Trong làng thơ, Xuân Quỳnh nổi tiếng rất sớm. Từ năm 1963, chị
đã có “Thuyền và biển” và từ năm 1967, chị đã có “Sóng”. Trong sổ tay thơ của
nhiều học sinh, sinh viên một thời, hai bài thơ này được “lưu hành” khá phổ biến…
1. Đầu tháng 9 năm 1978, với “lưng vốn” ít ỏi trên dưới 10 bài
thơ, tôi mạnh dạn đến 17 Trần Quốc Toản tìm nữ sĩ Xuân Quỳnh. May mắn là ngay từ
lần đầu tiên đến Báo Văn nghệ, tôi đã được gặp nhà thơ mà mình yêu thích và hâm
mộ từ rất lâu rồi.
Tôi nói rất thành thật: “Em vốn là lính miền Tây Nam Bộ, mới
ra quân, vừa từ Cần Thơ trở về Hà Nội. Em có ít thơ, muốn nhờ chị đọc và thẩm định
hộ”. Cầm tập bản thảo và đọc lướt qua, Xuân Quỳnh nói: “Anh mới ở trong ấy ra
à? Ở Cần Thơ có nhà thơ Nguyễn Bá đấy. Anh ấy làm thơ cũng lâu rồi. Mặc dù tôi
không có nhiệm vụ thẩm định thơ, nhưng khoảng một tuần nữa anh cứ quay lại đây
tìm tôi. Không hiểu sao, tôi lại muốn đọc thơ của một người từng là lính, vẫn
còn trẻ tuổi như anh”.
Đúng hẹn, bảy ngày sau tôi quay lại Báo Văn nghệ. Xuân Quỳnh
bảo: “Tôi đã đọc… Thơ của anh chưa đăng chùm được, chỉ đăng lẻ được thôi! Tôi
đã chọn của anh vài bài, để dùng dần. Số đầu tháng 10 tới, có thể bài “Thành phố
tôi yêu” sẽ đăng… Vài ngày tới, tôi sẽ chuyển sang Nhà xuất bản Tác phẩm mới,
65 Nguyễn Du, phụ trách mảng sách chuyên đề, mỗi quý xuất bản một lần. Có thơ
phù hợp, anh cứ gửi cho tôi, đừng ngại!”.
Nghe chị thông tin mà tôi mừng rơn và thầm cảm ơn chị. Nhưng
cho đến giờ, tôi vẫn không hiểu và tự thắc mắc: Tại sao ở hai lần gặp gỡ ban đầu
ấy, chị lại gọi “anh” và xưng “tôi” với tôi, cho dù đối với tôi, chị là “bề
trên” về thơ và “bề trên” về mặt tuổi tác.
Rồi bài thơ đầu tiên của tôi được đăng trên Báo Văn nghệ cùng
với “Xóm Hạ Hồi” của Thi Nhị, “Thành phố, ngày trở lại” của Nguyễn Đình Chính,
“Sông Tô” của Trần Việt Dũng… trong trang thơ nhân dịp 10.10. Năm sau, nhờ sự
quan tâm và động viên kịp thời của Xuân Quỳnh, tôi lại được ra mắt độc giả đến
2- 3 lần nữa bằng 2- 3 bài thơ nữa, trong phần sách do chị biên tập và phụ
trách. Rồi cũng từ đó mà tôi với chị trở nên thân quen hơn.
Có lần chị hỏi tôi: “Sao giấy được dùng làm bản thảo của
Giang tốt, đẹp và trắng đến thế? Giang lấy ở đâu ra vậy? Thú thực là đã có một
vài lần, mình tận dụng được vài mảnh nho nhỏ đấy - những chỗ còn trống ở dưới mỗi
bài thơ… Mình quý những mảnh giấy nhỏ nhỏ ấy lắm. Và có câu thơ nào hay, chép
lên đó, thì thật là tuyệt!”. Tôi trả lời: “Có gì đâu ạ. Chỉ đơn giản thế này:
Đây là những tờ giấy một mặt trắng, một mặt đã in những dòng chữ của những tài
liệu không có gì quan trọng, đã cũ, được thải loại từ Văn phòng UNICEF (Quỹ Nhi
đồng Liên hiệp quốc) tại Hà Nội. Ông già vợ em đang làm việc ở đấy. Thỉnh thoảng
cụ mang về cho em. Và em đã chép những bài thơ mới viết lên đó”.
Vậy là những ngày ấy, chị không hoàn toàn ấn tượng về thơ
tôi, mà có lẽ chỉ ấn tượng với những trang bản thảo của tôi.
Sau này, khi có lần trò chuyện với nhà thơ Mai Phương, tôi mới
hiểu vì sao Xuân Quỳnh lại quan tâm đến những trang giấy “tốt, đẹp và trắng đến
thế”. Nhà thơ Mai Phương kể: “Ở Hội nghị Những người viết văn trẻ lần đầu tiên
do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức vào ngày 6.4.1959 tại Thái Hà Ấp (Hà Nội), có
lần nhà thơ Hoàng Trung Thông phát biểu: Các bạn viết phải nỗ lực, phải hết sức
cẩn thận, phải cố chứng minh mình là người có một khả năng nào đó, kẻo phí giấy
tốn mực…”. Trong dịp này, nhà thơ Mai Phương nhấn mạnh: “Tôi nghĩ, đó là một ý
kiến rất chân thành và thực tế, được dùng theo nghĩa đen. Như thế là đã có một
thời, đất nước ta thiếu thốn đủ thứ, kể cả giấy và mực”.
2. Trong làng thơ, Xuân Quỳnh nổi tiếng rất sớm. Từ năm 1963,
chị đã có “Thuyền và biển” và từ năm 1967, chị đã có “Sóng”. Trong sổ tay thơ của
nhiều học sinh, sinh viên một thời, hai bài thơ này được “lưu hành” khá phổ biến.
Những câu:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”;
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau“;
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương
Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vàn cách trở“…
luôn gây được ấn tượng mạnh trong giới trẻ.
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”;
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau“;
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương
Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vàn cách trở“…
luôn gây được ấn tượng mạnh trong giới trẻ.
Còn “Thuyền và biển” thì có người đã bình: “Bài thơ được nữ
sĩ Xuân Quỳnh viết từ năm 1963. Đến nay, đã có tuổi đời trên nửa thế kỷ rồi. Vậy
mà ta vẫn nghĩ Xuân Quỳnh mới viết cách nay không lâu. Nghĩ vậy là vì “Thuyền
và biển” vẫn còn mới, đến tận hôm nay.
Cái giỏi của người viết là gắn được cái hữu hạn (thuyền) với
cái vô hạn (biển) để khẳng định:
“Chỉ có thuyền mới biết
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu, về đâu”.
“Chỉ có thuyền mới biết
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu, về đâu”.
Hai người gần nhau mà biết kỹ đến từng sợi tóc đường tơ của
nhau như thế thì thật hiếm hoi.
“Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau, rạn vỡ“.
Hai người xa nhau mà buồn khổ về nhau như thế, thì chắc hẳn họ yêu nhau lắm lắm. Nhưng cái cốt tử của tình yêu là họ đã có một bến bình yên khi kết hợp với nhau. Cho nên mới có chuyện:
“Nếu từ giã thuyền rồi/
Biển chỉ còn sóng gió”
và:
“Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố“.
“Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau, rạn vỡ“.
Hai người xa nhau mà buồn khổ về nhau như thế, thì chắc hẳn họ yêu nhau lắm lắm. Nhưng cái cốt tử của tình yêu là họ đã có một bến bình yên khi kết hợp với nhau. Cho nên mới có chuyện:
“Nếu từ giã thuyền rồi/
Biển chỉ còn sóng gió”
và:
“Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố“.
Tất nhiên, bên cạnh hai áng thơ này, Xuân Quỳnh còn nhiều áng
thơ khác như “Hoa cỏ may”, “Gió Lào cát trắng”, “Thơ tình cuối mùa thu”… nữa.
Trong làng thơ, Xuân Quỳnh được coi là một người có chất thi
sĩ bản năng, tinh tế và đằm thắm. Bên cạnh đó, thơ của chị luôn đem đến cho người
đọc những phát hiện mới mẻ. Chị đã góp phần khẳng định: Không có thơ mới, thơ
cũ, mà chỉ có thơ hay. Và chỉ có thơ hay mới chống lại được sự thải loại của thời
gian, cập nhật với đời sống.
Ở mảng văn thơ dành cho thiếu nhi, Xuân Quỳnh cũng có những
tác phẩm đặc sắc. Ngoài những truyện ngắn được viết rất cảm động: “Thầy giáo dạy
vẽ”, “Bà bán bỏng cổng trường tôi”, “Người làm đồ chơi”… chị còn có nhiều bài
thơ khác lạ: “Bầu trời trong quả trứng”, “Truyện cổ tích về loài người”, “Con
yêu mẹ”, “Cái ngoan của Mí”, “Chùm thơ xuân tặng ba con nhỏ”…
Trong “Con yêu mẹ”, “Chùm thơ xuân tặng ba con nhỏ”, “Cái
ngoan của Mí” có những câu đáng nhớ:
“À mẹ ơi có con dế
Luôn trong bao diêm con đây
Mở ra là con thấy ngay
Con yêu mẹ bằng con dế“;
“Ban ngày làm bằng nắng
Màu xanh làm bằng cây
Quả ớt làm bằng cay
Tiếng ồn sinh tàu điện”
hay:
“Cái ngoan mà đem cho
Thì lại ngoan hơn nữa“…
“À mẹ ơi có con dế
Luôn trong bao diêm con đây
Mở ra là con thấy ngay
Con yêu mẹ bằng con dế“;
“Ban ngày làm bằng nắng
Màu xanh làm bằng cây
Quả ớt làm bằng cay
Tiếng ồn sinh tàu điện”
hay:
“Cái ngoan mà đem cho
Thì lại ngoan hơn nữa“…
Tôi có cảm giác: Chính chị chứ không phải ai khác, đã có công
thi vị hóa những gì thật gần gũi, giản dị thành sâu sắc, thích hợp với tâm lý
trẻ thơ. Cho nên, cũng thật dễ hiểu khi “Bầu trời trong quả trứng” của chị được
xếp trong “Tủ sách vàng - tác phẩm chọn lọc dành cho thiếu nhi” của Nhà xuất bản
Kim Đồng và đã được tái bản cả chục lần.
3. Trong “Nhớ Quỳnh” (“Ý Nhi tuyển tập”), nhà thơ Ý Nhi - một người
bạn rất thân của Xuân Quỳnh viết: “Những điều tưởng khó khăn, phức tạp, nghiêm
trọng khi được Quỳnh “hóa giải” lại thành giản dị, sáng sủa. Và bao giờ cũng
mang khí vị hài hước.
Trong lúc người ta tổ chức hội thảo, tổ chức tranh luận: Làm
thế nào để đổi mới thơ thì Quỳnh nói tỉnh khô: Đổi mới thơ là làm thơ cho hay.
Có người không viết được nhưng lại cứ đòi hỏi điều kiện này khác, Quỳnh bảo, chẳng
hiểu cậu ấy sử dụng tự do vào việc gì. Cứ loanh quanh như chó nằm chổi ấy. Rồi
Quỳnh nghiêm trang: Phải tự tìm lấy tự do chứ đi xin ai”.
Qua những lần tiếp xúc, tôi cũng nhớ láng máng được những câu
nhận xét của chị về người này người nọ, mang khí vị ấy: “Cái tay này có đắp lên
mặt mấy bánh xà phòng thơm Camay cũng không sạch sẽ thêm được”; “Ăn thì rau muống
luộc, mặc thì áo may ô năm lỗ, đi thì tứ thời guốc mộc, vậy mà suốt ngày đọc
thơ như ve”…
Cũng có lúc chị lại thẳng băng trong cách hành xử. Có một nhà
thơ “thường thường bậc trung” thường quấy rầy chị tại nhà riêng và khi đến, thường
chỉ hỏi hai câu: “Chị đã đọc những bài thơ mới của tôi chưa? Bao giờ thơ tôi được
đăng báo?”. Chị trả lời: “Tôi có nhiều việc phải làm, phải lo. Thôi, từ nay ông
đừng đến nhà tôi nữa. Thơ ông có như thế nào, tôi cũng cố gắng chọn để đăng…”.
Tương tự, có nhà thơ làm thơ chưa ra sao, cũng làm và hỏi thường
xuyên như thế, chị bảo: “Thơ thẩn gì. Ánh sáng, bóng tối gì. Cứ tạm để đấy đã.
Tôi còn đang tối tăm mặt mũi lo mua gạo, mua rau để chăm chồng, nuôi con đây”.
Có lần, tôi không khỏi ngạc nhiên khi nghe chị đọc một câu:
“Thơ đã qua miệng hổ/ Còn lọt vào tai trâu”. Không tìm hiểu kỹ cái gốc gác của
câu gần như là thành ngữ rất “cục bộ” này, qua cách nói của chị, tôi hiểu ra một
tin nhắn ngầm: Vì hai lý do trên mà thơ ở nơi này lên được mặt báo, chắc chắn
là gian truân lắm.
Nữ sĩ Xuân Quỳnh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học
nghệ thuật cách nay đã lâu. Mới đây, TP HCM đã có một con phố mang tên
chị. Chỉ nay mai thôi, chị có nhiều khả năng được truy tặng Giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật. Đến lúc ấy, hy vọng ở Hà Nội sẽ có một con phố mới
mang tên chị.
Đặng Huy Giang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét