Thứ Sáu, 1 tháng 9, 2017

Những dị biệt từ ngữ huyền ảo trong thơ

Những dị biệt từ ngữ 
huyền ảo trong thơ 
Đã có nhiều bài viết đề cập đến sự trường tồn của ngôn ngữ huyền ảo về Phật Giáo trong thơ: Bao lâu Phật Giáo còn tồn tại thì thơ văn vẫn còn phản ảnh giáo lý huyền ảo, bắt đầu từ văn học thời Lý thời Trần cho đến nay. Đi sâu vào sự tìm hiểu, ta thấy con sông lớn huyền ảo đó rẽ thành nhiều nhánh khói sương. Có thể tóm gọn vào sáu nhánh: nhánh huyền ảo có tính kinh điển; nhánh tâm cảnh thiền vị thanh thoát; nhánh giáo lý mượn áo trữ tình; nhánh cách mạng huyền ngôn; nhánh mật ngôn Phạn ngữ; và nhánh ngoại vi cảnh chùa.
Trước hết là nhánh áp dụng ngôn ngữ kinh điển. Phần lớn những nhà thơ thuộc nhánh này là những vị thông bác giáo lý Phật Giáo, vì vậy ngôn ngữ đạo lý trong thơ của họ thường vượt qua sự hiểu biết phổ thông của đại chúng. Chỉ những độc giả hiểu sâu về Phật Giáo mới nắm bắt được ý nghĩa của từ ngữ. Thoáng nghe qua từ ngữ đó là hiểu ngay xuất xứ từ trang kinh nào, xuất xứ từ công án diệu lý nào. Thơ chỉ là cỗ xe vần điệu để chuyên chở giáo lý. Tính chất sáng tạo thi ca là thứ yếu, nội dung mới là chính. Đây là đặc tính thường có trong các bài thuyết giảng của các vị giáo chủ tông phái, lời thơ lắm khi dễ dãi bình dị xen kẽ với những từ ngữ Phật pháp thâm viễn. Còn các nhà thơ vốn đã sở đắc về ngôn ngữ thi pháp thì lời lẽ văn chương trau chuốt hơn, kỹ thuật điêu luyện hơn. Trau chuốt, kỹ thuật, chưa phải là đồng nghĩa với sáng tạo từ ngữ thi ca. Đắm sâu vào sáng tạo từ ngữ mới lạ tân kỳ, có khi làm mờ nhạt khó hiểu về giáo lý. Nội dung Phật Học là cái mà họ muốn truyền đạt cho độc giả, không phải chủ yếu sáng tạo hình thức mới về văn chương cho văn học. Thơ của họ vì vậy rất trang trọng, thể hiện những tâm hồn sùng kính Phật pháp mầu nhiệm. Ví dụ:
- Rằng xe diệu pháp ba ngàn cõi
 Một cõi nầy thơm về đấu tranh
 (Vũ Hoàng Chương)
- Bụi hồng dưới cội Bồ đề
 Nắng soi vườn Hạnh, nẻo về Giác Hoa
 (Tuệ Nga)
- Làm trăng soi Lăng Già
 Treo tam quan tháng tám
 Đêm tụng kinh Thủy Sám
 Giữa phi huỳnh tháng ba
 (Vô Ngã)
 - Chiều nay ôn dùi mõ
   Gõ mãi vào hư vô
   Vòm thinh không hồng đỏ
   Vượt vô minh tam đồ
   (Viên Lý)
Nhánh huyền ảo thứ hai là ngôn ngữ thiền vị qua tâm cảnh. Ngôn ngữ này vượt khỏi tính kinh điển, đi vào man mác cảnh giới thanh tịnh, phảng phất hương trầm quán niệm, âm hưởng triết lý siêu hình. Ta rung động lời thơ bằng cảm tính. Dù đôi khi ta chưa hiểu hoàn toàn ý nghĩa của từ ngữ mà vẫn cảm được vẻ huyền diệu toát ra từ đó. Giống như khi ta chưa truy ra nguồn cội phát xuất hương hoa mà vẫn biết man mác sự hiện hữu của loài hoa phát tiết. Phảng phất thiền vị không do tinh thần chú bí ẩn của Mật Ngôn, cũng không do âm vang của nhạc tính, mà hoàn toàn do hình tượng mơ hồ từ ngoại vật. Tương tự như khi đọc qua thơ của Nguyễn Xuân Sanh hay Đoàn Phú Tứ thuộc nhóm “Xuân Thu Nhã Tập” mà một số người cho rằng nhờ nhạc tính của âm điệu vần thơ - nhưng ta cảm thấy là nhờ vẻ mơ hồ của hình tượng. Vì nhạc tính trong các bài thơ của họ cũng chỉ là những biến điệu của luật bằng trắc mà thôi, những biến điệu chỉ hơi khang khác với Đường Thi hoặc Thơ Mới. Đó là những hình tượng của thi phái tượng trưng chủ trương “Thuyết giao ứng” (Correspondance), tức là “Sự giao cảm giữa hương sắc và thanh âm, giữa đất trời và cỏ cây, giữa vũ trụ và con người... hội ngộ thiêng liêng giữa thực tại và siêu hình, giữa nội tâm và ngoại giới” (Thụy Khuê - “Cấu Trúc Thơ”, trang 138). Ta nên vượt qua từ ngữ tượng trưng theo nghĩa thông thường như một biểu tượng đại diện, mà nên hiểu theo đúng chủ trương của thi phái tượng trưng: “Tượng trưng tạo một thế giới huyền diệu mà muôn loài “tương ứng” trong một Đại Linh Hồn” (Thạch Trung Giả trong “Văn Học Phân Tích Toàn Thư”, trang 66). Giao ứng hay tương ứng giữa các hiện tượng là bước đầu của thuyết “thần bí vạn vật nhất thể”. Ta nghĩ huyền ảo của Thiền không nghiêng về thuyết thần bí như vậy, mà là thấu thị và giải thoát từ nội tâm:
- Ta thấy cả ngàn năm qua lại
 Bên hồ tĩnh lặng núi an nhiên
 (Đỗ Quý Toàn)
- Giũ áo vào hư không
 Nghìn xưa phai nét chữ
 Song khuya ngọn sáp hồng
 Giọt ứa dòng tâm sự
 (Quách Tấn)
- Ngày theo năm tháng trầm phù
 Lượm từng đóa đóa phù du tặng người
 (Bùi Giáng)
- Tuổi thơ lãng đãng sân ga rộng
 Vòng bánh không về nhịp Pháp luân
 (Viên Linh)
- Trong hương đêm tinh khiết
  Ấn cát tường nở trắng một bông hoa
  (Nhất Hạnh)
- Mưa nắng buồn vui mất
 Chiều an trụ chân tâm
 (Cung Vũ)
- Ướt giùm một hạt mưa sa
 Tôi về hạ giới ôm tà nguyệt đan
 (Hoàng Xuân Sơn)
Nhánh huyền ảo thứ ba là dòng nước giáo lý khoác áo trữ tình. Đây là nhánh rất dễ đi vào sâu rộng đại chúng, rất dễ bắt vào nhạc khúc mà truyền nhanh cho giới trẻ. Con người thông thường ai cũng vướng mắc vào chuyện tình, hạnh phúc hay đau khổ, nhưng lãng mạn thơ mộng dành cho hoa niên; tình nghĩa dành cho tuổi già. Đem giáo lý khoác áo trữ tình là cách hữu hiệu để truyền bá đạo Phật. Tình là dây oan; tình là hóa giải lòng ích kỷ; tình “không phải nhìn nhau mà cùng nhìn về một hướng” để xây dựng tương lai con cháu; tình thăng hoa bằng từ bi hỉ xả; tình làm tỉnh ngộ lòng bạc ác; tất cả những thứ tình đó đều ít nhiều truyền bá giáo lý. Truyền bá nương theo những trầm luân thế tục mà rọi đường giải thoát.  Ngày xưa ta đã đọc “Hồn Bướm Mơ Tiên”, “Chuyện Tình Lan Và Điệp”; ngày nay ta đã nghe những bài hát “Em Lễ Chùa Này” hay “Động Hoa Vàng”. Đầy giáo lý mà rất thơ mộng:
- Anh nằm gối cỏ chờ hoa
  Áo em bạch hạc la đà Thái Hư
  Em từ rửa mặt Chân Như
  Nghiêng soi mặt nước mời Hư Không về
  Thân hương diện kính Bồ Đề
  Phấn son chìm lặng hạt mê Luân Hồi
  Ta về rũ áo mây trời
  Gối trăng đánh giấc bên đồi dạ lan...
  (Phạm Thiên Thư)
Giống như vậy, về Thiên Chúa Giáo cũng đã có các bài hát phổ biến tôn giáo vào đại chúng mà chuyện tình là tấm áo đẹp khoác ngoài thật lấp lánh; như “Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím”;  “Em Hiền Như Ma Soeur”; “Vì Tôi Là Linh Mục”; và “Trong Tay Thánh Nữ Có Đời Tôi”... Lời thơ huyền ảo lãng mạn, nhạc điệu độc sáng, cho nên thường được ca sĩ trình diễn, làm cho giáo lý của hai tôn giáo thêm quảng bá. Nếu ai đã từng thờ ơ thì bắt đầu tìm hiểu thêm. Công lao phát huy tôn giáo là do thi sĩ, nhạc sĩ và nhân thế đã đôi lần ngụp lặn trong biển tình. Một số thi sĩ sáng tác theo nhánh huyền ảo ấy:
- Anh trẩy chùa Hương phía xót thương
  Bến trong bến đục nửa chia đường
  Thiên trù chợt lắng chuông buông tím
  Bỗng gặp em nằm đắp khói sương
  (Hoàng Cầm)
- Ta về quán niệm tâm kinh
  Em vầng trăng tỏa lung linh mây trời
  Ta yêu tận suốt một đời
  Có em hơi thở gọi mời gối chăn
  (Thái Tú Hạp)
- Sớm mai nhập định, chiều thương nhớ
  Đêm tối ngồi khô thế kiết già
  (Du Tử Lê)
Nhánh huyền ảo thứ tư là lối cách mạng huyền ngôn. Sự truyền bá giáo lý đi vào cách thức táo bạo, mới nghe thật chói tai khó chịu theo kiểu “Phùng Phật Sát Phật”. Nếu câu nệ vào nghĩa đen của từ ngữ đôi khi thô tục xen kẽ với ngôn ngữ giáo lý đạo Phật, ta có thể ngộ nhận: thi sĩ đã phạm thượng tôn giáo. Một vài bài thơ của Nguyễn Đức Sơn như bài “Bát Nhã” hay bài “Bông Bí Rợ” nằm trong cách thức này. Bài thơ “Bát Nhã” nghe rất chói tai, từ ngữ Bát Nhã cao quý đứng kề cạnh với một “bãi thông tục” quá đáng. Vì vậy, xin chỉ nêu ra lời lẽ cách mạng huyền ngôn của Nguyễn Đức Sơn trong một bài thơ khác, bài “Trinh Nữ”. Và có lẽ Nguyễn Đức Sơn là nhà thơ đơn độc đã táo bạo bơi trong nhánh cách mạng huyền ngôn ấy:
- Em đang thay áo trong phòng
  Hương xuân bay tỏa sóng lòng tôi đâu
  Vú thon quá độ nhiệm mầu
  Trộm nhìn quên hết âu sầu thế gian
  Tiêu luôn cái cõi Niết Bàn
  Bắt tay chào nhé cái màn Vô minh.
  (Nguyễn Đức Sơn)
Bài thơ không có gì thô tục quá mức đáng gọi là cách mạng từ ngữ trong thi ca, chỉ một điều có vẻ “bệnh lý” là tại sao Nguyễn Đức Sơn thích nói về dục tính thay vì chuyện tình trong ý hướng truyền đạt giáo lý. Như trong bài thơ khác, Nguyễn Đức Sơn kể việc một đôi lứa “núp bóng dưới đại hồng chung” mà làm chuyện ân ái. Mới gần đây, một vài nhà thơ hải ngoại như Đỗ Kh., Nguyễn Thị Hoàng Bắc (trong tạp chí Hợp Lưu) cũng áp dụng những từ ngữ thông tục táo bạo vào thi ca, nhưng đó là họ muốn làm cách mạng thi ca nói chung, không phải là cách mạng huyền ngôn. Ta nghĩ các người thông bác đạo Phật cũng không mấy ưa chuộng lời lẽ táo bạo theo kiểu “Phùng Phật Sát Phật”, mà thường thường là hay nhắc tới “Nụ Cười Ca Diếp”, hoặc ưa thưởng thức sự óng chuốt dựa vào huyền ảo tính của từ ngữ Phật Giáo như “Nụ cười gửi tự thiên thu lại. Tiền kiếp nào xưa em hé môi” (Đinh Hùng), hoặc “Sao không hạt cát sông Hằng ấy. Còn chứa trong lòng cả đại dương” (Mai Thảo). Ta không chủ trương mỹ cảm văn chương đồng nghĩa với óng chuốt, hoặc mỹ miều, hoặc tráng lệ. Ta chủ trương mỹ cảm thi ca là biểu hiện được những gì làm ta rung động nghệ thuật, ví dụ như khi biểu hiện cảnh nghèo nơi đồng hoang đồi trọc, cảnh buồn thường nhật nơi góc phố mưa đêm, hoặc tính bi hùng của đường biên cương mồ hoang chiến sĩ...
Nhánh huyền ảo thứ năm là vẻ bí nhiệm của những mật ngôn hoặc Phạn ngữ được lặp đi lặp lại như một điệp khúc trong thi ca. Giống như ta nghe lời kinh bằng Phạn ngữ trong những giờ cúng lễ trong chùa. Ta không hiểu gì những tiếng ê a này, nhưng ta cảm được những lẽ huyền nhiệm từ đó phát ra. Mật ngôn là lời bí ẩn thuộc về thần chú, còn Phạn ngữ là lời kinh bằng thứ tiếng ta không hiểu nghĩa.  Cả hai nếu được mang vào thơ, mỗi đoạn thơ lại được nhắc lại, sẽ có tác dụng huyền ảo đưa hồn người nghe vào chốn tôn nghiêm, càng thấm nhập thì càng đưa hồn người nghe vào cõi thiêng liêng. Ví dụ như trong bài thơ “Sầu Ca” của Phạm Công Thiện, tác giả cứ lập lại ở mỗi đoạn thơ về hình tượng “Sân ga, bài hát cũ Marina”. Ta nghĩ Marina có thể là một mật ngôn, một Phạn ngữ, hay tên một nhân vật trong tiểu thuyết Tây phương nào đó, nhưng là gì đi nữa thì vẫn không ngoài chủ đích tạo ra một lời thơ bí ẩn. Và cũng không nhất thiết phải là lời bí ẩn cho khó hiểu, mà đôi khi chỉ cần một dòng có ý nghĩa xa xôi nào đó,được lặp lại nhiều lần, cũng đủ tác dụng tạo ra một ma lực thiêng liêng bùa chú. Phải chút ít ý nghĩa xa xôi mơ hồ, vì lời lẽ rõ ràng đanh thép được nhắc lại thuộc về tuyên ngôn chính trị hơn là huyền ảo tôn giáo. Ví dụ triết gia Nietzche cứ nhắc lại một câu “Ainsi Parla Zarathoustra” có tác dụng hưyền ảo về lời phán quyết tiên tri của Zarathoustra. “Zarathoustra đã nói như vậy... Zarathoustra đã nói như vậy...”,  đây là điệp khúc thiêng liêng, thuyết giảng về sự “Trở về Vĩnh Viễn” hay “Sự tái sinh mãi mãi”, triển khai từ thuyết thời gian  thì vô tận mà tạo vật thì hữu hạn, cho nên mọi sự đều tái diễn, trùng trùng là những chu kỳ vũ trụ (The evolutionary process into cosmic cycles: The theory is based upon the assumption that time is of infinite duration, but that the possible combinations and arrangements of matter are limited in time- William S. Sahakian). Gần giống như thuyết Luân Hồi của Phật Giáo, nhưng thay vì tái sinh do nghiệp chướng, Nietzche coi tạo vật như những “tái-biến-chế” trong thời gian vô tận. Trước đó, cũng một triết gia Đức nữa là Schopenhauer, chịu ảnh hưởng Phật Giáo, xây dựng triết thuyết bi quan: Đời người mãi mãi trầm luân do “Ý Chí mù quáng” tối tăm.
Ý chí mù quáng (Le vouloir-vivre) của triết thuyết Schopenhouer chẳng xa với những lời giảng về Sân Si Dục Vọng của Phật Giáo. Nói thêm về điệp khúc vãng lai, lời thơ phục diễn, gây tác dụng huyền ảo cho thi ca: ta bắt gặp một lần nữa trong thơ Phạm Công Thiện với bài “Thơ Cho Khoảng Trống” (Đăng trong tạp chí Hợp Lưu số 21, tháng 2 năm 1995). Tác giả gây cho độc giả cảm nhận cái ma lực của những lời thơ có ý nghĩa mơ hồ, hình tượng vừa hoang vu sơn dã vừa mở phơi vào cõi tinh tú siêu hình, nhắc tới nhắc lui trong suốt một bài thơ văn xuôi khá dài: “Chim dồng dộc hong thơ trên cửa sài, gái thổ gài tổ chim trên lưng ngựa thồ... Chim dồng dộc bay về Nam phố... Chim dồng dộc bay về mùa lúa chín có sao phướn đi qua...”. Ta biết rằng tác giả Phạm Công Thiện nghiên cứu rất chuyên sâu về Phật Giáo, chắc những lời thơ được lặp lại như trên không hẳn chỉ là văn chương thuần túy. Vậy có thể cảm hứng bắt nguồn từ một trang kinh nào đó, hay từ một tập truyện tây phương lai láng huyền ảo tính Phật Giáo.
Sau cùng nhánh huyền ảo thứ sáu là ngôn ngữ có tính chất ngoại vi cảnh chùa. Đạo Phật đã thành nếp sống dân tộc từ ngàn năm trước, cho nên dù chưa hẳn là Phật tử thuần thành thì cảnh chùa, ngày rằm cúng Phật, ăn chay, cầu siêu quá vãng, lễ nghi cưới hỏi, tập tục tang ma... đã hằn nếp quen thuộc trong tâm hồn ta, hứng cảm vào thơ là sự tất yếu. Không phải thi ca truyền đạt giáo lý đạo Phật mà là thơ về cảnh chùa, tiếng chuông siêu thoát, ngày rằm trẩy hội... Sắc thái nầy dồi dào trong văn chương, vì vậy ta gọi đây là nhánh huyền ảo ngoại vi cảnh chùa. Văn xuôi về chùa Long Giáng, lá rụng trong “Hồn Bướm Mơ Tiên”, đi nhẹ vào hồn ta khi còn học ở lớp đệ lục Trung học (tức lớp 7, chương trình giáo dục trước 1975) qua các đoạn trích văn nhóm Tự Lực Văn Đoàn như Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam... Thi ca ngoại vi cảnh chùa đến với ta ở lớp đệ ngũ (lớp 8) khi học cổ văn, những trích đoạn trong tác phẩm “Chinh Phụ Ngâm” của bà Đoàn Thị Điểm. Một số câu thơ trác tuyệt văn chương, ám ảnh mãi vào lòng học sinh về cách dùng từ ngữ rất đắc địa:
- Giọt sương phủ bụi chim gù
  Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi
  (Đoàn Thị Điểm)
Còn biết bao nhiêu là thơ văn về ngoại vi cảnh chùa khi ta học dần lên, và đọc sách báo để tích trữ vào kiến thức. Tiện việc, chỉ cần lấy ra từ tập sách mới gần đây, cuốn “Tuyển Tập Thơ Văn Phật Giáo” (do Thái Tú Hạp thực hiện, nhà xuất bản Sông Thu, California, ấn hành năm 1993), là ta đã có một số câu thơ đẹp huyền ảo về ngoại vi cảnh chùa. Ví dụ:
- Tiếng chuông thức tỉnh lan ra mãi
  An ủi dân hiền mọi mái tranh
  (Huyền Không)
- Đàn mây tọc mạch nghiêng trên mái
  Ngắm nắng sân chùa, uống tiếng kinh
  (Luân Hoán)
- Hỏi đâu là chốn quê nhà đó
  Rả rích hiên chùa giọt nước rơi
  (Phan Ni Tấn)
- Thuyền ai vượt bến thanh khê
  Bến trăng tầm tã hạt mê mấy đời
  (Nghiêm Xuân Hồng)
- Chiều sương qua đồng không
  Nghe làng xa chuông đổ
  Ngân nga thấm tận lòng
  Ru hồn vào thiên cổ
  (Huy Trâm)
- Chiều nay
  Tiếng mõ khua vang trong trí nhớ chàng
  Cánh đồng lúa cất tiếng hát
  (Kiêm Thêm)
- Lạnh căm ngọn gió vô thường
  Nghịch lưu, thân cá dặm trường cố bơi
  (T.T. Mây Trên Ngàn)
Ngoại vi cảnh chùa, hoặc chỉ nhẹ nhàng phớt qua về ngôn ngữ đã phổ thông vào dân gian đại chúng như biển khổ trầm luân, thế gian vô thường, luân hồi nghiệp chướng, bờ mê bến giác, Niết Bàn tại tâm... Phân định từng nhánh sông huyền ảo là phân định về ngôn ngữ văn chương, không phải phán định khép kín từng tác giả. Có lắm người viết kiêm nhiệm vào nhiều nhánh huyền ảo. Ví dụ học giả Nghiêm Xuân Hồng có những câu thơ thuộc về tính kinh điển, hoặc thuộc về tính thâm viễn hư không thiền. Gần như các thi sĩ sáng tác thơ đều chập chờn giao thoa vào nhiều nhánh huyền ảo. Ví dụ qua thơ trích dẫn ở đoạn trước, người viết bài này phân định Thái Tú Hạp đã làm thơ giáo lý khoác áo trữ tình, vậy làm sao khép kín sự phân định ấy khi ta biết nhà thơ sắp xuất bản thi phẩm mang tên một câu thơ thuộc về nhánh huyền ảo Thiền Quán: “Giở Trang Vô Tự Trắng Nhòa Sắc Không. Nhưng cũng có nhà thơ chỉ chuyên (hoặc chỉ hứng cảm) với nhánh “giáo lý khoác áo trữ tình”, như thi sĩ Du Tử Lê qua hai bài thơ “Sơn Tự Thi” và “Vì Em Tôi Đã Làm Sa Di” (Thơ được trích dẫn căn cứ từ cuốn sách “Tuyển Tập Thơ Văn Phật Giáo). Rõ ràng là những câu thơ như “Yêu nhau ai bảo tâm không trụ? Quên hết. Nhìn nhau. Nhất quán rồi.Và những câu nói về thế Kiết Già(đã trích dẫn) đều thuộc về nhánh huyền ảo trữ tình mà thôi.
Sau cùng, cũng xin lặp lại một điều đã hiểu: Phân tích làm gì sự huyền ảo. Ví dụ, huyền ảo một đêm rằm, ta chỉ cần tắm mát tâm hồn trong đó, đâu cần phân tích thành sông suối huyền ảo, biển hồ huyền ảo, rừng núi huyền ảo, quần cư làng mạc huyền ảo, phố thị nhà cửa huyền ảo... Nhưng sau khi tắm mát huyền ảo, ta lên bờ ngồi thẩm định, đó cũng là một sảng khoái của tinh thần.
TRẦN VĂN NAM
Theo http://www.luanhoan.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...