Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn!
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
Hồ Xuân Hương
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn!
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
Hồ Xuân Hương
Câu phá chưa có gì ghê gớm cả bởi trách nhiệm của nó là làm nền cho tứ thơ, một loại nền bị cơn lốc thời gian thúc giục ’’văng vẳng trống canh dồn’’ câu thừa kia mới bắt đầu khuấy động kiếp nạn dập vùi vốn là dĩ mệnh của phận đàn bà lẽ mọn.
‘’Trơ cái hồng nhan với nước non’’
Ném từ trơ vào đầu câu là đã bức bối xót xa lắm rồi. Không, thời gian ấy một người phụ nữ lẻ loi cô độc nghe tiếng trống sang canh dồn đuổi, ức hiếp nụ xuân tình rạo rực đã phản ánh nỗi khát khao hạnh phúc vốn là một đặc quyền được hưởng của con người. Nhưng còn kinh khủng hơn khi tác giả kéo theo cụm từ ‘’cái hồng nhan’’ làm bổ ngữ cho động từ trơ tạo thành một vế câu ‘’trơ cái hồng nhan’’. Không còn là mảnh, tấm mà chỉ còn cái hồng nhan trơ tráo, chai lì mọi sự bởi chỉ cần cất lên hai tiếng hồng nhan đã thấy nỗi bạc mệnh, đa truân hiển lộ ngay trong hàm nghĩa ngôn từ, huống hồ nữ sĩ lại dùng từ’’ cái’’ áp giải người đàn bà đi suốt tháng năm tuổi trẻ trong cảnh lạnh lùng của phận đời làm mướn không công. Chính vì thế người phụ nữ trong bài thơ mới ‘’dục phá thành sầu’’ bằng việc mượn chút hương nồng làm pháo thủ’:
‘’Chén rượu hương đưa say lại tỉnh’’
Cổ nhân đã trải cảnh nâng chén tiêu sầu mà đời nào đặng bởi say rồi cũng đến lúc tỉnh ’’khi tỉnh rượu lúc tàn canh’’ chính là lúc trái tim tỉnh thức hơn lúc nào hết. Nỗi sầu ngỡ như tiêu tán lúc này lại hiện về. Bệnh sầu sau mỗi lần tái phát sức công phá càng tăng lên gấp bội nhất là khi ‘’Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn’’. Tròn làm sao được khi cái ách nam quyền phong kiến đồ sộ ngàn đời cứ đày đọa những mảnh hồng quần liễu yếu đào thơ. Càng thương Bà chúa thơ Nôm biết bao khi bà dùng từ ‘’chưa’’. Chưa chứ đâu phải là không,trong tận cùng tâm thức của bà vẫn cứ le lói một niềm tin vào cái sự ‘’tròn’’ không tưởng ấy. Tuy nhiên chỉ cần một chút lạc quan kín đáo lóe lên đã làm nhà thơ phấn chấn:
‘’Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn’’
‘’Xiên ngang,đâm toạc’’những động từ cực mạnh phản ánh sự vùng cựa quẫy đạp của một con người ngồn ngộn sức sống, tràn trề sinh lực thế mà phải cam chịu ‘’trơ cái hồng nhan’’ trước một hiện thực khách quan tàn nhẫn không làm sao cải biến. Nỗi khát khao mãnh liệt không có đường đào thoát tác giả đành trốn lánh vào các từ ‘’xiên, toạc, đám, hòn’’. Phải chăng đó cũng là một thứ rượu chữ để làm khuây nỗi khát? Mà cũng nhờ thế đời mới hưởng được chút dư hương của chủ nhân Cỗ Nguyệt Đường.
‘’Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con’’ Người ta thường nói ’’xuân bất tái lai’’ nữ sĩ họ Hồ lại nói ngược ‘’xuân đi xuân lại lại’’. Từ xuân đã được bà dùng một cách biến hóa, xuân mà lạï ‘’ngán nỗi’’, xuân mà ’’lại lại’’ thì chắc hẳn từ xuân phải được cảm theo một hàm nghĩa khác có khi tương phản hoàn toàn với nghĩa vốn có của từ. Ta nghe đâu đây tiếng thở dài chua chát ‘’mảnh tình’’ chứ nào phải khối tình đồ sộ gì cho cam mà cũng bị san sẻ còn một ‘’tí con con’’. Tí con con thì làm sao bù đắp nỗi sự quẫy đạp bạo liệt của một trái tim khao khát sống, khao khát yêu đến độ muốn ‘’xiên ngang’’ muốn ‘’đâm toạc’’ mọi ràng buộc khắt khe của thói đời.
Tiếng gà, tiếng trống canh văng vẳng, tiếng mõ cốc, tiếng chuông om vang lên trong ba bài thơ Tự Tình của Hồ Xuân Hương khuấy động từ cổ nhân đến lai giả. Người phụ nữ tuy bị bao vây tứ phía bởi những tập tục cổ hủ, khắt khe truyền đời của xã hội nam quyền phong kiến, trong nỗi chua xót lẽ mọn trào dâng vẫn hóm hỉnh, trào lộng. Và điều đó cũng là cách thế sống của những ‘’cái hồng nhan‘’ trong bi kịch đời mình./.
‘’Trơ cái hồng nhan với nước non’’
Ném từ trơ vào đầu câu là đã bức bối xót xa lắm rồi. Không, thời gian ấy một người phụ nữ lẻ loi cô độc nghe tiếng trống sang canh dồn đuổi, ức hiếp nụ xuân tình rạo rực đã phản ánh nỗi khát khao hạnh phúc vốn là một đặc quyền được hưởng của con người. Nhưng còn kinh khủng hơn khi tác giả kéo theo cụm từ ‘’cái hồng nhan’’ làm bổ ngữ cho động từ trơ tạo thành một vế câu ‘’trơ cái hồng nhan’’. Không còn là mảnh, tấm mà chỉ còn cái hồng nhan trơ tráo, chai lì mọi sự bởi chỉ cần cất lên hai tiếng hồng nhan đã thấy nỗi bạc mệnh, đa truân hiển lộ ngay trong hàm nghĩa ngôn từ, huống hồ nữ sĩ lại dùng từ’’ cái’’ áp giải người đàn bà đi suốt tháng năm tuổi trẻ trong cảnh lạnh lùng của phận đời làm mướn không công. Chính vì thế người phụ nữ trong bài thơ mới ‘’dục phá thành sầu’’ bằng việc mượn chút hương nồng làm pháo thủ’:
‘’Chén rượu hương đưa say lại tỉnh’’
Cổ nhân đã trải cảnh nâng chén tiêu sầu mà đời nào đặng bởi say rồi cũng đến lúc tỉnh ’’khi tỉnh rượu lúc tàn canh’’ chính là lúc trái tim tỉnh thức hơn lúc nào hết. Nỗi sầu ngỡ như tiêu tán lúc này lại hiện về. Bệnh sầu sau mỗi lần tái phát sức công phá càng tăng lên gấp bội nhất là khi ‘’Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn’’. Tròn làm sao được khi cái ách nam quyền phong kiến đồ sộ ngàn đời cứ đày đọa những mảnh hồng quần liễu yếu đào thơ. Càng thương Bà chúa thơ Nôm biết bao khi bà dùng từ ‘’chưa’’. Chưa chứ đâu phải là không,trong tận cùng tâm thức của bà vẫn cứ le lói một niềm tin vào cái sự ‘’tròn’’ không tưởng ấy. Tuy nhiên chỉ cần một chút lạc quan kín đáo lóe lên đã làm nhà thơ phấn chấn:
‘’Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn’’
‘’Xiên ngang,đâm toạc’’những động từ cực mạnh phản ánh sự vùng cựa quẫy đạp của một con người ngồn ngộn sức sống, tràn trề sinh lực thế mà phải cam chịu ‘’trơ cái hồng nhan’’ trước một hiện thực khách quan tàn nhẫn không làm sao cải biến. Nỗi khát khao mãnh liệt không có đường đào thoát tác giả đành trốn lánh vào các từ ‘’xiên, toạc, đám, hòn’’. Phải chăng đó cũng là một thứ rượu chữ để làm khuây nỗi khát? Mà cũng nhờ thế đời mới hưởng được chút dư hương của chủ nhân Cỗ Nguyệt Đường.
‘’Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con’’ Người ta thường nói ’’xuân bất tái lai’’ nữ sĩ họ Hồ lại nói ngược ‘’xuân đi xuân lại lại’’. Từ xuân đã được bà dùng một cách biến hóa, xuân mà lạï ‘’ngán nỗi’’, xuân mà ’’lại lại’’ thì chắc hẳn từ xuân phải được cảm theo một hàm nghĩa khác có khi tương phản hoàn toàn với nghĩa vốn có của từ. Ta nghe đâu đây tiếng thở dài chua chát ‘’mảnh tình’’ chứ nào phải khối tình đồ sộ gì cho cam mà cũng bị san sẻ còn một ‘’tí con con’’. Tí con con thì làm sao bù đắp nỗi sự quẫy đạp bạo liệt của một trái tim khao khát sống, khao khát yêu đến độ muốn ‘’xiên ngang’’ muốn ‘’đâm toạc’’ mọi ràng buộc khắt khe của thói đời.
Tiếng gà, tiếng trống canh văng vẳng, tiếng mõ cốc, tiếng chuông om vang lên trong ba bài thơ Tự Tình của Hồ Xuân Hương khuấy động từ cổ nhân đến lai giả. Người phụ nữ tuy bị bao vây tứ phía bởi những tập tục cổ hủ, khắt khe truyền đời của xã hội nam quyền phong kiến, trong nỗi chua xót lẽ mọn trào dâng vẫn hóm hỉnh, trào lộng. Và điều đó cũng là cách thế sống của những ‘’cái hồng nhan‘’ trong bi kịch đời mình./.
TRÁI TIM MẮC CẠN
Dòng đời con nước vèo qua
Trái tim mắc cạn trong tà áo bay
Cỏn con một sợi lông mày
Mà đem cột trái đất này vào anh
Trái tim mắc cạn trong tà áo bay
Cỏn con một sợi lông mày
Mà đem cột trái đất này vào anh
Trần Mạnh Hảo
‘’Dòng đời con nước vèo qua’’
Câu lục đầu tiên là một lời nói thông thường, nếu không nói môtíp so sánh khá mòn cũ. Ai có một chút chiêm nghiệm việc đời đều có thể buông ra một lời cảm khái nhân sinh như thế huống hồ là nhà thơ -người nhạy cảm nhất với bước đi không ngoái lại của thời gian. Câu thơ đầu chỉ có giá trị dẫn dụ người đọc nhích tới gần nơi có đạo phục binh bằng phục bút.
‘’Trái tim mắc cạn trong tà áo bay’’
Câu bát này dụng ý kỹ thuật quá rõ. Hình ảnh thơ cũng không mới hơn cách nói của Nguyên Sa ’’Hay là em gói mây trong áo’’. Mạch thơ đã lộ ra ngay từ hàm nghĩa từ vựng đầu tiên.Tuy nhiên kỳ binh mai phục vẫn còn ẩn tàng chưa lộ diện.Người đọc còn khổ công kiếm tìm.
‘’Cỏn con một sợi lông mày
Mà đem cột trái đất này vào anh’’
Hai câu cuối mới thực sự là ngón ‘’đà đao, là nhát thiên tài lóe ở cuối câu’’ (Chế Lan Viên) tuôn trào ẩn ngữ trong mối quan hệ biến hóa mà đồng nhất. Tứ thơ không phải đã khác thường nhưng cách ngoa dụ khá độc đáo. Tác giả sử dụng động từ ‘’cột’’ thật diệu. Sợi lông mày cỏn con của một hình bóng tha nhân nào đó đã ‘’cột người mắc cạn với trái đất này. Đây là sự cột bắt buộc của tự nguyện nếu con người còn muốn sống cho đáng sống. Hình tượng ngôn từ có đôi sáng rõ, xuyên thấm, có sức khơi gợi, tác động vào những vỉa tầng khao khát, cống hiến vốn là một thuộc tính cố hữu của bất cứ con người nào. Mối quan hệ tương tác giữa hai vật thể cực nhỏ ’’một sợi lông mày’’ với một vật thể cực lớn ’’trái đất này’’ có sự mê hoặc của từ ‘’cột’’ kết dính làm tăng độ phân hứng của người cảm thụ. hóa giải sự xói mòn về đạo đức ,sự tha hóa về nhân cách của một số người thờ ơ vô trách nhiệm đối với chức năng người cao quý chỉ nhằm thỏa mãn bản năng con đầy dục vọng.
Bài thơ có 4 câu nhưng có đến 3 câu làm nhiệm vụ dọn đường để câu bát cuối cùng thực thi sứ mệnh ‘’cột’’ lãng mạn và vinh quang. Tác dụng giáo dục của bài thơ rất lớn, giá trị nhân văn rất cao thế nhưng không hề thấy sự cao giọng giáo huấn nào trong ngôn ngữ thơ. Tác giả dẫn dắt chúng ta từng bước cảm nhận sự luân chuyển của thời gian, chiếm lĩnh cái đẹp hình thể đến cái đẹp vĩnh hằng, tự nguyện cột đời mình vào bao nhiêu ngang trái bất công trên trái đất này.
Bài thơ Trái tim mắc cạn sở dĩ neo đậu lâu dài trong người đọc chính là nhờ ở sự mắc cạn đến độ rất sâu của tấm lòng thi sĩ. Và khi đã thực thi sứ mạng ‘’giải bày tâm sự và tuyên truyền niềm tin’’ (Phùng Quán) ta còn có thể đòi hỏi gì ở nhà thơ hơn nữa.
Câu lục đầu tiên là một lời nói thông thường, nếu không nói môtíp so sánh khá mòn cũ. Ai có một chút chiêm nghiệm việc đời đều có thể buông ra một lời cảm khái nhân sinh như thế huống hồ là nhà thơ -người nhạy cảm nhất với bước đi không ngoái lại của thời gian. Câu thơ đầu chỉ có giá trị dẫn dụ người đọc nhích tới gần nơi có đạo phục binh bằng phục bút.
‘’Trái tim mắc cạn trong tà áo bay’’
Câu bát này dụng ý kỹ thuật quá rõ. Hình ảnh thơ cũng không mới hơn cách nói của Nguyên Sa ’’Hay là em gói mây trong áo’’. Mạch thơ đã lộ ra ngay từ hàm nghĩa từ vựng đầu tiên.Tuy nhiên kỳ binh mai phục vẫn còn ẩn tàng chưa lộ diện.Người đọc còn khổ công kiếm tìm.
‘’Cỏn con một sợi lông mày
Mà đem cột trái đất này vào anh’’
Hai câu cuối mới thực sự là ngón ‘’đà đao, là nhát thiên tài lóe ở cuối câu’’ (Chế Lan Viên) tuôn trào ẩn ngữ trong mối quan hệ biến hóa mà đồng nhất. Tứ thơ không phải đã khác thường nhưng cách ngoa dụ khá độc đáo. Tác giả sử dụng động từ ‘’cột’’ thật diệu. Sợi lông mày cỏn con của một hình bóng tha nhân nào đó đã ‘’cột người mắc cạn với trái đất này. Đây là sự cột bắt buộc của tự nguyện nếu con người còn muốn sống cho đáng sống. Hình tượng ngôn từ có đôi sáng rõ, xuyên thấm, có sức khơi gợi, tác động vào những vỉa tầng khao khát, cống hiến vốn là một thuộc tính cố hữu của bất cứ con người nào. Mối quan hệ tương tác giữa hai vật thể cực nhỏ ’’một sợi lông mày’’ với một vật thể cực lớn ’’trái đất này’’ có sự mê hoặc của từ ‘’cột’’ kết dính làm tăng độ phân hứng của người cảm thụ. hóa giải sự xói mòn về đạo đức ,sự tha hóa về nhân cách của một số người thờ ơ vô trách nhiệm đối với chức năng người cao quý chỉ nhằm thỏa mãn bản năng con đầy dục vọng.
Bài thơ có 4 câu nhưng có đến 3 câu làm nhiệm vụ dọn đường để câu bát cuối cùng thực thi sứ mệnh ‘’cột’’ lãng mạn và vinh quang. Tác dụng giáo dục của bài thơ rất lớn, giá trị nhân văn rất cao thế nhưng không hề thấy sự cao giọng giáo huấn nào trong ngôn ngữ thơ. Tác giả dẫn dắt chúng ta từng bước cảm nhận sự luân chuyển của thời gian, chiếm lĩnh cái đẹp hình thể đến cái đẹp vĩnh hằng, tự nguyện cột đời mình vào bao nhiêu ngang trái bất công trên trái đất này.
Bài thơ Trái tim mắc cạn sở dĩ neo đậu lâu dài trong người đọc chính là nhờ ở sự mắc cạn đến độ rất sâu của tấm lòng thi sĩ. Và khi đã thực thi sứ mạng ‘’giải bày tâm sự và tuyên truyền niềm tin’’ (Phùng Quán) ta còn có thể đòi hỏi gì ở nhà thơ hơn nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét