi nhỏ trong môi trường tự nhiên. Sẽ không có ai tranh cãi bản năng là quan trọng nhất đổi với mỗi con vật. Vì vậy tôi không gặp khó khăn gì đối với sự lựa chọn của tự nhiên, trong điều kiện sống thay đổi, để tích tụ các biến đổi nhỏ của bản năng tới bất cứ mức độ nào, trong bất cứ chiều hướng nào có ích. Trong một số trường hợp thói quen hoặc sự sử dụng và không sử dụng có lẽ đã phát huy tác dụng của chúng. Tôi không cố ý nói rằng những thực tế cung cấp trong chương này càng khẳng định thêm tính đúng đắn của lý thuyết tôi đưa ra; nhưng không trường hợp khó khăn nào, theo như tôi thấy, là chống lại nó. Mặt khác, thực tế là những bản năng không phải lúc nào cũng tuyệt đối hoàn hảo và dễ bị nhầm tưởng; rằng không bản năng nào xuất hiện mà chỉ mang lại lợi ích cho các động vật khác, nhưng rằng mỗi con vật đều tận dụng bản năng của các con vật khác; rằng chuẩn mực trong lịch sử tự nhiên của Natuara non facit saltum là có thể áp dụng được cho cả bản năng và cấu trúc vật thể, và nó có thể được giải thích một cách dễ dàng dựa vào quan điểm đã nêu, chứ nếu không thì không thể giải thích được - tất cả có xu hướng khẳng định tính chuẩn xác của lý thuyết về sự lựa chọn của tự nhiên.
Lý thuyết này cũng được một số ít các thực tế khác liên quan đến bản năng ủng hộ; như bằng trường hợp phổ biến của các loài họ hàng gần gũi nhưng chắc chắn riêng biệt, khi sống tại các vùng cách xa nhau trên trái đất và trong điều kiện sống khác biệt đáng kể, nhưng lại thường giữ lại các bản nàng giống hệt nhau. Chẳng hạn chúng ta có thể hiểu dựa trên nguyên lý của sự di truyền, như thế nào mà con chim hét tại vùng Nam Mỹ xây tổ của chúng trên bùn, giống như cách kỳ lạ của chim hét nước Anh; như thế nào mà những con chim hồng tước đực Ợrogỉodytes) của vùng Bắc Mỹ xây tổ giống như gà trống để ngủ giống như các con chim hồng tước đực Kitty - một thói quen hoàn toàn khác lạ so với thói quen của bất cứ loài chim nào khác được biết đến. Cuối cùng, nó có thể không phải là một sự suy luận logic cho lắm, nhưng với trí tưởng tượng của tôi, nó là rất đáng hài lòng khi coi những bản năng kiểu là con chim cu cu đẩy những con chim anh em của chúng, các con kiến chuyên làm nô lệ, các ấu trùng của Ichneumonidae ăn trong vòng đời sâu của chúng -không phải là các bản năng được Chúa đặc biệt ban cho hay tạo ra, mà là những hệ quả nối tiếp nhau của một quy luật chung, dẫn đến sự tiến hóa của tất cả các thực thể sống, đó là, sinh sôi nảy nở, biến đổi, giữ lại những con khỏe nhất và tiêu diệt những khỏe nhất và loại đi những con yếu nhất.
CHƯƠNG VIII
Sự lai ghép giữa hai loài riêng biệt
Sự phân biệt giữa tính vô sinh của những con lai giữa các giống và giữa các loài thế hệ đầu tiên - Tính vô sinh thay đổi theo mức độ, không phổ biến, chịu ảnh hưởng của lai giống chéo giữa các loài - Các quy luật điều chỉnh tính vô sinh của cá thể lai ghép khác loài - Sự vô sinh không phải là sản phẩm của Chúa trời mà là do Tự nhiên - Các nguyên nhân của sự vô sinh của những con lai giữa các giống và giữa các loài thế hệ đầu tiên - Sự tương đồng giữa các ảnh hưởng của điều kiện sống thay đổi và của lai ghép giống - Khả năng sinh sản của các biến thể khi lai giống và của những đứa con không phải là biến thể -Cá thể lai giữa các loài và cá thể lai giữa hai giống được so sánh không phụ thuộc vào khả năng sinh sản của chúng - Tổng kết
Đa số các nhà tự nhiên học đều nhất trí là các loài, khi được đem lai với nhau, sẽ không có khả năng sinh sản, với mục đích là để tránh tình trạng lẫn lộn giữa giữa tất cả các dạng sống hữu cơ. Hiển nhiên là lúc đầu quan điểm này có vẻ như khá họp lý, bởi vì các loài trong cùng một nước khó có thể phân biệt được nếu chúng có khả năng lai dễ dàng. Tôi nghĩ, tầm quan trọng của thực tế là những con lai giữa các loài khác nhau thông thường không thể sinh đẻ được đã bị một số nhà nghiên cứu nhận thức đúng đắn. Theo lý thuyết sự lựa chọn của tự nhiên, trường hợp này là đặc biệt quan trọng, nhất là khi tính vô sinh của con lai giữa các loài không thể là có lợi đối với chúng, và do đó sẽ không có được nhờ vào sự duy trì liên tục các mức độ có lợi của tính vô sinh. Tuy nhiên tôi vẫn hi vọng có thể cho các bạn thấy tính vô sinh không phải là thu được theo cách đặc biệt hay là do Chúa sinh ra, mà là do ngẫu nhiên mà có từ các sai biệt thu được khác.
Để trình bày chủ đề này, tôi gộp hai phân lớp thực tế minh họa, xét ở mức độ lớn chúng khác nhau về co bản. Đó là tính vô sinh của hai loài khi lần đầu tiên cấy ghép, và tính vô sinh của những cá thể lai sinh ra bởi chúng.
Tất nhiên là các loài thuần chủng có bộ phận sinh sản tốt, nhưng khi đem lai, chúng sinh ra hoặc là ít con hoặc không sinh nở gì. Những con lai lại có bộ phận sinh sản không hoạt động, như chúng ta có thể nhận ra rõ trong nhân tố của con đực của cả động và thực vật; mặc dù các co quan có cấu trúc hoàn hảo, theo như kính hiển vi cho biết. Trong trường hợp đầu tiên, hai yếu tố giới tính cùng nhau tạo ra bào thai là hoàn hảo; trong trường hợp thứ hai, chúng hoặc là không phát triển hoặc phát triển lệch lạc. Sự phân biệt này là quan trọng, khi mà nguyên nhân của tính vô sinh, khá phổ biến trong cả hai trường hợp, phải được xem xét. Sự phân biệt này có lẽ đã bị hiểu sai do tính vô sinh trong cả hai trường hợp đều bị coi đó là sản phẩm của Chúa trời, chúng ta không thể giải thích được tình trạng này.
Khả năng sinh sản tốt của các biến thể, mà người ta biết chúng bắt nguồn từ bố mẹ chung, khi đem lai ghép, và tương tự như khả năng sinh sản của các đứa con lai của chúng, theo lý thuyết của tôi, quan trọng tương đương với tính vô sinh của các loài; vì dường như nó cung cấp một sự phân biệt khái quát rõ ràng giữa biến thể và loài.
Thứ nhất, đối với tính vô sinh của loài khi lai ghép và của những con cháu lai của chúng. Tôi không thể nghiên cứu các bản ghi chép và tác phẩm của hai nhà quan sát tỷ mỷ và đáng ngưỡng mộ, Kolreuter và Gartner, những người đã cống hiến gần như trọn đời mình cho chủ đề này, mà không cảm thấy thực sự bị ấn tượng sâu đậm về tính phổ biến của sự vô sinh. Ông Kolreuter biến quy luật này mang tính rộng rãi; nhưng sau đó cũng đưa ra ngoại lệ, vì trong mười trường hợp trong đó ông tìm ra hai dạng, mà theo như đại đa số các học giả là hai loài riêng biệt, có khả năng sinh sản tốt, ông ngay lập tức xếp chúng vào biến thể. Ông Gartner cũng khiến quy luật trở thành phổ biến với mức độ tương đương; và ông phản bác lại khả năng sinh sản tốt trong mười trường hợp của ông Kolreuter. Nhưng trong những trường hợp này và rất nhiều trường hợp khác, ông Gartner buộc phải cẩn thận đếm các hạt giống, nhàm để chứng minh xem có bất kỳ mức độ nào của sự vô sinh không. Ông luôn so sánh số lượng lớn nhất của các hạt giống tạo ra bởi hai loài khi đem lai ghép với nhau và bởi con cháu của chúng với số lượng trung bình sinh ra bởi bố mẹ thuần chủng trong tự nhiên. Nhưng một một nguyên nhân chính gây ra sai sót mà tôi thấy cần phải được trình bày ở đây: một cây khi đem đi lai ghép phải bị phá bỏ cơ quan sinh dục, và cái quan trọng hơn là phải bị cách ly nhằm tránh việc phấn hoa được các con côn trùng mang tới hoa khác. Hầu hết tất cả các cây ông Gartner thí nghiệm đều trồng trong chậu, và chắc chắn là giữ trong một phòng nhà ông. Việc các quá trình này thường gây hại đối với tính sinh sản của một cây là không thể bị nghi ngờ, vì ông Gartner đưa ra trong bảng của ông nhiều trường hợp cây bị ông phá bỏ cơ quan sinh sản của chúng, tự cấy thêm khả năng sinh sản với phấn hoa của bản thân chúng, và (ngoại trừ tất cả các trường hợp như loài Leguminosae, mà chúng ta khó có thể biến cải chúng) nửa trong số hai mươi cây này có cơ quan sinh sản bị tổn thương ở mức độ nhất định. Hơn nữa, như ông Gartner trong nhiều năm qua đã liên tục cấy ghép hoa anh thảo và hoa anh thảo vàng, những cây mà chúng ta có lý do chính đáng đê tin chúng là các biến thể, và chỉ một hoặc hai cây là có khả năng sinh hạt giống; như ông tìm thấy ở cây hổ người xanh và đỏ phổ biến (Anagallis, arvensis và coerulea) mà những nhà thực vật học danh tiếng nhất xếp chúng vào biến thể, hoàn toàn là vô sinh cùng nhau; và như ông ta cũng đi tới kết luận tương tự trong vài trường hợp giống như the; tôi cảm thấy rằng những thực tế đó cho phép chúng ta nghi ngờ xem liệu nhiều loài khác thực sự là vô sinh, khi lai ghép giữa các loài, như ông Gartner tin thế.
Một mặt, rõ ràng là tính vô sinh của nhiều loài khi đem lai ghép là vô cùng khác biệt trong mức độ và tiến triển dần dần không cảm nhận được. Mặt khác, khả năng sinh sản của các loài thuần chủng dễ dàng bị ảnh hưởng bởi nhiều hoàn cảnh khác nhau. Với tất cả các mục đích thực tiễn, điểm khó khăn nhất là để nói khi nào khả năng sinh sản hoàn hảo kết thúc và khi nào thì sự vô sinh bắt đầu. Tôi nghĩ không có bằng chứng nào tổt hơn, cần thiết hơn là hai nhà quan sát danh tiếng nhất của mọi thời đại, Kolreuter và Gartner, đã đi tới hai kết luận trái ngược hẳn nhau đối với cùng một loài. Điều hữu ích nhất là so sánh -nhưng tôi không có chỗ ở đây để đi vào chi tiết - bằng chứng đưa ra bởi các nhà thực vật học giỏi nhất về câu hỏi liệu những dạng nghi ngờ nhất định nên được xếp vào loài hay biến thể, với bằng chứng về sự vô sinh cung cấp bởi các nhà lai ghép loài khác nhau, hoặc bởi chính học giả đó, dựa vào các thí nghiệm tiến hành trong vài năm qua. Do vậy người ta có thể chứng minh không phải tính vô sinh cũng không phải khả năng sinh sản cung cẩp bất kỳ sự phân biệt rành mạch giữa loài và biến thể; mà bằng chứng từ nguồn này là chuyển hóa dần dần, và cũng đáng nghi ngờ với mức độ tưomg đưomg như là bằng chứng rút ra từ các khác biệt mang tính thể trạng và cấu trúc.
Xét về tính vô sinh của các con lai trong các thế hệ kế tiếp nhau; mặc dù ông Gartner có thể nuôi vài con lai ghép giữa loài; cẩn thận không cho chúng lai với hoặc là bộ mẹ thuần chủng, trong sáu hoặc bảy, và ở một trường hợp lên tới mười thế hệ, nhưng ông ta khẳng định chắc chắn rằng khả năng sinh sản của chúng không bao giờ tăng cả mà trái lại giảm mạnh. Tôi không nghi ngờ về tính đúng đắn của kết luận này, và khả năng sinh sản của chúng đột ngột giảm trong vài thế hệ đầu. Tuy nhiên tôi tín là trong mọi trường hợp khả năng sinh sản suy giảm vì một lý do độc lập, chính là lý do lai ghép chéo gần. Tôi đã thu thập được số lượng lớn các bằng chứng cho thấy việc lai ghép gần sẽ làm giảm khả năng sinh sản, và một lần lai ghép ngẫu nhiên với một cá thể hay biến thể khác biệt sẽ tăng khả năng sinh sản. Tôi không thể nghi ngờ tính đúng đắn của niềm tin của hầu hết giới nhân giống. Các con lai giữa loài ít khi được tạo ra bởi các nhà thí nghiệm với số lượng lớn; và do loài bố mẹ hoặc loài lai gần gũi khác, thường sống chung trong mảnh vườn; việc tiếp xúc với các con côn trùng phải bị ngăn cấm hoàn toàn trong suốt mùa ra hoa: như thế các con lai loài nói chung sẽ tăng khả năng sinh sản qua mỗi thế hệ phấn hoa của bản thân chúng; và tôi tin chắc điều này sẽ gây hại tới khả năng sinh nở của chúng, khả năng đó đã bị giảm đi bởi nguồn gốc lai rồi. Luận chứng của tôi càng có cơ sở vững chắc hơn dựa vào một lời phát biểu đáng chú ý liên tục được ông Gartner nhắc lại rằng thậm chí là những con lai kém sinh nở được cấy ghép bởi phấn hoa lai của cùng loại, khả năng sinh sản của chúng, bất chấp những ảnh hưởng xấu của tiểu xảo, đôi khi tăng mạnh, và tiêp tục gia tăng. Bây giờ, trong quá trình cấy ghép khả năng sinh sản nhân tạo, phấn hoa thường được lựa chọn ngẫu nhiên (như tôi được biết dựa vào kinh nghiệm bản thân) từ các bao phấn của một loài hoa, như từ các bao phấn của chính hoa dùng để cấy ghép khả năng sinh sản nhân tạo; để cho sự lai ghép giữa hai hoa, mặc dù trên cùng một cây, nhờ đó thành công. Hơn nữa, mỗi khi những thí nghiệm phức tạp đang trong giai đoạn triển khai, một nhà thí nghiệm hết sức cẩn trọng, như ông Gartner, đã có thể loại đi bộ phận sinh sản của đứa con lai. Điều này chắc sẽ đảm bảo trong mỗi thế hệ lai ghép với phấn từ một cây hoa khác riêng biệt, hoặc là từ cùng một cây hoặc là từ một cây khác của cùng cá thể lai cấy. Do vậy tôi tin tưởng rằng thực tế lạ lùng về sự gia tăng của tính sinh sản qua các thế hệ kế tiếp của những con lai loài được cay ghép khả năng sinh sản nhân tạo có thể được giải thích thông qua thực tế là người ta tránh các trường hợp lai loài gần nhau.
Bây giờ chúng ta hãy xem đến kết quả của thu được của người quan sát giỏi thứ ba, Hon. và Rev. w. Herbert. Ông khẳng định rõ ràng trong kết luận của mình là vài con lai loài hoàn toàn sinh nở tốt - có khả năng sinh sản giống như loài cha mẹ - như là của ông Kolreuter và Gartner trong một chừng mực nào đấy về sự vô sinh của giữa các loài riêng rẽ là một quy luật tất yếu. Ông này cũng thí nghiệm trên các cây gần giống như của ông Gartner đã làm. Tôi nghĩ sự khác biệt trong kết quả của họ có thể do kỹ năng và nhà kính của ông ta. Trong số nhiều lời phát biểu quan trọng của ông, tôi chỉ đưa ra ở đây một lời phát biểu, đó là "mọi noãn trong một quả đậu Crinum capense được cấy tạo khả năng sinh sản bởi c. revolutum sinh ra một cây, mà ông nói tôi không bao giờ nhìn thấy xuất hiện trong một trường hợp của sự thụ tinh tự nhiên của nó".
Như thế ở đây chúng có khả năng sinh sản hoàn hảo, thậm chí còn hơn cả sự hoàn hảo thông thường trong một cá thể lai thế hệ đầu tiên giữa hai loài khác nhau.
Trường hợp này của Crinum khiến tôi nhớ đến một thực tế khá lạ kỳ: có các cá thể cây với những loài nhất định của Lobelỉa, và với tất cả các loài của chi Hìppeastrum mà dễ dàng thu được khả năng sinh sản hơn nhiều bằng phấn hoa của loài khác riêng biệt. Vì người ta tìm thấy những cây này đẻ hạt giống vào phấn hoa của một loài khác biệt, mặc dù hoàn toàn vô sinh đối với phấn của bản thân chúng, bất chấp thực tế là phấn hoa của chúng rất tốt, vì chúng giúp loài khác sinh sản được. Tức là những cây cá thể nhất định và tất cả các cá thể của loài nhất định trên thực tế có thể đem lai dễ dàng hơn so với việc chúng tự sinh sản! Ví dụ, củ hành của Hỉppeasstrum aulicum cho ra bốn bông hoa; ba bông được ông Herbert giúp có thể sinh sản với phấn hoa của chính chúng, và sau đó bông thứ tư tiếp nhận phấn hoa của một cá thể lai hỗn hợp có nguồn gốc từ ba loài khác biệt. Kết quả là "buồng nhụy của ba hoa đầu tiên ngay lập tức ngừng phát triển, và sau vài ngày thì bị chết hoàn toàn, trái lại bông hoa được thụ phấn bởi phấn hoa của cá thể lai hỗn hợp có bầu nhụy tăng trưởng nhanh và manh mẽ và cho ra hạt giống khỏe mạnh, mọc dễ dàng". Trong một bức thư gửi cho tôi vào năm 1839, ông Herbert nói sau đó ông đã cố gắng thử làm thí nghiệm trong suốt 5 năm, và ông tiếp tục làm thí nghiệm đó sau vài năm tiếp đó, và kết quả luôn luôn không thay đổi. Kết quả này cũng đã được những nhà quan sát khác khẳng định trong trường hợp của Hippeastrum với tiêu chí của nó, và trong những trường hợp của các chi khác, như Lobelia, Oassiýìora và Verbascum. Mặc dù những cây mang thí nghiệm này chắc chắn là khỏe mạnh, và mặc dù cả noãn lẫn phấn của cùng một hoa là tốt đối với các loài khác, nhưng chúng là không hoàn hảo về mặt chức năng trong việc tự động chung, chúng ta phải suy ra rằng cây không ở trong tình trạng tự nhiên bình thường. Tuy nhiên, thực tế này cho thấy đôi lúc dựa vào những nguyên nhân khó hiểu và kém quan trọng thì khả năng sinh sản dễ dàng hay khó khăn của loài khi đem lai, so với chính loài đấy khi tự thụ tinh.
Các thí nghiệm của thực tiễn của những người làm vườn, dù không diễn ra với độ chuẩn xác khoa học, song, cũng đáng để xem xét. Nhiều người biết tính phức tạp vô cùng của cách thức của loài Pelargonium. Fuchsia, Calceolaria, Petunia, Rhododendron... đã được lai ghép, nhưng nhiều cá thể lai từ chúng vẫn cho hạt giống đều đều. Ví dụ ông Herbert khẳng định rằng cá thể lai từ Calceolaria integri/oỉia và plantaginea, những loài hoàn toàn xa lạ, về tính cách "" sinh đẻ ra con cháu cứ như thể nó là một loài tự nhiên từ nhiều ngọn núi ở Chile". Tôi đã trải qua một vài khó khăn để biết rõ mức độ của khả năng sinh nở của vài cá thể lai phức tạp Rhododendron. Tôi khẳng định là nhiều cá thể trong số chúng sinh đẻ tốt. Chẳng hạn như ông c. Noble cho tôi biết ông đang trồng một số lượng cây để lai ghép tạo ra một cá thể lai giữa Rhod Pontisum và Catawbiense, và cá thể lai này "sinh sản cực kỳ dễ dàng, khó ai có thể tưởng tượng được". Nếu các cá thể lai giữa các loài, khi được chăm sóc tốt, vẫn tiếp tục suy giảm khả năng sinh sản qua các thế hệ kế tiếp nhau, như ông Gartner cho là như thế, thực tế này chắc đã phải được nhiều người làm vướng nhắc tới. Những người làm vườn trồng nhiều cây của các cá thể lai tương tự nhau và được chăm sóc tốt, vì nhờ tác nhân côn trùng, vài cá thể của cùng một biến thể lai được cho phép lai ghép tự do với nhau, và do đó ảnh hưởng có hại tới việc lai ghép họ hàng vì sẽ không phát huy tác dụng. Bất kỳ ai ngay lập tức đồng ý về tính hiệu quả của tác nhân côn trùng bằng cách đem những bông hoa của loại kém sinh nở hơn của rhododendron lai, những cây không có phấn hoa thì anh ta sẽ tìm thấy trên các đầu nhụy nhiều phấn mang đến từ các hoa khác.
Đối với động vật, người ta tiến hành ít thí nghiệm cẩn thận trên chúng hơn nhiều so với thực vật. Nếu những sắp xếp hệ thống của chúng ta là đáng tin tưởng, tức là nếu các chi động vật riêng biết giống như là các chi thực vật, thì chúng ta có thể suy luận rằng động vật bị tách biệt ở mức độ lớn hơn trong tự nhiên có thể dễ dàng lai ghép với nhau hơn là cây cối; nhung tôi nghĩ những con vật sinh ra từ sự lai ghép như thế sẽ kém khả năng sinh sàn hơn. Tôi nghi ngờ liệu có bất kỳ trường hợp động vật nào được xem xét cẩn thận rõ ràng hay không. Song chúng ta nên nhớ rằng, do có ít con vật lai ghép dễ dàng trong điều kiện bị giam hãm, ít thí nghiệm chính xác được tiến hành: ví dụ chim hoàng yến cho lai ghép với chín loài chim họ sẻ, nhưng do không một loại chim họ sẻ nào trong chín loài trên sinh sản thoải mái trong điều kiện bị giam cầm, chúng ta không có quyền trông đợi những con lai thế hệ đầu tiên giữa chúng và chim hoàng yến, hay các con lai của chúng, sẽ sinh nở tốt. Một lần nữa, khi xét về khả năng sinh sản trong các thế hệ kế tiếp của các con vật lai loài với khả năng sinh sản tốt hơn, tôi không biết một ví dụ nào cho thấy trong đó hai họ của cùng cá thể lai đã được nuôi cùng thời điểm nhưng khác bố mẹ, nhằm tránh ảnh hưởng xấu của việc lai giống các con họ hàng. Đối lập lại, anh chị em thường được cho giao phối với nhau qua mỗi thế hệ kế tiếp, đi ngược lại lời cảnh báo liên tục của mọi nhà nhân giống. Và trường họp này, không có gì đáng ngạc nhiên về sự vô sinh không thể thiếu của các con vật lai ngày một tăng. Nếu chúng ta hành động như thế, và từng cặp anh chị em trong trường họp các con vật thuần chủng, mà do nguyên nhân nào đi chăng nữa, có xu hướng vô sinh ít nhất, con lai sẽ chắc chắn bị mất trong một vài thế hệ.
Cho dù tôi không biết bất cứ trường hợp rõ ràng nào về các con vật lai loài sinh nở tốt, tôi có vài lý do để tin rằng con lai từ Cervulus vaginalis và Reevesii, và từ Phasianus colchicus với p. torquatus và với p. versicolor là hoàn toàn sinh nở được. Những con lai của loài ngỗng Trung Quốc thông thường (Ắ. cygnoides), những loài khác biệt nhau tới mức chúng thường được xếp vào chi khác nhau, thường sinh sản trong đất nước này với cha mẹ thuần chủng, chúng đã sinh sản trong chính nhóm. Hiện tượng này đã được ông Eyton chứng thực, người nuôi hai cá thể lai từ cùng cha mẹ nhưng ấp khác nhau; và từ hai con chim này, ông có thêm không ít hơn tám con chim lai (cháu của ngỗng thuần chủng) từ một cái tổ. Tuy thế ở Ấn Độ, những con ngỗng lai này chắc chắn sinh đẻ dễ dàng hơn nhiều vì tôi đảm bảo chắc, dựa trên hai nhà nghiên cứu khoa học tài năng, ông Blyth và đại tá Hutton, toàn bộ đàn của những con ngỗng lai này được nuôi ở nhiều phần khác trên thế giới; và do chúng được giữ lại vì có lợi trong khi bố mẹ thuần chủng của chúng không tồn tại, chúng chắc chắn phải đã đẻ nhiều.
Một học thuyết khởi xướng bởi ông Pallas, được đa số các nhà tự nhiên học đương đại tán thành. Đó là hầu hết các con vật thuần chủng của chúng ta đều bắt nguồn từ hai hay nhiều hơn các loài nguyên thủy, do hòa lẫn với nhau bởi quan hệ giao phối họ hàng gần gũi. Đứng trên quan điểm này, những loài nguyên thủy chắc phải hoặc là ban đầu đẻ ra các cá thể lai sinh nở tốt hoặc là những cả thể lai sau đó trở nên sinh sản dễ dàng trong điều kiện thuần hóa. Sự giải thích thứ hai này đối với tôi có vẻ như là có khả năng nhất, và tôi tin vào tính xác thực của nó, cho dù nó không có bằng chứng trực tiếp nào ủng hộ. Chẳng hạn như tôi nghĩ loài chó nhà của chúng ta có nguồn gốc từ vài loại vật hoang dã, nhưng loại trừ các trường hợp kiểu loài chó nhà thuần bản địa của Nam Mỹ, tẩt cả là sinh nở được; và sự so sánh khiến tôi rất nghi ngờ liệu vài loài gốc nguyên thủy có cùng sinh sản không và sinh ra những cá thể lai có thể sinh sản tốt. Do vậy một lần nữa chúng ta có lý do tin rằng những con gia súc có bướu Ấn Độ sinh nở tốt; nhưng dựa trên những thực tế mà ông Blyth đưa cho tôi, chúng phải được coi là các loài khác nhau. Xét trên quan điểm về nguồn gốc loài của các con vật thuần dưỡng của chúng ta, chúng ta phải hoặc là từ bỏ niềm tin vào sự vô sinh phổ biến của các loài khác nhau khi đem lai; hoặc là chúng ta phải coi tính vô sinh, không phải là đặc điểm cố định, mà là một đặc điểm có thể loại bỏ khỏi bởi sự thuần dưỡng.
Cuối cùng, xem xét đến tất cả các thực tế rõ ràng về sự lai ghép của các động vật và thực vật, chúng ta có thể rút ra kết luận mức độ nhất định của tính vô sinh, cả trong những thế hệ lai giống và trong cả các cá thể lai loài thế hệ đầu tiên, là một kết quả cực kỳ thông thường, nhưng với kiến thức hiện tại của chúng ta, điều này không thể được coi là đúng tuyệt đối. Các quy luật điều chỉnh tính vô sinh của các cá thể lai giống và loài đầu tiên - Chúng ta bây giờ sẽ xem xét chi tiết hơn một chút các hoàn cảnh và quy luật điều chỉnh tính vô sinh của các cá thể lai giống và loài đầu tiên. Mục tiêu chính của chúng ta sẽ là xem liệu có hay không các quy luật ám chi các loài được ban tặng đặc biệt đặc điểm này, nhằm tránh sự lai ghép của chúng khi hòa lẫn vào với nhau dẫn đến trạng thái lẫn lộn. Những quy luật và kết luận sau chủ yếu được rút ra từ công trình nghiên cứu đáng khâm phục của ông Gartner về quá trình lai loài của các cây. Tôi gặp vài khó khăn để biết xem tầm áp dụng của quy luật này đến đâu đối với các con vật, và xem kiến thức của chúng ta biết đến đâu trong lĩnh vực động vật lai loài, tôi rất ngạc nhiên khi phát hiện là quy luật nói chung đúng với cả hai vưomg quốc động vật và thực vật.
Các nhà khoa học đã nhận xét rằng mức độ sinh đẻ, cả của cá thể lai giống và lai loài, chuyển hóa hoàn toàn từ vô sinh tới khả năng sinh sản tốt. Mọi người chắc hẳn sẽ ngạc nhiên khi biết có nhiều cách kỳ lạ sự chuyển hóa này có thể được chứng minh tồn tại; nhưng ở đây tôi chi bàn đến những điều cơ bản nhất. Khi phấn hoa của một cây trong một họ được đặt trên đầu nhụy hoa của cây trong một họ khác biệt, nó không hoàn toàn giống như những hạt bụi vô cơ, không hề có ảnh hưởng gì. Từ tính vô sinh hoàn toàn, phấn hoa của loài khác trong cùng chi đặt trên đầu nhụy hoa của loài khác nào đó, thì lai cho ra vài hạt giống tốt, chuyển sang mức có khả năng sinh đẻ hoàn hảo, và như chúng ta thấy, trong vài trường hợp đặc biệt, thậm chí là quá mắn đẻ là đằng khác, trên cả những gì mà phấn hoa của bản thân cây sẽ sinh ra. Trong chính những cá thể lai loài, có vài cá thể đã không bao giờ sinh nở và có lẽ sẽ không bao giờ sinh sản, thậm chí là với phấn của bố mẹ thuần chủng, một hạt giống sinh sản duy nhất thôi: nhưng trong một số trường hợp kiểu này, dấu vết đầu tiên về khả năng sinh sản có thể được phát hiện ra, bởi phấn hoa của một trong hai bố mẹ thuần chủng khiến hoa của cá thể lai héo sớm hơn nó trong khi đáng ra phải sống lâu hơn; và hiện tượng héo sớm như thế là dấu hiện phổ biến cho biết quá trình sinh sản hóa bắt đầu. Từ mức độ cực điểm của tính vô sinh chúng ta có các cá thể lai tự sinh sản cho ra ngày càng lớn số lượng các hạt giống tới khả năng sinh sản hoàn hảo.
Các cá thể lai từ hai loài khó kết hợp với nhau; và hiếm khi đẻ ra con cái, thông thường có khả năng vô sinh rất cao; nhưng tình trạng tương đương giữa khó khăn tạo ra cá thể lai đầu tiên, và sự vô sinh của các cá thể lai loài mà do đó được sinh ra - hai nhóm hiện tượng thường gây sự khó hiểu - không hề chặt chẽ xét trên mọi góc cạnh. Chúng ta có nhiều trường hợp trong đó hai loài thuần chủng dễ dàng kết hợp được với nhau bởi tác nhân trợ giúp bất thường, và tạo ra khá nhiều cá thể lai; song những cá thể lai này đáng chủ ý là bị vô sinh. Mặt khác, có những loài hiếm khi lai, hoặc cực kỳ khó để làm như thế, nhưng cuối cùng vẫn lai được thì lại có khả năng sinh sản tốt. Thậm chí trong giới hạn của một chi, ví dụ như chi Dianthus, hai trường hợp đối lập này dã xuất hiện.
Khả năng sinh sản, của cả cá thể lai giống và cá thể lai loài, dễ dàng bị ảnh hưởng bởi các điều kiện xấu hơn so với khả năng sinh sản của các cá thể thuần chủng. Tương tự thế mức độ khả năng sinh sản về bản chất là biến thiên; vì nó không bao giờ giữ nguyên khi hai loài lai ghép trong cùng điều kiện hoàn cảnh, nhưng một phần dựa vào thể trạng của các cá thể đã được lựa chọn ngẫu nhiên để thí nghiệm. Do vậy chính là với các cá thể lai loài, do mức độ sinh sản của chúng thường khác nhau nhiều trong vài cá thể trồng từ các hạt lấy ra từ một quả nang và trồng trong cùng điều kiện như nhau.
Cụm từ mối quan hệ hệ thống có nghĩa là sự giống nhau giữa các loài trong cấu trúc và thể trạng, nhất là trong các bộ phận cấu trúc quan trọng về mặt sinh lý khác nhau ít trong các loài họ hàng. Hiện giờ khả năng sinh sản của các cá thể lai loài đầu tiên; và của các cá thể lai sinh ra bởi chúng, chủ yếu bị điều chỉnh bởi mối quan hệ hệ thống. Chúng ta chứng minh tốt điều này dựa vào thực tế là các cá thể lai sinh ra bởi nhiều loài được các nhà hệ thống học xếp vào những họ riêng rẽ. Những sự tưomg ứng mối quan hệ hệ thống và yếu tố hỗ trợ lai ghép không có sự chặt chẽ xét trên mọi mặt. Vô số trường hợp về các loài họ hàng gần gũi có thể được đưa ra. Những loài họ hàng này sẽ không kết hợp với nhau, hoặc nếu có thì vô cùng khó khăn; và mặt khác những loài hoàn toàn khác biết kết hợp với nhau thực sự dễ dàng. Trong cùng một họ có thể có chi, như Dianthus, mà nhiều loài sẵn sàng cho sự lai ghép; chi khác như Silene, người ta đã cố gắng hết sức mà vẫn không thể tạo ra một cá thể lai giữa các loài cực kỳ gần gũi. Thậm chí chỉ trong một chi thôi, chúng ta cũng gặp sự khác biệt đó; ví dụ, nhiều loài của chi Nicotiana đã được lai hơn là loài thuộc bất cứ chi nào. Nhưng ông Gartner tìm thấy rằng N. acuminata, không là một loài riêng biệt điển hình luôn không thể sinh nở được, hay làm cho chúng sinh nở bởi không ít hơn tám loài của Nicotiana khác. Rất nhiều thực tế tương tự có thể được dẫn ra.
Không ai có thể chỉ ra loại nào hay mức độ khác nhau nào trong bất cứ đặc điểm có thể nhận thấy nào là đủ để cản trở hai loài lai với nhau. Người ta có thể chứng minh cây thường khác nhau trong thói quen và đặc điểm chung bên ngoài, và nhận ra sự khác nhau trong mọi phần của cây hoa, thậm chí trong cả quả và trong phấn, trong lá mầm, có thể lai được. Nhưng cây hàng năm và cây lâu năm, những cây sẽ khô héo sau một khoảng thời gian và những cây xanh mãi mãi, sống ở những khu vực địa lý khác nhau, và thích hợp với các điều kiện khí hậu hoàn toàn trái ngược, thường dễ dàng lai ghép được.
Thông qua sự lai ghép trao đổi giữa hai loài, ví dụ như ngựa giống lần đầu tiên được lai ghép với một con lừa cái, và sau đó một con lừa đực với một con lừa cái: thì hai loài này được gọi là lai ghép trao đổi. Những sự khác biệt khó hiểu nhất trong nhân tố hỗ trợ việc lai ghép trao đổi thường xuất hiện. Những trường hợp như thế là rất quan trọng, vì chúng chứng tỏ khả năng trong bất cứ hai loài lai ghép nào thường hoàn toàn không phụ thuộc vào mối quan hệ hệ thống của chúng, hay vào bất cứ đặc điểm có thể nhận ra nào trong toàn bộ tổ chức của chúng. Mặt khác, trường hợp này rõ ràng cho thấy khả năng lai ghép liên quan đến những khác biệt thể trạng không thể cảm nhận được bởi chúng, và chỉ nằm trong hệ thống sinh sản. Ông Kolreuter đã quan sát sự khác biệt trong kết quả của các cuộc lai ghép trao đổi giữa hai loài cố định. Tôi xin đưa ra một ví dụ: Mirabilis jalappa có thể dễ dàng lai sinh sản được với phấn của M. longỷlora, và cá thể lai do đó có khả năng sinh sản tốt. Ông Kolreuter đã thử hơn hai trăm lần, trong suốt tám năm, để lai tạo giữa M. longỷlora với phấn của M. jalappa, nhưng cuối cùng vẫn không thành công. Vài trường hợp đáng ngạc nhiên như thế có thể được dẫn ra. Ông Thuret cũng biết một số thực tế dạng đó xuất hiện ở các loài rong biển hay Fuci. Hom nữa, ông Gartner tìm thấy rằng sự khác biệt này của yếu tố hỗ trợ tiến hành lai ghép trao đổi là rất phổ biến trong một mức độ thấp hơn. Ông đã quan sát nó thậm chí trong các dạng thức cực kỳ gần gũi (như Matthiola annua và glabra) tới mức nhiều nhà thực vật học xếp chúng vào chỉ là các biến thể. Một thực tế đáng chú ý nữa là các cá thể lai sinh ra từ lai ghép trao đổi, mặc dù chắc chắn là phức tạp đối với hai loài cố định, loài mà lúc đầu được dùng làm con bố sau đó dùng làm con mẹ, thông thường khác biệt trong khả năng sinh sản ở mức độ nhỏ, và đôi khi ở mức độ lớn hơn.
Ông Gartner có thể đưa ra vài quy luật kỳ lạ khác. Ví dụ như vài loài có khả năng đặc biệt lai với loài khác; những loài khác trong cùng một chi có khả năng đặc biệt di truyền phần lớn lại những đặc điểm của chúng cho con cháu lai; nhưng hai khả năng đặc biệt này không nhất thiết phải đi cùng nhau. Chúng ta cũng có những cá thể lai nhất định mà bình thường thay vì có đặc diêm trung gian của hai bố mẹ, lại chỉ rất giống một trong hai; và các cá thể lai như thế, mặc dù bề ngoài giống với một trong hai bố mẹ thuần chủng, rất hiếm khi có thể sinh sản được. Như thế, một lần nữa, trong số các cá thể lai có đặc điểm cấu trúc trung gian, ngoại trừ các cá thể đặc biệt khác thường đôi khi được sinh ra rất giống với chỉ bổ hoặc mẹ thuần chủng; và những dạng lai như thế thường cuối cùng sẽ vô sinh, thậm chí các cá thê lai khác phát triên trong cùng một nhóm có khả năng sinh sản tốt. Những thực tế này chứng minh rằng khả năng sinh sản hoàn toàn không phục thuộc vào sự giống nhau bên ngoài so với cha mẹ thuần chủng của chủng.
Xem xét những quy luật vừa nêu ra, mà chi phối khả năng sinh sản của các cá thể lai đầu tiên và của các cá thể lai sinh ra bởi chúng, chúng ta nhận thấy khi các dạng thức, mà được coi là loài riêng biệt rõ ràng, giao phối với nhau, khả năng sinh sản của chúng chuyển từ vô sinh tới mức độ sinh sản hoàn hảo, thậm chí là quá hoàn hảo trong những điều kiên môi trường nhất định. Việc khả năng sinh sản của chúng, bên cạnh việc rất nhạy cảm với điều kiện thuận lợi và không thuận lợi, về bản chất là luôn thay đổi. Điều này không phải lúc nào cũng giống nhau trong mức độ trong các cá thể lai đầu tiên và các cá thể lai được sinh ra sau đó bởi chúng. Khả năng sinh sản của các cá thể lai thế hệ sau không liên quan đến mức độ mà chúng giống bề ngoài với bố hoặc mẹ chúng. Và cuối cùng yếu tổ hồ trợ của việc tạo ra các cá thể lai thế hệ đầu giữa hai loài bất kỷ không phải lúc nào cũng bị chi phối bởi mối quan hệ hệ thống hay mức độ giống nhau giữa chúng. Lời phát biểu sau này hiển nhiên được chứng minh bởi quá trình lai trao đổi giữa hai loài cố định, bởi vì lần lượt một loài được sử dụng làm con bố sau đó là con mẹ, thì thường có khác biệt nhất định, và đôi khi những khác biệt kỳ lạ nhất có thể hình dung ra, trong yếu tố hỗ trợ sự giao hợp. Hơn nữa, những cá thể lai thế hệ sau sinh ra từ việc lai ghép trao đổi thường khác biệt trong khả năng sinh sản.
Bây giờ liệu những quy luật phức tạp và kỳ lạ này hàm ý rằng các loài đã được chúa tạo ra không sinh sản được đơn thuần chỉ là để ngăn cản chúng không hòa lẫn vào nhau trong tự nhiên? Tôi không nghĩ như vậy. Bởi vì tại sao tính vô sinh lại biến đổi mạnh như thế khi nhiều loài đem lai ghép, mà tất cả trong đó chúng ta đều coi có tầm quan trọng như nhau trong việc tránh không cho chúng pha trộn lẫn lộn? Tại sao mức độ vô sinh xét về bản chất luôn biến đổi trong các cá thể thuộc cùng loài? Tại sao vài loại dễ dàng lai ghép có sự trợ giúp của nhân tố hồ trợ, nhưng sinh ra các cá thể lai vô sinh; và những loài khác cực kỳ khó để lai ghép nhưng khi thành công lại đẻ ra cá thể lai sinh sản tốt? Tại sao chúng ta lại thu được những kết quả khác xa nhau khi lai ghép trao đổi giữa hai loài cố định? Người ta thậm chí còn hỏi tại sao sản phẩm của các cá thể lai thế hệ sau lại được cho phép? Đe ban cho các loài khả năng đặc biệt sinh ra các cá thể lai thế hệ sau, và sau đó dừng sự sinh sản của chúng lại với mức độ khác nhau của sự vô sinh, không liên hệ chặt chẽ với tác nhân hỗ trợ của sự lai ghép lần đầu tiên giữa cha mẹ chúng, có vẻ như là một sự sắp xếp lạ kỳ.
Mặc khác, những quy luật và thực tế kể trên đối với tôi rõ ràng hàm ý tính vô sinh của cả con lai thế hệ đầu và thế hệ sau đơn giản chỉ phụ thuộc vào những khác biệt chưa được biết đến, chủ yếu trong hệ thống sinh sản, của những loài mà đem lai ghép. Những khác biệt này rất kỳ lạ và hạn chế trong tự nhiên, rằng, trong sự lai ghép trao đổi giữa hai loài nhân tố giống đực của một loài sẽ thường ảnh hưởng thoải mái lên nhân tố giống cái của loài kia, nhưng không có chiều hướng ngược lại xảy ra. Chúng ta nên giải thích kỹ càng hơn một chút bằng một ví dụ mà tôi khi nói tính vô sinh do phụ thuộc vào các điểm khác nhau khác và không phải là Chúa sinh ra với sự đặc biệt gì cả. Vì khả năng một cây có thể lai ghép với cây khác là hoàn toàn không có ý nghĩa gì cả đối với lợi ích của nó trong cuộc sống tự nhiên, tôi mặc định không ai cho rằng khả năng này là một đặc điểm có lợi được Chúa ban cho, mà thừa nhận nó phụ thuộc vào các sự khác biệt trong quy luật của sự tăng trưởng của hai cây. Chúng ta đôi khi có thể hiểu tại sao một cây này không lai ghép với cây khác, do tốc độ tăng trưởng khác nhau của chúng, trong độ cứng của thân cây, trong thời gian tiết nhựa cây... Nhưng trong phần lớn các trường họp, chúng ta không thể chỉ rõ ra nguyên nhân này. Tính đa dạng phong phú trong kích thước của hai loại cây, một cây dạng gồ, một cây dạng thảo mộc, một cây xanh mãi và một cây xanh một thời gian, và sự thích nghi với các loại thời tiết khí hậu khác nhau nhiều, không phải lúc nào cũng cản trở hai loại cây lai ghép với nhau. Như trong quá trình lai ghép thế hệ sau, việc này bị hạn chế bởi mối quan hệ hệ thống, bởi vì không ai có thể lai ghép các cây thuộc về những họ hoàn toàn xa lạ; và mặt khác những loài gần gũi hay biến thể thuộc cùng một loài không gặp khó khăn gì để lai ghép với nhau. Nhưng khả năng này, trong quá trình lai ghép thế hệ sau không hoàn toàn bị chi phối bởi mối quan hệ hệ thống. Mặc dù đã có nhiều chi khác biệt thuộc cùng một họ lai ghép với nhau, trong các trường họp khác, loài thuộc cùng một họ không lai với nhau. Cây lẽ lai ghép dễ hơn nhiều với cây mộc qua, mà được xếp vào chi khác biệt, hơn so với táo, thành viên của cùng một chi. Thậm chí các biến thể khác nhau của lê cũng có mức độ dễ dàng khác nhau với cây mộc qua, và tương tự như thế với các biến thể của cây mơ lai ghép với các biến thể nhất định của cây mận.
Như ông Gartner phát hiện ra đôi khi có những khác biệt về bản chất trong các cá thể khác nhau của cùng hai loài khi lai ghép; vì thế ông Sagaret tin điều này đúng với những cá thể khác biệt của hai loài cố định khi đem lai với nhau. Như trong các lai ghép trao đổi, yếu tố hỗ trợ thường rất không đồng đều, như đôi khi nó trong lai ghép thường, ví dụ cây lý gai phổ biến không thể ghép với cây lý chua, trong khi đó thì cây lý chua lại có thể, mặc dù khó khăn, ghép với cây lý gai.
Chúng ta đã thấy tính vô sinh của cá thể lai thế hệ sau, mà có hệ thống sinh sản không hoàn thiện, là một trường hợp rất khác biệt so với sự khó khăn của việc giao phối hai loài thuần chủng, mà có bộ phận sinh sản hoàn hảo; song hai trường hợp khác biệt này trong một chừng mực nào đó là song song. Có cái gì đó xuất hiện trong sự lai ghép; vì ông Thouin đã tìm thấy ba loài của Robinia, sinh hạt giống dễ dàng trên các rễ cây của chúng, và có thể lai ghép không có gì khó khăn đáng kể với loài khác, vì thế khi chiết ghép thì trở nên vô sinh. Mặt khác, một loài của Sorbus, khi chiết ghép với loài khác thì cho ra quả nhiều gấp hai lần so với khi tự ra quả bằng rễ của chúng. Hiện tượng này giúp chúng ta nhớ lại trường hợp vô cùng khác thường của Hippeastrum, Lobelia... cho hạt giống dễ dàng hơn khi thụ phấn với loài khác hơn là khi thụ phấn của bản thân nó.
Do vậy chúng ta nhận thấy rằng mặc dù có một khác biệt rõ ràng và cơ bản giữa khả năng bám dính đơn thuần của các cá thể lai ghép, và sự kết hợp của nhân tố giống đực và giống cái trong quá trình sinh sản, và rằng có một mức độ thô của sự tương quan trong kết quả chiết cành và lai loài khác biệt. Và do chúng ta phải nghiên coi các quy luật phức tạp điều chỉnh yếu tố hỗ trợ giúp các cây có thể chiết ghép với nhau nhưng là phụ thuộc vào các điểm khác biệt được biết đến trong hệ thống dinh dưỡng của chúng. Tôi tin các quy luật điều chỉnh yếu tố hỗ trợ của các cá thể lai thệ hệ đầu là phụ thuộc vào các khác biệt không biết tới, chủ yếu là trong hệ thống sinh sản của chúng. Những điểm khác biệt, trong cả hai trường hợp, tuân theo ở mức độ nào đấy, như có thể đã đươc người ta mong đợi, mối quan hệ hệ thống, qua đó người ta cố thể hiện mọi dạng giống nhau và khác nhau giữa cá cơ thể sống hữu cơ. Những thực tế đối với tôi không hẳn ám chỉ mức độ khó khăn ít nhiều của hoặc là chiết ghép hoặc là lai ghép cùng nhau nhiều loài là một món quà tặng đặc biệt của Chúa; mặc dù trong trường hợp của lai ghép, sự khó khăn là quan trọng cho sự kéo dài và ổn định của các dạng thức nhất định, như trong trường hợp của chiết ghép, nó không quan trọng đối với cuộc sống của chúng.
Những nguyên nhân của sự vô sinh của thế hệ lai đầu tiên và thế hệ lai sau đỏ. Hai trường hợp này là khác nhau cơ bản, bởi vì như vừa nhận xét, trong sự giao hợp của hai loài thuần chủng có nhân tố giống đực và giống cái hoàn chỉnh, trái lại trong các cá thể lai thế hệ sau là không hoàn chỉnh. Thậm chí trong các cá thể lai thế hệ đầu, những khó khăn trong việc tạo ra được sự kết hợp chắc chắn phụ thuộc vào vài nguyên nhân khác biệt. Chắc chắn đôi khi tồn tại những cái phi vật chất trong nhân tố giống đực tiến tới tế bào trứng, như trong trường hợp cây có nhụy hoa quá dài đối với những ống phấn để chạm tới bầu nhụy hoa. Người ta cũng quan sát thấy rằng khi phấn của một loài được đặt trên đầu nhụy của một loài họ hàng xa, mặc dù những ổng phấn nhô ra, chúng không chạm tới bề mặt của đầu nhụy. Một lần nữa, nhân tố giống đực có thể tiếp xúc với nhân tố giống cái nhưng không có khả năng khiến bào thai phát triển, giống như là trường hợp của vài thí nghiệm của ông Thuret trên Fuci. Không một sự giải thích nào có thể được đưa ra cho những thực tế này, hơn là tại sao nhừng cây nhất định không thể chiết ghép với nhau. Cuối cùng, một bào thai có thể phát triển, và sau đó bị tiêu diệt ở giai đoạn đầu. Tình trạng giai đoạn sau này vẫn chưa được chú ý đến đầy đủ; nhưng tôi tin, dựa vào bằng chứng mà ông Hewitt cung cấp, người có nhiều kinh nghiệm và kiến thức về lai ghép các con chim họ gà, rằng cái chết sớm của bào thai là nguyên nhân thường xuyên gây ra tính vô sinh của những cá thể lai đầu tiên. Ban đầu tôi cảm thấy khó mà chấp nhận được quan điểm này; do các cá thể lai thế hệ sau, khi đã được sinh ra, thường là khỏe mạnh và sống lâu, như chúng ta đã thấy trong trường hợp của con la thông thường. Song những cá thể lai thế hệ sau lại sống trong nhũng môi trường khác nhau trước và sau khi sinh: khi được sinh ra và sống trong một nước mà hai bố mẹ chúng có thể tồn tại, chúng thường được đặt trong điều kiện sống thích hợp.Nhưng một cá thể lai chỉ thừa hưởng một nửa tính cách và thể trạng của con mẹ, và như vậy trước khi sinh ra, cho tới khi nó được nuôi dưỡng trong vỏ bọc của mẹ hay trong trứng hoặc hạt giống sinh ra bởi cá thề mẹ, nó có thể tiếp xúc với các điều kiện không thuận lợi và do đó rất có thể bị chết sớm; nhất là khi các cá thể non rất nhạy cảm với điều kiện sống bất lợi, nguy hiểm.
Nói đến tính vô sinh của các cá thể lai thế hệ sau, trong đỏ các nhân tố giới tính không phát triển hoàn hảo, trường họp này sẽ rất khác biệt. Tôi đã từng nhắc đến một khối lượng lớn các thực tế mà tôi đã thu thập được cho thấy khi các con vật và cây cối bị mang đi khỏi điều kiện sống tự nhiên quen thuộc của chúng, cơ quan sinh sản của chúng rất dễ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trên thực tế điều này là một cản trở lớn đối với các loài động vật thuần hóa. Giữa tính vô sinh lại được thêm vào vài đặc điểm của các cá thể lai thế hệ sau, có rất nhiều điểm tương đồng. Trong cả hai trường hợp, tính vô sinh không hề phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe chung, và thường đi kèm với sự quá khổ hoặc nhiều chất dinh dưỡng. Trong cả hai trường hợp, tình trạng vô sinh xuất hiện với các mức độ khác nhau; trong cả hai trường họp, nhân tố giống đực dễ bị ảnh hưởng nhất; nhưng đôi khi nhân tố giống cái lại bị ảnh hưởng nhiều hơn nhân tố giống đực. Trong cả hai trường họp, xu hướng tiến tới ở một chừng mực nhất định với mối quan hệ hệ thống, vì toàn bộ các nhóm động thực vật không có khả năng sinh sản do sống trong điều kiện môi trường tự nhiên không quen thuộc như nhau có xu hướng sinh ra những cá thể lai thế hệ sau vô sinh. Mặt khác, một loài trong nhóm có thể chống lại sự thay đổi mạnh mẽ của điều kiện sống với khả năng sinh sản không bị tổn thương; và có loài nào đó trong nhóm khá kỳ lạ khi sinh ra những cá thể lai có khả năng sinh sản. Không ai có thể nói, cho tới khi thử làm, liệu bất kỳ con vật nhất định nào sẽ sinh sản trong điều kiện giam hãm hay bất cứ loài cây nào đẻ hạt giống trong điều kiện nuôi trồng. Và không ai có thể nói, cho đến khi thử làm, liệu hai loài của một chi có sản sinh ra các cá thể lai có khả năng sinh sản kém hay tốt. Cuối cùng khi các thực thể hữu cơ sống trong điều kiện không tự nhiên đối với chúng qua vài thế hệ, chúng sẽ cực kỳ dễ có xu hướng biến đoi. Tôi nghĩ điều này là do hệ thống sinh sản của chúng bị ảnh hưởng đặc biệt, cho dù ở mức độ thấp hơn so với khi sự vô sinh xảy ra. Như vậy chính là với các cá thể lai đời sau, bởi vì các cá thể lai đời sau này trong các thế hệ kế tiếp nhau là rất dễ có xu hướng biến đổi như những thí nghiệm đã chỉ ra.
Do vậy chúng ta thấy rằng khi các thực thể hữu cơ bị đặt trong điều kiến sống không quen thuộc, và khi các cá thể lai được sinh ra bởi sự lai ghép phi tự nhiên giữa hai loài, hệ thống sinh sản, độc lập với tình trạng sức khỏe chung, bị ảnh hưởng bởi tính vô sinh theo cách rất giống nhau. Trong trường họp này, khi điều kiện sống có biểấn động, cho dù thường ở mức độ nhỏ tới mức mà chúng ta không để ý đến; trong trường họp khác, các cá thể lai thế hệ sau, điều kiện sống bên ngoài không biểấn động, nhưng tổ chức bị xáo trộn bởi hai cấu trúc và thể trạng khác nhau bị hòa vào thành một. Do hiếm có khả năng xảy ra là hai tổ chức trở thành một, mà không xuất hiện những xáo trộn trong quá trình phát triển, hay ảnh hưởng giai đoạn, hay mối quan hệ qua lại của các bộ phận khác nhau và các phần với nhau, hay tới điều kiện sống. Khi các cá thể lai có thể sinh sản nội tại, chúng truyền lại cho con cháu thế hệ này qua thế hệ khác cấu trúc hợp nhất đó, và như thế chắc chúng ta sẽ không ngạc nhiên gì khi biết tính vô sinh của chúng, mặc dù biến đổi đôi chút, hiếm khi suy giảm.
Tuy nhiên chúng ta phải thừa nhận chúng ta không thể hiểu, ngoài những giả thiết mù mờ, vài thực tế liên quan đến tính vô sinh của các cá thể lai thế hệ sau; chẳng hạn như khả năng sinh sản không đồng đều giữa các cá thể lai tạo ra từ những lai ghép trao đổi; hay tính vô sinh gia tăng của các cá thể lai mà đôi khi rất giống với bố hoặc mẹ thuần chủng. Tôi cũng không có ý nói các nhận định nêu trên là bản chất sâu xa của vấn đề: tôi không đưa ra bất cứ một sự giải thích nào tại sao một cơ thể, khi đặt trong điều kiện không quen thuộc, lại bị vô sinh. Tất cả những gì mà tôi muốn nói, ở trong hai trường họp, trong một số khía cạnh gần gũi, là sự vô sinh là kết quả thường thấy - trong một trường họp do điều kiện sống bị xáo động, trong trường hợp kia là do tổ chức cơ thể bị biếấn động khi hai tổ chức cơ thể trở thành một.
Nó dường như là một sự tưởng tượng quá mức, nhưng tôi nghi ngờ rằng điều tương đương cũng đúng với một tập hợp các thực tế khá gần gũi mặc dù rất khác nhau. Tôi nghĩ chính là một niềm tin lỗi thời nhưng cực kỳ phổ biến xét trên một số lượng các bằng chứng đáng kể, rằng biến đổi nhỏ trong điều kiện sống là có lợi cho tất cả các cơ thể sống. Chúng ta thấy nhận định này đúng khi các nhà nông và người làm vườn thường xuyên trao đổi hạt giống, mầm cây..., từ mảnh đất hay khí hậu này sang mảnh đất khí hậu khác và ngược trở lại. Sau khi tìm hiểu các động vật, chúng ta nhận rõ lợi ích lớn đến từ hầu hết tất cả thay đổi trong thói quen cuộc sống. Một lần nữa, cả với cây cối và con vật, có vô số bàng chửng rằng sự lai ghép giữa các cá thể rất khác nhau trong cùng một loài, tức là giữa các thành viên của các giống hay tiểu giống khác nhau, sẽ sinh ra những cá thể khỏe mạnh và sinh sản tốt. Tôi thực sự tin, dựa trên các thực tế đã được nêu ra trong chương bốn, rằng số lượng lai ghép nhất định là không thể thiếu, thậm chí đối với những cá thể lưỡng tính; và rằng việc lai ghép các cá thể họ hàng gần gũi trong suốt vài thế hệ liên tục giữa mối quan hệ gần nhất, đặt biệt khi các cá thế này bị giữ trong cùng điều kiện sống, luôn luôn cho ra các cá thể yếu ớt và vô sinh.
Do vậy nó có vẻ là, một mặt, những biến đổi nhỏ trong điều kiện sổng có lợi cho tất cả các thực thể sống, và mặt khác những sự lai ghép nhẹ, tức là lai ghép giữa cá thể đực và cá thể cái của cùng một loài mà đã biến đổi và trở nên đôi chút khác biệt, sinh ra những con cháu mạnh khỏe sinh sản tốt. Nhưng chủng ta đã thấy rằng những thay đổi lớn hơn hoặc thay đổi của bản chất đặc biệt, thường khiến cho các thực thể hữu cơ bị vô sinh ở mức độ nhất định; và những lai ghép lớn, tức là giữa các cá thể đực và cá thể cái của loài đã trở nên khác biệt lớn, thường đẻ ra những cá thể lai bị vô sinh ở mức độ nhất định. Tôi không thể thuyết phục bản thân là sự song song này là ngẫu nhiên hoặc một ảo ảnh. Cả hai tập hợp thực tế có vẻ như liên kết với nhau bởi một mối quan hệ chung nhưng chưa được biết tới, mà cơ bản liên quan đến nguyên lý sống.
Khả năng sinh sản của các biến thể khi lai, và của các con cháu lai của chúng - Người ta có thể khẳng định, như một lập luận chặt chẽ nhất, rằng chắc chắn phải có một sự khác biệt cơ bản giữa biến thể và loài, và rằng chắc chắn phải có lồi trong những nhận định nêu trên, giống như là các biến thể, tuy chúng khác biệt nhau nhiều trong hình dáng bên ngoài, lai ghép với nhau dễ dàng và đẻ ra các cá thể sinh sản hoàn hảo. Tôi hoàn toàn công nhận rằng điều này lúc nào cũng đúng. Nhưng khi chúng ta xem xét các biến thể sinh ra trong tự nhiên, chúng ta ngay lập tức phải đối mặt với những khó khăn có hy vọng giải quyết được; bởi vì nếu hai biến thể giả định được tìm thấy trong bất cứ mức độ vô sinh nào cùng nhau; chúng ngay lập tức được các nhà tự nhiên học xếp vào dạng loài. Chẳng hạn như cây hổ người xanh và đỏ, cây hoa anh thảo và cây hoa anh thảo vàng, những cây mà được nhiều nhà thực vật học giỏi nhất của chúng ta coi là biến thể, thì theo ông Gartner lại không hoàn toàn sinh sản tốt khi đem lai, và do vậy ông ta, không hề nghi ngờ gì cả, xếp chúng vào loài. Nếu chúng ta lập luận theo một vòng tròn, khả năng sinh sản của tất cả các biến thế sinh ra trong điều kiện tự nhiên sẽ chắc chắn phải có được.
Nếu xét đến các biến thể được sinh ra hay cho là sinh ra trong điều kiện thuần hóa, chúng ta vẫn có nghi ngờ. Chẳng hạn như có người nói giống chó Spitz Đức giao hợp dễ dàng với cáo hơn các giống chó khác, hay vài giống chó bản địa ở vùng Nam Mỹ không sẵn sàng giao hợp với các giống chó châu âu. Lời giải thích mà mọi người sẽ đưa ra và có lẽ là chuẩn xác chính là những con chó này có nguồn gốc từ vài loài nguyên thủy khác nhau. Tuy nhiên khả năng sinh sản tốt của quá nhiều biến thể thuần hóa, khác nhau lớn trong hình dáng bên ngoài, chẳng hạn như của chim bồ câu hay cải bắp, là một thực tế đáng quan tâm; nhất là khi nó phản ánh có rất nhiều loài, mặc dù rất giống nhau bên ngoài, lại cuối cùng bị vô sinh khi đem lai giống. Tuy thế, vài xem xét cho rằng khả năng sinh sản của các biến thể thuần hóa là ít đặc biệt hơn là như ban đầu người ta tưởng. Người ta có thể chứng minh chỉ những sự khác nhau bên ngoài giữa hai loài không quyết định mức độ vô sinh khi đem lai. Và chúng ta có thể áp dụng quy luật tương tự cho các biến thể thuần hóa. Một số nhà tự nhiên học nổi tiếng tin rằng quá trình thuần hóa lâu dài sẽ có xu hướng xóa bỏ sự vô sinh trong các thế hệ liên tiếp của cá thể lai, mà ban đầu chỉ hơi bị vô sinh; và nếu là như vậy, chúng ta chắc chắn không thể trông đợi tìm thấy được sự vô sinh xuất hiện và biến mất trong điều kiện sống giống nhau. Cuối cùng, và điều này đối với tôi cho đến giờ là xem xét quan trọng nhất, những giống động thực vật mới sinh ra trong điều kiện thuần hóa bởi sự lựa chọn có phương pháp và vô thức của con người, phục vụ mục đích và ý thích của anh ta, anh ta không mong muốn cũng không thể lựa chọn, những biến đổi nhỏ trong hệ thống sinh sản, hay những khác biệt khác trong thế trạng liên quan đến hệ thống sinh sản. Anh ta cho các biến thể của mình ăn cùng loại thức ăn; đối xử với chúng gần như nhau, và không mong muốn thay đổi thói quen cuộc sống của chúng. Tự nhiên tác động đồng bộ và chậm chạp trong suốt những quãng thời gian dài lên toàn bộ cơ thể cấu trúc, trong bất cứ phương cách có thể tốt cho sinh vật và như vật tự nhiên hoặc là trực tiếp, mà có lẽ là gián tiếp nhiều hơn, thay đổi hệ thống sinh sản của một vài con cháu của bất cứ loài nào. Thấy được sự khác biệt trong quá trình lựa chọn, thực hiện bởi con người và tự nhiên, chúng ta chắc sẽ không ngạc nhiên khi biết có vài sự khác biệt trong kết quả.
Tôi đã nói như thế các biến thể của cùng loài lúc nào cũng sinh sản tốt khi đem lai. Nhưng tôi cảm thấy không thể chống lại được bằng chứng của sự tồn tại một mức độ nhất định tính vô sinh trong một số ít các trường hợp sau, mà tôi sẽ trình bày ngắn gọn. Bằng chứng có sức mạnh mà dựa vào đó tôi tin vào tính vô sinh của nhiều loài. Bằng chứng này cũng có được từ những người quan sát chống lại quan điểm của tôi, những người coi trọng tất cả các trường hợp khác khả năng sinh sản và sự vô sinh. Nhà sinh vật học Gartner đã để cho một loại ngô lùn có hạt màu vàng và một loại có hạt màu đỏ phát triển cùng nhau trong vườn của ông trong vài năm, và mặc dù những cây ngô này không cùng giới, chúng không hề thụ phấn cho nhau. Sau đó, ông thụ phấn cho mười ba cây hoa một loại ngô từ phấn của loại còn lại, nhưng chỉ có một cây cho mầm, và mầm này chỉ cho ra năm hạt ngô. Sự ép buộc giao phấn trong trường hợp này không hề gây tổn hại cho cây bởi đây là những cây ngô khác giới. Tôi cho rằng không ai nghi ngờ đây là hai cây ngô khác loài, và điều quan trọng đáng nói ở đây là những cây con được nuôi dưỡng sau quá trình tự thụ phấn hoàn toàn có khả năng sinh sản, do vậy Gartner không hề nghi ngờ rằng đây là hai loài ngô khác nhau.
Giro de Buzareingues lai ba loại bí khác nhau, và ông kết luận rằng sự thụ phấn lẫn nhau càng khó nếu sự khác biệt giữa các loại càng lớn... nhưng các dạng thức mà được dùng làm thì nghiệm thì theo ông Sagaret, người kiểm tra tính vô sinh để đưa ra sự phân loại của mình, nên xếp chúng vào dạng biến thể.
Trường hợp sau còn đáng chú ý hơn; và dường như mới xem qua thì không thể tin được. Nhưng đó là kết quả của số lần thí nghiệm khổng lồ trong nhiều năm qua trên chín loài Verbascum bởi một nhà quan sát đầy kinh nghiệm nhưng rất phản đối quan niệm của tôi, như ông Gartner. Đó là các biến thể vàng và trắng thuộc cùng loài Verbascum khi lai nội bộ đẻ ra ít hạt giống hơn so với một trong hai biến thể màu khi sinh sản dựa vào phấn của chính hoa cùng màu của nó. Hơn nữa ông ta khẳng định rằng khi các biến thể vàng và trắng của cùng một loài lai ghép với biến thể vàng và trắng của một loài riêng biệt khác, thì nhiều hạt giống được sinh ra hơn giữa sự lai ghép của các hoa cùng màu so với những hoa khác màu. Nhưng những biến thể của Verbascum không cho thấy bất cứ sự khác biệt nào ngoài màu hoa ra; và đôi khi một biến thể có thể mọc ra từ hạt giống của biến thể khác.
Dựa vào sự quan sát của tôi đối với cây hoa thục quỳ, tôi có nghi ngờ chúng thể hiện những thực tế tuông tự.
Ông Kolrueter, người sự chính xác trong công việc được mọi nhà quan sát đều công nhận, đã chứng minh được một điều đáng lưu tâm, là một biến thể của cây thuốc lá man đẻ hơn, khi đem lai với một loài hoang dã khác biệt, so với các biến thể khác. Ông làm thí nghiệm trên năm dạng thức mà thường được công nhận là các biến thể, và đã được ông ta kiểm tra chặt chẽ nhất, tức là bằng sự lai ghép trao đổi, và ông ta nhận thấy cá thể lai sinh ra hoàn toàn sinh sản tốt. Nhưng một trong năm biến thể, khi được sừ dụng là bố và mẹ, và đem lai với Nicotiana glutinosa, luôn sinh ra các cá thể lai với mức độ vô sinh không cao như những cá thể lai từ bốn biến thể khác khi chúng đem lai với N. glutinosa. Do vậy hệ thống sinh sản của biến thể này chắc chan phải thay đổi theo cách và ở mức độ nào đó.
Dựa vào các thực tế này và sự khó khăn lớn trong việc công nhận tính vô sinh của cách biến thể trong tự nhiên, đối với một biến thể được thừa nhận nếu sự vô sinh trong bất cứ mực độ nào cũng được xếp vào dạng loài; do con người chỉ lựa chọn các đặc điểm bên ngoài khi tạo ra các biến thể thuần hóa khác biệt nhất; và do không mong muốn hoặc không có khả năng tạo ra những khác biệt chức năng và tính kỳ quặc trong hệ thống sinh sản; dựa vào các thực tế và sự quan sát trên của tôi, tôi không nghĩ rằng khả năng sinh sản phổ biến của các biến thể có thể được chứng minh là lúc nào cũng xảy ra, hay hình thành sự khác biệt cơ bản giữa các biến thể và loài. Đối với tôi, khả năng sinh sản rộng rãi của các biến thể là không đủ để bác bỏ quan điểm mà tôi ủng hộ khi nói đến tính vô sinh phổ biến nhưng không phải lúc nào cũng thế của các cá thể lai thế hệ đầu tiên và của con cháu chúng. Đó là nó không phải là do chúa tạo ra, mà là phụ thuộc vào các biến đổi lâu ngày thu được, nhất là trong hệ thống sinh sản của các dạng thức được đem đi lai.
Các cá thể lai loài và biến thể so sánh, không phụ thuộc vào khả năng sinh sản của chúng - Không liên quan đến câu hỏi về khả năng sinh sản, con cháu của loài khi được lai và của cá thể khi được lai có thể so sánh với nhau trong vài khía cạnh khác. Ông Gartner, người rất mong muốn tìm ra được sự phân biệt rạch ròi giữa loài và biến thể, chỉ có thể tìm thấy rất ít, như tôi cảm nhận, những khác biệt không quan trọng mấy giữa những cá thể gọi là con cháu lai của các loài, và cá thể gọi là con cháu lai của biến thể. Và trong khi đó chúng khá giống nhau về nhiều mặt.
Ở đây tôi chỉ thảo luận chủ đề này hết sức ngắn gọn. Điểm khác biệt quan trọng nhất là, trong thế hệ lai biến thể đầu tiên thay đổi nhiều hơn so với cá thể lai loài; nhưng ông Gartner thừa nhận rằng những cá thể lai loài đã được thuần hóa từ lâu thường hay biến đổi trong thế hệ đầu tiên; và bản thân tôi đã từng gặp những ví dụ đáng ngạc nhiên về thực tế này. Ông Gartner còn thừa nhận là những cá thể lai giữa các loài họ hàng gần gũi biến đổi nhiều hơn so với các cá thể lai giữa các loài riêng biệt; và điều này cho thấy là sự khác biệt trong mức độ tính biến đổi chuyển hóa dần dần. Khi các cá thể lai giữa các biến thế và các cá thể sinh sản tốt hơn lai giữa các loài được nhân rộng qua vài thế hệ, một khối lượng cực lớn của tính biến đối trong con cháu của chúng là phổ biến; nhưng chúng ta có thể thấy vẫn tồn tại một vài trường hợp của cả cá thể lai loài và cá thể lai biến thể từ lâu vẫn giữ lại được tính đồng đều của đặc điểm.Tuy nhiên có lẽ tính biến đổi qua vài thế hệ liên tiếp của các cá thể lai biến thể là lớn hơn so với cá thể lai loài.
Tính biến đổi lớn hơn của các cá thể lai biến thể so với các cá thể lai loài đối với tôi là không có gì đáng ngạc nhiên cả. Bởi vì cha mẹ của các cá thể lai biến thể là biến thể, và đa số các biến thể thuần chủng (rất ít thí nghiệm được tiến hành trên các biến thể tự nhiên), và điều này trong hầu hết các trường hợp hàm ý gần đây có tính biến đổi; do đó chúng ta có thể trông đợi tính biến đổi như thế sẽ tiếp tục và sẽ được thêm nhiều vào cái trội lên từ hoạt động lai ghép. Mức độ biến đổi ít trong các cá thể lai loài từ lần lai ghép đầu tiên hay trong thế hệ đầu tiên, đối lập với tính biến đối cực độ của chúng trong các thế hệ kế tiếp, là một điều gây tò mò và đáng đế quan tâm. Bởi vì nó chứa đựng và cung cấp bằng chứng ủng hộ quan điểm mà tôi đã cho là nguyên nhân của tính biến đổi thông thường; đó là do hệ thống sinh sản vô cùng nhạy cảm với sự thay đổi điều kiện sống, do đó hay trở nên vô dụng hoặc ít nhất là không thực hiện tốt chức năng sinh sản ra con giống với dạng bố mẹ. Bây giờ các cá thể lai loài của thế hệ đầu tiên là con cháu của các loài (loại trừ những dạng đã được thuần hóa từ lâu) mà cơ quan sinh sản của chúng vẫn chưa hề bị ảnh hưởng gì, và chúng không biến đổi; nhưng bản thân các cá thể lai loài lại có hệ thống sinh sản bị ảnh hưởng nặng nề và con cháu của chúng biến đổi rất mạnh mẽ.
Nhưng quay trở lại sự so sánh giữa các cá thể lai loài và cá thể lai biến thể: ông Gartner tuyên bố rằng các cá thể lai biến thể dễ có xu hướng quay trở lại các đặc điếm dạng bố mẹ hơn là các cá thể lai loài; nhưng điều này, nếu đúng, thì chắc chắn chỉ là một sự khác biệt trong mức độ. Ông Gartner còn đi xa hơn khi lai loài, mặc dù hết sức gần gũi, lai với một loài thứ ba, các cá thể lai sinh ra sẽ rất khác biệt so với nhau; trái lại, nếu hai biến thể hoàn toàn khác biệt của một loài được lai với một loài khác, cá thế lai sinh ra không khác biệt nhiều lắm. Nhưng theo tôi được biết, kết luận này chỉ dựa trên một thí nghiệm duy nhất do ông Kolreuter tiến hành.
Chỉ một mình những điều này là những điểm khác biệt không quan trọng mà ông Gartner có thể chỉ ra, giữa các cây lai loài và cây lai biến thể. Trong khi đó, sự giống nhau trong các cá thể lai biến thể và trong các cá thể lai loài với cha mẹ tương ứng của chúng, nhất là trong các cá thể lai loài sinh ra từ các loài có quan hệ gần gũi với nhau, theo ông Gartner, tuân theo những quy luật tương tự. Khi hai loài lai ghép với nhau, một loài đôi khi có sức mạnh đặc biệt ấn định các đặc điểm của chúng cho các cá thể lai sinh ra; và tôi tin điều tương tự cũng xảy ra với các biến thể của cây. Với động vật chắc chắn là một biến thể thường có sức manh đặc biệt hơn so với biến thể khác.
Các cây ra đời từ những lai ghép trao đổi, thông thường rất giống nhau; và tương tự như vậy với các cá thể lai biến thế từ một lai ghép trao đổi. Cả cá thể lai loài và lai biến thể đều có thể bị giảm xuống dạng thức bố mẹ, thông qua các lần lai lặp lại trong các thế hệ kế tiếp nhau với dạng bố mẹ thuần chủng.
Vài nhận định này chắc chắn có thể áp dụng được cho động vật; nhưng chủ đề này vô cùng phức tạp, một phần là do sự tồn tại của các đặc điểm giới tính thứ cấp, nhưng quan trọng hơn là do sức mạnh đặc biệt trong việc di truyền lại các đặc điếm xuất hiện ở trong một giới tính nhiều hơn là ở giới tính kia, khi một loài lai với một loài khác, và khi một loài lai với một biến thể khác. Chang hạn, tôi nghĩ những học giả đó đúng, nhưng người ta khẳng định loài lừa có sức mạnh đặc biệt hơn loài ngựa khiến cho cả con la sinh ra từ ngựa cái và lừa đực và con la sinh ra từ ngựa đực và lừa cái, giống con lừa hơn là ngựa; nhưng rằng sức mạnh đó mạnh hơn trong con lừa đực so với con lừa cái, khiến cho con la sinh ra từ ngựa cái và lừa đực, thì giống con lừa hơn so với con la được sinh ra từ ngựa đực và lừa cái.
Các học giả khác nhấn mạnh nhiều vào trực tế thừa nhận là chỉ các động vật lai cá thể được sinh ra rất giống với một trong hai bố mẹ chúng; nhưng người ta đôi khi lại tìm thấy điều này cũng xảy ra với các cá thể lai loài; nhưng tôi tiếp xúc ít với các cá thể lai loài hơn nhiều so với các cá thể lai biến thế. Xem xét các trường hợp mà tôi thu thập được từ các động vật lai chéo rất giống với cha mẹ, những sự giống nhau này dường như chủ yếu chỉ nằm ở các đặc điểm hầu như dị thường trong bản chất của chúng và đã đột nhiên biến mất - chẳng hạn như chứng bạch tạng, chứng nhiễm sắc tố, thiếu đuôi hay sừng, hay có thêm những ngón tay hoặc ngón chân, và không liên quan đến các đặc điểm mà dần dần có được thông qua sự lựa chọn. Kết quả là sự trở lại đột nhiên các đặc điểm bình thường của cha mẹ thường hay xuất hiện ở những cá thể lai biến thể mà bắt nguồn từ các biến thể đột nhiên sinh ra và bán dị thường trong các đặc điểm, so với các cá thể lai loài có nguồn gốc từ những loài hình thành một cách tự nhiên và chậm chạp. Xét trên tổng thể, tôi hoàn toàn đồng ý với tiến sỹ Prosper Lucas, người sau khi đã sẳp xếp một khối lượng khổng lồ các bằng chứng về động vật lại với nhau, đã rút ra kết luận những quy luật của sự giống nhau giữa đứa con với cha mẹ là như nhau, cho dù bố mẹ có khác nhau ít hay nhiều, tức là trong sự giao hợp giữa các cá thể cùng biến thể hay giữa các cá thể khác biến thể, hoặc là giữa các loài riêng rẽ.
Tạm không bàn đến những câu hỏi về tính vô sinh và khả năng sinh sản, trong tất cả các khía cạnh khác thì chúng ta hình như có sự tương đồng chung giữa con cháu của các loài lai ghép, và của các biến thể lai ghép. Nếu chúng ta nghĩ những loài được đặc biệt tạo ra, và các biến thể tạo ra do các quy luật thứ cấp, sự tương đồng này sẽ thực sự là ngạc nhiên, khó hiểu. Nhưng nó lại hoàn toàn phù họp nếu ta đứng trên quan điểm là không có sự khác biệt cơ bản giữa loài và biến thể.
Tổng kết chương - Những lai ghép đầu tiên giữa những dạng đủ điều kiện để xếp vào loài, và các cá thể lai sinh ra bởi chúng, rất thường hay, nhưng không phải lúc nào cũng vậy, bị vô sinh. Tính vô sinh ở tất cả các mức độ, và thường nhỏ bé tới mức mà hai nhà thí nghiệm học tài năng và cẩn thận nhất từ trước tới giờ, đã đi tới những kết luận đối ngược trong việc xếp loại các dạng thức thông qua các thừ nghiệm này. Tính vô sinh về bản chất là biến đổi trong các cá thể của cùng một loài, và nó dễ dàng bị ảnh hưởng bởi điều kiện sống thuận lợi hoặc không. Mức độ vô sinh không hoàn toàn tuân theo mối quan hệ hệ thống, mà bị điều chỉnh bởi một vài quy luật phức tạp khó hiểu. Thông thường thì có sự khác biệt, đôi khi là khác biệt lớn trong các lai ghép trao đổi giữa hai loài cố định. Nó không phải lúc nào cùng có mức độ ngang bằng trong một cá thể lai thế hệ đầu và trong các cá thể lai thế hệ sau.
Theo cách tương tự như chiết ghép cây, khả năng một loài hay biến thể giao kết với loài hay biến thể khác nói chung là phụ thuộc vào những điểm khác biệt chưa được biết tới trong hệ thống sinh dưỡng của chúng, như trong sự lai ghép, hồ trợ ít hay nhiều để một loài giao phối với một loài khác, là do những khác nhau chưa biết tới trong hệ thống sinh sản của chúng. Chúng ta không còn có lý do gi nữa để tin rằng các loài được Chúa ban tặng cho mức độ vô sinh khác nhau để tránh tình trạng chúng hòa lẫn với nhau trong tự nhiên, hơn là nghĩ thực vật cũng được Chúa tạo ra với các mức độ khó khăn tương đưomg trong việc chiết ghép với nhau để tránh, chúng trở thành ghép áp trong các khu rừng của chúng ta.

Sự vô sinh của các cá thể lai đầu tiên giữa hai loài thuần chủng, mà hệ thống sinh sản của chúng hoàn toàn tốt, có vẻ như phụ thuộc vào một vài điều kiện hoàn cảnh nhất định; ở một số trường hợp thì chủ yếu là do phôi thai chết sớm. Sự vô sinh của các cá thể lai thế hệ sau, có hệ thống sinh sản không hoàn thiện, cả cấu trúc và hệ thống này của chúng bị xáo động do hai cấu trúc trở thành một của hai loài khác, có vẻ như quan hệ mật thiết với sự vô sinh mà rất thường hay ảnh hưởng tới những loài thuần chủng, khi điều kiện sống tự nhiên của chúng bị xáo động. Quan điểm này được ủng hộ bởi sự song song của loại khác; đó là sự lai ghép của các dạng thức chỉ khác nhau ít là có lợi cho sức khỏe và khả năng sinh sản của con cháu của chúng; và rằng những thay đổi nhỏ trong cuộc sống rõ ràng có lợi cho sức khỏe và khả năng sinh sản của tất cả các cơ thể sống hữu cơ. Không có gì phải ngạc nhiên là mức độ khó khăn để giao hợp hai loài, và mức độ vô sinh của các con cháu lai thế hệ ba là thường tương ứng, cho dù là do những nguyên nhân khác nhau; do cả hai đều phụ thuộc vào khối lượng khác biệt của một dạng nhất định giữa các loài mà được đem lai cấy. Và chúng ta cũng không phải lấy làm ngạc nhiên sự hỗ trợ thực hiện lai ghép thế hệ đầu tiên, khả năng sinh sản của thế hệ lai thứ hai được sinh ra, khả năng có thể chiết ghép với nhau - mặc dù khả năng chiết ghép này là phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh điều kiện khác biệt - tất cả sẽ chạy, ở một mức độ nhất định, song song với mối quan hệ hệ thống của các dạng thức đem đi thí nghiệm; vì mối quan hệ hệ thống cổ hình thành tất cả thể loại những đặc điểm giống nhau giữa tất cả các loài.
Những cá thể lai đời đầu giữa các dạng mà mọi người đều cho là biến thể, hay đủ điều kiện để xếp vào dạng biến thể, và con cháu lai của chúng, thường rất hay, nhưng không phải lúc nào cũng thế, sinh sản tốt. Khả năng sinh sản gần như là phổ biến vả hoàn hảo này không làm chúng ta ngạc nhiên khi nhớ lại rằng chúng ta hay có xu hướng lập luận vòng quanh liên quan đến các biến thể trong tự nhiên; và khi chúng ta nhớ rằng số lượng các biến thể thuần chủng nhiều hơn bởi sự lựa chọn chỉ các đặc điểm bề ngoài, và không bởi các đặc điểm khác biệt trong hệ thống sinh sản. Trong tất cả các mặt khác, loài trừ khả năng sinh sản, hầu như có sự giống nhau lớn giữa cá thể lai loài và cá thể lai biến thể. Và cuối cùng những bằng chứng được đưa ra ở trong chương này đối với tôi có vẻ như không đi ngược lại với, thậm chí là còn ủng hộ, quan điểm không có sự khác biệt cơ bản nào giữa loài và biến thể.
CHƯƠNG IX
Trong điều kiện không hoàn thiện của các bằng chứng địa lý
Sự thiếu vắng của các biến thể trung gian ngày nay-Bản chất của sự tuyệt chủng của các biến thể trung gian; về số lượng của chúng- Sự bào mòn của thời gian, điều này có thể suy ra từ tỷ lệ lắng đọng và xói mòn của đất- Sự nghèo nàn trong bộ sưu tập cổ sinh vật học-Sự gián đoạn trong các dạng địa lý- Sự thiếu vắng của các biến thể trung gian trong mọi dạng- Sự xuất hiện đột ngột của các nhóm loài- Sự xuất hiện đột đột của chúng trong các địa tầng thấp nhất có hóa thạch.
Trong chương VI, tôi đã liệt kê các ý kiến bất đồng chính phản bác lại lý thuyết của tôi về những vấn đề được bàn đến trong cuốn sách này. Hầu hết các ý kiến này đang được đưa ra thảo luận. Thứ nhất, đó là sự khác biệt giữa các dạng cụ thể, chúng không thể trộn lẫn với nhau dù bằng vô số các mối liên kết chuyển hóa. Đây rõ ràng là một khó khăn. Tôi đặt lý do giải thích tại sao những mối liên kết như vậy không thường xuất hiện trong thời đại ngày nay, các điều kiện sống rất thuận lợi cho chúng với những diện tích mênh mông trong đó điều kiện vật chất đã được nâng cấp. Tôi muốn làm rõ một điều rằng cuộc sống của từng loài phụ thuộc nhiều vào sự tồn tại của các thể hữu cơ khác, hơn là vào khí hậu; do đó điều kiện tiên quyết đối với cuộc sống của mỗi loài đó lại không thể nâng cấp được một cách vô tình như độ nóng hay độ ẩm. Tôi cũng muốn chỉ ra rằng các biến thế trung gian, do tồn tại với số lượng ít hơn so với các dạng mà nó liên kết, nói chung sẽ bị đánh bại và bị đào thải trong quá trình biến đổi và tiến hóa hơn nữa. Tuy nhiên, nguyên nhân chính khiến vô số các mối liên kết trung gian không còn ngày nay xuất hiện trong tự nhiên lại phụ thuộc nhiều vào quá trình chọn lọc tự nhiên, trong đó các biến thể mới liên tiếp thay thế và đào thải các dạng bố mẹ của chúng. Nhưng nếu chỉ xét về tỷ lệ, quá trình đào thải này diễn ra trên một quy mô rất lớn, có thể suy đoán rằng số lượng các biến thể trung gian phải đã từng tồn tại trên trái đất này thật sự là rất lớn. Nhưng tại sao tất cả các dạng địa lý, địa chất lại không có dấu hiệu của các liên kết trung gian này? Chắc chắn là mô địa chất học không thể khám phá ra bất kỳ chuỗi hữu cơ tiến hóa nào như vậy; và đây có thể là trở ngại lớn nhất đối với lý thuyết của tôi. Tôi tin rằng lời giải thích được ẩn chứa trong sự không hoàn thiện của các bằng chứng địa lý.
Điều đầu tiên phải ghi nhớ đó là trong lý thuyết của tôi, những dạng trung gian nào đã từng tồn tại. Tôi nhận thấy rằng, khi nghiên cứu hai loài bất kỳ, sẽ rất khó tránh không tự vẽ ra cho bản thân mình một dạng có thể liên kết trực tiếp hai loài đó với nhau. Nhưng suy nghĩ đó là hoàn toàn sai lầm; chúng ta nên luôn tìm kiếm những dạng trung gian giữa các loài và cho tất cả các loài nhưng không biết tổ tiên của chúng như thế nào; và dạng tổ tiên nói chung sẽ có một số khác biệt so với các thế hệ con cháu về sau. Dưới đây là một ví dụ đơn giản: Chim bồ câu đuôi quạt và bồ câu to diều đều là con cháu của loài bồ câu núi; nếu chúng ta có tất cả các biến thể trung gian đã từng tồn tại, chúng ta sẽ có một xâu chuỗi cực kỳ gần giữa hai giống trên và loài bồ câu núi; nhưng chúng ta sẽ không có một biến thể liên kết trực tiếp giữa chim bồ câu đuôi quạt và bồ câu diều to; ví dụ, không có bất cứ điều gì liên kết từ việc cái đuôi phát triển rộng ra với việc nhiều thức ăn làm to diều, những đặc điểm nổi bật của hai giống trên. Hơn nữa, hai giống trên đã trở nên quá khác biệt, đến nỗi nếu chúng ta không có các chứng cứ lịch sử hay gián tiếp về nguồn gốc của chúng, chúng ta sẽ không thể quả quyết khi so sánh cấu trúc cơ thể chúng với loài bồ câu núi, rằng liệu chúng có phải có nguồn gốc từ loài này hay từ các loài cùng phái khác như c. oenas.
Đối với các loài tự nhiên, nếu chúng ta quan sát các loài rất khác nhau, ví dụ như ngựa và heo vòi, chúng ta không có bất cứ lý do nào để có thể giả định rằng có một mối liên hệ trực tiếp giữa chúng, mà chỉ là mối liên hệ giữa từng loài và một loài tổ tiên chung không được biết đến của chúng. Loài tổ tiên chung này, trong cấu tạo cơ thể của mình nói chung đặc điểm tương đồng với cả loài heo vòi và loài ngựa, nhưng lại có những đặc điểm cụ thể khác biệt cả hai loài trên, thậm chí còn nhiều hơn những khác nhau giữa hai loài. Do đó, trong tất cả các trường hợp như vậy, chúng ta không thể nhận ra dạng bố mẹ của bất cứ hai hay nhiều loài nào, ngay cả khi chúng ta so sánh từng chi tiết cấu tạo cơ thể của dạng bố mẹ với các con cháu đã tiến hóa của chúng, trừ khi cùng lúc đó, chúng ta có một chuỗi hoàn hảo về các quan hệ liên kết.
Theo lý thuyết của tôi, có khả năng, một trong số hai dạng sinh vật có thể là con cháu cuả dạng kia; ví dụ loài ngựa bắt nguồn từ loài heo vòi; và trong trường hợp này sẽ tồn tại mối liên hệ trực tiếp giữa chúng. Nhưng những trường hợp như vậy cho thấy một dạng đã tồn tại trong một thời gian dài mà không biến đổi gì, trong khi dạng con cháu của nó đã có những biến đổi rát lớn; và yếu tố cạnh tranh giữa các sinh vật, giữa loài cha mẹ và loài con cái sẽ làm cho điều này trở nên hiếm hơn; trong tất cả các trường hợp, những dạng sinh vật mới và đã tiến hóa sẽ có xu hướng thay thế những dạng sinh vật cũ và chưa tiến hóa.
Theo lý thuyết chọn lọc tự nhiên, mọi loài sinh vật sống đều có quan hệ với các loài cha mẹ của mỗi phái, do những khác biệt không lớn hơn những gì chúng ta đã thấy giữa các biến thể trong cùng một loài ngày nay; và những loài cha mẹ này, ngày nay nói chung đều đã tuyệt chủng, cũng sẽ có mối quan hệ tương tự với các loài tổ tiên, do đó các loài tựu trung lại sẽ được xếp vào các lớp lớn hơn. Vì thế số lượng các dạng liên kết trung gian, giữa tất cả các sinh vật đang sống và đã tuyệt chủng là vô cùng lớn. Nhưng chắc chẳc rằng, nếu như lý thuyết này đúng, những dạng liên kết đó vẫn đang tồn tại trên trái đất này.
Sự bào mòn của thời gian- Cho dù còn rất nhiều các dạng liên kết trung gian vẫn chưa được tìm thấy dưới dạng hóa thạch, do không đủ thời gian để diễn ra quá nhiều chuyển hóa hữu cơ như thế, mọi biến đổi được tác động một cách từ từ thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Tôi thậm chí khó có thể nhắc lại với độc giả - những người có thể không nghiên cứu về sinh vật - những sự kiện dẫn đến suy nghĩ về những bào mòn của thời gian. Người đọc có thể đã từng đọc tác phẩm vĩ đại của ngài Charles Lyell “Các thành phần của địa chất”- công trình vốn được coi là đã tạo ra cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên, nhưng không thừa nhận mức độ rộng lớn đến không thể giải thích nổi trong quá khứ, hãy ngừng đọc cuốn sách này ngay lập tức. Đó là vì nếu chưa công nhận điều đó thì không chưa thể nghiên cứu “các thành phần của địa chất”, hoặc đọc những công trình chuyên môn của các học giả khác về các dạng khác nhau, và để nhận thức được cách mỗi tác giả đưa ra ý kiến dù là chưa đầy đủ về độ lâu dài của mỗi dạng địa chất, thậm chí là mỗi địa tầng. Một người cần phải mất nhiều năm tự tiên hành thí nghiệm với các địa tầng khác nhau, quan sát nước biển mài mòn các lớp đá và tạo ra các lớp trầm tích, lúc đó anh ta mới có thể hy vọng hiểu được mọi thứ về sự bào mòn của thời gian, hiện tượng vẫn thường xuyên xảy ra xung quanh chúng ta.
Sẽ rất có ích khi đi dạo dọc theo những đường bờ biển dài, những nơi có dạng những núi đá cao trung bình, và đánh dấu quá trình mủn ra của đá. Trong hầu hết các trường hợp, các ngọn sóng chỉ chạm được vào các vách trong khỏang thời gian rất ngắn hai lần mỗi ngày, và các đợt sóng chỉ ăn sâu vào các vách đá khi chúng mang theo cát và sỏi; do đó có lý do để tin rằng nước ngọt không có tác động, hoặc nếu có thì là rất ít trong việc bào mòn đá. Cuối cùng, nền của các vách đã bị xói mòn, những mảnh vỡ khổng lồ rơi xuống, và những gì còn cố định sẽ dần bị ăn mòn, từng mảnh nhỏ một, cho đến khi kích thước của chúng chỉ còn rất nhỏ, đến mức có thể bị sỏng cuốn đi, sau đó chúng dần chìm vào với sỏi và cát. Nhưng chúng ta vẫn thường xuyên nhìn thấy các chân vách đá vẫn còn tồn tại xung quanh các tảng đá mòn, tất cả đều được bao phủ bởi một lớp rất dày các sinh vật biển, cho thấy chúng đã bị mài mòn như thế nào và chúng ít khi bị cuốn đi. Hơn nữa, nếu chúng ta cứ lần theo bất cứ vách đá núi nào đang bị xói mòn trong vài dặm, chúng ta sẽ thấy chỉ ở đây và kia, trong một khỏang cách không xa hay chi quanh đúng một vòng, vách đá đó đang phải chịu sự bào mòn của thời gian.Sự xuất hiện trên bề mặt và thảm thực vật cho thấy dấu ấn của thời gian do nước đã rửa trôi nền của chúng.
Tôi tin rằng người nào đã nghiên cứu kỳ các động thái của biển sẽ có ấn tượng sâu sắc bới tốc độ chậm chạp mở các bờ biển núi đá đã bị ăn mòn. Những quan sát của Hugh Miller, Smith và Jordan Hill là ấn tượng nhất. Với ấn tượng đó, hãy thừ để bất cứ ai thí nghiệm các lớp cuội kết dày hàng nghìn feet. Những lớp cuội kết này dù có thể được hình thành nhanh hơn so với các lớp trầm tích khác nhưng lại là từ sỏi đã bị ăn mòn, mỗi hòn sỏi đều ghi dấu ấn của thời gian; do đó sẽ rất tốt cho việc đưa ra kết luận xem các lớp trầm tích đã được tích tụ chậm như thế nào. Chúng ta nhớ đến nhận xét nổi tiếng của Lyell rằng độ dày kích thước của các dạng trầm tích là kết quả và thước đo sự xói mòn vỏ trái đất đã phải hứng chịu. Và mức độ ăn mòn được thể hiện qua sự lắng đọng các lớp trầm tích ở rất nhiều nước. Giáo sư Ramsay đã đưa cho tôi số liệu về độ dày tối đa, trong hầu hết các trường họp bằng đo lường thực tế, một vài trường hợp khác là ước tính của từng dạng ở các vùng khác nhau ở nước Anh, và dưới đây là kết quả:
Địa tầng đại cổ sinh ( không bao gồm các tầng đá lửa): 57.154 feet
Địa tầng thứ sinh: 13.190 feet
Địa tầng thứ ba: 2.240 feet
Tất cả tạo nêấn độ dày là 72.584 feet, tương đương xấp xỉ 13, 75 dặm Anh. Một vài dạng trong số này chỉ có rất mỏng ở Anh lại có độ dày hàng nghìn feet ở châu âu lục địa. Hơn nữa, giữa mỗi dạng kế tiếp nhau, theo ý kiến của hầu hết các nhà địa lý học, chúng ta có những khỏang trống thời gian vô cùng lớn, những cột chống cao ngất của những dãy núi đá trầm tích ở Anh chính là những bằng chứng không đầy đủ về thời gian của quá trình tích tụ. Những nhà quan sát giỏi đã ước tính rằng trầm tích được lắng đọng bởi con sông Missisipi vĩ đại với tốc độ chỉ 600 íèet trong vòng hàng trăm nghìn năm. Sự đánh giá này có thể không chính xác; tuy nhiên nếu xem xét về khỏang không rộng lớn mà những lớp trầm tích có giá trị được vận chuyển qua nhờ thủy triều ở biên, có thể thấy quá trình tích tụ ở mỗi vùng chắc chắn phải diễn ra cực kỳ chậm chạp.
Nhưng khối lượng bào mòn của mồi địa tầng, không phụ thuộc vào mức độ tích tụ của các vật bị bào mòn, có thể là những chứng cứ tốt nhất về sự bào mòn của thời gian. Tôi nhớ rằng đã từng gặp nhiều khó khăn với các bằng chứng về sự bào mòn khi quan sát các hòn đảo có núi lừa đã bị ăn mòn bởi sóng biến, bị tỉa dần vào các vách núi dựng đứng cao một hai nghìn feet; còn những con dốc thoai thoải của các dòng dung nham, do trước đây chúng ở dạng lỏng, ngay lập tức cho thấy mức độ sâu của các tầng đất đá cứng đã từng có thời ăn sâu ra cửa biển. Câu chuyện tương tự vẫn được kể một cách đơn giản hơn-những vết nứt lớn mà dọc theo đó các địa tầng nhô lên ở phía bên này và chìm xuống ở phía bên kia, đến độ cao hoặc độ sâu hàng nghìn feet, do vỏ trái đất bị nứt, bề mặt đất đã bị san phang hoàn toàn bởi các trạng thái của biển, nên không có bất cứ dấu vết nào của sự biến vị này có thể nhìn thấy từ bên ngoài.
Ví dụ sự đứt đọan của dãy Craven chạy lên cao những 30 dặm, và dọc theo đường nứt này, sự thay đổi theo chiều dọc của địa tầng được tính từ 600 đến 3000 feet. Giáo sư Ramsay đã đưa ra tính toán về sự sụt lún của Anglesea là 2300 feet, và ông cho tôi biết, ông tuyệt đối tin tưởng sự sụt lún này ở Merionethshire là 12000 feet, nhưng trong những trường hợp này, không có gì trên bề mặt cho thấy những hay đổi to lớn này. Các cột đá của một hoặc cả hai bên đều đã biến mất.
Tôi đã có ý định đưa ra một trường hợp khác, đỏ là một trong những trường họp nổi tiếng về sự xói mòn ở Weald. Mặc dù phải thừa nhận rằng sự xói mòn ấy tương đối nhẹ nếu so sánh với các hiện tượng xói mòn trên diện rộng ở các đại tầng đại cổ sinh, trong các phần có độ dày mười nghìn feet, như đã được ghi trong hồi ký của giáo sư Ramsay cũng về chủ đề này. Tuy vậy đây vẫn sẽ là một bài học hay nếu đứng trên đỉnh Downs ở phía bắc và nhìn về phía nam của đỉnh này, một người sẽ có thể tự vẽ ra các đỉnh núi đá vốn đã bao phủ Weald trong một khoảng thời gian nhất định từ khi hình thành đỉnh núi đá vôi của vùng này. Theo những gì giáo sư Ramsay đã nói với tôi, khỏang cách từ phía bắc đến phía nam đỉnh Downs là 22 dặm, độ dày của các tầng đại chất thì vào khỏang trung bình là 1100 feet. Nhưng như giả thuyết của một số nhà địa chất học, nếu sắp xếp các núi đá cũ đã nằm dưới Weald, nơi mà ở các sườn núi có những lớp trầm tích tích tụ mỏng hơn ở các nơi khác, những tính toán trên sẽ là sai lầm. Tuy nhiên, những nghi ngờ này không ảnh hưởng nhiều đến những tính toán đối với vùng cực tây của khu vực này. Sau đó nếu chúng ta biết được mức độ mà nước biển thường cuốn trôi một dãy núi ở bất cứ độ cao nào, chúng ta có thể tính được thời gian cần thiết để ăn mòn cả dãy Wealđ. Tất nhiên là điều này không thể thực hiện được, nhưng để xây dựng một vài hiểu biết thô sơ về vấn đề này, chúng ta có thể giả sừ rằng nước biển có thể ăn mòn một vách núi đã cao 500 feet với tốc độ 1 inch trong một thế kỷ. Thoạt tiên tốc độ này nghe có vẻ quá nhỏ, nhưng kết quả này sẽ không thay đổi nếu chúng ta giả sử một vách núi cao một thước Anh sẽ bị ăn mòn với tốc độ cứ hai mươi hai năm lại ăn mòn mất 1 thước Anh. Tôi hơi nghi ngờ là liệu có phái bất cứ núi đá nào, dù là mềm như đá vôi, có thể chịu đựng được mức ăn mòn này; mặc dù không nghi ngờ gì rằng mức độ bị ăn mòn của các dãy núi cao sẽ nhanh hơn so với các mảnh vỡ của những vách núi bị rơi. Mặt khác, tôi không tin rằng bất cứ đường bờ biển nào, dù dài mười hay hai mươi dặm, có thể chịu đựng sự ăn mòn trong khi chiều dài cũng bị rút ngắn; và chúng ta phải nhớ rằng hầu hết các địa tầng điều có những lớp cứng hơn do đã chống đỡ sức tấn công của nước. Do đó, trong điều kiện bình thường, tôi có thể kết luận rằng đối với một đỉnh núi cao 500 feet thì tốc độ xói mòn một feet một thế kỷ là hợp lý. Dựa theo các số liệu trên, với tốc độ này, sự ăn mòn của đỉnh Weald sẽ phải mất tới 306662400 năm, tương đương với 300 triệu năm.
Các thay đổi của nước ngọt ở Weald, khi nước dâng cao, khó có thể có các tác động lớn, nhưng có thể làm giảm đi những số liệu đã ước tính ở trên. Mặt khác, trong mức độ dao động mà chúng ta biết rằng khu vực này đã từng trải qua, bề mặt đã tồn tại hàng triệu năm như đất, do đó đã thóat được các tác động của biển cả, khi bị nhấn chìm trong một thời gian cũng dài tương đương, chúng cũng đã thoát được tác động của biển cả. Vì thế có khả năng có một thời kỳ dài hơn 300 triệu năm đã trôi qua kể từ giai đoạn sau của kỳ thứ sinh.
Tôi đưa ra những nhận xét này vì chúng hết sức quan trọng đối với chúng ta trong việc tìm ra các kết luận khác, tuy không hoàn chỉnh, về sự bào mòn của thời gian. Trong từng năm của những giai đoạn trên, trên cả thế giới, đất và nước đã bị chiếm hữu bởi các dạng sinh vật. số lượng các thế hệ là không xác định.
Sự nghèo nàn trong bộ sưu tập sinh vật cổ của chúng ta - Mọi người đểu thừa nhận rằng các bộ sưu tập sinh vật cố của chúng ta là không hoàn thiện. Kết luận của nhà nghiên cứu sinh vật cổ nổi tiếng Edward Forbes không thể bị lãng quên, đó là số lượng các loài hóa thạch được biết và được đặt tên từ các mẫu vật đơn lẻ và thường là vụn vặt, hoặc là từ các mẫu vật được thu thập ở một vài điểm. Chỉ một phần rất nhỏ trên bề mặt trái đất là đã được khai thác địa lý, và không có khu vực nào được quan tâm một cách đầy đủ. Không dạng hữu cơ mềm nào được bảo tồn. Vỏ và xương của các loài đã bị phân hủy và biến mẩt khi bị bỏ quên ở đáy biển, nơi các trầm tích không thể tích tụ được..
Tôi tin rằng chúng ta vẫn đang tiếp tục có những quan điểm sai lầm khi tự thừa nhận rằng trầm tích đã lắng đọng lại ở gần như khắp đáy biển, với tốc độ đủ nhanh để bao phủ và bảo tồn các dấu tích hóa thạch. Khi xem xét một vùng rộng lớn của đại dương, màu nước biển xanh tươi cho thấy sự tinh khiết của nó. Có nhiều trường hợp quá trình trong định dạng địa chất đã được thực hiện sau một khỏang ngừng khổng lồ của thời gian, bởi các dạng địa chất khác, không cần lớp đáy đã bị xói mòn, điều này chỉ có thể được giải thích trên quan điểm rằng đáy biển không phải luôn trong tình trạng không biến đổi. Những tàn tích còn sót lại bị bao phủ trong cát và sỏi sẽ lộ ra do nước mưa khi các tầng cát sỏi này dâng lên. Tôi suy đóan rằng chỉ có một số ít trong số các sinh vật biển sống trong điều kiện mức nước cao thấp khác nhau cỏ thể được bảo vệ. Ví dụ, một số loài Chthamalinae (một chi nhỏ thuộc họ chân tơ không cuống) sống trên tất cả các ngọn núi trên thế giới với số lượng rất lớn; chúng chỉ sống ở vùng duyên hải, trừ một số loài sống ở Địa Trung Hải, sống trong những vùng nước sâu. Hóa thạch của chúng đã được tìm thấy ở Sicily, nơi mà cho đến nay vẫn chưa tìm thấy các loài khác ở địa tầng thứ ba; tuy nhiên hiện nay loài này được biết đến là phái Chthmalus tồn tại trong thời kỳ đá vôi. Loài thân mềm Chiton cũng có hiện tượng tương tự.
Nói về các sinh vật trên cạn sống trong kỷ Thứ hai và Kỷ đại cổ sinh, sẽ là thừa khi tuyên bố rằng những bằng chứng của chúng tôi thu thập được từ những hóa thạch còn lại là những mảnh vỡ cực kỳ vụn. Ví dụ, không một sinh vật trên cạn có mai nào được cho là thuộc về những thời kỳ này, trừ một ngoại lệ do ngài C.Lyell khám phá ra trong tầng trầm tích đá vôi ở Bắc Mỹ. về các hóa thạch của các động vật có vú, chỉ cần đọc lướt qua một lần bảng lịch sử trong phụ lục cuốn Manual của Lyell mà không cần đọc chi tiết cả cuốn sách cũng có thể thấy được mức độ hiếm hoi đế tìm thấy và bảo tồn được những hóa thạch này. Sự hiếm hoi đó cũng không phải là điều gì đáng ngạc nhiên; khi chúng ta nhớ rầng một phần trong bộ xương của các động vật có vú trên cạn đã được phát hiện ra lớn như thế nào trong các hang động và các đáy hồ; mà đó lại không phải là các hang và đáy hồ có cùng thời kỳ với các dạng địa chất thứ sinh hoặc đại cổ sinh của chúng ta.
Nhưng sự không hoàn thiện của các bằng chứng địa lý chủ yếu là do một nguyên nhân khác quan trọng hơn tất cả các nguyên nhân trên; đó là từ một vài dạng địa chất được phân biệt với nhau bởi các khỏang ngắt quãng của thời gian. Khi chúng ta đọc thấy các bảng sắp xếp các dạng địa chất trong các cuốn sách, hay khi chúng ta lần theo chúng trong tự nhiên, rất khó tránh khỏi việc tin rằng các dạng đại chất này là liên tục với nhau. Nhưng từ công trình vĩ đại của ngài R. Murchison ở Nga, chúng ta biết được khỏang cách về thời gian giữa những dạng địa chất ở nước này lớn như thế nào; ở Bắc Mỹ và các vùng khác trên thế giới cũng vậy. Một nhà địa lý học chuyên nghiệp nhất chỉ tập trung chú ý đến những vùng đất rộng lớn, thì sẽ không bao giờ đặt ra nghi vấn rằng trong các thời kỳ còn trống và ít kết quả của đất nước anh ta, những bãi trầm tích lớn, chứa rất nhiều các dạng sinh vật mới và kỳ lạ, có thể được tích tụ ở đâu đó. Và nếu trong từng lãnh thổ riêng biệt, người ta khó có thể đưa ra ý kiến về độ dài của thời gian đã trôi qua giữa các dạng địa chất liên tiếp nhau, chúng ta có thể suy ra rằng không ở đâu có thể đưa ra kết luận chắc chắn được. Những thay đối thường xuyên và to lớn về kết cấu khỏang vật học của các dạng địa chất liên tiếp nhau, nói chung thường tạo ra nhữnng biến đồi lớn về địa lý ở những vùng đất lân cận, nơi trầm tích được tìm thấy, cùng với niềm tin về những khòang thời gian khổng lồ giữa các dạng đã biến mất.
Nhưng tôi nghĩ chúng ta có thề biết tại sao các dạng địa lý của mỗi vùng lại luôn trong tình trạng bị gián đoạn; các dạng địa chất không nối tiếp liên tục. Hiếm có một thực tế nào lại gây khó khăn cho tôi nhiều hơn khi thử nghiệm hàng trăm dặm bờ biển ở Nam Mỹ, vốn đã nhô lên cao hơn vài trăm feet trong thời kỳ gân đây, ngòai sự thiêu vắng của bất cứ bãi trầm tích nào trong thời kỳ gần đây đủ rộng để tồn tại dù chi trong một thời kỳ địa lý ngắn ngủi. Dọc theo bờ biển phía Tây nơi cư trú của rất nhiều động vật biển kỳ lạ, các lớp đất ở tầng thứ ba không được phát triển đầy đủ, do đó không bằng chứng nào về các động vật biển kỳ lạ ở đây sẽ được lưu giữ lại cho đến các thời kỳ sau. Suy nghĩ một chút có thể giải thích tại sao dọc theo đường bờ biển đang nhô lên ở phía Tây của Nam Mỹ, không tìm thấy các dạng địa chất có quy mô lớn chứa những hóa thạch mới đây hoặc trong kỷ thứ ba, mặc dù nguồn cung cấp trầm tích phải là rất lớn, do sự bị ăn mòn khổng lồ của các dãy núi đá ven biển và từ các rìa cũng chảy vào biển. Không nghi ngờ gì, câu trả lời chính là các vùng bãi lắng ở duyên hải và cận duyên hải đang tiếp tục bị bào mòn, ngay khi chúng được bồi đắp bởi sự dâng lên chậm chạp và từ từ của đất trong khi vẫn bị sóng ăn mòn.
Tôi nghĩ, chúng ta có thể yên tâm kết luận rằng trầm tích phải được thích tụ thành những khối cực kỳ dày, cứng và rộng để chống lại sự ăn mòn không ngừng của sóng biển khi mực nước biển thay đổi. Những bãi tích tụ trầm tích dày và rộng này có thể được hình thành theo hai cách. Thứ nhất, đó độ sâu rất lớn của biển, theo những nghiên cứu của E.Forbes, chúng ta có thể kết luận rằng sẽ có rất ít sinh vật cư trú dưới đáy biển, và khi đáy biển dâng lên sẽ cho chúng ta một kết quả không hoàn chỉnh về các dạng sinh vật đã từng tồn tại. Thứ hai, đó là trầm tích có thể nếu được tích tụ theo bất kỳ quy mô và độ dày nào trên một đáy nông nếu đáy biển tiếp tục lún xuống. Trong cách thứ hai, tốc độ chìm xuống và tốc độ cung trầm tích còn tương đương nhau, biển sẽ tiếp tục lún, điều này sẽ có lợi cho các sinh vật, do đó sẽ hình thành các dạng hóa thạch có được độ dày đủ để chống chọi với bẩt cứ sự ăn mòn nào khi biển dâng lên.
Tôi cũng cho rằng các dạng tổ tiên của chúng ta, vốn có rất nhiều dưới dạng hóa thạch cũng được hình thành trong quá trình bị nhấn chìm của đất. Kể từ khi công bố quan điểm của mình về vấn đề này năm 1845, tôi đã theo dõi tiến trình địa lý, và đã rất ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng tất cả các tác giả khi nghiên cứu vấn đề này đều đưa đến kết luận như trên. Tôi chỉ có thể bổ sung thêm rằng chỉ có các dạng tổ tiên kỷ thứ ba ở đường bờ biển phía tây của Nam Mỹ có đủ độ lớn cần thiết để chống chọi với bất cứ sự ăn mòn nào, nhưng nó cũng không thể tồn tại trong một thời gian dài. Và dạng địa chất này chắc chắn đã được hình thành khi mức độ dao động của trái đất đã giảm bớt, do đó mới trở nên tương đối dày như vậy.
Các dữ kiện địa lý chỉ cho chúng ta biết rằng từng khu vực đã trải qua rất nhiều mức độ dao động một cách từ từ, và có vẻ như những dao động này đã tác động đến một khỏang không gian rộng lớn. Các dạng địa lý cuối cùng có nhiều dưới dạng hóa thạch và đủ dày và rộng để chống chọi lại sự nhấn chìm có thể đã được hình thành trên một không gian lớn trong thời kỳ nhấn chìm, những nơi có đủ trầm tích để giúp biển tiếp tục nhấn chìm, bao phủ và bảo vệ các dấu tích còn sót lại trước khi chúng bị phân hủy.
Mặt khác, chừng nào đáy biển còn ở trạng thái đứng yên, các bãi lắng đọng dày có thể sẽ không được tích tụ ở những nơi bị nhấn chìm vốn rất thuận lợi cho các sinh vật. Điều này càng ít xảy ra hơn trong các thời kv chuyến giao của quá trình tiến hóa; hay nói một cách chính xác hơn, những nền mới tích tụ sẽ bị phá hủy do nền này sẽ nhô cao lên trong giới hạn các biếấn động của biển.
Do các vấn đề trên nên các bằng chứng địa lý sẽ bị gián đoạn. Tôi cảm thấy tin vào tính chân thực của quan điểm này, vì chúng được đặt trong mối liên hệ chặt chẽ với các yếu tố chung đã được ngài c. Lyell và E. Porbes cùng đưa ra một cách độc lập với nhau.
0 đây có một điều cần lưu ý, trong giai đoạn các vùng lục địa dâng lên và mức nước biển hạ xuống, các điều kiện sống mới sẽ được hình thành. Như đã giải thích ở trên, các hoàn cảnh sống sẽ ở điều kiện thuận lợi nhất cho việc hình thành các loài và các giống mới. Nhưng thông thường thì những giai đoạn đó không được ghi lại trên những dấu tích lịch sử. Mặt khác, khi nước biến rút, số lượng các khu vực có sự sống và số các sinh vật sẽ giảm đi (trừ những sinh vật sống ở ven bờ biển trước khi lục địa tách ra thành các quần đảo). Và cuối cùng, số loài được tạo mới sẽ ít hơn số những loài đã biến mất vì những biếấn động về địa lý. Chính vào thời kỳ đầu của giai đoạn hình thành lục địa, các lớp trầm tích chứa nhiều hóa thạch đã được hình thành. Có thể nói rằng thiên nhiên đã được bảo vệ để chống đỡ lại với những biếấn động từ dạng này sang dạng khác của chính nó.
Từ những nhận xét trên, có thể thấy rõ ràng là, nếu xem xét một cách tổng thể, các dầu tích địa lý là không hoàn thiện; nhưng nếu chúng ta chỉ giới hạn sự chú ý của mình vào bất cứ một dạng địa lý nào, chúng ta sẽ thấy rất khó giải thích tại sao chúng ta không thể tìm thấy những giống tương đối tiến hóa giữa các loài có quan hệ với nhau về nguồn gốc. Trong một vài trường hợp, trên cùng một dạng địa lý có thể tìm thấy các giống khác nhau của cùng một loài được phân bố ở tầng trên và tầng dưới của dạng địa lý đó, nhưng những trường hợp như vậy thường rất hiếm và thường bị bỏ qua. Mặc dù để hình thành một dạng địa lý phải mất một khỏang thời gian nhất định, nhưng tôi đã phát hiện ra khá nhiều lý do giải thích tại sao trong các dạng địa lý lại không lưu lại các chuỗi quan hệ giữa các loài giống như khi chủng còn sống, tuy vậy tôi không có cách nào để quyết định thứ tự tầm quan trọng của những lý do đó.
Mặc dù mỗi dạng địa lý có thể đại diện cho một thời kỳ rất dài trong quá khứ, nhưng khỏang thời gian đó không là gì nếu so với khỏang thời gian cần thiết đế một loài có thể biến đổi sang thành một loài khác. Tôi được biết hai nhà nghiên cứu hóa thạch mà ý kiến của họ rất được tôn trọng là Bronn và Woodward, họ đã kết luận rằng thời gian trung bình để hình thành mỗi dạng địa chất thường dài gấp hai, thậm chí gấp ba thời gian cần thiết để hình thành các dạng đặc biệt. Và giống như tôi, họ cũng cho rằng có một số khó khăn khó vượt qua cản trở chúng ta đưa ra kết luận chính xác về vấn đề này. Khi chúng ta phát hiện ra bất cứ loài gì ở giữa các lớp địa chất, chúng ta có thể sẽ hấp tấp kết luận rằng dạng sinh vật đó chưa hề xuất hiện trước đây. Và một lần nữa khi chúng ta biết được một loài nào đó đã biến mất trước khi hình thành các dạng địa chất phía trên, chúng ta không thể vội vàng kết luận rằng loài đó đã vĩnh viễn biến mất. Chúng ta đã quên mất vùng đại lục châu âu nhỏ bé như thế nào khi so sánh với cả thế giới, cũng như quên rằng một dạng địa lý có rất nhiều tầng khác nhau ở khắp châu âu và có quan hệ mật thiết với nhau.
Đối với tất cả các loài sinh vật biển, chúng ta có thể yên tâm kết luận rằng có một lượng lớn sinh vật đã di cư đến các khu vực khác trong các thời kỳ có những biếấn động về thời tiết và các biếấn động khác; và khi chúng ta tìm thấy một loài nào xuất hiện lần đầu tiên trong một dạng địa chất, có khả năng loài đó đã di cư đến khu vực này. Ví dụ, khá đặc biệt là một số loài đã xuất hiện tương đối sớm hơn ở tầng đại cổ sinh ở Bắc Mỹ so với ở châu âu; tức là sau một khoảng thời gian, chúng đã di cư từ Mỹ sang vùng biển châu âu. Trong khi tiến hành thí nghiệm với các lớp trầm tích mới được hình thành nhất ở một vài nơi trên thế giới, chúng tôi đã để ý thấy trong lớp trầm tích đó có một số loài khá phổ biến trong thời đại hiện nay, nhưng dần biến mất ở vùng ven biển, hoặc ngược lại, rất phát triển ở các bờ biển lân cận, nhưng lại rất hiếm hoặc không xuất hiện trong các lớp trầm tích ở đó. Tôi đã phát hiện ra một điều thú vị là có một số lượng nhất định các sinh vật đã di cư trong kỷ Băng hà, thời kỳ chỉ để lại một phần trong các dấu tích địa lý ngày nay, và có thể thấy được sự thay đổi rất lớn về mức độ bất thường của những biếấn động về thời tiết, về những khoảng thời gian biến mất lạ kỳ, tất cả đều diễn ra trong kỷ Băng hà. Tuy nhiên, có thể sẽ có ý kiến nghi ngờ rằng có phải liệu trên tất cả các phần tư của trái đất, ở các tầng địa chất thứ sinh, bao gồm cả các tầng có hóa thạch, đã diễn ra quá trình tích tụ cùng thời kỳ này hay không. Cũng có thể giả sử rằng trầm tích đã lắng xuống trong suốt cả kỳ Băng hà ở gần của sông Mississipi, trong một độ sâu nhất định mà ở đó các sinh vật biển có thể sinh sôi nảy nở, mà như chúng ta đã biết là hàng loạt các biếấn động địa lý ở các vùng khác của nước Mỹ cũng diễn ra vào thời gian này. Khi tầng đáy sông này đã lắng xuống ở vùng nước nông của gần của sông Mississipi bỗng dâng lên tại một thời điểm nào đó trong kỷ Băng hà, những phần hữu cơ còn sót lại có thể sẽ xuất hiện và biến mất ở các tầng địa chất khác nhau, do sự di cư của các sinh vật khi có những biếấn động về địa lý. Và trong tương lai, một nhà địa lý học tiến hành thí nghiệm với những tầng địa chất này có thể có xu hướng sẽ kết luận rằng thời gian sống trung bình của các háa thạch trong tầng đất đó ngắn hơn so với cả kỷ Băng hà, chứ không phải dài hơn.
Đe có được một sự biến đổi hoàn chỉnh giữa hai loài trong hai tầng khác nhau trong cùng một lớp địa chất, chắc chắn quá trình tích tụ và lắng đọng phải diễn ra trong một thời gian tương đối dài mới đủ để quá trình biến đổi chậm chạp giữa các loài diễn ra. Do đó các tầng lắng đọng thường rất dày, và các loài trong đó phải sống ở cùng một vùng trong cả quá trình đó. Nhưng chúng tôi đã nhận thấy các lớp địa chất dày có hóa thạch chỉ có thể tích tụ được trong thời gian nước rút, và để duy trì độ sâu cũ- điều kiện cần thiết để cùng một loài có thể sống trong cùng một khu vực, lượng cung trầm tích phải gần như cân bàng với lượng nước đã rút. Nhưng khi nước rút thường nhẩn chìm luôn cả những vùng tạo trầm tích, do đó nguồn cung trầm tích khi quá trình này diễn ra. Trên thực tế, hiếm khi có sự cân bàng tương đối giữa nguồn cung trầm tích và diện tích đã bị nhấn chìm. Theo quan sát của nhiều nhà nghiên cứu, các tầng lắng đọng dầy thường có ít các phần hữu cơ, trừ ở hai tầng trên cùng và dưới cùng của nó.
Có vẻ như mỗi dạng địa chất riêng biệt cũng như tất cả các dạng địa chất trên bất cứ nước nào nói chung là thường bị gián đoạn trong quá trình tích tụ. Khi quan sát dạng địa chất hình thành từ các lòng sông có chứa các khoáng chất khác nhau, chúng ta có lý do để tin rằng quá trình lắng đọng đã thường xuyên bị ngắt quãng, do sự thay đổi thuỷ triều của biển và nguồn cung trầm tích của các dạng tự nhiên khác nhau nói chung đều là kết quả của những thay đổi về địa lý cần nhiều thời gian. Ngay cả những nghiên cứu các dạng địa chất gần đây nhất cũng không đưa ra được khoảng thời gian cần thiết để lắng đọng được một lớp trầm tích. Rất nhiều ví dụ có thể đưa ra về những lòng sông chỉ dầy khoảng vài feet những phải mất một khoảng thời gian vô cùng dài mới tạo thành được; do đó hình thành nên các lớp trầm tích mỏng hơn cũng phải mất một khoảng thời gian tương đối dài. Rất nhiều ví dụ có thể đưa ra minh chứng cho những tầng địa chất thấp hơn đã được nâng cao rồi lại bị nhấn chìm, sau đó được bao phủ bởi các tầng địa chất phía trên có cùng dạng- các dẫn chứng thể hiện điều này dù chưa được xem xét thấu đáo vẫn cho thấy có sự ngắt quãng trong quá trình tích tụ. Trong những trường hợp khác mà chúng tôi đã có đầy đủ bằng chứng nhất về các cây hoá thạch, dù đã hoá thạch nhưng vẫn đứng thẳng như khi chúng mọc lên nhưng trải qua những khoảng lặng dài về thời gian và những biến đổi về mức độ trong quá trình lắng đọng, đã không phải là loài cây đã từng được bảo vệ trước đây, do đó, Messrs.Lyell và Dawson đã từng ra tầng các-bon dầy 1400 feet ở Nova Scotia, với tầng rễ nguyên thuỷ của mình, từng tầng từng tầng một, không ít hơn 68 lớp khác nhau. Do đó, khi các loài cùng xuất hiện ở đáy, ở giữa và ngay trên đầu tầng địa chất, có khả năng là chúng không sống cùng một thời điểm trong cả quá trình lắng đọng, nhưng đã biến mất và tái xuất hiện, có thể là rất nhiều lần trong cùng một kỷ nguyên địa lý. Nếu những loài này đều đã trải qua một lượng đáng kể các biến đổi trong hầu hết các thời kỳ địa lý, một bộ phần tầng địa lý sẽ không thể bao gồm tất cả các biến dạng trung gian mà theo lý thuyết của tôi là đã tồn tại trong quá trình tiến hoá của các loài, bao gồm các dạng đã biến đổi ít nhiều.
Điều quan trọng nhất cần ghi nhớ là các nhà tự nhiên học đã không có bất cứ quy tắc vàng nào để phân biệt giữa các loài và các giống, họ chỉ nhận biết dựa trên một vài biến dị nhỏ của từng loài, nhưng khi bắt gặp những khác biệt tương đối lớn giữa hai dạng bất kỳ, họ xếp tất cả chúng vào một loài, trừ khi họ có khả năng liên kết chúng lại bàng những dạng trung gian có quan hệ gần nhau. Do đó chúng ta khó có thể hi vọng rằng gây tác động đến các tầng địa lý. Giả sử B và c là hai loài khác nhau, và một loài thứ ba, A, được tìm thấy ở lớp địa chất dưới B và c, ngay cả khi A nhất định là thể trung gian giữa B và c, nhưng nó vẫn được xếp vào loài thứ ba, khác biệt với hai loài trên, trừ khi cùng một lúc nó có thể kết nối với cả hai loài trên thông qua các giống trung gian. Điều này cần phải ghi nhớ, như đã giải thích ở trên là A phải là thể trung gian giữa B và c, dù xét về cấu trúc không phải A giống hoàn toàn B và c. Do đó chúng ta có thể bắt gặp những loài bố mẹ và các con cháu đã biến dạng của chúng trong các tầng địa chất từ thấp đến cao của cùng một dạng địa chất, và trừ khi chúng ta bắt gặp một vài thể chuyển đổi trung gian, nếu không chúng ta sẽ không thể nhận ra mối quan hệ giữa chúng và sẽ xếp chúng vào các loài hoàn toàn khác biệt nhau.
Các nhà nghiên cứu hoá thạch đã phát hiện ra những điểm khác nhau hình thành nên các loài, và họ làm được điều này càng thuận lợi hơn nếu các tầng trầm tích xuất hiện ở các lớp phụ khác nhau của cùng một dạng địa chất. Một vài nhà sinh vật học có kinh nghiệm đã xếp rất nhiều loài vào nhóm hoàn hảo của D"Orbigny và một vài loài khác vào các giống, và dựa trên quan điểm này, chúng tôi đã tìm ra một số bằng chứng về những biến đổi. Hơn nữa, nếu chúng ta xem xét những khoảng lặng rộng lớn hơn, đó là những giai đoạn tách biệt nhưng liên tiếp nhau của cùng một dạng địa chất lớn, chúng ta sẽ nhận thấy những hoá thạch đã hình thành, mặc dù nói chung thường được xếp vào các dạng khác nhau nhưng vẫn có quan hệ gần gũi hơn so với những loài được tìm thấy ở các dạng địa lý phân cách nhau rộng hơn, nhưng đối với chủ đề này, tôi sẽ quay lại ở chương sau.
Một nhận xét khác cần được lưu ý: với những động thực vật có khả năng nhân giống rộng rãi và không mang tính thuần chủng cao, có lý do để nghi ngờ rằng, các giống ban đầu thường chỉ mang tính địa phương, và những giống địa phương này không phân tán rộng rãi và thay thế các dạng cha mẹ chúng cho đến khi chúng đã tiến hoá và được hoàn thiện đến một mức độ nào đó. Theo quan điểm này, cơ hội khám phá ra trong một dạng địa chất ở bất cứ nước nào trong những thời kỳ chuyển đối ban đầu giữa hai dạng là rất nhỏ, đối với những thay đổi liên tiếp được giả sử rằng chỉ mang tính địa phương hoặc chỉ giới hạn trong một vài địa điểm mà thôi. Hầu hết các động vật biển đều rất đa dạng, và chúng ta đã nhận thấy rằng các thực vật đa dạng nhất thường có nhiều giống nhất, do đó đối với sò và một số động vật biển khác, có thể có những loài có rất nhiều giống, vượt quá giới hạn hiểu biết của các nhà sinh vật học về các dạng địa chất ở châu âu, thường tăng lên, trước hết là đối với các giống địa phương và sau đó là đến các loài mới; và điều này một lần nữa sẽ làm giảm rất nhiều cơ hội tìm ra những giai đoạn chuyển đổi trong bất kỳ một dạng địa chất nào.
Một điều khác cần ghi nhớ là trong hiện tại, với các lớp trầm tích đã được nghiên cứu, hai dạng có thể hiếm khi liên kết với nhau bởi các giống trung gian và do đó khó có thể kết luận là chúng cùng một loài, cho đến khi thu lượm được rất nhiều dạng trầm tích từ nhiều nơi khác nhau, và trong trường hợp các hoá thạch đã không bị tác động gì bởi các nhà nghiên cứu cổ vật. Có thể chúng ta sẽ không đủ khả năng để liên kết các loài với nhau bàng các mối liên hệ đa dạng, hoàn hảo, trung gian và đã hoá thạch bằng cách tự hỏi bản thân xem liệu, ví dụ, các nhà địa lý học ở tương lai có khả năng chứng minh rằng các con cháu của các giống cừu, ngựa, chó...ngày nay có thừa hưởng một vài đặc tính từ các loài cha mẹ nguyên thuỷ hay không, hoặc liệu một số loài sò sống ở các bờ biển ở Bắc Mỹ, vốn được coi là các loài khác với đại diện của chúng ở châu âu, và được một số nhà sinh vật học coi là các giống, có những đặc điểm gì đặc biệt khác biệt hay không. Điều này sẽ bị ảnh hưởng không chỉ bởi những gì các nhà địa lý học khám phá trong các lớp hoá thạch có vô số các tầng trung gian, và đối với tôi, sự thành công này cũng sẽ không thể đạt được ở mức cao nhất.
Các nghiên cứu địa lý, mặc dù đã bổ sung thêm rất nhiều loài vào những chủng sinh vật đã tồn tại và biến mất, và đã thu hẹp những khoảng trống giữa một vài nhóm sinh vật, nhưng vẫn chưa làm được gì nhiều trong việc phá vỡ sự phân biệt giữa các loài, bằng cách kết nối chúng qua các giống trung gian hoàn hảo và đa dạng, và điều này đã không ảnh hưởng, có khả năng là lý lẽ chắc chắn và rõ ràng nhất có thể dùng để phản bác lại lý thuyết của tôi. Do đó, tôi cần phải tổng kết lại những gì đã nêu ở trên với những minh họa cụ thể. Quần đảo Malay có diện tích tương đương từ cực bắc châu âu đến Địa Trung Hải, từ Anh đến Nga, và do đó có cùng số lượng các dạng địa chất đã từng được thí nghiệm ở nước Mỹ. Tôi hoàn toàn đồng ý với ngài Godwin-Austen rằng các điều kiện sống hiện nay của quần đảo này, với vô số các đảo riêng rẽ ở các vùng biển rộng lớn và nông, có thể dại diện cho điều kiện sống trước đây của châu âu, khi diễn ra quá trình tích tụ của hầu hết các lớp trầm tích. Quần đảo Malay là một trong những khu vực có nhiều dạng hữu cơ nhất trên thế giới, nếu tất cả các loài được tìm thấy đều đã từng sống ở đây, chính vì vậy chúng ta thấy được mức độ không hoàn thiện của lịch sử tự nhiên của thế giới này.
Nhưng chúng ta có tất cả các lý do để tin rằng các sinh vật sổng ở kỷ thứ ba của quần đảo này đã được bảo quản theo cách không hoàn chỉnh trong các dạng địa chất mà chúng ta cho rằng đã từng được tích tụ tại đó. Theo tôi suy đoán, không có nhiều động vật vùng duyên hải, hoặc những loài sống ở các dãy núi đá ven biển đã bị hoá thạch; và những loài bị vùi xuống cát sỏi có thể tồn tại được trong một giai đoạn rất dài. Bất cứ nơi nào trầm tích không được tích tụ ở lòng biển, hoặc không được tích tụ ở mức đủ dày để bảo vệ các cơ thể hữu cơ bên trong khỏi bị phân huỷ, không thể lưu lại bất cứ phẩn nào sót lại của các sinh vật đó.
Trong quần đảo của chủng ta, tôi tin rằng các dạng hoá thạch có thể được hình thành với độ dày vừa đủ để tồn tại trong một thời gian dài, kể cả trong tương lai như các dạng thứ sinh đã từng tồn tại trong quá khứ, chỉ trong thời kỳ bị nhấn chìm. Các giai đoạn nhấn chìm có thể được tách ra với nhau bởi các khoảng lặng rất lớn, trong đó các khu vực có thể được nâng lên hoặc nhấn xuống; trong khi dâng lên, mỗi dạng hoá thạch có thể bị phá huỷ, gần như là ngay khi vừa tích tụ xong, do các tác động va đập của sóng biển, như chúng ta đã thấy ở bờ biển Nam Mỹ. Trong thời kỳ nhấn chìm, rất nhiều sinh vật cũng có thể bị tuyệt chủng, trong thời kỳ tiến hoá, sẽ có rất nhiều biến dị, nhưng những dấu tích địa lý của thời kỳ đó thường là không đầy đủ.
Có thể có ý kiến nghi ngờ rằng về độ dài của thời kỳ chìm xuống toàn bộ hay một phần của quần đảo, cùng với sự tích tụ trầm tích, có thể vượt quá khoảng thời gian trung bình để hình thành một dạng địa chất tương tự; và những bất ngờ này không tách rời đối với sự bảo tồn của tất cá các biến dạng trung gian giữa hai hay nhiều loài. Nếu những bước tiến hoá này không được bảo vệ đầy đủ, các giống chuyển đổi sẽ xuất hiện với tư cách là các loài mới. Cũng có khả năng là mỗi thời kỳ nhấn chim kéo dài có thể bị ngắt quãng bởi các dao động về mức độ, và những thay đổi nhỏ về khí hậu cũng có thể tác động đến quá trình này; và trong các trường họp này, cư dân của các quần đảo sẽ phải di cư, và không có dấu tích nào về sự tiến hoá của chúng được lưu lại trong các tầng địa chất của khu vực này.
Rất nhiều sinh vật biển của bán đảo ngày nay rất đa dạng, họ hàng của chúng có thể xếp thành dãy dài hàng nghìn dặm, và các số liệu tìm thấy khiến tôi tin rằng nhất định có nhiều loài còn đa dạng hơn thường tạo ra các giống mới; và các giống này có thể ban đầu chỉ sống tập trung trong một vùng mà thôi, nhưng khi chúng có thêm những biến dị nhất định, hoặc khi biến đổi và tiến hoá cao hơn, chúng sẽ dần di chuyển và phân tán rộng cách xa nơi cha mẹ chủng từng sinh sống. Khi những giống này quay trở về nơi quê cha đất tổ của mình, do chúng đã khác nhiều so với trước đây, hoặc có thể không nhiều lắm nhưng cũng có thể vẫn được xếp vào hàng những loài và giống mới bởi các nhà sinh vật học.
Nếu sau đó, nếu các chú ý trên có thể tin được, chúng ta không có quyền hy vọng sẽ tìm thấy trong các dạng địa chất của chúng ta một số lượng không xác định những thể trung gian hoàn hảo, mà theo lý thuyết của tôi là có liên hệ với tất cả các loài trong quá khứ và hiện tại của cùng một nhóm vào một chuỗi sinh vật dài và có nhiều nhánh. Chúng ta chỉ có thể tìm kiếm một vài mối liên hệ, vốn có quan hệ chặt chẽ hơn, hoặc một vài quan hệ về khoảng cách với nhau, và những mối liên hệ đó, hãy xếp chúng gần với nhau, nếu được tìm thấy trong các tầng khác nhau của cùng một dạng địa chất sẽ được hầu hết các nhà sinh vật học xếp vào là những loài mới. Nhưng tôi không hề từng nghi ngờ về độ nghèo nàn của các bằng chứng địa lý về các chuỗi sinh vật sống được bảo quản dưới dạng hoá thạch, hoặc không gặp bất cứ khó khăn nào trong quá trình tìm kiếm những mối quan hệ trung gian giữa các loài cùng xuất hiện trong các dạng địa chất.
về sự xuất hiện đột ngột của tất cả nhóm các loài có họ hàng với nhau - Cách thức đột ngột mà cả nhóm loài xuất hiện bất ngờ trong một vài dạng địa chất nhất định, đã được thừa nhận bởi một số nhà nghiên cứu sinh vật học, ví dụ như Agassiz, Pictet và một nhân vật rất cỏ uy tín, giáo sư Seđgwick, như một phản biện quan trọng đối với quan điểm về sự biến đổi theo chuỗi của các loài. Nếu một số loài, thuộc về cùng một chủng hoặc cùng một họ, đã thực sự bắt đầu cuộc sống cùng một lúc, thực tế có thể rất quan trọng đối với lý thuyết di truyền với quá trình biến đoi diễn ra chậm chạp thông qua chọn lọc tự nhiên. Đối với sự phát triển của một nhóm sinh vật, vốn đều có nguồn gốc từ một tổ tiên nào đó, chắc rằng đó phải là một quá trình diễn ra vô cùng chậm; và những tổ tiên này hẳn đã phải sống rất lâu trước khi những con cháu tiến hoá của chúng xuất hiện. Nhưng chúng ta đã liên tục đánh giá qua sự hoàn thiện của bản ghi địa lý, và nhận định một cách sai lầm, vì các chủng hoặc họ nhất định đã không được hình thành trong một giai đoạn nhất định, mà chúng không tồn tại trước giai đoạn đó. Chúng ta liên tục quên thế giới lớn như thế nào, so sánh với vùng mà các dạng địa lý ở đó đã được khảo sát cẩn thận; chúng ta quên rằng những nhóm loài có thể đã tồn tại ở nơi khác lâu và được nhân lên một cách chậm chạp trước khi chúng di cư đến những quần đảo cố xưa của châu âu và Mỹ. Chúng ta không tính đến giới hạn khổng lồ của những khoảng thời gian, mà có lẽ đã lướt qua các dạng địa chất liên tiếp nhau, có lẽ trong vài trường hợp dài hơn thời gian cần thiết để tích tụ một dạng địa chất.
Những khoảng lặng này sẽ có tạo ra thời gian cho sự nhân lên của các loài từ một vài hoặc số ít dạng cha mẹ nào đó; và trong dạng địa chất tiếp theo, những loài như vậy sẽ xuất hiện như thể thình lình được tạo ra vậy.
Ở đây tôi có thể nhắc lại một nhận xét trước đây đã từng được đưa ra, đại ý là sẽ mất một thời kỳ kế tiếp dài để một thể hữu cơ thích nghi với một cuộc sống đặc biệt và mới nào đó, ví dụ bay xuyên qua không khí; nếu không khi điều kiện sống này xuất hiện, và một ít loài như vậy thu nhận những lợi thế lớn hơn so với các thể hữu cơ khác, trong một khoảng thời gian tương đối ngắn cần thiết để sản sinh nhiều dạng phân kỳ, có thê lan truyền nhanh chóng và rộng rãi trên khắp thế giới.
Tôi sẽ đưa ra một so ví dụ để minh họa những nhận xét này; và để thể hiện rằng chúng ta đã không trung thực khi mắc phải sai lầm đi giả sừ rằng toàn bộ các nhóm (của) những loài đã được sinh ra một cách bất ngờ. Tôi có thể nhắc lại dẫn chứng nổi tiếng mà trong những luận án địa lý, được xuất bản không quá lâu trước đây, một tầng lớp đông đảo động vật có vú luôn luôn được cho rằng bất ngờ xuất hiện vào kỷ thứ ba. Và bây giờ một trong những hiểu biết phong phú nhất về những hóa thạch của động vật có vú lại thuộc về giữa kỷ thứ sinh; và một động vật có vú thật đã được phát hiện trong đá cát kết đỏ mới ở giai đoạn gần như bắt đầu của kỷ nguyên lớn này. Cuvier đã từng kết luận rằng không có con khỉ nào xuất hiện trong bất kỳ địa tầng, tầng lớp xã hội thuộc kỷ thứ ba nào; nhưng bây giờ những loài đã tuyệt chủng đã được phát hiện ở Ấn Độ, Nam Mỹ, và châu âu, thậm chí còn ở các giai đoạn trước nữa. Trường hợp nổi bật nhất, tuy nhiên, là trường hợp của họ cá voi; đây là những động vật khổng lồ có xương, sống ở biển, và ở khắp thế giới, vấn đề là không phải chỉ một bộ xương cá voi đã được tìm thấy trong tất cả các dạng địa chất thứ sinh nào, có vẻ hoàn toàn giúp cho việc khẳng định niềm tin rằng thứ tự phân biệt lớn này đã bất ngờ được tạo ra trong khoảng lặng thứ nhì gần đây nhất và dạng địa chất thuộc kỷ thứ ba sớm nhất. Nhưng bây giờ chúng ta có thể đọc trong Phần phụ của cuốn Tài liệu, của Lyell được xuất bản vào năm 1858, những bằng chứng rõ ràng về sự tồn tại của cá voi trong trên cát xanh, thời điểm nào đó trước khi kết thúc kỷ thứ nhì.
Tôi có thể đưa ra những dẫn chứng khác mà tôi đã từng được tận mắt chứng kiến và bị gây ẩn tượng rất mạnh. Trong một luận văn nói về những con hà Sessile hóa thạch, tôi đã phát biểu rằng, từ số lượng những loài thuộc kỷ thứ ba đã tuyệt chủng và từng tồn tại; từ sự phong phú khác thường của những cá thể của nhiều loài khắp thế giới, từ vùng Bắc cực đến đường xích đạo, sống ở nhiều khu vực sâu khác nhau từ những giới hạn thủy triều trên đến 50 fathon; từ cách thức hoàn hảo trong đó những dạng được giữ gìn trong những lớp đáy thuộc kỷ thứ ba già nhất; từ sự dễ dàng mà chỉ cần một đoạn con đập là có thể nhận biết được; từ tất cả những điều kiện trên này, tôi cho rằng có những con hà sessile tồn tại trong thời kỳ thứ nhì, chúng chắc chắn đã được bảo tồn và phát hiện ra, và không giống một loài đã được phát hiện ra trong những lớp trầm tích của thời kỳ này, tôi kết luận rằng nhóm lớn này đã bất ngờ phát triển vào thời điểm bắt đầu của kỷ thứ ba. Đây là một rắc rối gây tác động không tốt tới tôi, trong khi tôi nghĩ rằng sự xuất hiện đột ngột một nhóm lớn các loài nữa. Nhưng công trình của tôi sẽ khó được được xuất bản, do một nhà sinh vật học tài giỏi, M. Bosquet, gửi cho tôi bản vẽ của một dạng hoàn hảo của một con sò sessile mà ông đã tự mình lấy được từ những tảng núi đã ở Bỉ. Và, sessile này là hà Chthamalus, một chủng phổ biến, lớn, và có mặt ở khắp nơi nhưng không thể được tìm thấy trong bất kỳ xã hội nào thuộc kỷ thứ ba. Từ đó chúng ta bây thể biết chắc chắn rằng những con hà sessile tồn tại trong thời gian thời kỳ thứ nhì; và những con hà này có thể là tổ tiên của nhiều loài đã tồn tại và thuộc kỷ thứ ba của chúng ta.
Tình huống phổ biến luôn được các nhà sinh vật học nhấn mạnh ở trên về sự xuất hiện rõ ràng là rất đột ngột của cả nhóm các loài, là của loài cá teleostea, sống ở các vùng nước thấp trong kỷ đá vôi. Nhóm này bao gồm phần lớn những loài đã từng tồn tại. Gần đây, giáo sư Pictet đã đính chính lại sự tồn tại của chúng- trong giai đoạn sau của sự tiến hoá; và một số nhà sinh vật học nào đó tin rằng nhất định mà có những loài cá già hơn mà cho đến nay vẫn chưa được biết đến, thật sự chính là teleostean. Giả thiết rằng, tuy nhiên, do toàn bộ nhóm đó đã biến mất, như ý kiến của Agassiz, tại thời điểm bắt đầu của dạng địa chất đá vôi, sự việc chắc chắn rất đáng chú ý; nhưng tôi không thể thấy) rằng đó là một khó khăn không thể khắc phục nếu dựa trên lý thuyết của tôi, trừ phi nó có thể giống như-những loài của nhóm này đột nhiên xuất hiện và đồng thời trên khắp thế giới trong cùng một thời kỳ. Điều này gần như quá đủ để nhận xét khó có vật hóa thạch - cá nào được biết từ phía nam của đường xích đạo; và được nêu trong cuốn “Nhà sinh vật học” của Pictet nó sẽ có rất ít những loài được biết từ vài dạng địa chất ở châu âu. Thậm chí ngày nay, nếu quần đảo Malay được chuyển đổi vào đất liền, thì Ấn Độ Dương nhiệt đới sẽ trở thành một vòng cung bao quanh, lớn và hoàn hảo, trong đó bất kỳ nhóm động vật biển lớn nào cũng có thể được nhân lên; và ở đây chúng còn lại rất ít, cho đen khi vài loài dần thích nghi với điều kiện khí hậu, và được phép tăng gấp đôi so với ở miền nam châu Phi hoặc châu úc.
Từ những điều trên và những nhận xét tương tự, nhưng chủ yếu từ những thiếu sót về kiến thức địa chất của những nước khác bên ngoài châu Ảu và châu Mỹ; và từ sự cách mạng về ý tưởng của các nhà sinh vật học của chúng ta, từ những khám phá từ nhiều những năm trước, khiến tôi có thể phát biểu về sự kế tiếp của các dạng hữu cơ khắp nơi trên thế giới, giống như một nhà tự nhiên học chỉ có năm phút đứng trên một vùng càn cỗi nào đó ở châu Úc và sau đó bàn luận về số lượng và phạm vi của các sinh vật của nó.
về sự xuất hiện đột ngột của những nhóm những loài có quan hệ chặt chẽ với nhau ở những tầng địa chất có hóa thạch thấp nhất được biết tới. Đây cũng là một khó khăn lớn, thậm chí còn lớn hơn khó khăn trước. Tôi muốn đề cập đến cách mà trong đó một số nhóm loài đột ngột xuất hiện trong tầng thấp nhất chứa hóa thạch. Hầu hết lý lẽ có thể thuyết phục tôi là tất cả các loài đang tồn tại của cùng một nhóm đều là kế thừa từ một tổ tiên, mức độ được biết đến cũng ngang bàng nhau. Ví dụ, tôi không thể nghi ngờ gì rằng tất cả các trùng tam diệp kỷ Silurian đã được kế thừa từ một loài tôm cua nào đã sống rất lâu trước kỷ Silurian, và có lẽ khác nhiều so với bất kỳ động vật nào đã được biết đến. Vài động vật thời Silurian cổ xưa nhất, như Nautilus, Lingula, không khác nhiều so với những loài đang sống hiện nay; và trên lý thuyết tôi không thể giả định rằng tất cả những loài cổ xưa đều là tổ tiên của những loài hiện nay vì chúng không mang những đặc tính của bất kỳ dạng trung gian nào. Hon nữa, nếu có những tổ tiên dạng này, chúng gần như chắc chắn đã bị tiêu diệt bởi những con cháu đã tiến hoá của chúng.
Vậy thì, nếu lý thuyết của tôi là đúng, sẽ khẳng định rằng trước khi địa tầng Silurian thấp nhất được bồi đắp, một thời gian dài trôi qua, có thể là dài hơn toàn bộ khoảng thời gian từ kỷ Silurian xa xưa đến ngày nay; và rằng trong khoảng thời gian rộng lớn và chưa được biết đến này, thế giới đã tiến hoá với những tạo vật mới.
Trả lời cho câu hỏi tại sao chúng ta không tìm thấy những thời kỳ nguyên thuỷ rộng lớn này và chúng chưa được ghi lại, tôi có ý kiến như sau: Một số nhà địa chất nổi tiếng nhất, như ông R. Murchison đã bị thuyết phục rằng chúng ta nhìn thấy trong những lớp hữu cơ còn lại của địa tầng Silurian thấp nhất bình minh của cuộc sống trên hành tinh này. Những nhà khoa học lỗi lạc khác, như Lyell và sau đó là E. Forbes đã tranh luận về kết luận này. Chúng ta không được quên rằng chỉ một phần nhỏ của thế giới được biết đến một cách chính xác. M. Baưande đã đã bổ sung thêm vào hệ thống Silurian nhiều loài đặc biệt và mới. Những dấu hiệu của cuộc sống đã được phát hiện ra trong tầng Longmynd ở dưới tầng Barrande. Sự có mặt của những nút nhỏ chất phốt phát và chất nhựa đường trong vài tảng đá vô sinh ở tầng thấp nhất, cho thấy đã từng có sự sống tồn tại trong những thời kỳ này. Nhưng khó khăn trong việc lí giải sự thiếu vắng nhiều hóa thạch mà theo lý thuyết của tôi là không nghi ngờ gì đã được tích lũy trước kỷ nguyên Silurian ở đâu đó, thì rất lớn. Phải chăng những tầng địa chất cổ xưa nhất này đã bị nhấn chìm toàn bộ, hoặc bị xoá sạch vì biến chất, nên chúng ta chỉ tìm thấy những tàn dư nhỏ của những dạng địa chất nối tiếp chúng trong thời kỳ đó, và những điều đó nói chung cũng trong điều kiện bị biến dạng. Nếu những mô tả mà chúng ta đang có về các lớp trầm tích của kỷ Silurian ở những vùng mênh mông ở Nga và Bắc Mỹ, không hỗ trợ quan điểm này, những dạng địa chất càng cổ xưa, thì chắc phải chịu đựng rất nhiều tác động của quá trình chìm lấp và biến dạng càng nhiều.
Trường hợp này hiện nay vẫn không thể giải nghĩa được; và có thể được coi như một lý lẽ hợp lý chống lại những quan điểm nêu trên. Để chỉ ra rằng từ nay về sau sẽ có đủ lý lẽ để giải thích điều này, tôi sẽ đưa ra một số giả thuyết. Từ dạng tự nhiên của những thể hữu cơ còn lại,
vốn không xuất hiện những những tầng địa chất quá sâu, trong vài dạng địa chất của châu âu và châu Mỹ; và từ số lượng lắng đọng dày hàng trăm dặm, chúng ta có thể suy ra rằng từ những hòn đảo đầu tiên đến những hòn đảo cuối cùng, hoặc những khoảng đất rộng, bất cứ nơi nào diễn ra quá trình lắng đọng, đều xuất hiện trong khu lân cận của những lục địa đã có châu âu và Bắc Mỹ. Nhưng chúng ta không biết tình trạng của sự vật ở đoạn trung gian giữa những sự hình thành nối tiếp nhau; chúng ta không biết phải chăng nếu trong những quãng thời gian đó châu âu và Hoa Kỳ đã tồn tại như những dải đất khô nổi lên trên mặt biển hay là những vùng đất ngầm nằm trong lòng đại dương gần lục địa mà trên đó không hề có một khối trầm tích nào kết tụ, hay là đáy biển của một vùng biển mở rộng.
Chúng ta thấy rằng những đại dương hiện nay có diện tích gấp ba diện tích đất liền và những đảo nhỏ nằm rải rác; nhưng chúng ta không thấy một hòn đảo nào thực sự mang tính chất đại dương lại chứa đựng những vết tích thuộc thời kỳ đại cổ sinh và kỷ đệ nhị. Do đó, chúng ta có thể kết luận rằng, ở những nơi có đại dương, thì vào những thời kỳ như kỷ đại cổ sinh hay đệ nhị đều không tồn tại những lục địa hay đảo lục địa; vì nếu có thì, những khối kết tầng cổ sinh và đệ nhị kỷ tất cả đã được hình thành. Sau đó, một phần khối ấy sẽ phải nhô cao lên sau những biếấn động địa chất đã phải xảy ra trong các giai đoạn kéo dài ấy. Như vậy, nếu chúng ta có thể dựa vào những sự kiện trên để kết luận một điều thì đó là: ở những vùng hiện nay ngập chìm trong nước biển đã có niên đại từ thời kỳ xa xưa nhất mà chúng ta có thể biết, và mặt khác, ở những vùng mà hiện nay là lục địa, thì từ kỷ Cambry cũng đã có những vùng đất liền rộng lớn và chúng chắc chắn đã phải trải qua những biếấn động địa chất mạnh mẽ. Bản đồ màu tôi đính kèm với cuốn sách về các đảo san hô đã dẫn tôi đến kết luận rằng những đại dương lớn hiện nay vẫn là những khoảng lún xuống; rằng những quần đảo lớn bao giờ cũng là trung tâm của các hoạt động địa chất mạnh mẽ, và các lục địa vẫn là những vùng đất nhô cao. Nhưng liệu đây có phải là thực tế kéo dài từ thời kỳ khai sinh quả đất không? Trong khi trái đất trải qua nhiều biếấn động, các lục địa ngày nay dường như được hình thành chủ yếu nhờ vào lực đẩy sinh ra từ những biếấn động địa tầng; nhưng cũng có thể là qua các thời đại, những diện tích thuộc diện vậấn động ưu thế đã không thay đổi theo thời gian. Ở một thời kỳ rất xa trước kỷ Cambry, ở những vùng hiện nay là đại dương, có thể đã có những lục địa và những đại dương vô cùng rộng lớn bao phủ các vùng hiện nay là lục địa. Chủng ta cũng không thể giả định chẳng hạn như đáy biển hiện thời của Thái Bình Dương trở thành lục địa thì chúng ta sẽ tìm thấy ở đó những tầng địa chất có niên đại cổ xưa hơn tầng địa chất của Xilua, giả thiết rằng các tầng trầm tích đã được tích tụ ở đó; vì nó có thể xảy ra việc những tầng địa chất bị chìm xuống vài dặm gần trung tâm trái đất và chịu áp lực của một khối nước khổng lồ, đã có thể trải qua những hoạt động biến đổi địa chất nhiều hơn so với những địa tầng nằm gần vỏ quả đất. Tôi luôn luôn cảm thấy cần có sự giải thích đặc biệt cho những lớp đất đá đã được nung nóng dưới áp suất lớn ở một số vùng rộng lớn trên thế giới, ví như Nam Mỹ, và chúng ta có thể chắc chắn rằng chúng ta sẽ tìm ra những tầng địa chất đã bị xói mòn trước kỷ Xilua. Những khó khăn về nhiều mặt mà chúng ta vừa thảo luận, như việc không tìm thấy mối liên hệ trung gian giữa những giống hiện nay và giống xưa kia, sự xuất hiện đột ngột của toàn bộ một giống nào đó trong các tầng địa chất ở châu âu, hay sự biến mất gần như hoàn toàn của các hóa thạch dưới tầng địa chất Xilua hiện nay.
Chứng cớ là các nhà cổ sinh vật học như Cuvier, Agassiz, Owen, Barrande, Falconer, và E. Forbes và các nhà địa chất học như Lyell, Murchison, Sedgwick, đều đã nhất trí ủng hộ và đôi khi nhiệt thành với nguyên lí chủng loại bất biến, về phía bản thân, theo như ẩn dụ của Lyell, tôi coi những thư đồ địa chất như một pho lịch sử trái đất không đầy đủ, được viết bằng một thứ tiếng luôn thay đổi, mà chúng ta chỉ sở hữu cuốn sách sau cùng, liên quan tới chỉ vài ba nước. Trong cuốn sách ấy, thi thoảng mới có một vài chương được bảo quản, và trong những trang sách của những chương đó chỉ có một số trang là còn có thể hiểu được. Mồi một chữ cái của thứ tiếng ấy, một thứ tiếng thay đổi dần dần, chất liệu mà lịch sử được ghi chép lại bàng, có thể thay đổi đôi chút qua các chương do sự đứt quãng giữa các chương với nhau, có thê tượng trưng cho những hình thái đã thay đổi đột ngột, bị chôn vùi trong những tầng địa chất liên tiếp và phân tán của chúng ta. Giả thuyết này đã làm giảm nhiều, nếu không muốn nói là làm mất hẳn, những khó khăn mà chúng ta đã thảo luận trong chương.
CHƯƠNG X
Sự nối tiếp địa chất học của sinh vật
Sự xuất hiện dần dẩn và kế tiếp của các loài mới: tốc độ biến đổi khác nhau của chúng - Những loài đã mất đi không xuất hiện lại - Những nhóm loài tuân theo cùng quy luật chung trong sự xuất hiện và biến mất như một loài đơn lẻ - về sự tuyệt chủng - về sự thay đổi kiểu hình hữu cơ trên khắp thế giới - về những mối liên hệ họ hàng giữa các loài đã tuyệt chủng với nhau, và với những loài đang tồn tại - về trạng thái phát triển của những kiểu hình cũ - về sự nối tiếp của những loại hình giống nhau trong các khu vực tương tự nhau - Tóm tắt chương này và chương trước.
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét các số liệu và quy luật liên quan tới sự nối tiếp địa lí của các sinh vật hữu cơ phù hợp với quan điểm chung về sự bất biến của các loài hoặc là phù hợp với sự biến đổi dần và chậm của các loài, thông qua chọn lọc tự nhiên và di truyền.
Các loài mới xuất hiện rất chậm, trên đất liền và dưới mặt nước, lần lượt từng loài một. Giáo sư Lyell đã chỉ ra rằng những chứng cứ tìm thấy được từ các tầng địa chất
thuộc Kỉ thứ 3 khó có thể bị bỏ qua; và mỗi năm những mảng trống kiến thức lại được lấp đầy. Trong những tầng đất được xét nghiệm gần đây nhất, chỉ có một hai loài tuyệt chủng và những di chỉ về loài mới được phát hiện, trong khi niên đại của những tầng đất này thuộc loại khá cổ. Nếu chúng ta tin vào những quan sát của Philippi ở Sicily, chúng ta sẽ thấy những loài sinh vật biển trên hòn đảo này đã trải qua rất nhiều những biến đổi liên tục và dần dần. Những lớp đất đá thuộc Kỉ thứ 2 tuy có vụn hơn nhưng theo quan điểm của Bronn, sự biến mất và xuất hiện của những di chỉ về những loài sinh vật tuyệt chủng không xảy ra đồng thời trong các kỉ.
Các loài động vật thuộc các chi và lớp khác nhau không biến đổi giống nhau về tốc độ và mức độ. Trong những lớp đất đá cổ nhất thuộc Kỉ thứ 3, một số loại vỏ của sinh vật hiện còn sống trên Trái Đất vẫn có thể được tìm thấy giữa những hóa thạch của các sinh vật tuyệt chủng. Trường hợp hóa thạch của một con cá sấu có đặc điểm tương đồng với những động vật có vú và than lằn đã tuyệt chủng trong lớp đất đá tìm thấy ở vùng hạ Himalaya cũng là một ví dụ điển hình được ngài Falconer đưa ra. Loài động vật hình lưỡi ở kỉ Silua không khác với loài vật cùng loại hiện đang tồn tại, trong khi phần lớn những động vật giáp xác và thân mềm thuộc kỉ Silua đã thay đổi rất nhiều. Sự sinh sản ở trên cạn dường như thay đổi nhanh hơn nhiều so với ở dưới mặt biển. Có cơ sở để tin rang các sinh vật bậc cao của thiên nhiên thay đổi nhanh hơn các sinh vật bậc thấp. Tuy vậy, vẫn có những ngoại lệ cho trường hợp này. Khi một loài đã hoàn toàn biến mất khỏi Trái Đất, chúng ta hoàn toàn có thể tin rằng một cá thể tương tự sẽ không thể xuất hiện lại. Ngoại lệ duy nhất của quy luật này là các “cụm sinh vật” của ngài Barrande. Theo ông này, các di chỉ của một số sinh vật sẽ xuất hiện trong lớp đất đá cổ, và rồi lại xuất hiện một lần nữa trong một lớp đất đá cổ khác. Nhưng tôi thấy giải thích của Lyell rằng đó chỉ là một trường hợp di cư từ một khu vực địa lí xa xăm tới, có vẻ như cũng có thể chấp nhận được.
Những bằng chứng trên rất phù hợp với giả thuyết của tôi. Tôi không tin vào bất cứ một quy luật phát triển bất di bất dịch, khiến cho tất cả các sinh vật của một vùng thay đổi đột ngột, hoặc đồng thời, hoặc ở một mức độ giống nhau nhất định. Quá trình biến dị chắc chắn phải diễn ra rất chậm. Khả năng biến dị của mỗi loài là hoàn toàn khác nhau. Liệu những biến dị đó có thể được tận dụng bởi chọn lọc tự nhiên, và liệu sự biến dị đó được tích luỹ nhiều hay ít ở các loài khác nhau, tuỳ thuộc vào rất nhiều yéu tố khách quan phức tạp - phụ thuộc vào giao phối chéo, vào tỉ lệ giao phối trong những điều kiện vật chất đang thay đổi của vùng, và đặc biệt là bản tính của những động vật mà loài biến dị phải cạnh tranh. Do đó, không có gì lạ khi một loài có thể giữ kiểu hình tương tự lâu hơn các loài khác, hoặc giả có thay đổi thì cũng là rất ít. Chúng ta cũng thấy hiện tượng này xảy ra trong sự phân bố địa lí. Ví dụ: những con bọ cánh cứng và những chiếc vỏ lục địa ở Madeira đã thay đổi khá nhiều so với những họ hàng thân cận nhất của chúng ở châu âu, trong khi những chiếc vỏ biển và các loài chim thì lại không hề thay đổi. Chúng ta có thể hiểu được sự thay đổi nhanh chóng hơn của những loài sống trên cạn và những động vật bậc cao so với sinh vật biến và động vật bậc thấp, do mối quan hệ phức tạp giữa động vật bậc cao với môi trường sống hữu cơ và vô cơ của chúng, đã được giải thích trong một chương trước. Khi nhiều sinh vật trong một vùng đã được thay đổi và hoàn thiện, chúng ta có thể hiểu, về khía cạnh cạnh tranh, và trong mối quan hệ giữa sinh vật với sinh vật, rằng bất kì một cá thể nào không trải qua quá trình biến dị và hoàn thiện, có thể sẽ bị đẩy tới chỗ diệt vong. Bởi vậy, nếu chúng ta quan sát trong một khoảng thời gian đủ dài, chúng ta sẽ thấy cuối cùng thì tất cả các sinh vật đều thay đổi, bởi những sinh vật nào không thay đổi đều sẽ bị tuyệt chủng.
Trong những quãng thời gian dài bàng nhau, tỉ lệ biến dị trung bình của các cá thể trong cùng một lớp có thể gần bằng nhau. Nhưng do việc tích luỹ những di tích hoá thạch phụ thuộc vào lượng lớn trầm tích lắng xuống trong một khu vực khi nước rút, các lớp đất đá của chúng ta được tích tụ vào những thời điểm bất thường và cách xa nhau, do vậy, số lượng biến dị hữu cơ để lại trên những hoá thạch sót lại trong những tầng đất đá liên tiếp không giống nhau. Mỗi lớp đất đá ở đây không đánh dấu một bước tạo hoá và hoàn thiện mới của thiên nhiên mà chỉ là một trường hợp hi hữu, trong những thay đổi chậm chạp của môi trường.
Chúng ta có thể hiểu rõ tại sao khi một loài biến mất nó sẽ không bao giờ xuất hiện lại, ngay cả khi có những điều kiện sống hữu cơ và vô cơ tương tự. Tuy con cháu của loài sinh vật có thể thay thế chỗ của một loài khác trong tự nhiên, song - cả 2 kiểu hình, cả cũ và mới - sẽ không thể giống nhau hoàn toàn, bởi cả 2 sẽ đều được di truyền những đặc điểm khác nhau từ tổ tiên của chúng. Ví dụ, nếu tất cả những con chim bồ câu đuôi quạt bị tiêu diệt, bằng việc nỗ lực trong một khoảng thời gian dài, chúng ta có thể tạo ra một giống bồ câu mới không khác gì giống chim của chúng ta hiện nay. Nhưng nếu nhũng con chim bồ câu núi cũng bị tiêu diệt, và chúng ta hoàn toàn có thể tin là những cá thể bố mẹ thường sẽ bị tiêu diệt và thế chỗ bởi con cháu của chúng ở nhũng thế hệ sau, chủng ta vẫn có thể tạo ra được một loài bồ câu đuôi quạt giống hệt với loài chim bồ câu hiện đang tồn tại từ một loài chim bồ câu bất kì, hoặc ngay cả từ loài chim bồ câu đã được thuần hóa, bởi tất cả những con chim bồ câu đuôi quạt mới được tạo ra chắc chắn sẽ được thừa kế từ tổ tiên của chúng một số đặc tính khác biệt nhỏ.
Nhiều nhóm loài, hợp lại thành các chi và họ, cũng tuân theo những quy luật chung trong sự biến mất và xuất hiện như tùng loài riêng lẻ, thay đổi nhanh hoặc chậm, và ở mức độ mạnh yếu khác nhau. Một nhóm sẽ không xuất hiện lại một khi nó đã biến mất, nếu không thì sự tồn tại của nó, trong tuổi thọ của nó, là liên tục. Tuy tôi biết nhũng ngoại lệ của quy luật này có tồn tại song lại quá ít, ít đến nỗi một số người như E. Forbes, Pictet, và Woodward (những người không đồng tình với quan điểm của tôi), cũng phải công nhận sự thật đó, và giả thuyết của tôi cũng rất bám sát những quy luật đó. Do tất cả những loài trong một nhóm có cùng một tổ tiên là một loài nào đó, rõ ràng bất cứ một loài nào trong nhóm xuất hiện liên tiếp cùng với thời gian, thì những cá thể thuộc loài đó cũng đã tồn tại một khoảng thời gian dài tương tự để có thể sản sinh ra những cá thể mới và biến dị hoặc những cá thể cũ và không biến đổi. Các loài thuộc chi động vật hình lưỡi chắc chắn đã phải tồn tại liên tiếp từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ cấu trúc Silua thấp nhất cho đến ngày nay.
Chúng ta đã thấy trong chương trước, đôi khi các loài trong một chi dường như có vẻ xuất hiện một cách rất đột ngột. Tôi đã cố đưa ra một số giải thích cho điều này, nhưng nếu đó là sự thật thì quan điểm của tôi chắc chắn sẽ bị bác bỏ hoàn toàn. Song, những trường hợp như vậy là cực kì hiếm, với quy luật chung là sự tăng dần về số lượng, cho đến khi nhóm đã đạt con số cực đại, và rồi, sớm hay muộn, số lượng này dần dần giảm. Nếu số loài trong một chi, hay số chi trong một họ, được thể hiện bởi một đường biểu diễn có độ dày thay đổi, đi xuyên qua những lớp địa tầng liên tiếp, nơi mà hóa thạch của các loài được tìm thấy, đường biểu diễn này sẽ đôi khi tưởng chừng như được bắt đầu ở phần cuối của nó, không phải bằng một nét thanh mảnh, mà lại đột ngột, độ dày tăng dần cùng với thứ tự của các lớp đất đá, đôi khi giữ độ dày không đổi trong một khoảng thời gian, và rồi cuối cùng mỏng dần ở những tầng đất trên cùng, đánh dấu quá trình diệt vong và cuối cùng là tuyệt chủng của loài đó. Sự tăng dần về số lượng các loài trong một chi rẩt phù hợp với giả thuyết của tôi bởi các loài hợp thành chi, các chi hợp thành họ chỉ có thể tăng dần dần, do quá trình biến dị và sinh sản về số lượng các kiểu hình tưorng tự nhất thiết phải diễn ra từ từ - một loài tạo điều kiện cho một hoặc hai loài biến dị phát triển, những biến dị này dần biến thành một loài, và cứ tiếp tục như vậy, như sự đâm chồi của những cành cây con của một cây lớn, cho đến khi cả cây đã lớn mạnh.
về sự tuyệt chủng - Cho đến giờ chúng ta mới chỉ nhắc qua về sự biến mất của các loài và các chi. Giả thuyết chọn lọc tự nhiên về sự tuyệt chủng của các cá thể cũ và sự tạo thành các cá thể mới và cải tiến liên quan rất mật thiết với nhau. Quan niệm cũ về việc tất cả sinh vật trên Trái Đất đều đã bị tiêu diệt bởi thiên tai trong các giai đoạn liên tiếp giờ đây đã được loại bỏ, kể cả những nhà địa chất học như Elie de Beaumont, Murchison, Barrande, những người mà quan điểm của họ chắc chắn sẽ khiến họ nghĩ như vậy cũng đã thay đổi. Trong khi đó, từ việc nghiên cứu các tầng địa chất, chúng ta có thể chứng minh rằng các loài và các nhóm loài động vật biến mất dần dần, đầu tiên tại một khu vực rồi đến một khu vực khác, và rồi cuối cùng là biến mất hoàn toàn khỏi mặt đất. Các loài và nhóm loài khác nhau tồn tại trong những khoảng thời gian kéo dài rất khác nhau; có những nhóm đã tồn tại từ thủa khai sinh sự sống, trong khi có một số đã biến mất từ cuối thời kì Đại Trung Sinh. Không có một quy luật nhất định nào quy định khoảng thời gian tồn tại của bất cứ loài hay họ nào. Quá trình diệt vong hoàn toàn của một loài động vật nói chung chậm hơn so với quá trình sinh sản của chúng. Nếu sự xuất hiện và biến mất của một họ được biểu diễn như ví dụ trên, bằng một đường thẳng có độ dày thay đổi, đường biểu diễn này có xu hướng nhọn dần về phía ngọn, đánh dấu quá trình diệt vong và cuối cùng là tuyệt chủng, so với phần đầu của nó, nơi đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên và sự tăng trưởng về số lượng của loài đó. Tuy nhiên, trong một số trường hạp, ví như loài sò cúc, sự tuyệt chủng của chúng vào cuối Kỉ thứ 2 đã đến một cách rất nhanh chóng.
Chủ đề về sự tuyệt chủng của các loài động vật đều liên quan tới một điều bí ẩn không rõ lí do. Một số tác giả cho rằng do mỗi cá thể có một tuổi thọ nhất định, nên điều đó cũng đúng đối với một loài. Sự tuyệt chủng của các loài động vật làm tôi rất hứng thú. Tôi đã tìm thấy ở La Plata một chiếc răng ngựa, bị chôn vùi cùng với những hoá thạch của loài Mastodon, Megatherium, Toxodon, và một số loài động vật đã tuyệt chủng khác, lẫn với rất nhiều vỏ động vật ở một thời điểm địa chất rất muộn mà vẫn còn sống ngày nay. Song điều làm tôi ngạc nhiên nhất là do ngựa là giống vật chỉ được nhập sang Nam Mỹ kể từ sau khi người Tây Ban Nha có mặt trên lục địa, lại đã sinh sôi và phát triển khắp toàn vùng về số lượng. Tôi tự hỏi bản thân điều gì đã có thể dẫn đến sự tuyệt chủng của loài ngựa cổ khi mà các điều kiện sổng rõ ràng quá thuận lợi. Song, tôi còn phải ngạc nhiên hơn nữa khi giáo sư Owen thông báo rằng đó không phải răng của một con ngựa cổ, mà là răng của một loài sinh vật khác đã tuyệt chủng. Nếu giống ngựa này còn sống, với số lượng có hạn, chắc chắn rằng không có nhà tự nhiên học nào lại có thể phủ nhận sự quý hiếm của nó. Sự quý hiếm là thuộc tính của rất nhiều loài sinh vật trên toàn trái đất. Nếu chúng ta đặt ra câu hỏi tại sao loài này hay loài kia lại quý hiếm, chúng ta sẽ trả lời rằng những điều kiện sống bất lợi cho loài này xuất hiện. Nhưng, những điều kiện bất lợi đó là gì thì chúng ta khó có thể biết chính xác được. Nếu coi loài ngựa của chúng ta còn sống, và là một loài động vật rất quý hiếm, và qua việc phân tích nghiên cứu các loài thú có vú khác, ngay cả loài thú sinh sản chậm như voi, và quá trình biến thành ngựa hoang của những con ngựa thuần ở Nam Mỹ, chúng ta có thể chắc chắn rằng với điều kiện sống thuận lợi thì chỉ trong một vài năm giống ngựa này sẽ có mặt trên khắp lục địa. Nhưng chúng ta không thể biết được những điều kiện bất lợi nào đã kiểm soát sự phát triển về số lượng của loài ngựa này, rằng những điều kiện đó gồm một hay nhiều yếu tố bất ngờ, vào thời điểm nào của tuổi thọ của loài ngựa, và ở cấp độ nào chúng cùng ảnh hưởng tới loài ngựa. Nếu những điều kiện bất lợi này vẫn cứ tiếp diễn, kể cả một cách chậm chạp, chúng ta chắc chắn sẽ vẫn không thể biết được chúng là gì, và dần dần, giống ngựa này sẽ trở nên ngày càng quý hiếm và cuối cùng cũng trở thành tuyệt chủng, thay vào vị trí của nó là một loài có khả năng cạnh tranh thành công hơn.
Sự tăng trưởng về số lượng của một loài nào đó luôn luôn được kiểm soát bởi những nhân tố vô hình và những nhân tố này là thừa đủ để gây ra tình trạng quý hiếm, hay cuối cùng là tuyệt chủng. Trong những tầng địa chất thuộc
Kỉ thứ 3 chúng ta có thể thấy rất nhiều trường hợp trong đó tình trạng quý hiếm xảy ra trước sự tuyệt chủng. Đây là kết quả của quá trình diệt chủng của các loài dưới sự tác động của con người. Tôi xin nhắc lại quan điểm của bản thân (đã được xuất bản vào năm 1845): Việc chấp nhận các loài lâm vào tình trạng quý hiếm trước khi bị tuyệt chủng, không cảm thấy bất ngờ trước sự quý hiếm đó, và rồi lại cảm thấy ngạc nhiên trước sự tuyệt chủng của loài đó thật chẳng khác gì việc công nhận rằng bệnh tật là dấu hiệu của cái chết, hoàn toàn không cảm thấy ngạc nhiên trước bệnh tật, nhưng rồi khi người mắc bệnh mất thì lại phân vân và nghi ngờ liệu có phải người đó chết vì một hành động bạo lực nào đó.
Thuyết chọn lọc tự nhiên chủ yếu dựa trên quan điểm mỗi loại và mỗi loài mới được hình thành và duy trì bởi chúng có những đặc điểm cạnh tranh mới ưu việt hơn so với các loài khác, cuối cùng là sự diệt vong tất yếu của những cá thể kém ưu việt hơn. Quan điểm này cũng được áp dụng trong việc chăn nuôi gia súc. Khi một loại mới có ưu điểm hơn được tạo thành, đầu tiên nó sẽ thay thế những loại khác kém ưu việt hơn trong những vùng lân cận. Khi đã được củng cố những đặc tính ưu việt của mình, nó sẽ được vận chuyển đến những vùng mới, ví như giống bò sừng ngắn, và thay thế vị trí của các giống khác ở các nước khác nhau. Do đó, sự xuất hiện của những kiểu hình mới và sự biến mất của những kiểu hình cũ, dù nhân tạo hay tự nhiên, đều gắn liền với nhau. Trong một số nhóm động vật phát triển thành công, số lượng các cá thể mới được sinh ra trong một khoảng thời gian nhất định là lớn hơn số lượng cá thể cũ đã bị tiêu diệt. Nhưng chúng ta* cũng biết rằng số lượng cá thể được sinh ra không phải là tăng mãi mãi, hoặc ít nhất là trong những thời kì địa chất về sau, do vậy, khi khảo sát những càng xa xưa, sự sản sinh một số lượng các cá thể mới cũng đã tiêu diệt một số lượng cá thể cũ tương đương.
Như đã giải thích và minh hoạ bằng các ví dụ, quá trình cạnh tranh tự nhiên sẽ xảy ra gay gắt nhất giữa các cá thể tương đồng về càng nhiều mặt. Do đó, những cá thể đã được cải tiến và thay đối, mang đặc tính ưu việt hơn thường sẽ gây ra hiện tượng tuyệt chủng ở những cá thể ở đời trước. Nếu rất nhiều cá thể khác nhau đã được hình thành trong một loài, thì những loài họ hàng gần nhất loài, ví như các loài trong cùng một chi, sẽ là đối tượng dễ bị tuyệt chủng nhất. Do vậy, theo quan điểm của tôi, những loài mới có cùng chung một loài tổ tiên, hay một chi mới sẽ thay thế một chi cũ, trong cùng một họ. Nhưng cũng có những trường hợp một loài mới trong một lớp sẽ thay thế được vị trí của một loài thuộc một lớp khác, và góp phần tiêu diệt loài đó. Và nếu nhiều cá thể anh em được tạo ra từ kẻ xâm lăng thành công này, rất nhiều sinh vật khác sẽ phải nhường lại chỗ cho nó. Đồng thời, những cá thể họ hàng gần với loài xâm lăng này sẽ thường phải gánh chịu những đặc tính kém ưu việt hơn do di truyền. Nhưng bất kể là một loài thuộc cùng hay khác lớp bị hất cẳng bởi loài khác đã được cải tiến, thay đổi, một số ít những nạn nhân lại vẫn có thể tồn tại lâu dài, do thích ứng được với một điều kiện sống riêng biệt nào đó, hoặc do sống tại những khu vực hẻo lánh, noi chúng thoát khỏi sự cạnh tranh khốc liệt với các loài xâm lăng. Ví như loài sò lớn Trigonia sống ở Kỉ địa chất thứ hai vẫn còn sống trong vùng biển của Úc, và một số thành viên của loài cá vảy láng vẫn sống trong các vùng nước ngọt. Do đó quá trình diệt vong của một nhóm thường là một quá trình chậm hơn quá trình sinh sản của nó.
Ngoại trừ trường hợp loài bọ ba thuỳ dường như tuyệt chủng đột ngột ở cuối thời kì Đại cổ Sinh, hay của loài sò cúc vào cuối kỉ Silua, ta nên chú ý rằng quá trình diệt chủng dần dần có thể đã diễn ra trong những quãng thời gian ở giữa những tầng địa chất liên tiếp. Hơn thế nữa, hoặc do di trú đột ngột hoặc quá trình sinh trưởng nhanh bất thường, rất nhiều loài của một nhóm mới có thể chiếm đoạt một khu vực mới, và chúng cũng sẽ tiêu diệt những cư dân gốc một cách nhanh không kém. Và những cá thể phải nhường chỗ thường sẽ trở thành họ hàng, do chúng thường có chung những đặc tính kém ưu việt hơn.
Do vậy, theo quan điểm của tôi, phương thức mà các loài riêng lẻ và các nhóm loài trở nên tuyệt chủng rât phù hợp với thuyết chọn lọc tự nhiên. Sự tuyệt chủng không có gì khiến chúng ta phải ngạc nhiên, và nếu chúng ta cần cảm thấy ngạc nhiên thì hãy ngạc nhiên về giả định rằng chúng ta có thể hiểu được hết những yếu tố phức tạp và bất ngờ góp phần tạo nên sự tuyệt chủng. Nếu chúng ta quên dù chỉ trong một giây, rằng mồi loài thường có xu hướng tăng trưởng bất thường, và sự tăng trưởng này luôn được kiểm soát, mặc dù rất ít khi được con người biết đến, toàn bộ hoạt động của thiên nhiên sẽ trở nên vô nghĩa. Cho đến khi nào mà chúng ta có thể nói một cách chắc chan tại sao loài này có nhiều cá thể hơn loài kia, tại sao chỉ có loài này mà không phải loài khác có thể được hội nhập vào một đất nước thì chỉ khi đó chúng ta mới nên cảm thấy ngạc nhiên tại sao chúng ta không thể lí giải được sự tuyệt chủng của riêng một loài, hay của một nhóm loài nào đó.
Mọi cá thể trên thế giới biến đổi gần như đồng thời với nhau.
Không cỏ một phát hiện khảo cổ học nào nổi bật hơn phát hiện rằng mọi cá thể biến đổi gần như đồng thời với nhau trên toàn thế giới. Do đó những tầng địa chất thuộc kỉ Phấn Trắng của châu âu vẫn có thể được tìm thấy ở những nơi hẻo lánh nhất của thế giới, dưới những điều kiện khí hậu khác nhau, ngay cả khi không có bất cứ một mẫu địa chất nào được tìm thấy, ví dụ như ở Bắc Mĩ, Nam Mĩ cận xích đạo, tại Tierra del Fuego, tại Mũi Ảo Vọng, hay trên cao nguyên Ấn Độ. Tại những địa điểm này, những hoá thạch hữu cơ trong một số lớp đất mang những đặc điểm tương đồng đến không ngờ so với những hoá thạch được tìm thấy trong kỉ Phấn Trắng. Hoá thạch của những loài giống nhau không phải bao giờ cũng được tìm thấy, bởi trong một số trường hợp, không có một loài giống nhau hoàn toàn, mà chúng chỉ thuộc cùng một chi, một họ, hay chỉ là một bộ phận của một chi, hay chỉ giống nhau về cấu trúc bên ngoài. Hơn thế nữa, những hoá thạch không được tìm thấy trong kỉ Phấn Trắng ở châu âu, mà chỉ được tìm thấy ở trong những tầng địa chất phía trên hoặc dưới, cũng không được tìm thấy ở những địa điểm trên. Trong một số tầng địa chất Đại cổ Sinh kế tiếp nhau ở Nga, Tây u, và Bắc Mĩ, sự giống nhau giữa các loài tương tự nhau cũng được quan sát thấy bởi một số tác giả khác. Ngài Lyell cũng khẳng định điều này sau khi quan sát một số địa điểm trầm tích ở Bắc Mĩ và châu âu. Ngay cả khi không xét đến những hoá thạch thường được tìm thấy ở thế giới cũ và mới, vẫn có thể thấy rõ sự tương đồng chung giữa các thế hệ sinh vật liên tiếp trong khoảng thời gian từ Đại cổ Sinh đến Đại Trung Sinh, và những tầng địa chất này vẫn có thể được liên hệ với nhau một cách dễ dàng.
Tuy nhiên, những quan sát này chỉ được bao gồm các loài sinh vật biển. Chúng ta không có đủ số liệu để có thể đánh giá sự thay đổi song song của các loài cả trên cạn và dưới nước. Song, chúng ta có thể nghi ngờ việc liệu những sinh vật này có thay đổi hay không bởi nếu những loài như Megatherium, Mylodon, Macrauchenia, và Toxodon di trú đến châu âu từ La Plata, và không có một bất cứ một tài liệu nào nói về nguồn gốc của chúng, ít người sẽ nghi ngờ việc chúng đã từng chung sống với những loài sò vẫn còn tồn tại ngày nay. Song từ việc những con vật kì lạ này sống chung với loài Mastodon và loài ngựa, chúng ta có thể kết luận rằng chúng sống vào một trong ba kỉ cuối của thời kì Đại Trung Sinh.
Khi nói về những sinh vật biển “biến đổi đồng thời trên toàn thế giới”, chúng ta nên chú ý rằng lời khẳng định này không chính xác đối với khoảng thời gian kéo dài đến nghìn hay trăm nghìn năm, và nó cũng không hoàn toàn chính xác về mặt địa lí. Bởi nếu ta so sánh tất cả những sinh vật biển sống tại châu âu ngày nay hay tất cả những sinh vật biển sống ở châu âu trong kỉ Plaitôxen (thời kì cách đây 1 triệu năm, kéo dài tám trăm nghìn năm, bao gồm cả thời kì băng hà) với những loài tưomg tự ở Nam Mĩ hoặc ở Úc, thì ngay cả những nhà tự nhiên học tài giỏi nhất cũng khó mà khẳng định được đặc điểm giống nhau giữa những loài sống tại châu âu với những loài sống ở phía Nam xích đạo. Một số nhà quan sát tên tuổi cũng khẳng định rằng những hoá thạch được tìm thấy tại Hoa Kì có nhiều đặc điểm tương đồng với những hoá thạch được tìm thấy ở châu Ẩu trong thời kì Đại Trung Sinh hơn là với những loài hiện đang sống tại khu vực này. Nếu điều này là đúng thì rõ ràng những trầm tích hoá thạch ven biển khu vực Bắc Mĩ từ nay sẽ được xếp loại cùng với những tầng địa chất có niên đại cao hơn tại châu âu. Do đó, trong một tương lai khá xa, ở những tầng địa chất chứa đựng hoá thạch có sự tương đồng ở một mức độ nào đó, và loại bỏ những tầng địa chất chứa đựng những hoá thạch mà chỉ được tìm thấy ở những tầng địa chất cổ hơn nằm phía dưới, những tầng địa chất hiện đại mà đặc biệt là những tầng trầm tích trên cùng của kỉ thứ 3, kỉ thứ 4 và tầng trầm tích hiện đại của châu Ẩu, Bắc và Nam Mĩ, và ủc sẽ được sẳp xểp ngang hàng về phương diện địa chất.
Những nhà quan sát kì cựu như bà Vemeuil và Archiac đều bị ảnh hưởng bởi sự thật rằng các cá thể sống
biến đổi đổi đồng thời trên toàn bộ Trái Đất. Sau khi đã nói đến sự tương đồng nhau về kiểu hình ở những sinh vật thuộc Đại Cổ Sinh sống tại châu âu, họ còn thêm rằng: “Nếu gặp phải hiện tượng kì lạ này, chúng ta cần hướng sự chú ý tới khu vực Bắc Mĩ, nơi mà hàng loạt những hiện tượng kì lạ tương tự đã được tìm thấy, và có vẻ như những biến dị ở các loài sinh vật, sự tuyệt chủng của chúng, và sự tạo thành loài mới không phải do những thay đổi về quy luật thuỷ triều hay những nguyên nhân mang tính khu vực và đương đại mà là do những quy luật chung của thế giới động vật. Những kết luận mạnh mẽ tương tự cũng đã được ngài Baưande phát biểu. Quả là vô vọng khi chúng ta coi những thay đổi về thuỷ triều, khí hậu, hay những điều kiện vật chất khác là nguyên nhân của những biến dị của những sinh vật sống trong những điều kiện khí hậu khác nhau trên toàn thế giới. Hơn thế nữa,ngài Barrande còn khẳng định rằng chúng ta nên xem xét một quy luật đặc biệt nào đó. Chủng ta sẽ nhìn nhận vấn đề này một cách rõ ràng hơn khi quan sát sự phân bổ các sinh vật hữu cơ, và tìm hiểu sự khác nhau nhỏ bé trong mối quan hệ giữa điều kiện vật chất của một vùng, và bản tính của những cư dân sinh sống trong vùng đó.
Sự biến đổi song song của các sinh vật trên thế giới hoàn toàn có thể giải thích được bàng thuyết chọn lọc tự nhiên. Các loài mới được tạo thành bởi sự xuất hiện của các loại mới. Những loại mới này thường có đặc điểm ưu việt hơn so với những cá thể cũ, trong khi những cá thể thống trị khác, hoặc có những đặc điếm ưu việt hơn so với những cá thể khác trong khu vực, thường sẽ tạo điều kiện cho sự xuất hiện của những loại mới hoặc những loài sơ khai khác, bởi những loại và những loài sơ khai này bắt buộc phải có đặc điểm còn ưu việt hơn loài hiện đang thống trị để có thể duy trì nòi giống và tồn tại. về vẩn đề này, chúng ta có những bằng chứng chắc chắn nhất. Những loài cây thống trị là những loài cây được tìm thấy nhiều nhất trong lãnh thổ của nó, được phổ biến nhiều nhất, do đã sản sinh ra được số lượng loại mới nhiều nhất. Việc loài thống trị, có khả năng biến dị cao, và khả năng khuếch tán xa, đã xâm chiếm một phần lãnh thổ của những loài khác, là loài có khả năng khuếch tán xa hơn nữa, và tạo dựng nên những loại và loài mới ở những vùng mới là hoàn toàn tự nhiên. Quá trình khuếch tán có thể rất chậm, phụ thuộc nhiều vào những thay đổi địa chất và khí hậu, hoặc vào sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng với thời gian, những cá thể thống trị sẽ vẫn thành công trong việc phát tán. Quá trình này rất có thể chậm hơn đối với những sinh vật sống trên cạn trên nhũng lục địa khác nhau so với nhũng loài thuỷ cư sống trong nhũng vùng biển nối tiếp nhau. Do đó, chúng ta thường nhận thấy sự biến đối song song ở những động vật trên cạn ở một cấp độ nhẹ hơn là ở dưới nước.
Trong quá trình khuếch tán của mình, một loài thống trị có thể gặp những loài khác ưu việt hơn chính bản thân nó, và quá trình khuếch tán, hoặc ngay cả sự tồn tại của loài kém ưu việt hơn đó sẽ không còn. Chúng ta không biết chính xác điều kiện nào là tốt nhất cho sự sinh sôi của những loài thống trị mới, song với một số cá thể xác định, những điều kiện đó có thể là: sự xuất hiện của những thay đổi có lợi, giảm thiểu cạnh tranh với những cá thể địa phưomg, hoặc mở rộng lãnh thổ sống, hoặc ngay cả tình trạng bị cô lập, được lặp đi lặp lại trong một khoảng thời gian dài (như đã giải thích ở trên). Nếu một phần tư thế giới này có những điều kiện thuận lợi cho động vật trên cạn phát triển và một phần khác cho động vật dưới biển phát triển, thì với một khoảng thời gian đủ dài và những điều kiện đó ở cùng một cấp độ, thì bất cứ nơi đâu những cư dân của hai vùng này gặp nhau, cuộc chiến sẽ rất dài và khốc liệt, và những cá thể xuất thân từ hai vùng đều có thể chiến thắng. Nhưng, với thời gian, những cá thể thống trị ở mức độ cao nhất, bất kể được sinh ra ở đâu, đều có khuynh hướng trở nên thịnh hành. Và với sự thịnh hành của chúng, sự tuyệt chủng của những các thể và kiểu hình kém ưu việt hơn là không thể tránh khỏi, và bởi những cá thể, kiểu hình này thường có mối liên hệ di trưyền với nhau, từng nhóm sinh vật sẽ dần dần biến mất, mặc dù ở dây hoặc đó một cá thể vẫn có thể sống sót trong một quãng thời gian dài.
Từ đó, theo tôi, sự biến đổi đồng thời và liên tiếp của sinh vật trên thế giới rất phù hợp với quan điểm những loài mới được tạo nên từ sự khuếch tán và biến dị của những loài thống trị. Những loài mới được tạo nên, chỉnh bản thân chúng cũng là những loài thống trị, do di truyền, hoặc do đã có một đặc điểm nào đó ưu việt hơn so với những cá thể bố mẹ và các loài khác. Chính những cá thể này một lần nữa lại khuếch tán, biến dị, và tạo nên một loài mới. Những kiểu hình bị đánh bại và phải nhường lại chồ cho những cá thể mới và ưu việt hơn thường sẽ có họ hàng với nhau do di truyền, nên cùng với sự xuất hiện của những nhóm mới, đã được cải tiến, từng nhóm sinh vật cũ cũng biến mất dần dần và sự biến đổi hai chiều của sinh vật trên khắp thế giới cũng sẽ tuân theo quy luật này.
Tôi đã đưa ra những lí do lí giải sự bồi tụ của các tầng hoá thạch của chúng ta hiện nay, chúng được hình thành khi mà mực nước đã rút xuống. Những tầng trầm tích và hoá thạch lớn được tạo nên trong khoảng thời gian mực nước hạ xuống khi thềm đại dương ổn định, hoặc tăng, hoặc khi các lớp đất đá không kịp che lấp và bảo tồn những sinh vật hữu cơ. Trong những khoảng thời gian dài này, những sinh vật sinh sống tại các vùng có thể đã trải qua những biến đổi và diệt chủng khá lớn, và hiện tượng di trú phổ biến trên toàn thế giới. Do các hoạt động địa chất thường có ảnh hưởng rất lớn tới một khu vực rộng lớn, rất có thể những tầng địa chất đương đại đã được hình thành trên một diện rộng, theo từng vùng trên thế giới. Song chúng ta cũng không có lí do chắc chắn nào để khẳng định rằng đây là một quá trình bất biến và rằng những vùng rộng lớn luôn chịu ảnh hưởng của các hoạt động địa chất tương tự nhau. Khi hai tầng địa chất đựơc bồi tụ ở 2 khu vực khác nhau trong những khoảng thời gian gần giống nhau, và với những nguyên nhân đã giải thích ở trên, chúng ta có thể quan sát thấy quá trình tiến hoá. Song, các loài sinh vật sẽ không nhất thiết giống nhau bởi một trong hai vùng sẽ có nhiều thời gian hơn dành cho quá trình biến dị, tuyệt chủng, di trú.
Những trường hợp tương tự có thể đã xảy ra tại châu âu. Trong hồi kí của mình về những rải trầm tích thuộc kỉ Eoxen ở Anh và Pháp, ngài Prestwich đã phác thảo nên những mối liên hệ song song mật thiết giữa các tầng địa chất liên tiếp giữa hai nước. So sánh một số tầng địa chất của 2 nước này với nhau, ông phát hiện thấy một sự tương đồng khá kì lạ về số lượng các loài có nguồn gốc cùng một chi, song những loài sinh vật đó lại mang những đặc điểm khác nhau rất khó giải thích khi xét đến khoảng cách giữa hai vùng. Giả thuyết rằng đã từng có một eo đất ngăn cách tạm thời 2 vùng biển với 2 hệ động vật khác nhau có vẻ như là một cách giải thích khá hợp lí cho những sự khác biệt này. Nhà địa chất học Lyell cũng đã rút ra những kết luận tương tự từ việc nghiên cứu những tầng địa chất thuộc thời kì Đại Trung Sinh. Ông Barrande cũng kết luận rằng có một sự tương đồng song song kì lạ giữa những hoá thạch trong dải trầm tích thuộc kỉ Silua ở Bô hi mia và bán đảo Xcăngđinavi. Mặc dầu vậy, ông vẫn tìm thấy một số lượng lớn sự khác biệt giữa các loài. Nếu những tầng địa chất ở 2 nước Anh và Pháp không được bồi tụ trong cùng một khoảng thời gian, tức là sự hình thành của một tầng tại một nước xảy ra trước hoặc sau sự hình thành của tầng địa chât tương ứng tại nước còn lại, và các loài sinh vật sinh sống trong cả 2 vùng này vẫn tiếp tục tiến hoá trong suốt quá trình hình thành và tạm dừng hình thành các tầng địa chất chứa hoá thạch, và nếu những tầng địa chất ở cả 2 vùng được sắp xếp theo thứ tự tương tự nhau, một cách phù hcrp, tạo nên một ảo giác về sự phát triển song song của các loài sinh vật, thi các loài sinh vật được tìm thấy trong những tầng địa chất tương ứng ở cả 2 vùng chắc chắn sẽ không giống nhau.
Giờ đây chúng ta sẽ xem xét mối quan hệ giữa các loài đã tuyệt chủng và các loài còn tồn tại. Mối quan hệ này là một phần của thế giới tự nhiên và có thể được lí giải bằng nguyên lí di truyền. Một cá thể tuyệt chủng càng lâu thì lẽ dĩ nhiên nó sẽ càng khác so với các cá thể hiện đang tồn tại. Nhưng như nhà phân loại học Buckland đã từng nói, bất cứ hoá thạch nào cũng có thể được xếp loại vào nhóm sinh vật vẫn còn tồn tại, hoặc giữa chúng. Sự thật rằng những loài tuyệt chủng giúp chúng ta hoàn thiện sơ đồ mối liên hệ giữa các loài, họ, bộ đã tuyệt chủng là không thê chối cãi bởi nếu chúng ta chỉ chú ý đến hoặc những loài đã tuyệt chủng hoặc những loài còn sống, sơ đồ của chúng ta sẽ không thể hoàn hảo bằng nếu chúng ta kết họp cả hai với nhau. Riêng với động vật có xương sống, nhà khảo cổ học lỗi lạc Owen của chúng ta có thể liệt kê rất nhiều những trường họp các sinh vật đã tuyệt chủng xen vào giữa các sinh vật đang tồn tại trong sơ đồ các mối quan hệ. Cuvier đã phân loại thú thành hai bộ lớn loài da dày (Pachyderm) và động vật nhai lại (Ruminant), nhưng nhà khảo cổ học Owen của chúng ta đã phát hiện ra quá nhiều mối liên hệ hoá thạch đến nỗi ông phải thay đổi toàn bộ sự sắp xếp của 2 bộ này, và đưa một số sinh vật trong bộ pachyderm vào trong nhóm phụ của bộ ruminant. Ví như ông đã triệt tiêu phần lớn những khác biệt rõ ràng giữa lợn và lạc đà. Đối với các sinh vật không có xương sống, Barrande đã khẳng định ông được dạy rằng các sinh vật thuộc thời kì Đại Thái cổ đều cùng bộ, họ, chi với các sinh vật ngày nay, song sự khác nhau giữa chúng không chỉ ít như thế.
Việc các loài đã tuyệt chủng được coi như là trung gian giữa các loài hiện đang tồn tại đã bị một số tác giả phản bác. Sự phản bác này là có lí nếu chúng ta coi sự “trung gian” này khẳng định các đặc điểm của một loài đã tuyệt chủng là trung gian cho hai loài hiện đang tồn tại. Song, trong thực tế, rất nhiều loài sinh vật hoá thạch chắc chắn sẽ phải được xếp loại ở giữa các loài còn sống, một số giống tuyệt chủng giữa các giống còn tồn tại, và ngay cả các giống thuộc các họ khác nhau. Nếu như cá và bò sát ngày nay có một tá đặc điểm khác nhau, thì những tổ tiên xa xưa của cả hai chắc chắn sẽ có số lượng những đặc điểm khác nhau ít hơn bởi mặc dù ngày nay đây là hai loài rất khác nhau, song tại một thời điểm đủ xưa trong quá khứ, 2 loài này có thể đã có những đặc điểm gần giống nhau nào đó.
Quan niệm phổ biến hiện nay là một sinh vật càng cố thì sẽ càng có nhiều khả năng chỉ ra mối tương đồng giữa những nhóm sinh vật rất khác nhau ngày nay. Kết luận này chỉ có thể áp dụng được với những nhóm sinh vật đã phải trải qua nhiều biến đổi trong các giai đoạn địa chất, và để kiểm tra sự chính xác của nó quả là rất khó bởi đôi khi có những sinh vật, ví như loài Lepidosiren được phát hiện có các đặc điểm giống với rất nhiều nhóm sinh vật khác nhau. Song, nếu chúng ta so sánh loài bò sát xưa, loài ếch nhái cổ, loài cá cổ, loài động vật thân mềm cổ, và những con thú thuộc thời kì Băng Hà với con cháu của chúng ngày nay, chúng ta không thể phủ nhận sự chính xác của lời kết luận này.
Bây giờ chúng ta sẽ đánh giá mức độ phù hợp của những suy luận và vỉ dụ này với thuyết di truyền và biến dị. Do vấn đề này khá phức tạp, tôi đề nghị bạn đọc giở lại bảng trong chương IV của cuốn sách này. Giả sử những chữ in nghiêng và có đánh số là các chi, và những đường chấm phân nhánh từ đó ra là biểu hiện của những loài của mỗi chi. Tuy hình vẽ thật đơn giản, và chỉ biểu diễn được rất ít loài và chi, nhưng điều này không quan trọng lắm. Các đường ngang có thể được hình dung như những hệ thống địa chất kế tiếp nhau, và ta có thể coi tất cả các kiểu hình phía dưới đường biểu diễn trên cùng đều đã tuyệt chủng. Ba chi hiện đang tồn tại a14, q14, p14 hợp lại thành một họ nhỏ, b 14, và f14 thành một họ nhỏ hoặc một họ phụ, o14, Ĩ14, m14 một họ thứ 3. Cả ba họ này cùng với những chi đã tuyệt chủng thuộc một dòng nối từ cá thể bố mẹ A, sẽ tạo thành một bộ do đều đã được di truyền lại một số những đặc điểm từ tổ tiên chung của chúng. Theo nguyên lí các đặc tính có khuynh hướng biến dị, được giải thích bởi sơ đồ này trong những phần trước, một kiểu hình càng mới thì sẽ càng khác xa so với tổ tiên nguyên thủy. Do đó chúng ta hiểu tại sao những hóa thạch cổ xưa nhất ngày nay lại khác những sinh vật đang tồn tại nhiều nhất.
Song, sự phân li tính trạng của các đặc tính không phải là một trường hợp tất yếu, do sự phân hướng của những tính trạng này chỉ phụ thuộc vào những cá thể con cháu của một loài chiếm được nhiều vị trí khác nhau trong nền kinh tế của thiên nhiên. Do vậy, rất có thể như trường hợp của những hóa thạch thuộc kỉ Xilua, một loài có thể tồn tại với những biến dị nhỏ tương ứng với những biến đổi của điều kiện sống, và duy trì biến dị đó trong một thời gian dài. Trường hợp này được biểu diễn bởi con số F14 trong sơ đồ.
Tất cả các kiểu hình còn sống hay đã tuyệt chủng, đều bắt nguồn từ A, hình thành nên một bộ, và do những hiệu quả liên tục của quá trình tuyệt chủng và phân li tính trạng, bộ này đã chia ra thành nhiều họ và họ phụ, một số họ này đã tuyệt chủng ở nhũng thời kì khác nhau, một số họ vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Trong khi nhận xét sơ đồ, giả sừ nếu chúng ta tìm thấy ở những hóa thạch bị chôn vùi trong những tầng địa chất khác nhau, ở đoạn dưới của chuỗi, ba họ trên cùng sẽ được coi là ít khác nhau hơn. Nếu những chi al, a5, aio, f8, m3, mó, m9, được khai quật lên, thì những ba họ trên cùng này sẽ liên quan mật thiết với nhau đến mức chúng có thể phải được xếp loại thành một họ lớn, như trường hợp của các động vật nhai lại và động vật da dày. Nhưng nếu có người phản đối việc khẳng định những chi đã tuyệt chủng mang những đặc điểm trung gian, tức là liên kết họ ba chi đang sống hiện nay, thì điều đó cũng đúng, do chúng là trung gian, song là trung gian trong một quá trình dài và lắt léo với nhũng kiểu hình rất khác nhau. Giả sử nhiều kiểu hình đã tuyệt chủng được tìm thấy ở phía trên một trong những tầng địa chất khác nhau - trên số VI chẳng hạn - mà người ta lại không tìm thấy một kiểu hình nào dưới đó, thì có 2 họ (chủ yếu là a14 trở đi và b14 trở đi) sẽ phải được hợp nhất thành một họ lớn và hai họ còn lại (chủ yếu từ a14 đến f14, giờ đây bao gồm 5 chi, và từ o14 đến m14) sẽ vẫn khác nhau, song ở một mức độ ít hơn so với trước khi tìm thấy những hóa thạch. Nếu chúng ta giả sử rằng các chi của 2 họ này khác nhau ở một tá đặc điểm, và trong trường hợp này, vào thời điểm VI, chúng sẽ chỉ khác nhau ở một vài đặc điểm do ở giai đoạn này, chúng chưa phân li tính trạng nhiều lắm so với tổ tiên của bộ như sau này. Do vậy các chi cổ xưa và tuyệt chủng, ở một cấp độ nào đó, mang những đặc điểm trung gian về tính trạng giữa những con cháu biến dị của chúng hoặc giữa họ hàng thân thuộc ngang hệ với chúng.
Trong tự nhiên, mọi việc sẽ phức tạp hơn những gì được thể hiện ở sơ đồ bởi các nhóm sinh vật sẽ có số lượng đông hơn, chúng sẽ tồn tại trong những khoảng thời gian ngắn dài rất khác nhau, và sẽ có những biến dị ở nhiều cấp độ khác nhau. Trong khi chúng ta chỉ sở hữu tập cuối cùng (và trong tình trạng hết sức không đầy đủ) của pho sách địa chất, chúng ta hoàn toàn không thể mong chờ việc hoàn thiện những khoảng trống lịch sử của thiên nhiên, qua đó thống nhất các họ, bộ sinh vật với nhau, trừ những trường hợp hết sức hãn hữu. Chúng ta chỉ có thể giả định rằng những nhóm sinh vật đó đã trải qua những quá trình biến dị trong các kì địa chất, và có nhiều điểm giống nhau hơn so với con cháu chúng ngày nay, được thể hiện qua những tầng địa chất xa xưa. Những nghiên cứu của những nhà khảo cổ học lỗi lạc đều chứng minh điều này.
Như vậy, thuyết di truyền và biến dị là thuyết duy nhất giải thích được những vấn đề chính trong mối liên hệ giữa các sinh vật tuyệt chủng với nhau, và giữa các sinh vật đã tuyệt chủng với các sinh vật đang tồn tại.
Cũng trong thuyết di truyền và biến dị này, các hệ động vật của bất cứ giai đoạn nào trong lịch sử quả đất cũng sẽ là những hệ động vật với những đặc điểm kiểu hình trung gian của những hệ động vật trước và sau nó. Do đó, những loài thuộc thế hệ thứ 6 trong biểu đồ là thế hệ những con lai biến dị của những loài thuộc thế hệ thứ 5, và là bố mẹ của thế hệ con lai càng biến dị hơn thứ 7. Do vậy, chúng chắc chắn sẽ mang những đặc điểm trung gian của những sinh vật ở thế hệ trước và thế hệ sau. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải tính đến sự tuyệt chủng của những loài ở thế hệ trước, và sự xuất hiện của các loài mới do biến dị hoặc di cư trong những giai đoạn trung gian giữa các tầng địa chất liên tiếp. Chịu tác động của những hoạt động này, hệ động vật của từng giai đoạn địa chất chắc chắn mang những đặc điểm trung gian của những hệ động vật trước và sau nó. Khi những hoá thạch thuộc kỉ Đêvôn lần đầu tiên được tìmàngasy, các nhà khảo cổ học đã quan sát thấy rằng những hoá thạch này mang những đặc điểm trung gian của những hoá thạch thuộc kỉ Xilua ở dưới, và kỉ than đá ở trên. Song mỗi hệ động vật cũng lại không hoàn toàn mang tính chất trung gian bởi sự hình thành các tầng địa chất liên tiếp nhau trải qua những khoảng thời gian khác nhau.
Song cũng tồn tại một số ngoại lệ. Ví dụ điển hình nhất là khi tiến sĩ Falconer sắp xếp loài voi và loài mastodon theo 2 cách khác nhau. Đầu tiên ông sắp xếp chúng theo những đặc điểm giống nhau về kiểu hình, và lần thứ 2 theo giai đoạn tồn tại của từng loài. So sánh hai cách sắp xếp, kết quả cho thấy thứ tự ở 2 cách sắp xếp không giống nhau. Những loài có đặc điểm đặc trưng nhất, hoặc trung gian nhất về đặc điểm và tuổi thọ đều không phải là những loài cổ nhất hoặc trẻ nhất. Nhưng nếu chúng ta giả sử rằng những số liệu về sự xuất hiện và tuyệt chủng là hoàn toàn chính xác, chúng ta vẫn không thể biết được liệu những cá thể được sinh ra có tồn tại trong những khoảng thời gian giống nhau hay không? Một cá thể rất cổ xưa trong một số trường hợp vẫn có thể sống lâu hơn một cá thể được sinh ra sau đó, nhất là đối với những sinh vật sống trên cạn tại những địa điểm khác nhau. Nói cách khác, nếu những tộc chim bộ câu thuần hoá hiện đang tồn tại và đã tuyệt chủng được sắp xếp theo những đặc điểm giống nhau, cách sắp xếp này sẽ không giống với cách sắp xếp theo thời gian chúng xuất hiện, và sẽ càng không giống nếu được sắp xếp theo thời gian tuyệt chủng bởi ngày nay loài chim bồ câu đá bố mẹ vẫn còn sống, trong khi những loại nằm giữa loài chim bồ câu đá và chim bồ câu đưa thư đã tuyệt chủng. Những con chim bồ câu đưa thư với đặc điểm nổi bật là chiếc mỏ dài lại xuất hiện sớm hơn những con chim bồ câu nhào lộn.
Có mối liên quan mật thiết với lời khẳng định rằng những hoá thạch hữu cơ từ một tầng địa chất trung gian, ở một cấp độ nào đó, cũng mang những đặc tính trung gian, là một sự thật được tất cả các nhà khảo cổ học đồng ý: Các hoá thạch từ 2 tầng địa chất liên tiếp có sự tương đồng rõ ràng hơn hoá thạch từ hai tầng địa chất cách xa nhau. Giáo sư Pictet cũng quan sát thấy những điểm tương đồng chung giữa những hoá thạch hữu cơ từ những tầng địa chất thuộc kỉ Phấn Trắng, mặc dù đó là những hoá thạch tiêu biểu cho từng giai đoạn. Quan niệm của giáo sư Pictet rằng kiểu hình của mỗi loài là một đặc điểm bất di bất dịch dường như đã bị lay chuyển, nhất là do tính phổ biến của những hoá thạch này. Một người đã quá quen với sự phân bổ của các loài ừên thế giới sẽ không tìm hiểu những mối tương đồng giữa những loài đặc trưng trong những tầng địa chất liên tiếp với lí do là những điều kiện sống xa xưa hầu như không thay đổi. Nhưng chúng ta cũng nên nhớ rằng, các sinh vật sống, hoặc ít nhất là những sinh vật biển, đã biến dị gần như đồng loạt trên toàn thể giới, trong những điều kiện thời tiết và điều kiện sống hết sức khác biệt. Chúng ta hãy thử suy ngẫm về điều kiện sống khắc nghiệt trong kỉ plaitôxen, kéo dài cho đến hết kỉ Băng Hà, và chú ý tới những ảnh hưởng nhỏ bé của nó tới từng sinh vật biển.
Đối với thuyết di truyền, ý nghĩa đầy đủ của việc những hoá thạch trong những tầng địa chất liên tiếp có mối liên quan mật thiết với nhau là quá rõ ràng, mặc dù chúng được xếp loại như những loài khác nhau. Do quá trình hình thành các tầng địa chất thường xuyên bị cắt ngang, nên chúng ta không thể tìm thấy tất cả những hoá thạch trung gian của những loài xuất hiện và tuyệt chủng ở đầu và cuối một giai đoạn trong một hoặc hai tầng địa chất liên tiếp. Nhưng chúng ta hoàn toàn có thể tìm thấy những loài họ hàng, hay còn được một số tác giả gọi là loài đại diện, khi chúng ta xét đến những tầng địa chất cách nhau những khoảng thời gian địa chất không quá xa. Tóm lại, chúng ta sẽ tìm thấy những bằng chứng cho quá trình biến dị dần dần và rất khó hiểu của một số cá thể.
Sự phát triến của các loài sinh vật cố - vấn đề liệu những kiểu hình đương đại đạt sự phát triển cao hơn nhiều so với những kiểu hình cổ xưa là một vấn đề đã gây nhiều tranh cãi. Song, vì những nhà tự nhiên học vẫn chưa thể đồng ý được với nhau những tiêu chuẩn để đánh giá mức độ phát triển cao thấp của các kiểu hình, nên tôi sẽ không đề cập tới vấn đề này. Mặc dù vậy, ở một mức độ nào đó, dựa trên thuyết của mình, tôi vẫn cảm thấy rằng những kiểu hình mới phải đạt sự phát triển cao hơn các kiểu hình cũ bởi mỗi loài mới được hình thành do có một số đặc điểm có lợi hơn những cá thể khác trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Dưới điều kiện thời tiết gần tương tự nhau, nếu những sinh vật thuộc kỉ Eoxen trong một khu vực trên thế giới được thả cho cạnh tranh với những sinh vật gốc của khu vực đó hiện còn đang tồn tại, thì chắc chắn hệ động thực vật kỉ Eoxen sẽ bị đánh bại và tiêu diệt, cũng như hệ động vật Đại Trung Sinh sẽ bị hệ động vật Eoxen đánh bại, hoặc như hệ động vật Đại cổ Sinh sẽ bị hệ động vật Đại Trung Sinh đánh bại và tiêu diệt. Việc quá trình phát
triển này có ảnh hưởng lớn tới cấu tạo tổ chức của những sinh vật thành công đương đại không có gì lạ, nhưng để có thẻ kiểm nghiệm quá trình này thì quả là nan giải. Tôm cua không phải là những động vật phát triển cao nhẩt trong lớp động vật thân cứng, song chúng đã đánh bại loài sinh vật thân mềm phát triển cao nhất. Từ những gì quan sát được từ quá trình phát triển của hệ động thực vật Anh ở New Zealand, chúng ta có thể tin rằng nếu tất cả các loài động, thực vật của nước Anh được thả hoang tại New Zealand, thì với thời gian, một loạt các loài động, thực vật Anh sẽ trở thành hoang dại và sẽ tiêu diệt rất nhiều động, thực vật gốc. Trong khi đỏ, từ việc quan sát những gì đang xảy ra tại New Zealand và việc chưa từng có một cư dân thuộc khu vực nam bán cầu hoang dại hoá thành công ở bất cứ nơi đâu tại Châu Ẩu, chúng ta nghi ngờ khả năng nếu toàn bộ hệ động thực vật ở New Zealand được thả hoang tại Anh, liệu có một số lượng lớn các loài có thể đánh bại hệ động thực vật Anh hay không, về khía cạnh này, ta có thể kết luận rằng hệ động thực vật ở Anh phát triển cao hơn ở New Zealand. Trong khi đó, ngay cả nhà tự nhiên học tài giỏi nhất, nghiên cứu hệ động thực vật ở cả 2 nước cũng không thể tiên đoán được kểt quả này. Ông Agassiz lại khẳng định rằng các loài động vật cổ xưa, ở một mức độ nào đó, giống phôi thai của các loài động vật cùng lớp, hay sự di truyền địa lí của các loài đã tuyệt chủng ở một mức độ nào đó, tương đương với sự phát triển phôi thai ở các loài động vật hiện đại. về vấn đề này, tôi đồng ý với giáo sư Pictet và Huxley khi nói rằng sự chính xác của thuyết này chưa thể được chứng minh. Song, tôi lại tin tưởng rằng nó sẽ được chứng minh trong một tương lai không xa, và sẽ đúng, ít nhất với các nhóm phụ, hay các nhánh đã tách khỏi nhau trong khoảng thời gian gần đây bởi thuyết của Agassiz khá phù hợp với thuyết chọn lọc tự nhiên. Trong một chương sau tôi sẽ chứng tỏ rằng một cá thể đã phát triển rất khác với bào thai của nó, do những thay đổi bất ngờ xảy ra khi cá thể còn qua nhỏ, và bởi được di truyền lại ở một độ tuổi nhất định. Quá trình này hoàn toàn không ảnh hưởng tới bào thai, trong khi đó, qua các thế hệ liên tiếp, nó tiếp tục bổ sung sự khác biệt giữa cá thể đã phát triển và bào thai. Do đó, bào thai có thể coi là đại diện cho những điều kiện sống cổ xưa, và ít bị thay đổi của từng sinh vật. Quan điểm này có thể đúng, nhưng nó sẽ không bao giờ có được bằng chứng đầy đủ. Mặc dù những con thú, bò sát, và cá cổ xưa nhất thuộc những lớp riêng biệt, và một số cá thể có thể có ít đặc điểm khác nhau hơn những cá thể cùng lớp đương đại, song khả năng tìm thấy hoá thạch những động vật có đặc điểm giống với bào thai của động vật có xương sống là rất nhỏ, và chỉ có thể xảy ra khi mà các tầng địa chất xưa hơn tầng địa chất kỉ Xilua được tìm thấy. Ngài Cliít đã chứng minh cách đây nhiều năm những hóa thạch thú được tìm thấy trong các hang động của úc có những đặc điểm rất gần với những loài thú có túi hiện nay tại châu lục này. Một sự tương đồng, mà một con mắt không chuyên vẫn có thể nhận thấy rõ được được thể hiện qua những mảnh áo giáp khổng lồ của con tatou được tìm thấy ở nhiều vùng thuộc La Plata. Giáo sư Owen cũng đã chứng minh rõ ràng phần lớn những hóa thạch thủ bị chôn vùi và được tìm thấy tại các vùng ấy đều có mối liên hệ với những loài hiện đang sống tại Nam Mĩ. Mối liên hệ này còn được thấy rõ hơn nữa ở bộ sưu tập kì lạ gồm những hài cốt hóa thạch thu thập được trong các hang động tại Brasil bởi Lund và Clausen. Những sự kiện ấy đã thu hút sự chú ý của tôi, đến nỗi năm 1839 và 1845 tôi đã nhấn mạnh nhiều đến cái “quy luật kế tiếp của các loại hình” - và đến “những quan hệ kì diệu giữa những giống đã mất với những giống còn sống trong cùng một lục địa”. Sau đó, giáo sư Owen cũng mở rộng khái niệm đó cho các hóa thạch thú ở Cựu thế giới. Nó cũng được áp dụng trong việc khôi phục lại những con chim lớn đã tuyệt chủng ở New Zealand và tại những con chim trong các hang động ở Brazil. Ông Woodard đã chứng minh rằng quy luật ấy cũng thích hợp với ốc ở biển, song không rõ bằng do sự phân bố rộng rãi của phần lớn các chi động vật thân mềm. Người ta còn có thể thêm vào nhiều thí dụ khác, như mối liên hệ giữa loài ốc trên cạn đã mất và hiện còn sống ở đảo Madeira hay tại vùng biển nước lợ Aralo - Caspian.
Vậy, quy luật về sự kế tiếp các loại hình như nhau trong những vùng như nhau có ý nghĩa gì? Sau khi đã so sánh khí hậu hiện nay của châu úc so với khí hậu của một số bộ phận của Nam Mĩ ở cùng vĩ độ, sẽ rất là táo bạo nếu một mặt giải thích sự khác nhau giữa các sinh vật của 2 lục địa ấy qua sự khác nhau của các điều kiện vật lí dẫn đến sự khác nhau về kiểu hình; và mặt khác giải thích thông qua sự giống nhau của các điều kiện, do có sự tương đồng giữa các loài vào giai đoạn cuối Đại Trung Sinh. Chúng ta cũng không thể cho rằng do một quy luật bất biến mà châu úc đã chỉ sản sinh ra nhiều nhất hoặc chỉ riêng các loài thú có túi và một mình Nam Mĩ sản sinh ra loài vô xỉ và một số kiểu hình riêng của nó. Thật vậy, chúng ta biết rằng xưa kia châu âu đã sản sinh ra nhiều giống thú có túi và trong các công trình nghiên cứu trước đây, tôi cũng đã chứng minh rằng quy luật phân bố của giống thú có túi trên cạn ở Mỹ ngày nay đã khác rất nhiều. Bắc Mĩ trước đây đã có những điều kiện tự nhiên tương tự như những điều kiện tự nhiên của vùng Nam Mĩ ngày nay và ngược lại. Phát hiện của Falconer và Cautley cũng chỉ ra răng loài thú ở Ấn Độ trước đây có nhiêu đặc diêm giống với loài thủ ở châu Phi ngày nay. Điều tương tự cũng có thể được áp dụng cho các sinh vật biển.
Thuyết biển dị và di truyền đã có thể giải thích ngay được quy luật kế tiếp trong một thời gian dài nhưng không phải là bất biến của các loại hình như nhau trong những vùng như nhau. Do mọi sinh vật ở mỗi nơi trên thế giới đều có khuynh hướng phát tán thế hệ con cháu đã biến dị một chút mang những dặc tính tương tự tổ tiên của chúng trong những thời kì kế tiếp. Nếu những sinh vật của một lục địa trước kia đã khác rất nhiều so với những sinh vật của một lục địa khác, thì con cháu đã biến dị của chúng cũng sẽ lại khác nhau ở mặt hình thức và cấp độ tương tự. Nhưng sau những khoảng thời gian dài và những thay đổi địa lí quan trọng kéo theo nhiều hiện tượng di cư tương hỗ, thì những kiểu hình kém ưu việt hơn thường sẽ nhường chỗ cho những kiểu hình siêu việt, có ưu thế, và do vậy sẽ không có sự bất biến trong sự phân bố các loài sinh vật trước đây và sau này.
Có người có thể hỏi liệu con lười, con tatou, và con ăn kiến ngày nay ở Nam Mĩ có phải là con cháu thu nhỏ của loài Megatherium, và những con quái vật khổng lồ họ hàng khác hay không? Đây là một điều hoàn toàn không thể chấp nhận được. Những sinh vật khổng lồ này đã hoàn toàn tuyệt chủng và không hề có con cháu. Song, trong những hang động ở Brazil người ta tìm thấy những loài sinh vật đã tuyệt chủng khác có nhiều điểm tương đồng về kích thước và một số đặc điểm khác với những con vật hiện đang sống tại Nam Mĩ ngày nay. Một số hóa thạch được tìm thấy ở đây rất có thể là tổ tiên của những loài đang sống. Lưu ý là theo thuyết của tôi thì tất cả các loài cùng một chi đều bắt nguồn từ một loài duy nhất, và nếu trong 6 chi, mồi chi có 8 loài, cùng được tìm thấy trong một tầng địa chất, và trong tầng địa chất tiếp theo cũng có 6 chi đại diện hoặc tương đồng với cùng số lượng loài, chúng ta có thể kết luận rằng chỉ có một loài trong mỗi chi cũ đã để lại những con cháu đã thạy đổi, cấu thành 6 chi mới. 7 loài trong cùng một chi còn lại đã tuyệt chủng và không hề để lại con cháu. Hoặc là (mà đây là trường hợp thường xảy ra nhất), chỉ có hai hay ba loài của 2 hay 3 chi cũ là bố mẹ của 6 chi mới, tất cả chi và loài khác đều đã bị tuyệt chủng. Trong những bộ đang thoái trào, bao gồm sự giảm về số lượng các loài và chi, như trường hợp loài vô xỉ ở Nam Mĩ, số lượng loài và chi để lại con cháu đã biến đổi sẽ còn ít hơn.
TÓM TẮT CHƯƠNG NÀY VÀ CHƯƠNG TRÊN
Tôi đã cố gắng chứng minh rằng các đồ thư địa chất của chúng ta là rất không hoàn chỉnh, rằng chỉ một bộ phận nhỏ của trái đất đã được khai thác về mặt địa chất một cách cẩn thận; rằng chỉ một số lớp sinh vật đã được bảo quản trong trạng thái hóa thạch; rằng số lượng nhũng mẫu vật và loài sinh vật được bảo tồn trong các viện bảo tàng là không đáng kể so với số lượng các thế hệ đã tồn tại trong thời gian hình thành một tầng địa chất; rằng do phải có sự rút lui của mực nước biển mới cho phép các trầm tích được bồi tụ, các hóa thạch được bảo vệ nên những khoảng thời gian rất dài đã trôi qua giữa các tầng địa chất; rằng rất có khả năng hiện tượng tuyệt chủng, biến dị xảy ra mạnh hơn trong những thời kì nước biển rút, và các thời kì sau này bất lợi cho việc duy trì các hóa thạch nên số lượng hình thái được bảo tồn phải ít hơn rất nhiều; rằng mỗi tầng địa chất không được tích tụ một cách liên tục; rằng thời gian cho việc hình thành một tầng địa chất thường ngắn hơn thời gian tồn tại trung bình của một giống loài; rằng hiện tượng di cư đã đóng một vai trò quan trọng trong sự xuất hiện đầu tiên của những hình thái mới trong mỗi vùng và tầng địa chất; rằng các giống được phát tán là giống đã thay đổi nhiều nhất, và thường đã sản sinh ra những giống mới nhiều nhất; và lúc đầu các loại mới đều có tính chất địa phương. Kết hợp các nguyên nhân này lại với nhau, và nó sẽ làm cho quá trình hình thành địa chất cực kì hổng, nhưng ta sẽ giải thích được một phần lớn tại sao chúng ta tìm thấy nhiều mối liên hệ trung gian nhưng không tìm thấy vô số những biển dị nối liền nhau và các kiểu hình đã mất và còn sống.
Người không thừa nhận những quan điểm này về bản chất của các tài liệu địa chất thì sẽ bác bỏ luôn toàn bộ thuyết của tôi. Bởi anh ta không thể tìm được vô số những hình thái chuyển tiếp trước kia đã liên kết những giống gần nhau hay tiêu biểu mà người ta thẩy ở những tầng nối nhau trong cùng một tầng địa chất. Anh ta cũng sẽ không tin vào những khoảng thời gian khổng lồ đã trôi qua giữa các tầng địa chất liên tiếp, và bỏ qua sự quan trọng của vai trò của di cư trong khi nghiên cứu tầng địa chất của một vùng nào đó. Anh ta cũng có thể cho rằng sự xuất hiện đột ngột của một nhóm loài là một điều hiển nhiên, mặc dù thường thì đó chỉ là bề mặt của sự việc. Anh ta còn có thẻ hỏi nếu vô số sinh vật đã tồn tại từ lâu trước khi tầng địa chất Xilua được hình thành thì giờ đây tàn tích của chúng đâu? Tôi chỉ có thể trả lời câu hỏi sau cùng này một cách giả dụ rằng các đại dương của chúng ta đã tồn tại từ rất lâu rồi, và các đại lục của chúng ta đã được hình thành từ thời kì trước kỉ Xilua, nhưng trước thời kì ấy một khoảng thời gian tương đương thế giới có thể đã có một bộ mặt khác, và những châu lục cũ, được hình thành bởi những tầng địa chất cổ xưa hơn cả những gì chúng ta đã biết, có thể giờ đây đã ở trong trạng thái biến chất hoặc chôn vùi dưới đáy biển.
Nhưng ngoại trừ những khó khăn này, tất cả các sự kiện đáng chú ý khác của ngàng khảo cổ học đều có vẻ như rất phù hợp với thuyết di truyền và biến dị thông qua chọn lọc tự nhiên. Qua đó chúng ta có thể hiểu các loài xuất hiện một cách từ từ và liên tiếp như thế nào, tại sao các loài trong cùng một lớp thường không nhất thiết thay đổi đồng thời, hoặc ở một cường độ và tốc độ tương tự, nhưng với thời gian, mọi loài sinh vật đều sẽ phải trải qua biến dị ít hay nhiều. Sự tuyệt chủng của các loài cũ gần như là một hậu quả tất yếu của việc sinh sản các loài mới. Chúng ta có thể hiểu tại sao một loài sinh vật, một khi nó tuyệt chủng thì nó sẽ không bao giờ xuất hiện lại nữa. Các chi sinh vật tăng về số lượng một cách từ tốn, và tồn tại trong những khoảng thời gian dài ngắn khác nhau, và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan. Loài sinh vật thống trị của nhóm sinh vật thống trị thường sinh ra rất nhiều thế hệ con cháu biến dị, và từ đó nhiều nhóm và nhóm phụ mới được hình thành. Trong khi đó, các cá thể của những loài kém ưu việt hơn, do có cùng một đặc tính di truyền bất lợi nào đó từ cùng một tổ tiên, sẽ dần dần trở thành tuyệt chủng, và sẽ không để lại thế hệ con cháu nào trên thế giới. Nhưng sự tuyệt chủng hoàn toàn của bất cứ một nhóm sinh vật nào cũng là một quá trình diễn ra rất lâu dài, do một sổ con cháu có thể được sống trong những môi trường thích hợp và cách li. Khi mà một loài biển mất, nó sẽ không xuất hiện lại, do sự liên tục trong di truyền đã bị phá vỡ.
Chúng ta có thể hiểu sự phát tán của những kiểu hình un việt, nhừng kiểu hình có nhiều biến đổi nhất, cùng với thời gian, sẽ phát tán ra khắp thế giới những thế hệ con cháu mang những đặc điểm tương đồng nhưng biến dị, và những thế hệ con cháu này thường sẽ thế vị trí của những nhóm sinh vật không cạnh tranh nổi trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Do vậy, sau những khoảng thời gian dài, các sinh vật trên trái đất dường như đã đồng thời thay đổi.
Chúng ta có thể hiểu được cung cách mà tất cả các sinh vật đang sống và đã chết, hợp lại thành một hệ thống vĩ đại do tất cả đều có liên quan qua các thế hệ. Do xu thế biến dị liên tục của kiểu hình, chúng ta có thể hiểu được tại sao một sinh vật càng cổ xưa sẽ càng khác so với các sinh vật hiện đang tồn tại. Tại sao những hình thái cổ xưa lại lấp chỗ trống giữa những hình thái hiện nay, và có khi tập hợp thành một những nhóm sinh vật trước kia được coi là khác nhau, hoặc thông thường thì làm giảm sự khác biệt sinh học giữa chúng. Một kiểu hình càng cổ thì ở một mức độ nào đó nó mang những đặc tính trung gian giữa các nhóm hiện nay đã phân li vì một kiểu hình càng cổ bao nhiêu thì nó sẽ càng cỏ những đặc điểm giống với tổ tiên của các nhóm sinh vật đã phân li bấy nhiêu. Các kiểu hình đã tuyệt chủng thường ít khi mang những đặc tính trung gian giữa các kiểu hình còn sống; mà chỉ là trung gian qua một đường vòng dài và lắt léo qua rất nhiều những kiểu hình khác nhau hoặc đã tuyệt chủng. Chúng ta có thể thấy rõ tại sao những hóa thạch hữu cơ trong các tầng địa chất kế tiếp lại gần với nhau hơn những hóa thạch tương tự trong những tầng địa chất khác do có mối liên hệ gia phả, và tại sao những hóa thạch chôn vùi trong một tầng địa chất trung gian lại mang những đặc điểm trung gian.
Sinh vật của mỗi thời kì địa chất liên tiếp trong lịch sử trái đất đã chiến thắng những kẻ đi trước chúng trong cuộc đấu tranh sinh tồn; đồng nghĩa với việc chúng chiếm một vị trí cao hơn trong thang thiên nhiên, và điều đó cũng giúp các nhà khảo cổ học tự lí giải với bản thân rằng hệ thống tổ chức chung đã tiến hóa. Nếu sau này việc những động vật cổ xưa mang những đặc điểm giống với phôi thai của những động vật cùng một lớp ngày nay được chứng minh thì học thuyết của tôi sẽ trở nên dễ hiểu hơn. Sự kế tiếp những loại hình tổ chức giống nhau trong những vùng tương tự nhau, trong những thời kì địa chất cuối cùng, không còn là một bí mật nữa và đã được giải thích thông qua các quy luật di truyền.
Vậy nếu như giả định của tôi về việc những đồ thư địa chất không hoàn thiện, và có thể nói rằng chúng ta có thể chứng minh rằng chúng khó có thể trở nên hoàn thiện hơn, những phản bác đối với thuyết chọn lọc tự nhiên sẽ hoàn toàn biến mất hoặc bị giảm đi rất nhiều. Mặt khác, tất cả các quy luật khảo cổ học đều khẳng định rằng các loài là sản phẩm của di truyền, các loài cổ được thay thế bởi những loài mới và ưu việt hơn, và những hình thái này lại là kết quả của các quy luật biến dị luôn luôn hoạt động quanh ta, được bảo quản bởi quá trình chọn lọc tự nhiên.
Charles Darwin
Ngọc Linh dịch
Theo http://vietnamthuquan.eu/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chạy trốn - Truyện ngắn của Đào Quốc Vịnh

Chạy trốn - Truyện ngắn của Đào Quốc Vịnh Thực lòng lúc ấy tôi bỗng ứa nước mắt. Nhưng bất giác tôi kịp tỉnh ra là mình đã bắt đầu làm cho...