Đôi điều mới biết về từ “Sến” và “Nhạc sến”
Phác thảo bìa sách “9 thập kỷ ca khúc tân nhạc Việt Nam”
Khi nhạc vàng cũ hồi sinh, người
ta hay bàn cãi về nhạc sến như một thời sự âm nhạc: nhạc sến là gì, có hay
không một loại nhạc gọi là nhạc sến, từ sến trong nhạc sến do đâu mà có…? Nên
bài viết nầy để đề cập đến một khía cạnh của ca khúc Việt Nam mà công chúng
đang quan tâm.
Không như hai nhạc sĩ khá nổi tiếng ở TP.HCM từng phát
biểu, rõ ràng thực tế âm nhạc Việt ở nhiều thời điểm có tồn tại một loại nhạc sến.
Một nhạc sĩ khi trả lời phỏng vấn, đã nói: “Không có nhạc sến, chỉ có nhạc hay
và nhạc dở”. Nhạc sĩ nầy chỉ đúng một nửa: Có nhạc hay nhạc dở nhưng cũng có nhạc
sến như nhiều nguời thường dùng để gọi một loại nhạc trong dòng nhạc
trữ tình bình dân. Và những khái niệm này có quan hệ với nhau: Đã đành rằng nhạc
sến và nhạc dở đối lập với nhạc hay rồi, nhưng chúng lại giao nhau, có khi bao
hàm nhau, thuộc về nhau nữa. Một nhạc sĩ khác: “Không có nhạc sến chỉ có ca sĩ
sến”. Cũng vậy, không đúng hoàn toàn, vì đúng là có ca sĩ sến là những giọng
hát luôn sướt mướt, sến sẩm, ủy mị, quằn quại, khổ đau, bi sầu, rên rỉ…, thậm
chí khi đang thể hiện ca khúc thuộc dòng nhạc sang (nhạc tiền chiến, tình khúc,
tình ca cách mạng…) không có và không cần đến sắc thái biểu cảm như thế, nhưng
thực tiễn ca nhạc vẫn tồn tại một loại nhạc sến, còn được gọi là nhạc fontain,
nhạc máy nước, có người “ác khẩu” gọi là nhạc “bò leo rào” khi nhại từ bolero
(hơi giống nhạc “mì ăn liền” trong ca khúc thị trường bị thương mại hóa hiện
nay). Đó là loại nhạc thường viết theo các điệu nhạc: boléro, rhumba, ballade…,
phổ biến là bolero chậm buồn; còn ca từ thì dễ dãi, đơn giản, thường dùng khẩu
ngữ tự nhiên, sáo rỗng, lặp lại, hơi bị… “cải lương” và ước lệ có sẵn, cứ thế
ráp vào. Chẳng hạn, nhạc viết về mùa thu, thì cảnh vật là: Gió heo may thổi, trời
se se lạnh, mây mù giăng giăng, lá vàng rơi rụng… còn tâm trạng thì: cô đơn
không cùng, nhớ nhung xa vắng, nỗi buồn khôn nguôi… Nhạc viết về người đẹp thì:
Mắt em màu xanh, tà áo dài tha thướt, tóc thề ngang vai… Nhưng sến hay không sến
không phải do điệu nhạc mà ngoài ca từ dễ dãi, đơn giản như trên, còn do
giai điệu, nhịp điệu mà nhạc sĩ thể hiện vào bài hát trong nhạc điệu đó,
thường đơn điệu, quen thuộc, mòn sáo, lặp lại mình, lặp lại người khác (nhái).
Giới am hiểu âm nhạc
ở Miền Nam trước 1975, không những phân biệt nhạc vàng và nhạc sang mà còn phân
định nhạc vàng và nhạc sến đang hiện hữu đương thời. Nhạc vàng và
nhạc sang là phân định theo chất lưọng nhạc và giai tầng người tiếp thụ: nhạc
sang (tình khúc, nhạc tiền chiến, nhạc phản chiến, du ca…) được giới có học:
sinh viên, trí thức… yêu thích và nhạc vàng (còn gọi là nhạc trữ tình
bình dân) được giới bình dân như: nông dân, thợ thuyền, lính, người làm thuê…
mê say.
Cùng trong một dòng nhạc trữ tình bình dân nói chung, nhưng lại
phân chia thành nhạc vàng và nhạc sến có tiêu chí khá rõ ràng. Điểm khác biệt
chính giữa "nhạc vàng" và "nhạc sến" là "nhạc
vàng" thường theo nhiều thể điệu Slow, Slow Rock, Ballade, bolero… chịu ảnh
hưởng của Thánh ca Công giáo, chậm buồn, đều đều và mang phong cách thính
phòng, hát bằng giọng Bắc chuẩn, còn "nhạc sến" thường chỉ theo
điệu bolero, âm hưởng dân ca, hát bằng giọng Bắc pha hay giọng địa phương
(tùy theo điệu dân ca, nhưng chủ yếu của Nam Bộ), về sau thường hay được hát bằng
giọng Nam, hợp hơn với tầng lớp bình dân ở Nam bộ. "Nhạc vàng" thường
phối nhạc phương Tây sang trọng hơn, có thể nói đến chia ly, cô đơn, nhưng cách
thể hiện không sướt mướt, sến sẩm, uỷ mị, quằn quại, khổ đau, bi lụy, sầu
thương, rên rỉ…, ca từ cũng dung dị, dễ hiểu, mà không dễ dãi, ước lệ,
sáo rỗng… và nội dung không nói về đồng quê, nghèo khó, hay kể một câu chuyện…
như "nhạc sến”. Hoặc một dòng nhạc được giới chuyên môn tách ra
thành nhánh nhạc quê hương, do chủ đề rộng về quê hương đất nước hoặc về làng
quê, đậm chất dân ca cả ba miền, không có chất sến, hát theo giọng địa phương,
như nhạc của Hoàng Thi Thơ, Thanh Sơn…, nhưng thường được thể hiện bởi các giọng
hát “nhạc vàng”, "nhạc sến" nên được gộp chung vào nhạc vàng,
có khi là nhạc sến.
Nhân
nhắc đến, nói thêm về điệu bolero và nhạc vàng. Thể điệu bolero trong tân
nhạc Việt Nam có nhịp rất chậm, khác bolero của Tây Ban Nha hay Nam Mỹ có nhịp nhanh
hơn, gần như rhumba. Vì thế, người ta vẫn quen gọi ca khúc bolero Việt Nam là nhạc
vàng, tức âm nhạc trữ tình hay lãng mạn, bởi giai điệu chậm buồn của nó… Bolero rất hợp dân ca Nam bộ và giới bình dân Nam bộ - những người hát dân ca
Nam bộ từ nhỏ và thể loại nhạc này hợp với trình độ của họ, nên họ là những người
chuộng nhạc vàng hơn cả. Ba đề tài chủ yếu phổ biến của nhạc vàng là:
Tình - Lính và Quê hương. Nhưng, nhạc bolero xưa ở miền Nam có nhịp điệu chậm
buồn, sắc thái tình cảm thường là yêu thương, tiếc nuối, da diết… chứ
không phải quá sướt mướt, sến sẩm, ủy mị, quằn quại, khổ đau, bi sầu, rên rỉ… mới
ra chất bolero như các ca sĩ ngày nay thể hiện, khi bị khai thác “quá đà” và
“biến dạng” thảm hại trên truyền hình, nhạc hội, sàn diễn và băng đĩa của các
nhà sản xuất. Năm 1952, Lam Phương viết Chiều thu ấy lúc mới 15 tuổi, Lê Trọng
Nguyễn viết Nắng chiều, hai nhạc phẩm điệu bolero đầu tiên ra đời cùng
năm và trở thành bất hủ. Giai điệu cả hai ca khúc mở màn cho hai giai điệu này của
nhạc Việt đều đơn giản nhẹ nhàng mà sang trọng, giai điệu và ca từ trau chuốt,
hình ảnh đẹp như tranh, có giá trị nghệ thuật - nhân văn cao như dòng nhạc tiền
chiến, được coi là khai mở cho dòng nhạc vàng sau này.
Ở Nam bộ, cũng như
từ “dỏm” là từ xã hội (tiếng lóng) chỉ đồ giả với sắc thái biểu cảm âm tính
(coi thường), “sến” là tiếng lóng để chỉ chất luợng thấp kém, sáo rỗng, không
giống ai, không phù hợp, cũng với sắc thái biểu cảm âm tính đó. Đây là một từ tố
đa nghĩa với nhiều nghĩa phái sinh trong một loạt từ xuất hiện cùng thời: chơi
sến, mặt sến, tóc sến, mặc sến, thơ sến, truyện sến, tranh sến, v.v… Nhưng về từ
nguyên, do đâu mà có từ tố “sến” trong từ nhạc sến với hàm nghĩa như thế? Ðã có
rất nhiều tranh cãi và nhiều giả thuyết về cái từ khó hiểu này. Xin nêu và và bổ
sung thêm: có đến 6 ý kiến, như là 6 giả thuyết, trong đó có giả thuyết
chưa từng được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng:
Giả thuyết thứ nhất: có nguồn gốc là “con sen”.
Nhiều người trong
giới nghiên cứu, học giả, trong đó có giáo sư ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo, dịch
giả Nhật Chiêu… cho rằng: gốc của từ "sến" phải bắt đầu từ tiếng
"sen" trong con sen nghĩa là đứa ở, con ở, ở đợ, người giúp việc nhà.
Từ "sen" đọc trại thành "sến", và do tầng lớp thấp, không học
hành, hiểu biết không cao của chị “sến” nên tiếng “sến” được dùng để chỉ
sự coi thường, chất lượng thấp, văn hóa kém và đẻ ra hàng loạt từ mới theo
phương thức cấu tạo từ dựa vào biện pháp ẩn dụ từ vựng (gọi tên sự vật nầy
bằng tên sự vật khác dựa trên sự liên tưởng tương đồng, giống nhau giữa hai đối tượng con sen (sến) và nhạc sến= chất lượng thấp, văn hóa kém) như trên:
chơi sến, mặt sến, tóc sến, mặc sến, thơ sến, truyện sến, tranh sến, v.v…,
trong đó có từ nhạc sến, ám chỉ loại nhạc có “khẩu vị” thấp, ít có giá trị
nghệ thuật.
Giả thuyết thứ hai:
cũng có nguồn gốc là “con sen”.
Phổ biến hơn
là ý kiến đồng tình với lý giải từ tố “sến” trong từ “nhạc sến” bắt nguồn bởi từ
tố “sen” trong từ “con sen” đọc trại, nhưng không phải bằng phương thức cấu tạo
từ theo biện pháp ẩn dụ từ vựng như trên, mà là bằng phương thức cấu tạo
từ theo biện pháp hoán dụ từ vựng (gọi tên sự vật nầy bằng tên sự vật
khác dựa trên sự liên tưởng tiếp cận, gần nhau giữa hai đối tượng con sen (sến)
và nhạc sến = tầng lớp hay hát loại nhạc này). Theo đó, do giúp việc cho chủ
Tây hoặc trong các gia đình theo Tây học, các “con sen” (gọi người giúp
việc gái, nhỏ tuổi theo cách người Bắc bộ) cũng “học làm sang” theo các Mari bà
đầm, nên được các nhà văn, nhà báo có óc hài hước thêm cho cái tên
"Marie" phía trước để trở thành Mari- Sến. Sau năm 1954, Mari - Sến
theo chủ di cư vào Nam. Ở Sài Gòn thưở ấy, nước máy chưa được đưa tới từng nhà,
chiều chiều các Mari - Sến lại tụ tập quanh cái máy nước (fontaine) để hứng nước
gánh về nhà, từ đó lại đẻ thêm cái tên Tây hơn, “sang” hơn là Ma ri Đờ La Phông ten
(Maria De La Fontaine). Trong khi đứng chờ đầy gánh nước, các cô thường vui miệng
hát với nhau những câu đại loại như: "Em ơi nếu mộng không thành thì sao?
Non cao, biển rộng biết đâu mà tìm…" (Duyên kiếp - Lam Phương), hoặc:
"Chiều nay có phải anh ra miền Trung, Về thăm quê mẹ cho em về cùng… Dù
sương gió gây bao phũ phàng, Đã có em đây sẵn sàng…" (Quen nhau trên đường
về - Thăng Long)… Thế là, hễ loại nhạc nào mà các chị gánh nước mướn, các anh đạp
xích lô, thợ thuyền (gọi chung là giới bình dân) khoái hát thì… đó là “nhạc sến”,
“nhạc phông ten”!.
Theo phương thức hoán dụ nầy, thì từ tố “sến” trong nhạc sến
không đồng đẳng của tứ tố “sến” trong loạt từ cùng thời: chơi sến, mặt sến, tóc
sến, mặc sến, thơ sến, truyện sến, tranh sến… như cách cấu tạo từ theo phương
thức ẩn dụ kể trên, mà nó là nghĩa gốc (thấp kém, coi thường…) cho nghĩa phái
sinh của các từ kể trên, ra đời sau nó. Cũng như nghĩa gốc của "cánh"
trong từ "cánh chim": (i) có một mặt phẳng hoặc hai mặt phẳng đối
xứng nhau qua một trục; (ii) di động đươc; (iii) di động quanh một trục… trở thành
nghĩa phái sinh cho từ tố "cánh" (đa nghĩa) trong một loạt từ ra
đời sau đó: cánh cửa, cánh quạt, cánh quân, cánh đồng, cánh gà (sân khấu), phe
cánh… Cách giải thích nầy cũng thuyết phục bởi được hỗ trợ bằng một thực tế: hồi
đó, người ta còn gọi loại nhạc bình dân này là nhạc fontain, nhạc nước máy.
Giả thuyết thứ ba: có nguồn gốc là “Maria Schell”.
Lý giải nầy dựa vào chuyện
gọi nhại theo tên của minh tinh màn bạc nổi tiếng người Áo là Maria Schell
(1926-2005). Lý do của việc nhại theo này là kết quả của sự châm biếm của nhà
báo Tuấn Huy, viết cho tạp chí Kịch Ảnh trong một số vào năm 1963. Cô Schell trở
thành hiện tượng ở các đô thị miền Nam đầu những năm 1960, sau khi thành công
vai một vũ nữ hộp đêm trong phim Anh em nhà Karamazov - do Hollywood dựng năm
1958 theo nguyên tác cùng tên của đại văn hào Nga Dostoievsky, được chiếu loanh
quanh các rạp Sài Gòn, cả tháng chưa hết người xem.
Sài Gòn những năm 1950 và
1960, nhiều thanh niên thiếu nữ từ thôn quê lên thành thị mưu sinh, bao gồm làm
lái xe, người ở, bán báo, chạy bàn… Ðó cũng là thời sính Tây, không ít anh chị
tự đặt tên cho mình như Bưởi Clark Gable, Chanh Claudia Cardinale… Những chủ nhật,
lớp người trẻ này hẹn hò nhau và cùng thảo luận về những cuốn phim diễm tình đầy
nước mắt của nữ diễn viên Maria Schell, người từng được báo chí Ðức xem là nữ
diễn viên xuất sắc thế hệ trước chiến tranh, lừng danh với lối diễn xuất
"cười vui mà như lòng nhỏ lệ". Những cuốn phim này lúc đó cũng làm thổn
thức nhiều trái tim nam nữ. Cười vào một lớp người học đòi và hay trải lòng
chuyện yêu đương của mình một cách dễ dãi và cũng hay tự bi kịch hóa hoàn cảnh
của mình, tác giả Tuấn Huy, đã là người đầu tiên chuyển chữ Maria Schell này để
gọi các cô là "Mari Sến". Và chữ "sến" này dần dần được chỉ
đến các bài hát rất ảo não thời đó về chuyện tình đôi lứa.
Giả thuyết thứ tư: cũng có nguồn gốc là “Maria Schell”.
Cũng có nguồn gốc từ ngôi sao Maria Schell (biến âm là Mari Sến)
và cũng dựa vào phương thức cấu tạo từ theo biện pháp ẩn dụ từ vựng như giả thuyết thứ ba, nhưng cơ sở tương đồng giữa Maria Schell và nhạc sến
để tạo từ mới lại không những không phải là chuyện diễm tình, sầu bi… và
còn vào một trung gian nữa là lối sống, sinh hoạt của những fan của Maria
Schell.
Trong phim trên, Maria Schell vừa múa vừa hát bài Mambo Italiano - với y phục nghèo
nàn, thân hình bốc lửa, tóc tai xõa xượi, gào thét và rên rỉ, quằn quại và
khiêu khích… Lúc này bắt đầu xuất hiện những fan của Maria Schell. Trẻ em đường
phố tập tành nhún nhảy bài Mambo Italiano. Các cô gái đợt sóng mới lăng xê kiểu
tóc xõa xượi, mắt xanh Bel, phô trương thân hình… Trên sân khấu phòng trà, mọc
lên những ngôi sao ca nhạc gào thét, quằn quại như con thanh xà, bạch xà. Và từ Mari Sến lúc này được dùng để chỉ dạng biến thái này trong
sinh hoạt của giới trẻ. Rồi dùng để chỉ một hoạt động cụ thể: chơi
sến, mặt sến, tóc sến…, trong đó có nhạc sến.
Nhiều nhà văn, nhà báo ở miền
Nam hồi ấy nghiêng về hai giả thuyết này, cho rằng từ nguyên nhạc sến từ Mari Sến
là những giả thuyết hợp lý và đủ các chứng cứ nhất.
Giả thuyết thứ năm: có nguồn gốc
là “cây đàn sến”.
Giả thuyết này cho là “sến”
trong nhạc có từ nguyên bắt nguồn từ một nhạc cụ cổ truyền ở Nam bộ là Cây
đàn sến. Thạc sĩ Mai Văn Nghĩa, bạn tôi, người sành sõi về cả âm nhạc cổ truyền
lẫn Tây phương, khi gia đình 3 đời chơi nhạc tài tử Nam Bộ và anh chơi classic
rất nhuyễn, là nguồn cung cấp tư liệu quý giá này. Giả thuyết nầy rất thú
vị, hợp lý hơn mà chắc chắn rất hiếm người được nghe đến.
Theo đó, dàn hòa âm nhạc tài tử chính thống trước đây có hai bộ chính
thống:
1. Tứ
Tuyệt:
Gồm 4 cây đàn dân tộc:
đàn kìm (2 dây); đàn cò (2 dây), đàn tranh (16 dây); đàn bầu (độc huyền cầm -
1 dây). Trong đó, đàn kìm là nhạc cụ chính, người chơi đàn kìm là người đứng
đầu dàn hợp xướng, kiêm nhịp song la.
2. Ngũ
Tuyệt:
Nhạc khí tài tử Nam bộ đầu TK 20: 5 cây đàn:
sến, kìm, cò, tranh, ghi ta phím lõm.
Cũng
gồm 4 cây đàn dân tộc như trên, nhưng thêm một ống sáo. Trong
đó, đàn kìm cũng vẫn là nhạc cụ chính, người chơi đàn kìm là người
đứng đầu dàn hợp xướng, kiêm nhịp song la như tứ tuyệt.
Rồi khoảng hai thế kỷ trước, người Nam Bộ du nhập cây đàn sến từ một quốc đảo ở biển
Đông và đưa thêm vào bộ Tứ Tuyệt hoặc Ngũ Tuyệt.
Nhưng cây đàn sến
thùng đặc không khoét lỗ, âm thanh không ngân vang được, không hay, nên
nó lẻ loi, lạc lõng, rền rĩ, đơn điệu… khó được chấp nhận vì không hòa hợp
với hoà âm mới của ngũ tuyệt hoặc tứ tuyệt mà đàn sến tham gia. Từ đó,
công chúng âm nhạc gọi hai bộ hòa âm mới này (có thêm cây đàn sến) là bộ nhạc
sến. Và do quy lụât tiết kiệm của ngôn ngữ cũng như biện pháp ẩn dụ từ
vựng (gọi tên sự vật nầy bằng tên sự vật khác dựa trên sự liên tưởng
tương đồng, giống nhau giữa hai đối tượng bộ nhạc sến và nhạc sến= chất lượng thấp,
rền rĩ…), người ta gọi luôn những bài hát Tân nhạc bình dân ở Nam bộ mà có
chất lượng thâp, rền rĩ… từ nhạc điệu đến ca từ nầy là nhạc sến.
Theo cách giải thích này, thì từ
tố “sến” trong nhạc sến cũng dựa vào phương thức ẩn dụ từ vựng, tương tự như
cách đầu tiên, nhưng nó là nghĩa gốc (thấp kém, coi thường…) cho nghĩa
phái sinh của loạt từ, ra đời sau nó: chơi sến, mặt sến, tóc sến, mặc sến, thơ
sến, truyện sến, tranh sến… như cách thứ hai.
Giả thuyết thứ sáu:
cũng có nguồn gốc là “cây đàn sến”.
Cũng bắt nguồn từ
cây đàn sến, nhưng khác nhau về nguồn gốc của cây đàn, cùng sắc
thái biểu cảm của từ tố sến và điều thú vị là dựa vào phương thức cấu tạo
từ bằng cả 2 biện pháp hoán dụ rồi ẩn dụ. Theo đó, cây đàn sến phổ biến 2 dây của
người Việt được cải tiến từ cây đàn.
Dàn nhạc tài tử Nam bộ.
Tần cầm ba dây, còn gọi là đàn Mai Hoa (Meihuaqin [梅花琴]) của
Trung Hoa du nhập vào miền Tây Nam Bộ do người Triều
Châu ở tỉnh Quảng Đông di cư sang. Tiếng Hoa phát âm Tần Cầm là Xỉn Xỉn
(Qin Qin), vì vậy âm sến là biến âm của người cây đàn Xỉn Xỉn ba dây. Đàn nầy được
dùng trong hai bộ đàn tứ tuyệt và ngũ tuyệt của dàn nhạc đờn ca tài tử và sân khấu
tuồng truyền thống. Nhưng vào đầu thế kỷ XX, khi đàn ghi ta vào miền Tây
được biến cải thành ghi ta phím lõm, bản vọng cổ ra đời rồi được tăng nhịp, đàn
ca tài tử được cải tiến và nghệ thuật sân khấu cải lương hình thành rồi phát
triển nhanh, thì cùng với ghi ta phím lõm, với âm sắc trong trẻo, tươi sáng,
đàn sến trở thành cây đàn chủ lực trong các dàn nhạc nầy. Khi nghe một ban nhạc
trong đó có đàn sến chủ công, chơi một bản đàn tài tử cải lương thật hay, người
nghe khen là “sến", theo hoán dụ từ vựng: lấy cái tiêu biểu gọi tên cho tổng
thể. “Sến” đã trở thành tính từ đồng nghĩa với mùi mẫn, truyền cảm, đi vào lòng
người. Sau này, theo ẩn dụ từ vựng, người ta dùng từ “nhạc sến” để chỉ dòng nhạc
trữ tình bình dân mùi mẫn, truyền cảm, rất đi vào lòng người bình dân vậy.
Hai cách giải thích cuối
cũng có cái lý vững chắc: lấy tên một cây đàn, một bộ nhạc, dàn nhạc của dân
gian có chất lượng thấp được phát sinh ở Nam bộ để gọi tên mới cho một
dòng nhạc cũng bình dân (như nhạc dân gian) mà chất lượng thấp cũng được sinh
ra ở Nam bộ. Trong khi hai cách giải thích đầu đều dựa vào từ nguyên là con
sen, mà ở Nam bộ, nơi khai sinh của dòng nhạc cũng như từ ngữ “nhạc sến”
và cũng là môi trường cho chúng tồn tại, không ai gọi người giúp việc gái là con
sen cả, họ gọi người giúp việc là con ở, đứa ở, ở đợ…, mà chỉ ở Bắc bộ mới
gọi người giúp việc gái là con sen thôi!
Như thế, trong 6 giả
thuyết trên có chia làm ba cặp. Hai cặp đầu dựa vào từ nguyên là con sen, hai cặp
giữa có gốc gác là Maria Schell, hai cặp cuối lấy cơ sở là cây đàn sến. Tất
cả đều bằng phương thức ghép từ tố bằng biện pháp ẩn dụ hoặc hoán dụ. Đáng lưu
ý là trong 5 cách giải thích đầu, từ tố sến đều có sắc thái tình cảm âm tính:
coi thường, xem nhẹ…, chỉ có cách giải thích cuối cùng là từ tố sến có sắc
thái biểu cảm dương tính: coi trọng, xem hay… mà thôi.
Vì không thể không
nhắc đến một tồn tại khách quan trong thực tiễn âm nhạc Việt Nam, nên không thể không
nói rành rẽ, thấu đáo, đúng bản chất của loại nhạc mà người viết chỉ quen/
thích gọi là nhạc bình dân hơn. Như đã nói ở trên, nhạc nào cũng có giá trị của
nó và có một tầng lớp công chúng riêng vì loại nhạc đó thể hiện được tâm tư,
tình cảm, khát vọng của họ, đáp ứng đúng thị hiếu âm nhạc của họ, và vừa tầm khả
năng thẩm mỹ của họ. Và dòng nhạc bình dân này cũng có nhiều ca khúc giá trị,
được nhiều giới yêu thích, trong đó có những “tuyệt tác” mà chưa chắc các nhạc
sĩ dòng nhạc "hàn lâm" đã sáng tác được, như: Khúc ca ngày mùa (Lam
Phương), Đường xưa lối cũ (Hoàng Thi Thơ), Nửa đêm ngoài phố (Trúc Phương), Con
đường xưa em đi (Châu
Kỳ và Hồ Đình
Phương), Nắng lên xóm nghèo (Phạm Thế Mỹ), v.v… Cũng có bài nhạc bình dân
nhưng có những câu rất hay, rất triết lý, rất thơ, chẳng hạn: "Tôi xin người
cứ gian dối nhưng xin người đừng lìa xa tôi…" (Kiếp đam mê - Duy Quang)…
Hay có những câu rất ý vị, nhân văn và xao động lòng người, chẳng hạn: “Nếu
anh có về khi tàn chinh chiến. Xin em cúi mặt dấu lệ mừng nghe em…” (Tạ từ
trong đêm - Trần Thiện Thanh).
Một điều thú vị: Hai dòng
nhạc trữ tình - tình khúc và nhạc vàng, “đối cực” về thính giả, nhưng có khi “đồng
nhất” về tác giả. Một số NS chuyên sáng tác nhạc vàng nhưng cũng có những ca
khúc của họ được xếp vào tình khúc, như một số bài hát của các NS Hoàng
Thi Thơ, Y Vân, Nguyễn
Văn
Đông, Phạm
Thế Mỹ, Song Ngọc, Lam
Phương, Anh Bằng,… Ngược
lại, một số NS trước đã nổi tiếng với tình khúc lại thành công trong nhiều bản
nhạc vàng. Như Phạm Mạnh Cương của tình ca Thu ca (1953) bất hủ, sau nầy viết
nhiều bản nhạc vàng được yêu thích: Tình mùa phượng thắm (1961), Tháng bảy mưa
ngâu (1964)… Hoặc Trần Trịnh của tình khúc Lệ đá nổi tiếng đã viết nhạc vàng
cùng Nhật Ngân trong bút hiệu chung Trịnh Lâm Ngân được phổ biến rộng rãi: Mùa
xuân của mẹ, Xuân này con không về…
Hai NS Trần Trịnh và Nhật Ngân thời trẻ, cùng với
Lâm Đệ, lấy bút hiệu chung Trịnh Lâm Ngân
Xin kể chuyện
này: bạn thân tôi, anh Nguyễn Hữu Liêm, là một học giả, tiến sĩ Luật khoa, tiến sĩ Triết học, từng là Phó chưởng lý Califonia, Trợ lý của Ngoại trưởng
Mỹ James Baker trong cuộc gặp với Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tại
Wasington năm 1990, nguyên chủ nhiệm Tập San Triết (Hoa Kỳ), nguyên Chủ tịch Vietnam
Help (Chương trình Sức khỏe - Văn hóa - Giáo dục), đang là giáo sư Triết học tại
San Jose City College, California, tác giả của nhiều tác phẩm triết học xuất bản
ở Mỹ, trong đó có cuốn "Thời tính, Hữu thể và Ý chí" vừa được NXB
Đà Nẵng ra mắt vào đầu năm nay (2018) và trở thành tác phẩm đầu tiên về đề tài
siêu hình học trong mọi thời ở Việt Nam. Là trí thức nhưng lại thích hát
nhạc bình dân, trong một cuộc đối ẩm ở quán bình dân trên vỉa hè Bà Rịa trong
“nước mắt quê hương” (rượu đế), anh nói vui: "Lũ chúng ta sinh ra từ
sến (giới bình dân) nên phải hát nhạc sến mới sướng…"
Như đã nói, năng lực, thị
hiếu thẩm mỹ của mỗi người tùy thuộc vào nhiều yếu tố: văn hóa - giáo dục, năng
khiếu, truyền thống, tự học tập rèn luyện…, trong đó quan trọng nhất là thành tố
văn hóa - giáo dục. Nếu ta có may mắn được tiếp xúc một môi trường giáo dục tốt
và hình thành được năng lực, thị hiếu thẩm mỹ cao, lành mạnh, đúng đắn thì
ta cũng phải có quan niệm "đa hệ" và có thái độ "rộng lượng",
cảm thông với những người không được may mắn như ta: cứ để cho họ có chỗ chơi trên "sân chơi" của họ… Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật
và… trong hưởng thụ âm nhạc!.
(Trích trong cuốn sách “9 THẬP KỶ CA
KHÚC TÂN NHẠC VIỆT NAM” - nghiên cứu, nhận định - Lê Thiên Minh
Khoa - Phần TÁI BÚT: Nói thêm về từ “sến” và “nhạc sến”, trang 193-202).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét