Tìm thấy một nhạc phẩm
của Đặng Thế Phong
của Đặng Thế Phong
Báo
Tiền phong (TP) (11/1/2006): Cho đến nay, giới nghiên cứu âm nhạc chỉ
biết Đặng Thế Phong qua đời ở tuổi 22 và có 3 bài hát: Con thuyền không bến,
Đêm thu và Giọt mưa thu. Nhưng ông còn có nhạc phẩm Gắng bước
lên chùa.
Trong đó, Con thuyền không bến lúc đầu có tên Vạn
cổ sầu. Thông qua Lê Thương, Thế Lữ, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Cao
Luyện, Nguyễn Đình Phúc, Nguyễn Văn Thương, v.v…, tôi được biết: Đặng Thế Phong
còn là tác giả một số nhạc phẩm khác.
Đồng thời, ông còn có mối quan hệ về mặt sáng tác với nhà văn
chuyên viết truyện trinh thám Phạm Cao Củng.
Bộ sưu tập các bài hát Việt Nam từ khoảng 1937 tới 1975 của
tôi không có nhạc phẩm nào mà Đặng Thế Phong và Phạm Cao Củng là đồng tác giả.
Cho tới một hôm…
Cuối năm 1993, tôi lên Đà Lạt dự kỷ niệm Đà Lạt một trăm tuổi.
Một buổi chiều, đang đắm mình trong cảnh vật trầm lắng của một ngôi chùa lớn,
giữa tiết trời mưa rét, tôi nghe tiếng hát của một người khoảng trên năm mươi
tuổi đứng gần cổng chùa. Người đó hát nhè nhẹ, cách hát tỏ rõ ông hiểu âm nhạc.
Tôi làm quen với ông. Tôi bảo ông có giọng hát khá hay. Ông
cười và hát lại cả bài. Tôi ngạc nhiên vì bài hát nói về chuyện lên chùa qua những
âm điệu gần gũi với đặc trưng nơi cửa Phật.
Tôi nói: Lần đầu tiên, tôi được biết bài này. Nó làm cho tôi
nhớ tới ca khúc Kinh khổ (Lời và nhạc: Trầm Tử Thiêng) mặc dầu hai ca
khúc có nhiều nét khác nhau.
Ông khen tôi biết thẩm âm. Rồi ông cho biết: Bài hát vừa rồi
có tên Gắng bước lên chùa - Nhạc: Đặng Thế Phong. Lời: Phạm Cao Củng.
Tôi hỏi: Có phải Đặng Thế Phong tác giả Con thuyền không
bến và Phạm Cao Củng tác giả nhiều truyện trinh thám hay không?
Ông nói: Đúng, đúng! Rồi ông hẹn tôi: Hôm sau, khoảng 15 giờ,
cũng tại chùa này, đến gặp ông để tiếp tục câu chuyện liên quan đến bài hát nói
trên.
Đúng hẹn, tôi đến. Trời vẫn rét nhưng khô ráo.
Người đàn ông mang theo một cây đàn ghita. Ông hát và tự đệm
đàn bài hôm trước. Giọng trầm ấm và thiết tha. Sau đó, ông cho tôi xem một bức ảnh
chụp ca khúc Gắng bước lên chùa do chính tay Đặng Thế Phong viết nắn
nót cả nhạc lẫn lời.
Dưới đầu đề Gắng bước lên chùa, Đặng Thế Phong ghi rõ:
Nhạc: Đặng Thế Phong. Lời: Phạm Cao Củng. Cuối ca khúc, có dòng chữ: Tặng
Hoàng Quý - Hà Nội, 1 Mai 1940 (tức mồng 1 tháng 5 - 1940).
Ông cho biết thêm: Bức ảnh này do cụ Phúc Lai, một chủ hiệu ảnh
rất nổi tiếng ở Hà Nội và Hải Phòng lúc bấy giờ, chụp tại Hà Nội cho bố ông khoảng
cuối năm 1940.
Ảnh chụp từ bản có dòng chữ đề tặng nói trên cho nhạc sĩ
Hoàng Quý (tác giả Cô láng giềng, Cảm tử quân) - anh ruột của Hoàng Phú tức
GS nhạc sĩ Tô Vũ.
Nhạc sĩ Hoàng Quý quen bố ông và đã cho bố ông mượn bài hát
có lời đề tặng ấy để bố ông nhờ cụ Phúc Lai chụp làm kỉ niệm. Bố ông qua đời tại
Đà Lạt năm 1991. Nhưng khoảng năm 1970, tại Sài Gòn, bố ông đã góp phần vào việc
xuất bản tuyển tập nhạc Hoàng Quý.
Tôi hỏi tên ông và tên cụ nhưng ông trả lời: Vì lí do riêng,
không thể cho biết. Tuy nhiên, ông nhiệt tình nói rõ: Ca khúc này, theo bố ông,
đã in trên nhật báo Tin Mới khoảng đầu năm 1940.
Hồi giải phóng Sài Gòn, cùng cả gia đình dời Sài Gòn lên Đà Lạt,
bố ông bỏ lại hết, kể cả trọn bộ tạp chí Nam Phong và trọn bộ báo Phụ Nữ Tân
Văn.
Mùa đông. Chưa đến xế chiều trời đã trở nên mờ xám. Gió lạnh.
Tôi phải đi xe ôm về nhà trọ ở xa ngôi chùa chúng tôi đang trò chuyện khoảng 5
cây số. Vì thế, không thể đi phô-tô-cóp-pi bức ảnh chụp bài hát nói trên được.
Thật đáng tiếc!
Từ đó đến nay, tôi không được gặp lại người bạn quý ấy nữa.
Gần hai tuần sau, trở về TPHCM, tôi gặp ngay người chủ một tiệm
sách báo cũ mà từ mười mấy năm nay tôi là khách quen, hỏi anh có báo Tin Mới hay
không. Anh bảo: Khó lắm! Để em tìm!
Tôi ghi số điện thoại bàn cho anh chủ tiệm.
Một chiều cuối thu 2003, anh chủ tiệm sách cũ điện thoại cho
tôi, bảo đến tiệm anh ngay. Tôi vừa tới, anh lập tức đưa ra hai tập Tin Mới đóng
gáy da từ tháng Giêng đến hết tháng Chạp 1940, trong đó khoảng bốn chục số bị mất.
Rất mừng: Có một số in bài hát Gắng bước lên chùa. Đó là
số Jeudi 4 Avril 1940 (tức thứ Năm, mồng 4 tháng 4 năm 1940).
Tôi nghẹn ngào tưởng như Đặng Thế Phong đang đứng trước mặt,
và, những trang truyện trinh thám Phạm Cao Củng hồi nhỏ tôi đọc ở Thủ đô Hà Nội
bỗng hiện ra trước mắt, chập chờn!!!
Tôi đề nghị anh chủ tiệm đi cùng tôi đến một cửa hàng ở đường
Hai Bà Trưng để photocopy và xin anh nhận một số tiền nào đó tương đối lớn của
tôi.
Anh bảo: Mười năm lặn lội đi tìm một bản nhạc của một nhạc sĩ
lỗi lạc. Mười mấy năm anh mua sách báo cũ của em và nhiều tiệm khác... Em chẳng
những không lấy một đồng của anh mà còn biếu anh tiền photocopy bài hát đó.
22 giờ, trời se lạnh.
Tôi ôm một tập Tin Mới ngồi sau xe máy do anh chủ
tiệm sách báo cũ điều khiển phóng đến một cửa hàng photocopy trên đường Hai Bà
Trưng (Tân Định, quận 1).
Xong việc, anh đèo tôi về tiệm của anh để tôi lấy xe đạp.
Tôi nâng niu hồi lâu ca khúc Gắng bước lên chùa trước khi bắt
tay cảm ơn anh bạn, ra về.
Gần 23 giờ. Đường vắng. Trong gió se lạnh phả vào mặt, tôi đạp
xe từ từ trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Khi qua cửa chùa Vĩnh Nghiêm, tôi chợt
nghĩ: Thế là… mình đã Gắng bước lên chùa…
Đã hơi khuya. Gió heo may có vẻ mạnh hơn.
Đêm nay thu sang cùng heo may… Bến mơ dù thiết tha, thuyền ơi
đừng chờ mong…
Nhật Hoa Khanh
Cùng tác giả:
- Giọt mưa thu - Đặng Thế Phong
- Con thuyền không bến - Đặng Thế Phong
- Đêm thu - Đặng Thế Phong
- Giọt mưa thu - Đặng Thế Phong
- Con thuyền không bến - Đặng Thế Phong
- Đêm thu - Đặng Thế Phong
Đọc thêm: Đặng Thế Phong - Tài hoa bạc mệnh
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau
(Nguyễn Du)
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau
(Nguyễn Du)
Suy từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, người tài hoa là người bạc
mệnh, kẻ hồng nhan thường đa truân. Nhìn vào làng nhạc, nhạc sĩ Đặng Thế Phong
là điển hình rõ nét nhất.
Đặng Thế Phong sinh năm 1918 tại thành phố Nam Định. Ông là
con trai Đặng Hiển Thế, thông phán Sở trước bạ Nam Định. Thân phụ ông chẳng may
mất sớm, gia đình túng thiểu, ông phải bỏ học khi đang theo học năm thứ hai bậc
thành chung (deuxième année primaire supérieure, nay là lớp bảy cấp hai phổ
thông). Vướng vào cái nghiệp văn nghệ từ thủa còn nhỏ nên ông đã lên Hà Nội
theo học trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (Ecole supérieure de Beanx Arts) với
tư cách bàng thính viên (auditeur libre). Đặng Thế Phong đã thực sự lấy nghề
nuôi nghiệp: thời gian theo học này, ông đã phải vẽ tranh cho báo Học Sinh (chủ
báo là nhà văn Phạm Cao Củng) để có tiền ăn học. Trong một kỳ thi, ông đã vẽ một
bức tranh cây cụt, không có một cành nào. Lúc nạp bài, giáo sư Tardieu, thầy dạy
ông đã nói rằng có lẽ Đặng Thế Phong không thọ!
Ông đã phiêu du vào Sài Gòn rồi sang Nam Vang vào đầu năm
1941 và mở một lớp dạy nhạc tại kinh đô xứ Chùa Tháp cho đến mùa thu 1941 ông lại
trở về Hà Nội.
Cũng giống như Mozart lúc sinh thời, Đặng Thế Phong là một nhạc
sĩ rất nghèo, nên cuộc sống của ông chật vật. Ngoài tài làm nhạc, vẽ tranh, ông
còn có giọng hát khá hay, tuy chưa được là Ténor nhưng cũng được khán giả hâm mộ.
Lần đầu tiên ông lên sân khấu, hát bài Con Thuyền Không Bến tại rạp
chiếu bóng Olympia (phố Hàng Da Hà Nội) vào năm 1940, được hoan nghênh nhiệt liệt.
Đặng Thế Phong là một thiên tài, nhưng vẫn không có được cuộc sống sung túc giữa
cố đô Thăng Long lúc bấy giờ vì nhạc và tranh dù có hay, có đẹp đến mấy chăng nữa
cũng chẳng có mấy ai mua. Thời ấy, chính quyền bảo hộ Pháp có mở một phòng triến
lãm tranh tại hội Khai Trí Tiến Đức, khu Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Sau lễ khai mạc được
ông Đốc Lý thành phố Hà Nội đến cắt băng, người ta thấy những người đến xem
tranh phần rất lớn toàn là ông Tây, bà đầm, còn người Việt thì đúng là lơ thơ
tơ liễu buông mành, nhìn kỹ thấy toàn là các quan ta, những công chức cao cấp,
giới trí thức, thượng lưu chứ chẳng thấy một dân thường nào! Ngoài ra, thời bấy
giờ chính quyền Pháp có tổ chức mở phòng triển lãm là bảo trợ cho các hoạ sĩ
Pháp trưng bày tranh của mình còn hoạ sĩ Việt Nam thì số người lọt được vào, ta
có thể đếm trên đầu ngón tay. Đến nhạc thì nếu có in, mỗi lần xuất bản cũng chỉ
in nhiều nhất là 500 bản, dân chúng chưa yêu chuộng nhạc cải cách (tân nhạc) nên
dù có thực tài thì cũng không thể có được một cuộc sống sung túc nếu nhờ vào sức
lao động nghệ thuật!
Đặng Thế Phong phải chịu một cuộc sống khó khăn, chật vật
trong "kiếp con tằm đến thác vẫn còn vương tơ" cho đến đầu năm 1942,
ông từ giã cõi đời tại căn gác hẹp ở phố Hàng Đồng Nam Định vì bệnh lao màng (tuberculose
péritonique), hưởng dương 24 tuổi, tuổi son trẻ, đầy thơ mộng, sắp bước vào thời
xây dựng sự nghiệp (tam thập nhi lập).
Cuộc đời của Đặng Thế Phong thật quá ngắn ngủi nhưng đời sống
tinh thần của ông rất phong phú và thi vị. Nhờ thế mà tuy sáng tác chỉ có ba
bài: Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu.
Nhưng bài nào cũng trở thành vĩnh cửu, qua hơn nửa thế kỷ vẫn
là những bài hay nhất của làng nhạc Việt Nam. Nhạc hứng chân thành đều phát xuất
từ con tim, vì thế mà sáng tác của ông có hồn, đi vào lòng người và sống mãi !
Qua Đặng Thế Phong, ta chứng minh được văn nghệ tính phẩm chứ không tính lượng
(quý hồ tinh bất quý hồ đa). Con người làm văn nghệ viết được một câu để đời đã
là khó, được một tác phẩm để đời là đáng mãn nguyện lắm rồi. Với âm nhạc, người
chuyên sư? dụng một nhạc cụ cho thật điêu luyện được tôn kính hơn là người biết
sử dụng nhiều thứ đàn, chẳng thế nào có được một thứ thật tuyệt hảo. Về sáng
tác cũng vậy, làm cho nhiều, cố nặn cho lắm, thê? điệu nào cũng có bài thì dù
viết cả ngàn bài chưa chắc đă có lấy một bài có giá trị nghệ thuật và vĩnh cửu!
Chỉ sáng tác có ba bài thôi, Đặng Thế Phong đã sống mãi trong lòng mọi người,
chắc chắn là hơn người có cả ba trăm bài mà chẳng có một bài nào để người ta nhớ!.
Với nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng, muốn thành công
là phải có tài năng thiên phú chứ không thể nhờ vào thời gian, kiên nhẫn, sách
vở, trường lớp hay bằng cấp mà đạt được! Vì thế chúng tôi dám tôn vinh Đặng Thế
Phong là một thiên tài của làng nhạc Việt, thật không ngoa.
Cuộc đời Đặng Thế Phong đã có được một mối tình thật chung thủy
tuyệt đẹp : Khi còn ở Nam Định, Đặng Thế Phong đã đem lòng yêu một thiếu nữ
buôn bán ở Chợ Sắt, chợ duy nhất và lớn nhất của thành phố. Cô này không đẹp
nhưng lại rất có duyên. Sau nhiều ngày đi chơi chợ, Đặng Thế Phong đã lọt vào mắt
mỹ nhân. Cặp tình nhân trai tài, gái đảm đã dìu nhau vào cuộc tình thật trong
sáng và cao thượng! Điều đáng ca ngợi là chàng nhạc sĩ tài hoa họ Đặng không
bao giờ đụng chạm đến đồng tiền của người yêu, dù cho người đẹp, tên Tuyết, nhiều
lần khôn khéo bày tỏ lòng mình muốn giúp chàng. Những buổi chiều trời quang,
mây tạnh hay gió mát, trăng thanh, hai người đều dìu nhau trên những con đường
ngoại ô để tâm tình. Thời bấy giờ, nhiều thanh niên rất ngưỡng mộ Đặng Thế
Phong, khi biết mối tình của cặp Phong - Tuyết, đều mến trọng và tôn kính là một
cuộc tình lý tưởng!
Đặc biệt nhất là mấy cô gái phố Hàng Đồng, gia đình rất khá
giả tỏ lòng yêu mến Đặng Thế Phong, nhưng ông vẫn một lòng yêu cô Tuyết, dù cô
không đẹp bằng mấy cô kia. Có một hôm, mấy cô kia đang đứng nói chuyện với nhau
thấy Đặng Thế Phong đi qua, với lối đi có vẻ vội vã. Thấy bóng ông, mấy cô
ngưng bặt, rồi chẳng cô ai bảo cô nào, tất cả ánh mắt đều hướng về ông như dán
chặt vào người ông vậy. Khi Đặng Thế Phong vừa bước tới ngang chỗ các cô thì một
giọng nói đầy hờn dỗi pha thêm mai mỉa, được nói lớn lên, cố ý cho Đặng Thế
Phong nghe thấy:
- Mấy chị đứng dịch ra, người ta đi vội kẻo trễ hẹn!
Đặng Thế Phong nghe rõ nhưng coi như điếc, cứ rảo bước như
không có gì xảy ra. Đến nơi hẹn, gặp cô Tuyết đã đứng chờ, Đặng Thế Phong kể
cho cô nghe vụ vừa bị chọc ghẹo. Cô Tuyết không nói gì mà chỉ tủm tỉm cười với
ánh mắt nhìn người yêu thật là trìu mến. Về nhà, Đặng Thế Phong không nói ra với
anh chị em mà thầm thì kể cho ông chú họ, cùng lứa tuổi, là ông Nguyễn Trường
Thọ biết thôi. Ngoài ra, ông còn kể cho ông Thọ nghe chuyện cô Tuyết có một
chàng thông phán trẻ, đẹp trai, có tiền, có địa vị, làm ở Tòa Đốc Lý thành phố
theo đuổi, còn nhờ cả hai người mai mối nhưng cô nhất quyết khước từ, bất chấp
cả lời dị nghị của mọi người, nhất là gia đình cố ý gán ghép.
Năm 1940, Đặng Thế Phong phải tạm xa cô Tuyết để lên Bắc
Giang ít ngày. Ai đã đến Bắc Giang là biết thị xã này có con sông Thương, một
con sông có hai dòng nước, bên đục, bên trong. Kẻ viết bài này, lúc bé học ở Bắc
Giang, vào những ngày hè nóng bức, cùng bạn bè ra sông bơi. Đứng từ trên cầu ra
tháp nước khá cao, nhìn thấy rõ hai dòng nước đục trong rõ rệt! Ở Bắc Giang, một
buổi tối trăng sao vằng vặc, Đặng Thế Phong đã cùng bạn bè thuê thuyền cấm sào
rồi cùng nhau chén chú, chén anh hàn huyên mọi chuyện. Đang lúc đang vui thì có
người ra dưa cho Đặng Thế Phong một bao thư. Ông ngưng ngay chuyện trò và vào
trong khoang, lấy bao diêm ra đốt lửa để coi thư và đây đúng là thư của cô Tuyết,
từ thành Nam gửi lên cho ông. Đọc xong thư, ông có vẻ buồn và suy nghĩ. Bạn bè
thắc mắc nên hỏi, được ông cho biết thư báo tin cô Tuyết nhuốm bệnh cả tuần rồi
và nhớ ông lung lắm nên có lẽ ông phải về Nam Định gấp! Chính đêm này, lúc đêm
sắp tàn, Đặng Thế Phong thao thức không sao chợp mắt được, đã ngồi dậy sáng tác
được tác phẩm Con Thuyền Không Bến buồn não ruột:
Đêm nay thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi giòng
Như nhớ thương ai trùng tơ lòng...
... Lướt theo chiều gió
Một con thuyền theo trăng trong
Trôi trên sông Thương nước chảy đôi dòng
Biết đâu bờ bến?
Thuyền ơi thuyền trôi nơi nao
Trên con sông Thương nào ai biết nông sâu?...
Đêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi giòng
Như nhớ thương ai trùng tơ lòng...
... Lướt theo chiều gió
Một con thuyền theo trăng trong
Trôi trên sông Thương nước chảy đôi dòng
Biết đâu bờ bến?
Thuyền ơi thuyền trôi nơi nao
Trên con sông Thương nào ai biết nông sâu?...
Hai hôm sau Đặng Thế Phong từ giã bạn bè, rút ngắn thời gian
để về Nam Định. Được tin Đặng Thế Phong đã về, cô Tuyết thấy bệnh thuyên giảm rất
nhanh. Và tối hôm sau hai người hẹn gặp lại nhau. Lúc ấy miền Bắc đang vào Thu,
gió heo may kéo về mang cái lạnh. Tối hôm ấy trăng lên muộn, trời tối gió nhẹ
làm cho hai người thấy thích thú đi bên nhau để sưởi ấm lòng nhau sau bao ngày
xa cách. Dìu nhau đến nơi cũ, Đặng Thế Phong ghé sát tai cô Tuyết, hát nhẹ
nhàng, giọng rạt rào tình cảm như rót vào tai cô bài Con Thuyền Không Bến mà
ông vừa sáng tác trong một đêm trắng trên sông Thương vì thương nhớ cô. Khi hát
xong, Đặng Thế Phong phải lấy khăn tay ra nhẹ nhàng lau hai giòng lệ đang từ từ
chảy xuống má cô với lòng xúc động không kém! Lúc ra về, Đặng Thế Phong
nói: - Làm được một bài nhạc nhờ em, nay về được hát cho em là người đầu
tiên nghe, thế là anh sung sướng lắm rồi!
Cô Tuyết cũng đáp lại lòng tri kỷ: - Là một người đàn bà
tầm thường như em mà đã làm cho anh có được một bài hát thì với em đó là một
vinh dự, một hạnh phúc thật cao sang, không phải ai ở trên đời cũng có được!
Tình anh trao cho em thật trọn vẹn, thật bất diệt, chắc chắn không bao giờ hình
ảnh anh bị phai mờ trong tim trong óc em được, bây giờ và mãi mãi. Đến lúc ấy
chi. Hằng mới ló mặt ra dịu dàng nhìn xuống trần thế và chứng giám hai người
yêu nhau đang đứng sát bên nhau sau khi đã uống cạn lời nói của nhau. Sau hôm ấy,
Đặng Thế Phong mới cho phổ biến rất hạn chế trong đám thanh niên tỉnh nhà
bài Con Thuyền Không Bến, được mọi người yêu chuộng nên rất nhiều người biết
đến.
Chính vì thế mà có một người ở Hà Nội mới mời Đặng Thế Phong
lên Hà Nội để hát tại rạp chiếu bóng Olympia bài hát của mình. Trong buổi ấy, Đặng
Thế Phong ra sân khấu hát Con Thuyền Không Bến đầy xúc động vì ngay ở hàng ghế
đầu, cô Tuyết đã bỏ hẳn một ngày chợ để lên Hà Nội nghe người yêu hát bài làm
vì mình và cho mình! Riêng với Đặng Thế Phong, ông xúc động là phải vì với số
khán giả đông đảo không đáng ngại mà là trong lòng ông thầm nghĩ hát hôm nay rất
cần và chỉ cần để một người nghe là đủ nên phải mang hết tài trí ra biểu diễn
sao cho thành công! Hát xong, khán giả vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.
Sau một thời gian ở Bắc Giang, ông nhuốm bệnh. Vì lúc đó bệnh
lao là nan y nên ông dấu mọi người, ai biết đều sợ bị lây nhiễm không hiểu sao
cô Tuyết biết được. Cô Tuyết rất tế nhị và khôn khéo hỏi Đặng Thế Phong:
- Sao dạo này em thấy anh gầy và xanh lắm, Anh có bệnh gì
không mà em thấy sút lắm! Anh đi nhà thương khám và thuốc men, cho khoẻ để mình
còn tính đến tương lai!
Ông ậm ừ cho qua. Từ đó cô Tuyết âm thầm tìm mọi cách để giúp
người yêu trong lúc nhà nghèo bệnh trọng. Đặng Thế Phong cũng đến nhà thương để
khám bệnh. Sau khi dò hỏi, biết bệnh của ông, cô Tuyết nhân quen với một số y
sĩ (médecin indochinois) làm ở nhà thương, mua thuốc rồi nhờ ông ta nhận là thuốc
của nhà thương, ông lấy cho Đặng Thế Phong.
Thuốc bệnh lao lúc ấy vừa hiếm lại vừa đắt, cô Tuyết không những
không ngại tốn kém, mà còn thường xuyên gặp Phong để săn sóc một cách kín đáo,
kể cả không sợ bị lây. Về phần Đặng Thế Phong thì ông không hề biết thuốc là của
cô Tuyết mua cho mình.
Trong các cuộc tình cao đẹp của văn nghệ sĩ, có hai nữ lưu
đáng để người đời ca tụng: cô Tuyết biết người yêu bị bệnh nan y, rất dễ lây, Mộng
Cầm biết Hàn Mặc Tử bị bệnh phong cùi, vừa ghê sợ vừa dễ lây thế mà hai ngườí
đã có tình yêu chân thật, chung thủy, không những không sợ mà còn hết lòng chăm
sóc, thuốc men cho đến ngày tử biệt! Thật hiếm hoi và cao quý vô cùng!
Mùa xuân năm 1941, cô Tuyết cùng Phong từ Nam Định lên Hà Nội
dể tiễn chân và tạm biệt Đặng Thế Phong vào Sài Gòn (rồi đi Nam Vang). Ở kinh
đô xứ Chùa Tháp, ở Hòn Ngọc Viễn Đông một thời gian thấy cuộc sống cũng không
được thoải mái như ý mong muốn, Đặng Thế Phong trở về Hà Nội. Về lần này, Đặng
Thế Phong không về Nam Định mà thuê một căn gác hẹp tường cây, mái lá ở làng trồng
hoa Ngọc Hà, vùng ngoại ô thành phố Hà Nội . Đặng Thế Phong ở chung với chú là
ông Nguyễn Trường Thọ. Bệnh tình Đặng Thế Phong tái phát ngày một nặng vì người
bị bệnh này phải mua thuốc men đầy đủ, phải nghỉ ngơi và ăn uống tẩm bổ tối đa
mà những điều phải ắt có và đầy đủ này, với Đặng Thế Phong không thể có được.
Chính vì thế mà không tuần nào là cô Tuyết không lên thăm và lo chữa bệnh cho Đặng
Thế Phong.
Tháng Bảy mưa ngâu tầm tã, rả rích suốt ngày này sang ngày nọ,
tháng này qua tháng khác, gió lạnh kéo về, nhà thì tường cây, mái lá, lạnh buốt
lọt xương, cuộc sống kham khổ khiến bệnh tình Đặng Thế Phong ngày càng trầm trọng.
Từng cơn ho làm rũ người, tiếp đến những cơn thổ huyết làm cho Đặng Thế Phong
ngày một sút hẳn đi . Một mình trên giường bệnh, Đặng Thế Phong nhớ gia đình
thì ít mà nhớ người yêu thì nhiều. Thân xác thì bệnh tật khó qua, tâm trí thì
luôn luôn phải vật lộn với trăm ngàn ý nghĩ và hình ảnh cuộc tình tươi đẹp nên
bệnh mỗi lúc một tăng. Còn đâu những cuộc hẹn hò thơ mộng, quên làm sao được những
lời thủ thỉ ân tình và hy vọng gì ở những ước vọng được thành đôi chim nhạn
tung trời mà bay, tất cả đã được Đặng Thế Phong ngày đêm day dứt, tiếc thương,
muốn níu kéo lại thì cũng chẳng còn gì để bám víu!
Đặng Thế Phong đã mang lấy nghiệp vào thân thì đời con tằm đến
thác cũng còn vương tơ, tránh sao thoát khỏi cái lưới trời thưa mà khó lọt ấy?
Chính vì lẽ ấy mà Đặng Thế Phong đã thực sự thể hiện được câu các cụ đã dạy cọp
chết để da, người ta chết để tiếng, dù cuộc đời ông ngắn ngủi với 24 mùa lá rụng,
một cuộc đời ngắn đến nổi đo chửa đầy gang!
Thế rồi, một hôm mưa rơi tầm tã, giọt mưa lộp bộp trên mái
lá, thánh thót từng giọt xuống đường, Đặng Thế Phong buồn quá, con tim như thắt
lại, máu trào lên để có được một nhạc hứng lai láng, tràn trề khiến ông gượng
ngồi dậy viết một hơi điệu nhạc buồn da diết, não nề. Ông viết xong bèn đặt tên
cho sáng tác mới ấy là Vạn Cổ Sầu. Chập tối ông Thọ về có thêm dăm người bạn
đến thăm, Đặng Thế Phong ôm đàn hát cho mọi người nghe. Nét mặt của mọi người
nín thở nghe, đều buồn như muốn khóc. Nghe xong, ai nấy đều khen bài hát thật
hay, xoáy vào tim vào óc nhưng cái tên bài bi thảm quá, nên sửa lại thì hơn.
Chính vì thế mà Đặng Thế Phong, đổi tên là Giọt Mưa Thu. Có lẽ đây là cái
điềm báo trước, là lời di chúc tạ từ nên Đặng Thế Phong lấy mưa ngâu, mùa mưa
là giòng nước mắt tuôn chảy lênh láng của Chức Nữ với Ngưu Lang để ví cuộc tình
Phong - Tuyết cũng phải cùng chung số phận phũ phàng giống vậy chăng?
Đến một ngày cuối năm 1941, biết mình khó qua khỏi lưỡi hái của
tử thần, Đặng Thế Phong mới ngỏ ý trở về Nam Định để được chết tại quê nhà và
muốn ông Thọ dìu ông về. Về nhà, lần này cô Tuyết đích thân đến hàng ngày để
chăm sóc, thuốc men cho Đặng Thế Phong, không ngại mệt mỏi và không sợ nguy hiểm
đến bản thân mình. Những người quen biết đến thăm, thấy cảnh ấy đều mũi lòng và
khâm phục lẫn mến thương cuộc tình cao quý, chung thủy của cặp Phong - Tuyết.
Không biết có phải là tại thần giao cách cảm hay không mà một
hôm, nhạc sĩ Bùi Công Kỳ đột nhiên từ Hà Nội về Nam Định thăm Đặng Thế Phong lại
vừa đúng lúc Đặng Thế Phong sắp lìa đời. Trên giường bệnh, phút lâm chung,
không nói gì được với nhau, Bùi Công Kỳ ôm đàn hát cho Đặng Thế Phong nghe một
lần chót bài Giọt Mưa Thu, Giọng hát Bùi Công Kỳ vừa dứt thì mọi người
nhìn thấy Đặng Thế Phong mở cặp mắt nhìn như ngỏ lời chào vĩnh biệt rồi nhẹ
nhàng trút hơi thở cuối cùng.
Một vì sao Bắc Đẩu của làng nhạc Việt Nam, vừa ló dạng trên bầu
trời đã vụt tắt gây niềm xúc động mãnh liệt và niềm thương tiếc vô bờ trong
lòng mọi người! Trong tang lễ, nam nữ thanh niên của thành Nam đã lũ lượt kéo
nhau đi, chật cả phố phường để tiễn đưa Đặng nhạc sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng
với rất nhiều cặp mắt rưng rưng lệ! Cô Tuyết xin phép và được cả hai gia đình,
mặc đại tang, đúng như một người vợ trong tang lễ chồng, thật là cảm động.
Năm 1960, tại Phú Nhuận, tôi được tiếp một thiếu phụ chưa hề
quen biết. Sau lời chào hỏi, bà tự giới thiệu tên là Tuyết, người Nam Định, di
cư vào Nam hiện ở Ban Mê Thuộc. Nhân lần vô tình đọc trên báo Tự Do, thấy quảng
cáo trước cuốn Nhạc sĩ danh tiếng hiện đại (tập II) của tôi sắp xuất bản, viết
về năm nhạc sĩ trong đó có Đặng Thế Phong, nên bà về gặp tôi để xin tôi cho bà
mượn hình của cố nhạc sĩ, chụp lại để về thờ. Trước kia, bà đã có nhưng lúc sắp
di cư tấm ảnh đó bị thất lạc, kiếm mãi không sao thấy. Tôi vội lấy ảnh đưa
ngay. Cậu cháu đi theo bà mang ngay ra tiệm hình ở đầu hẻm chụp gấp lấy ngay,
xong trở vào gửi trả lại tôi . Trong lúc cậu cháu đi chụp hình, tôi có hỏi bà về
chuyện tình tươi đẹp như bài thơ trong sáng như trăng mười sáu thì bà Tuyết xác
nhận những điều tôi biết là đúng và còn bổ sung cho tôi thêm ít nhiều chi tiết
. Bà cũng không quên nói lên điều thắc mắc là tại sao tôi biết rõ thế? Tôi nói
thật ngay là được ông chú Nguyễn Trường Thọ cho tôi mượn ảnh, kể rành rẽ cuộc đời
ái tình của Đặng Thế Phong cho tôi nghe. Bà cười và nói:
- Chú Thọ tuy là chú nhưng cùng tuổi với anh Phong, nên hai
người vừa là chú cháu vừa có tình bạn bè nên trong gia đình chỉ có chú Thọ là
được anh Phong tâm sự mà thôi. Thảo nào ông biết quá rõ, quá đúng và quá đủ! Sau
lời cám ơn và trước khi ra về, bà Tuyết còn nói với tôi câu cuối cùng, đến nay
đã 35 năm rồi, tôi vẫn còn nhớ:
- Cho đến ngày hôm nay, và mãi mãi về sau, tôi tôn thờ anh
Phong và đời tôi luôn luôn thương nhớ anh ấy với tất cả cái gì trân trọng nhất.
Viết ra những dòng trên đây, tôi xin được phép coi là nén
hương lòng, suy tôn một bậc đàn anh khả kính và khả ái. Tuy anh đã ra người
thiên cổ hơn nửa thế kỷ rồi nhưng những Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt
Mưa Thu vẫn là những vì sao tinh tú sáng rực trên bầu trời ca nhạc. Thể
xác anh có thể trở về hư không nhưng tinh anh vẫn còn lại muôn đời với giang
sơn gấm vóc này. Cuộc đời con người ta, sinh ký, tử quy đó là luật muôn đời của
tạo hóa nhưng khi sống cho ra sống, lúc về được qua Khải Hoàn Môn, khi cất ba
tiếng khóc chào đời, mọi người hân hoan cười mừng đón ta, khi nhoẻn miệng cười
để lìa đời, mọi người thương tiếc khóc ta, thế mới thật là sống, mới đáng sống!
Anh đã vĩnh viễn ra đi nhưng tất cả những thế hệ hậu sinh, dù chưa được biết
anh, khi hát những bài hát bất hủ của anh để lại, đều tưởng nhớ đến anh, một
thiên tài mà ta có thể nói anh là một MOZART của Việt Nam, với tất cả tấm lòng
kính mến trang trọng nhất!.
Tôi cả tin rằng, dưới suối vàng. anh cũng có thể mỉm cười mãn
nguyện. Hiển linh, anh về chứng giám và nhận cho nén tâm nhang này.
11/1999
Lê Hoàng Long
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét