Tính
nữ trong thơ Vi Thùy Linh
Tính nữ trong thơ Vi Thùy Linh được tạo nên từ một tâm hồn
chín sớm. Tính nữ rất riêng ấy đã mang tới cho thơ Vili màu sắc bản nguyên, nồng
nàn nhất của tình cảm, khai mở thế giới nội tâm phức tạp và mâu thuẫn của người
phụ nữ trong sự khao khát tuyệt đích niềm hạnh phúc lứa đôi.
Mở đầu
Sau năm 1975, chiến tranh hoàn toàn kết thúc, nước nhà được
thống nhất, văn học vì thế cũng không còn mang trên mình nhiệm vụ cổ vũ, tuyên
truyền chính trị nữa. Trong bối cảnh đó, văn học Việt Nam buộc phải chuyển mình
theo một hướng đi mới phù hợp với nhu cầu thưởng thức đã đổi khác của công
chúng, làm xuất hiện một thế hệ cầm bút trẻ với những đổi mới, cách tân mạnh dạn
đến táo bạo, đặc biệt là ở mảng thơ ca đã bắt đầu rơi vào trạng thái trì trệ,
cũ mòn sau nhiều năm đứng ở vị trí chủ đạo. Vi Thùy Linh chính là một trong những
gương mặt thơ thuộc về lớp nhà thơ rất mới này. Ở tuổi 19, cô xuất hiện trên
thi đàn Việt Nam như một hiện tượng đặc biệt bởi lối thơ tràn đầy cái “tôi” cá
nhân không chịu bị hòa tan vào bất kì khuôn mẫu nào. Thơ Vi Thùy Linh trẻ, lạ
nhưng có đủ độ chín, độ sâu của một tâm hồn phụ nữ. Vì lẽ đó, tính nữ đã trở
thành một đặc điểm dễ nhận thấy trong tác phẩm của cô. Trong khuôn khổ một tiểu
luận và khả năng còn nhiều giới hạn, chúng tôi sẽ trình bày sự tìm hiểu của
mình về tính nữ trong thơ Vi Thùy Linh dưới góc độ bản năng và tâm lý nữ với
mong muốn làm rõ hơn những nguyên nhân tạo nên phong cách thơ của nhà thơ nữ đặc
biệt này.
Nội dung
Vi Thùy Linh sinh ngày 4/4/1980 tại Hà Nội, là một nhà
thơ trẻ nhưng sớm nổi tiếng, thường được biết đến với bút danh Vili. Cô có
thơ được đăng báo từ năm 15 tuổi và tập thơ đầu tay KhÁt được xuất bản năm 19
tuổi nhận được nhiều quan tâm của dư luận đưa cái tên Vi Thùy Linh trở thành một
“hiện tượng” của thơ Việt Nam. Từ năm 1999 đến nay, cô đã xuất bản một số tập
thơ như: KhÁt (1999), Linh (2000), Đồng Tử (2005), Vili in love (2008) , Phim
đôi -Tình tự chậm (2011), Vili và Paris (2012),… và một tập văn xuôi Vili tùy
bút (2012). Không như nhiều nhà thơ khác, Vi Thùy Linh rất chú ý tới việc trình
diễn thơ của mình. Cô là nhà thơ Việt Nam đầu tiên được Trung tâm Văn hóa Việt
Nam tại Pháp mời thực hiện một đêm thơ riêng tại Paris mang tên Tình tự Hà Nội,
cũng là nhà thơ đầu tiên thực hiện tour diễn Pháp – Châu Âu.
Cũng như nhiều nhà thơ khác, đề tài lớn nhất trong thơ Vi
Thùy Linh là tình yêu. Ngay từ tập thơ đầu tiên, cô đã thể hiện cái nhìn già dặn
trước tuổi về ái tình: Tình yêu của Vili không phải kiểu cảm xúc bâng quơ đầu đời
của cô gái mới lớn mà là tình yêu mang tính tận hiến về cả tâm hồn và thể xác,
là sự hòa hợp của nhục cảm trần thế và lòng sùng tín thiêng liêng. Bên cạnh đó,
cô cũng mượn tình yêu để thể hiện nhiều suy nghĩ cá nhân và triết lý cuộc sống
về một xã hội hiện đại – nơi con người ngày càng xa cách nhau còn thật – giả
thì lẫn lộn. Trong các sáng tác của mình, Vi Thùy Linh chủ yếu sử dụng thể thơ
tự do không vần, từ ngữ và hình ảnh có nhiều mới lạ, mạnh bạo. Điều này khiến
cho thơ cô khó đọc, khó hiểu, khó tiếp cận với đông đảo độc giả, thậm chí giới
chuyên môn cũng có những ý kiến tiêu cực về thơ Vili. Dù vậy, nhà phê bình Chu
Văn Sơn đã gọi Vi Thùy Linh là thi sĩ của ái quyền, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp
cho rằng cô là nhà thơ nữ trẻ có lẽ là đáng kể nhất trên văn đàn Việt Nam hiện
nay và thơ Vili vẫn thu hút được một lượng độc giả nhất định. Điều này cho thấy
nhà thơ nữ có cá tính đặc biệt này đã thật sự để lại dấu ấn của mình trong nền
văn học Việt Nam đương đại cũng như chứng minh rằng thơ Vili còn nhiều điều cần
tìm hiểu chứ không đơn thuần là kết quả của sự nổi loạn trong cá tính sáng tác
của cô.
Nhạc tính đậm đặc
Người xưa thường nói thi trung hữu nhạc. Thật vậy, từ Đông
sang Tây, từ cổ chí kim, không trường phái thơ nào có thể thoát khỏi quy tắc
này. Dường như trong tâm thức mọi người, nhạc tính đã trở thành tính chất tất yếu
của thơ: Một bài thơ hay có thể không có vần nhưng nhịp điệu và tính hài hòa của
âm tiết thì luôn phải có. Trong sáng tác thơ ca đương đại, nhịp thơ chính là nhịp
cảm xúc của chủ thể trữ tình trong ngữ cảnh. Khác với thơ cổ giấu cảm xúc trong
tứ thơ và thơ mới bày tâm trạng bằng hình ảnh, thơ đương đại hướng cảm xúc thẳng
vào nhịp điệu, lấy hình thức ngữ âm làm công cụ biểu hiện nội dung. Lối sáng
tác này dễ được bắt gặp trong thơ của các tác giả sau này như Dư Thị Hoàn, Nguyễn
Quang Thiều, Nguyễn Quyến,…
Ở trường hợp Vi Thùy Linh, tính nhạc được thể hiện chủ yếu
qua nhịp điệu thơ được liên tục biến hóa, thay đổi linh hoạt theo dòng tâm tư của
chủ thể trữ tình. Trong lần đầu đọc một bài thơ Vili, người đọc dễ bị gây ấn tượng
bởi những nét phá cách trên phương diện ngôn từ của tác giả hơn phần nhịp điệu.
Thế nhưng, càng đọc kĩ thơ Vi Thùy Linh, ta thấy những nhịp điệu của cảm xúc lại
hiện lên một cách vô thức rồi tự chuyển mình thành nhạc điệu. Nắm bắt được cái
nhạc điệu âm thầm ấy rồi, người đọc mới có thể hiểu điều gì đã tạo nên cảm hứng
cho các nhạc sĩ như Ngọc Đại, Phú Quang sáng tác những bài hát dựa trên nền thơ
của Vi Thùy Linh như Phía ngày nắng tắt (phổ nhạc bài Từ phía ngày nắng tắt), Dệt
tầm gai (Người dệt tầm gai), Dòng sông không trở lại (Dòng sông không trở lại),…
Có lẽ vì chú trọng đến yếu tố trình diễn nên trong quá trình sáng tác, Vi Thùy
Linh đã chú ý đến khả năng kết hợp của nhịp điệu thơ với âm nhạc sao cho hài
hòa và cố tình tạo cho câu thơ âm điệu gần giống những câu hát: lúc luyến láy,
lúc lướt nhẹ, lúc ngân dài. Điểm qua một vài bài thơ Vili, ta sẽ nhận ra được
phong cách thơ – nhạc kết hợp này.
Trong bài thơ Giáng sinh con, cách ngắt nhịp 2/2 theo dạng thức
những bài đồng dao dễ hát, dễ nhớ.đã tạo nên sự nhịp nhàng, vui tươi của tâm hồn
trẻ thơ.
Nu na/ nu nống
Trái đất/ nằm trong
Trẻ con/ quay vòng
Nối liền/ thế giới
Mùa đông/ thật ấm
Noel/ cho em
Noel/ lung linh
Binh boong/ náo nức
Xoa dịu/ đớn đau
Vỗ về/ thiếu thốn
Xua tan/ tủi sầu…
(Giáng sinh con)
Ở những bài thơ khác, không chỉ nhịp điệu trong từng câu thơ
được liên tục thay đổi mà cách ngắt dòng để tạo những câu thơ ngắn, dài khác
nhau cũng được vận dụng triệt để, khiến mạch thơ lúc tuôn trào, lúc bị ngắt đứt,
lúc lại lửng lơ.
Tự nhủ/ không thể yêu ai nữa
Người đàn bà sống một mình, vừa muốn quên, vừa mong ngóng.
Chị cố tránh con đường xưa…
Lại đêm…
Lại đêm…
[…]
(Thiếu phụ và con đường)
Trong bài thơ này, nhịp thơ chia cắt, câu thơ bị kéo dài đã gợi
một không gian suy nghĩ miên man của dòng cảm xúc với những chán chường, nỗi buồn
thương tuyệt vọng nơi người thiếu phụ rồi đột nhiên ngắn lại, rớt dòng tạo những
hụt hẫng bâng khuâng như chính những hố sâu không thể thoát ra trong lòng người
thiếu phụ.
[…]
Em tức tưởi trở về/ khoảng trời bóng đỏ
Bóng chèn nhau
vỡ
Lòng em
vỡ
Em lầm lũi/ lại đến trước nhà Anh/ nhặt xác nỗi buồn vừa rơi
Đốt lên/ thành lửa
Sau lưng em/ ngày nắng tắt.
[…]
(Từ phía ngày nắng tắt)
Trong đoạn thơ trên, các dòng thơ dài dù được chia tách thành
những nhịp ngắn lại không mang đến cảm giác gấp gáp, hối hả như thường thấy mà
tạo nên một độ chùng trong cảm xúc còn những dòng thơ ngắn lại bị phân tách đến
mức lửng lơ. Việc ngắt nhịp một tại những từ “vỡ” kết hợp với lối ngắt dòng thơ
như vậy đã tạo nên sự phân rã của câu chữ để cùng lúc thể hiện hình ảnh mối
tình đổ vỡ lẫn thế giới nội tâm đã rạn nứt của cô gái. Cái đặc biệt trong chất
nhạc nơi thơ Vili chính là sự “ăn khớp” giữa từng gợn sóng tâm trạng với sự
chuyển đổi nhịp điệu, tạo nên sự rung động mỏng manh, tinh tế rất riêng chỉ giới
nữ mới có.
3/ Giọng thơ trữ tình – tự thuật
Đối với một người phụ nữ, tình yêu luôn là nỗi trăn trở, là
khát khao, ham muốn khó lòng cưỡng lại được. Là một nhà thơ nữ, bản thân Vi
Thùy Linh cũng không hề nằm ngoài quy luật ấy. Được tạo ra bởi một bản ngã nữ
tính, thơ Vi Thùy Linh mang đậm dấu ấn trữ tình của một tâm hồn nữ giới. Vì phụ
nữ là những con người suy nghĩ bằng tình cảm nên trong lời thơ của Vi Thùy
Linh, cảm xúc lất át tất cả, không bị che giấu, không chút nghi hoặc. Vì phụ nữ
là những con người muốn được trải lòng nên thơ Vi Thùy Linh cũng tựa hồ một lời
bộc bạch về chính mình. Mỗi bài thơ của Vi Thùy Linh lại là một mảnh ghép trong
bức tranh tâm hồn của cô, là một câu chuyện nhỏ về những trải nghiệm của cô
trong cuộc đời. Cách Vi Thùy Linh viết thơ cũng giống như cách viết của các nhà
văn nữ – tự viết về mình, tự kể về mình để thể hiện tất cả cảm xúc, ước mơ sâu
kín nhất trong lòng. Giọng thơ Vili có sự chứa đựng và phô bày nỗi niềm khao
khát tình yêu của một nội tâm mãnh liệt.
Thềm mưa thềm mưa
Phấn hoa bay trên làn da cẩm thạch
Trời trong vắt như bình vang trắng
Cơn gió đực
Làm tình một mình trên mái
Anh tô son môi em chín chín lần trong một buổi tối bằng môi
anh
Điệu Samba thôi miên mùa thu
Rượu Bohème đổ không biết cạn
Tha bổng mọi ưu phiền ma mị.
[…]
Cái bản ngã trữ tình của Vi Thùy Linh luôn bộc lộ sự cuồng
nhiệt đến mức dữ dội mỗi khi nói đến tình yêu, nhiều lúc bạo dạn đến gần như
nam tính bởi sự thường trực của mong muốn tận hiến, tận hưởng và chinh phục tới
tận cùng. Thế nhưng, nét nữ tính của Vi Thùy Linh lại nằm ngay trong những dòng
thơ thoạt nghe như quá ư nổi loạn đó bởi cơn gió đực, điệu Samba và rượu Bohème
phóng khoáng, cuồng nhiệt đã bị thềm mưa, phấn hoa và làn da cẩm thạch thanh
khiết làm dịu lại và nhất là anh tô son môi em chứ không phải em. Người con gái
trong bài thơ dù có đắm đuối trong hoan lạc bao nhiêu cũng vẫn mang nét thanh
tân, dịu dàng chứ không hề suồng sã, gợi dục. Nét đẹp nguyên sơ của con người
luôn được Vi Thùy Linh thể hiện qua một giọng điệu trữ tình mượt mà, đằm thắm đầy
nữ tính bởi không ai có thể hiểu và cảm nhận được vẻ đẹp trong sạch của cơ thể
phụ nữ rõ bằng một người phụ nữ.
Khi tắm.
Tôi thường ngắm mình.
(Như có một người, cùng tấm gương, ngắm tôi).
Mảnh mai, lóng lánh ướt….
Lan khắp chúng ta, sự choáng ngợp của vẻ đẹp mong manh và
trong sạch làm chúng ta dịu lại.
[…]
(Bóng người)
Hơn thế nữa, thế giới thơ Vili vẫn luôn tồn tại những ảo mộng
biếc xanh, những nỗi phiêu linh huyền hoặc mà nhẹ nhàng như vầng trăng mê mải,
tinh khiết như những đọt yêu thương. Lời thơ thỏ thẻ như chuyện kể và Vi Thùy
Linh sinh ra để nổi loạn lại trở nên ngây thơ như một thiếu nữ mới lớn với lối
diễn tả còn vương nét hồn nhiên trẻ thơ.
Em gặp mình.
Qua hợp âm giấc mơ.
Màu xanh mơ ước.
Sao trời phiêu linh.
Vòm đêm vỡ sáng.
Vầng trăng mê mải tròn đầy…
Đêm rơi qua dải khăn mây.
Gió đợi chở nhau thơ thác.
Nảy đọt yêu thương.
Lớn trên tay những mầm khao khát
Khẽ về sắc cỏ thanh miên…
[…]
4/ Bản năng nữ giới
4.1. Sự tinh nhạy về xúc cảm
Phụ nữ là những con người nhạy cảm theo một cách kì lạ: Họ tự
tạo ra cho mình những cảm giác vu vơ không rõ nguyên do, mà buồn thường chiếm
nhiều chỗ hơn vui; họ có thể suy diễn nhiều điều từ những hành động nhỏ nhặt vô
tình như thể họ được sinh ra chỉ để sống bằng cảm tính. Cũng vì vậy nên khi đối
diện với nỗi đau trong tình cảm, phụ nữ vẫn thường cảm nhận được nó thật nhanh
chóng.
Nơi em ở là phía ngày nắng tắt
Nỗi buồn nhiều như gió
Em ước được thả lên trời như bóng bay…
…Gió vẫn thổi, buồn phiền không mất nổi
Chỉ còn phía anh thôi
Em không nhớ đã gặp anh bao lần, bất kể khi nắng còn hay đã tắt
Để rồi đêm nay
Em cay đắng khi anh đẩy em bằng ánh mắt!
[…]
(Từ phía ngày nắng tắt)
Người con gái trong thơ Vi Thùy Linh vẫn thường xuất hiện như
một nhân vật mang nỗi buồn – nỗi buồn mang màu sắc đa đoan. Ở đây, cô gái sống
trong phiền muộn, dường như chỉ còn tìm được sự an ủi nơi người tình của mình
nhưng cuối cùng thì người ấy cũng ra đi. Chỉ qua ánh mắt của người con trai, cô
gái đã cảm nhận được sự cự tuyệt, cảm nhận được cái “đẩy” đi xa từ người cô yêu
– giống như một sự chia tay không dùng lời nói. Đó là sự cảm nhận tinh nhạy của
một cô gái trẻ có tâm hồn già dặn của một phụ nữ trưởng thành, được tạo nên bởi
những khao khát yêu thương sớm xuất hiện trong lòng tác giả và khả năng nhận biết
mạnh mẽ cái thay đổi của tình cảm tồn tại sẵn như một giác quan thứ sáu của phụ
nữ.
Bản tính nhạy cảm thường mang đến cho người sở hữu nó một nỗi
cô đơn thường trực bởi họ cảm nhận nhiều, suy nghĩ nhiều, thấy mình lạc lõng
nhiều và cô đơn do vậy cũng nhiều. Cái tôi mạnh mẽ của Vi Thùy Linh khi gặp cô
đơn thì trở thành cái tôi bướng bỉnh không chịu cởi mình, cái tôi cô đơn đến
không thể hòa nhập hoàn toàn với bất kì ai mà chỉ có thể luôn ôm một bí mật.
Có cô gái tìm đến anh
Khi vui
Khi đau khổ
Khóc
Cười
Như đàn bà
Như đứa trẻ
Trong thân hình mảnh khảnh
Là cô đơn
Khát sống và yếu đuối
Lần nào đến, cũng mang theo bí mật
Sau – những – gì – nhìn – thấy
Là em.
[…]
(Em – bí mật)
Đoạn thơ chứa đựng nhiều mâu thuẫn: vui – buồn, sâu sắc – hồn
nhiên, mạnh mẽ – yếu mềm diễn tả cái phức tạp trong cảm xúc cũng như tính cách
của một cái tôi đa cảm, bí ẩn cũng vì thế mà luôn hấp dẫn. Cái tôi cô đơn trong
thơ Vili có khi xuất hiện như một sản phẩm của sự xa cách, trở thành cái tôi
đau đớn vì yêu nhưng vẫn khát yêu và muốn yêu trọn vẹn, cái tôi vừa mạnh mẽ vừa
yếu mềm, rất kiên cường mà cũng rất mong manh.
Chúng mình ở hai miền
Ngày nào em cũng khóc…
Anh yêu của em ơi
Em yêu anh điên cuồng
Yêu đến tan cả em
Ào tung kí ức
Ngày dài hơn mùa
Em mong mỏi
Em có lúc như một tội đồ nông nổi
[…]
Về đi anh
Cài then tiếng khóc em bằng đôi môi anh
Đưa em vào giấc ngủ nồng nàn, quên đi những đêm chập chờn,
trĩu nặng
Ngày nối ngày bằng hi vọng
Em là người dệt tầm gai…
[…]
(Người dệt tầm gai)
Thế nhưng, cái cô đơn thường hằng trong thơ Vi Thùy Linh được
bắt đầu từ cái cô đơn thời niên thiếu, khi tâm hồn cô vẫn còn non nớt đã cảm nhận
được sự cách biệt trong gia đình.
Bố
Mặt trời nóng rực và ồn ã
Con muốn gần… lại sợ… tan ra
Mẹ
Mặt trăng xa
Con ngần ngại cận kề
Con
Vì sao lạc giữa
Lớn lên và sáng bằng nước mắt
[…]
(Những đối lập)
Trong mối quan hệ mà cha – mẹ – con giống như những tinh cầu
xa cách, cái tôi Vili trở thành cái tôi bơ vơ, cái tôi ấy luôn bị thúc giục bởi
ước muốn đi tìm người tri kỉ. Cái tôi bé nhỏ đó khi lớn lên muốn được thoát ra
khỏi vòng cương tỏa ràng buộc mình, lại vừa muốn được buộc mình vào người khác.
Cha mẹ định quàng dây cương vào tôi
“Hãy để con tự đi!”
Quyết làm những gì mình muốn
Tôi tự viết truyện đời bằng suy cảm
Và biến những ý nghĩ thành sự thật.
Bỗng một hôm
Tôi đứng yên để một người buộc vào tôi dây cương và đi theo
người ấy
Đó là người tôi yêu.
[…]
(Tôi)
Niềm mong mỏi đầy mâu thuẫn ấy đã bộc lộc hết chất Á Đông
trong con người Vili: người phụ nữ phương Đông bao đời bị kiềm hãm về tinh thần
nay muốn được bứt mình ra vòng phụ thuộc để thỏa sức bay nhảy cũng đồng thời là
người phụ nữ truyền thống luôn sẵn sàng buông tay Tự Do để đi theo tiếng gọi của
Tình Yêu, để gắn chặt cuộc đời mình với một cuộc đời khác. Những tâm sự ấy của
Vi Thùy Linh cũng chính là lời của rất nhiều người phụ nữ vẫn đang băng khoăng
đứng giữa hai đầu lựa chọn: nổi loạn hay truyền thống, để bay hay để yêu, khi
mà những điều này vẫn thật khó để cùng lúc có được.
4.3. Khao khát yêu đương và yếu tố nhục cảm
Tính nữ trong thơ Vi Thùy Linh tự biểu đạt ở những xúc
cảm tinh nhạy, tự khẳng định bằng tâm hồn cô đơn nổi loạn và tự nuôi
dưỡng mình bằng những khát khao yêu thương và nhục cảm. Đấy là phần
sâu kín nhất trong thế giới thơ Vi Thùy Linh, cũng là suối nguồn của mọi
xúc cảm, rung động được gợi lên trong thơ của cô. Đó cũng là nền
tảng sau cùng để thơ Vi Thùy Linh gọi ra được phong cách, cái thần, cái
hồn của mình.
Khác với những nhà thơ nữ thời kháng chiến (Xuân
Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ) làm thơ theo những cảm xúc tế vi, mềm mại,
với Vi Thùy Linh, yêu thương luôn gắn liền với nhục cảm sống động. Thơ
Vili vẫn thể hiện những xúc cảm, rung động tinh tế theo một cách
riêng, nhưng sóng đôi với những đường nét xúc cảm ấy luôn là những ảnh
hình được viền nổi của những chuyển động da diết, rạo rực. Hành
trình sáng tạo của Vi Thùy Linh cũng là một hành trình khẳng định
những khát vọng yêu thương, hoàn thiện hình dung của mình về thế
giới của tình yêu. Từ những tập thơ đầu Khát và Linh đến Đồng Tử và
Vili in love, hành trình dấn thân, trải nghiệm, hòa điệu với những cơn
khát yêu thương càng trở nên tinh tế và phức tạp hơn; những góc cạnh
của tình yêu càng mở rộng, để những người nữ trong thơ càng sống
rạo rực, sống da diết hơn trong thế giới của diễn từ. Những xúc cảm
càng trưởng thành lại càng mạnh mẽ ấy đã luôn dẫn đường, luôn cung
cấp một nguồn năng lượng nghệ thuật dồi dào cho Vi Thùy Linh. Những
khát vọng yêu thương được cô bày tỏ theo cách chân phương nhất, trở
thành những nỗ lực khẳng định tình yêu, cơn khát yêu của mình với
thế giới:
[…]
Em muốn nổ tung khối chữ trong mình
Thành lời: Em yêu anh!
Người đàn bà
Rùng mình vì cô đơn
Đấy không phải bí mật!
Em thấm những dòng chữ không thẳng
Sức trẻ có hạn
Em cứ gồng lên
Bỏ lời tỏ tình của những chàng trai nhập nhờ dưới suy nghĩ về
anh
[…]
(Em – Bí mật?)
Đấy là khi những cơn khát tự vấn mình theo cách dữ dội nhất,
đến độ chỉ những câu thơ đơn giản, thô ráp, ngắn gọn và thu mình – những câu
thơ không đeo trang sức – mới có thể chiều lòng những đợt sóng tình cảm ấy. Đấy
là những khi Vi Thùy Linh khẳng định và cũng là chiêm nghiệm về tình yêu, những
khi tiếng lòng của khát vọng yêu bừng dậy mãnh liệt đến độ nhà thơ chỉ có thể để
ý thơ hiện hình theo cách nguyên sơ nhất. Nhưng thông thường, Vi Thùy Linh thường
để những câu thơ duỗi dài tấm lưng theo tình cảm, duỗi dài theo khát vọng hòa
nhịp, hòa quyện, hòa điệu với người mình yêu:
[…]
Cho em nắng óng cất từ màu da Anh
Cho em tiếng cười từ khóe môi rộng lượng Anh
Cho em ngủ ngon trong vòng ôm định phận của Anh
[…]
(Cất giấu)
[…]
Em nghe thấy nhịp cánh êm ái ân
Một làn gió thổi sương thao thác
Đêm run theo từng tiếng nấc
Về đi anh
Cài then tiếng khóc em bằng đôi môi anh
[…]
(Người dệt tầm gai)
[…]
Căn phòng thành đại dương
Em đi không ướt gót
Chiếc gối lưu dư chấn
Thời gian thành rừng yêu
Anh cùng em làm bản đồ tình yêu
Chân mây thăm thẳm
Xoải cánh mùi thịt da lồng lộng
Em luôn muốn hôn anh cẩn thận
Xiêm y vũ hội là làn da xuân
[…]
(Bản đồ tình yêu)
Từng động tác và hơi thở, sự gấp gáp và cuồng nhiệt là những
biểu hiện thường thấy nhất ở thơ Vi Thùy Linh khi nữ sĩ để tình yêu với đầy đủ
nhục cảm lên tiếng. Cô để cho mọi mặt của những bản năng quen thuộc nhất của nữ
giới được gọi ra và được trải dài miên man trong khát vọng của mình, đến độ thơ
Vi Thùy Linh không chỉ dừng lại ở sáng tác văn học nữ quyền (lấy chủ thể, lấy
trung tâm là những cảm nhận nữ giới) nữa. Nói như nhà phê bình Chu Văn Sơn, đó
là thi ca Ái quyền, là những vần thơ với đầy đủ phẩm tính nữ giới khẳng định
quyền yêu đương, quyền tận hiến cho tình yêu, theo một bản năng đầy chân thực của
con người. Cũng chính vì vậy, thơ Vi Thùy Linh xuất hiện nhiều những động tác của
yêu thương như vuốt ve, ôm ấp, tô son, cài then đôi môi hay cơ thể người phụ nữ
bằng người đàn ông; những hình ảnh kết nối cả tâm lý và sinh lý như tấm lưng,
những đôi chân và tay, bào thai và đồng tử – những hình ảnh chân thực, viên mãn
nhất của yêu đương, nhục cảm.
Còn lại là những lúc nữ sĩ dùng những hình ảnh nhục cảm để
triết lý về tình yêu. Khi ấy, những đường nét sống động của sức nóng, của khát
khao vẫn vằng vặc trên câu chữ, nhưng đằng sau đó là ánh sáng của một thứ tôn
giáo:
Dành em cho Anh – tặng vật của Chúa trời
Vì chỉ Anh thấy em trong tấm gương đức hạnh
Phủ phục dưới hào quang huy hoàng của vòng tay thống trị
Chuông bắt sáng từng hồi diễm lệ
[…]
(Teresa)
Anh trao em ngày mới
Cuộc sống khác từ mùa xuân chưa từng thấy
Dài theo đôi mắt, kín đất hoa linh những bàn chân non đường
thon âm thanh hoan lạc
Bình minh mọc từ vầng ngực Anh đầy ắp hồng cầu
Sao lên từ mắt
Cả thế giới chật ních buồn phiền bỗng nhiên vắng lặng
Để loài người học yêu nhau trở lại
Để loài hoa không bao giờ mãn khai, hé mở
[…]
(Đường ong)
Đó là tôn giáo của ái tình, là tư tưởng của khát khao hài hòa
trong tình tự, khát khao kết nối với những diễn trình của tồn tại từ tình yêu
viên mãn và tràn đầy. Đây chính là phần lý trí và phức tạp trong suối nguồn của
yêu thương, khát vọng trong hồn thơ Vi Thùy Linh; nơi bản năng và ẩn ức, ưu tư
và phức cảm trở thành triết lý và luân lý; cũng là nơi nuôi dưỡng những niềm
tin của nhà thơ về giá trị của ái tình – một chuyển động không thể thiếu với thế
giới, với những kẻ đang tồn tại, với những khoảnh khắc bừng ngộ đầy tính hiện
sinh. Người phụ nữ trong thơ Vi Thùy Linh, khi tận hiến cho tình yêu cũng là
khi sống tận cùng với mọi khả năng giao kết với thế giới, kết nối với những
thiên chức cao cả của mình, giao tiếp với cả lịch sử và thời gian, khẳng định
phần âm tính đã làm chuyển động những mạch ngầm của thế giới này như thế nào.
Nói cách khác, bằng những phút giây sống đến tận cùng với suối nguồn của tình
yêu và nhục cảm, Vi Thùy Linh đã kết nối tính linh thiêng, tính huyền nhiệm với
những khát khao tình tự. Xứ thơ ca Vili là nơi thờ phụng tình yêu, nhưng không
chỉ thờ phụng bằng xúc cảm đơn thuần, mà bằng cả xúc cảm đã chuyển thành lý
trí, thứ lý trí của tình cảm chỉ có nữ giới đạt được khi họ đã sống trọn vẹn với
những phức cảm của mình.
Mọi khát khao yêu đương và dục vọng, những gì cao khiết và những
gì trần thế nhất gắn liền với những nguồn năng lượng, động lực sống trong thơ
Vi Thùy Linh. Nhà thơ không ngần ngại khẳng định vẻ đẹp, sự thanh cao và chân
thực trong những khát vọng yêu để sống của người phụ nữ. Điều này không hề xa lạ
với khái niệm dục năng (libido) mà Sigmund Freud đã tìm ra và cho rằng chính những
bản năng tình dục đã chống lại bản năng chết (sự điêu tàn hủy hoại dần con người
theo thời gian), những khát vọng chính là phần cốt lõi khẳng định sự hiện tồn của
con người. Vi Thùy Linh đã đưa những luận lý ấy vào thơ ca Việt, vận dụng theo
cách rất nữ tính một lý thuyết nam quyền. Với cô, yêu thương chính là sức sống
của người phụ nữ để chống lại mọi điều tẻ nhạt, giả dối, chống lại cả cái chết
và sự tàn phai để tìm đến những ranh giới của sự vĩnh cửu, của những chuyển động
diệu kỳ trong cuộc sống theo con đường bản nguyên nhất.
Vì mọi lẽ trên, tình yêu trong thơ Vi Thùy Linh luôn là sự tận
hiến, trở thành một ấn tượng quen thuộc đến độ ám ảnh trong thơ cô. Vậy nên hầu
hết mọi người phụ nữ trong thế giới thơ của nữ sĩ đều muốn hòa nhập, hòa quyện
đến độ như tan vào yêu thương và khát vọng. Tận hiến đến mê đắm, kiệt sức chính
là mục đích, cũng là bản chất của mọi khát vọng yêu trong thơ Vi Thùy Linh. Đó
là sự tận hiến đến độ nhiều khi không cần biết rằng có được đáp lại hay không
nhưng không phải là sự tận hiến đến ngây dại. Những người phụ nữ trong thơ Vi
Thùy Linh tận hiến với cả trái tim, tận hiến cho người tình nhưng cũng tận hiến
cho cả tình yêu, cho thiên chức của mình, cho những khoảnh khắc người phụ nữ được
được sống trọn vẹn với mọi gương mặt và ẩn ức thường ngày lặng im được lên tiếng
say mê, mãnh liệt và tràn đầy. Vậy nên, những người nữ ấy dù chịu đựng rất nhiều
hy sinh (thơ Vi Thùy Linh có khi vẫn đầy nỗi ám ảnh của cô đơn, lạnh lẽo, rạn vỡ,
hoang mang) vẫn không hối tiếc và mãn nguyện theo cách của riêng mình bởi bằng
tận hiến, tình yêu đau đớn của họ mới hạnh phúc với những giấc mơ tìm về vĩnh cửu.
Kết luận
Tính nữ trong thơ Vi Thùy Linh được tạo nên từ một tâm hồn
chín sớm, một tâm hồn được nuôi dưỡng trong thời kì xã hội thay đổi đến chóng mặt.
Chính vì vậy, thơ cô tươi mới mà sâu sắc, có hoang mang nhưng chỉ trong nhất thời,
lãng mạn là thực như hơi thở, thể hiện một tính cách đa chiều đến vô cùng phức
tạp. Tính nữ rất riêng ấy đã mang tới cho thơ Vili màu sắc bản nguyên, nồng nàn
nhất của tình cảm, khai mở thế giới nội tâm phức tạp và mâu thuẫn của người phụ
nữ trong sự khao khát tuyệt đích niềm hạnh phúc lứa đôi. Thông qua đó, thơ Vi
Thùy Linh đã bật lên tiếng nói của người phụ nữ hiện đại dám sống, dám yêu, dám
khác biệt và tạo nên một Vi Thùy Linh nổi bật không thể nhầm lẫn trên thi đàn
Việt.
Lý Ngọc Diễm Thi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét