Hàn Mặc Tử - Sao anh
ĐÂY THÔN VĨ DẠ
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Hàn Mặc Tử
Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ như một lời trách móc, đồng
thời cũng là lời mời gọi tha thiết, một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng của nhân vật trữ
tình với lời nhớ nhung da diết:
“Sao anh không về chơi thôn vĩ”
Sao đã lâu lắm rồi anh không trở về thăm thôn vĩ? hay nói đúng hơn là anh
không về thăm em, thăm lại người xưa. Đây là lời của nhân vật trữ tình đồng thời
cũng là lời của tác giả, ông ước mơ một lần được về lại thăm thôn vĩ để:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Cảnh vật của thôn vĩ thật nên thơ và tươi mát. Thôn vĩ - nơi có những hàng cau thẳng
tắp còn đọng lại những giọt sương đêm đang vươn mình đón “nắng mới lên”. Nắng
chiếu lên hàng cao vào buổi sáng kết hợp với sương đêm làm cho khu vườn ánh lên
màu “xanh như ngọc”. Rất xa là hình ảnh “nắng hàng cau nắng mới lên”, còn rất gần
lại là “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Mướt quá” gợi cảm giác tươi non tràn
đầy sức sống . Cảnh vật vừa xa lại vừa gần, vừa thực lại vừa ảo, vừa mơ hồ lại
vừa rõ ràng, tạo nên sự huyền ảo, lấp lánh của “vườn ai”.
Trong không gian ấy ta bắt gặp một khuôn “mặt chữ điền” của cô gái thấp thoáng sau những “lá trúc che ngang”. Tính cách thôn nữ hiện lên sự duyên dáng nhưng hàm chứa một chút tinh nghịch mà vẫn dịu dàng.
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Mặt chữ điền thường là kiểu khuôn mặt của đàn ông nên ta hiểu ở đây mặt cô gái không phải là mặt chữ điền mà nó được tạo nên bởi những lá trúc, điều đó đã tạo nên một khuôn mặt dịu dàng mà lại thật đáng yêu.
Hàn Mặc Tử hẳn đã mang trong lòng một tình yêu Huế tha thiết nên ông đã vẽ nên một bức tranh thôn vĩ bằng ngôn từ hết sức nên thơ và đậm đà bản sắc dân tộc.
Vừa vui vẻ, hạnh phúc đến say mê như lạc vào cõi tiên khi ký ức trở về với thôn vĩ là thế, bỗng chốc lại buồn bã, suy tư:
Trong không gian ấy ta bắt gặp một khuôn “mặt chữ điền” của cô gái thấp thoáng sau những “lá trúc che ngang”. Tính cách thôn nữ hiện lên sự duyên dáng nhưng hàm chứa một chút tinh nghịch mà vẫn dịu dàng.
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Mặt chữ điền thường là kiểu khuôn mặt của đàn ông nên ta hiểu ở đây mặt cô gái không phải là mặt chữ điền mà nó được tạo nên bởi những lá trúc, điều đó đã tạo nên một khuôn mặt dịu dàng mà lại thật đáng yêu.
Hàn Mặc Tử hẳn đã mang trong lòng một tình yêu Huế tha thiết nên ông đã vẽ nên một bức tranh thôn vĩ bằng ngôn từ hết sức nên thơ và đậm đà bản sắc dân tộc.
Vừa vui vẻ, hạnh phúc đến say mê như lạc vào cõi tiên khi ký ức trở về với thôn vĩ là thế, bỗng chốc lại buồn bã, suy tư:
“Gió theo lối gió, mây đường mây”
Câu thơ chia thành hai vế: “gió theo lối gió/ mây đường mây”. Gió và mây là đôi
bạn tâm giao trong vũ trụ vậy mà lại quay lưng lại với nhau, hình thức diễn đạt
thật tinh tế, chân thực, nó chứa đựng một nội dung tinh tế. Gió cuộn mình trong
gió, mây cuộn mình trong mây, mây và gió như những kẻ xa lạ, quay lưng lại với
nhau mang hai nỗi buồn bã, cô đơn. Điều này là một sự thật nghịch lí thế nhưng
trong văn chương lại chấp nhận cái phi lí ấy.
Bầu trời buồn bã là thế, mặt đất cũng chẳng vui gì hơn:
Bầu trời buồn bã là thế, mặt đất cũng chẳng vui gì hơn:
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Ở đây, tác giả dùng thủ pháp nhân hóa “dòng nước buồn thiu” như cõi lòng người
đang mỏi mệt, nỗi lòng quạnh hiu. Mặt nước buồn, lòng sông buồn nên bờ bãi cũng
u sầu. “Hoa bắp lay” gợi tả sự khô héo, tàn úa, hoa bắp khẽ lay trước gió.
Sự tương phản của hình ảnh, tâm trạng và tứ thơ của hai khổ thơ và lời mời mọc kia còn vương lại chút say của lòng người, chẳng khác gì:
Sự tương phản của hình ảnh, tâm trạng và tứ thơ của hai khổ thơ và lời mời mọc kia còn vương lại chút say của lòng người, chẳng khác gì:
“anh đi đường anh, tôi đường tôi
Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi”
Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi”
Mỗi người mỗi nẻo, quay lưng lại với nhau không bận tâm, quyến luyến, cảnh vật
mang một nỗi buồn da diết đến thế!
Thế nhưng khi đêm xuống trăng lên, tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng thay đổi:
Thế nhưng khi đêm xuống trăng lên, tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng thay đổi:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Có chở trăng về kịp tối nay”
Trăng gắn liền với thơ của Hàn Mặc Tử, ông có rất nhiều bài thơ viết về trăng:
“Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò”
Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò”
(trăng ngọc trăng vàng)
có:
“trăng nằm sóng soải trên cành cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”
Đợi gió đông về để lả lơi”
(bẽn lẽn - gái quê)
Với Hàn Mặc Tử có trăng là có sông trăng, có đời là có bến để đợi chờ, có sông
là có thuyền về trú ẩn. Đây cũng chính là nét đặc sắc của bài thơ. Một
bức tranh thật trữ tình, lãng mạn. Thuyền và sông trăng thật đẹp và hài hòa biết
bao. Câu hỏi tu từ vang lên như một nỗi lòng khắc khoải, đợi chờ, ngóng trông
được gặp gương mặt sáng như trăng của người thôn vĩ trong lòng thi nhân. Như thế
mới biết nỗi lòng của nhà thơ dành cho người con gái xứ Huế tha thiết đến nhường
nào. Nhà thơ sợ mình sẽ lở hẹn cùng trăng, cùng người con gái Huế hay đúng hơn
là sợ cô gái bị lỡ làng vì thuyền kia sẽ không kịp về bến hay sẽ không bao giờ
về bến xưa để bến nơi đây thấp thỏm chờ mong, em nơi đây vẫn đợi vẫn chờ.
Khi con người ta không còn tha thiết với thực tại thì lại tìm đến với hư ảo, vô cùng:
Khi con người ta không còn tha thiết với thực tại thì lại tìm đến với hư ảo, vô cùng:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa”
Câu thơ có lối ngắt nhịp rất lạ 1/3/3: Mơ/ khách đường xa/ khách đường xa. Điệp
ngữ “khách đường xa” là khách thể, mà chủ thể ngồi đây đang mong ngóng đến nao
lòng: và đấy là “mơ”. “Mơ” là những gì chưa xảy ra trong hiện thực, mơ về một
người đang chập chờn lúc ẩn lúc hiện, vì vậy, mà cái nhìn qua đôi mắt của nhà
thơ tấc cả đều trở nên hư ảo:
“Áo em trắng quá nhìn không ra”
Xứ Huế mộng mơ, lắm sương khói. Sương khói đã trắng mà còn thêm màu áo em “trắng
quá”. Màu trắng quá là màu không bình thường, đó là màu của hư vô, màu của
riêng Hàn Mặc Tử. Hình ảnh của người thiếu nữ như tan loãng trong cái màu trắng
và màu sương khói huyền ảo ấy khiến nhà thơ “nhìn không ra” và biến tất cả
thành “mờ nhân ảnh” tất cả như trôi vào hư vô:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
Cũng chính vì thế mà nhà thơ cảm thấy băn khoăn, chơi vơi, hụt hẫng. Tác giả tự
hỏi “ở đây” là ở đâu? Huế hay Quy Nhơn hay là trong giấc mơ của Hàn Mặc Tử. vì
cả Huế và Quy Nhơn đều có sương giăng vào những ngày cuối thu và đầu xuân, tác
giả không xác định được không gian vì khói sương của đất trời đã làm mờ đi tất cả chỉ còn một lòng thiết tha hướng tới tình người.
Bài thơ được mở đầu và kết thúc cũng bằng một câu hỏi tu từ:
Bài thơ được mở đầu và kết thúc cũng bằng một câu hỏi tu từ:
“Ai biết tình ai có đậm đà”
Câu hỏi là sự băn khoăn, day dứt của nhà thơ. Hàn Mặc Tử như tự hỏi: cảnh vật
và con người ở đây lung linh quá, mờ ảo quá như sương như khói. Câu hỏi tu từ
có hai từ ai: “ai biết”, “ai có” vừa bộc lộ tình yêu thương vừa khao khát được
yêu thương nhưng lại chứa đầy vô vọng. vì không biết “ai có tình ai có đậm đà”
không nên anh chưa “về thăm thôn vĩ”. Toàn bài thơ là một vòng khép kín, mở đầu
bằng một câu hỏi để đưa tác giả quay về với thôn vĩ trong tâm tưởng và câu hỏi
kết thúc bài thơ lại kết thúc hành trình đó. Những câu hỏi được đưa ra tăng dần
theo cấp bậc: “sao anh không về chơi thôn vĩ?”, “vườn ai mướt quá xanh như ngọc?”,
“thuyền ai đậu bến sông trăng đó?”, “ai biết tình ai có đậm đà?”, những câu hỏi
xoáy sâu vào nội tâm của tác giả đang nhớ tới người mình yêu thương. Nếu so
sánh trong hệ thống bài thơ ta bắt gặp từ “ai” lặp đi lặp lại bốn lần. “Ai” - là
một người nào đó không xác định là nhà thơ hay là cô gái? Đây có phải là nỗi
lòng của tác giả đã ẩn chứa một tình yêu sâu kín trong tâm hồn và muốn bộc bạch
tâm trạng của mình cho người đọc hiểu và cảm thông - một cái tôi trữ tình hết sức
lãng mạn và thắm thiết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét