Những làn điệu quan họ đượm tình, những ngôi chùa, những lễ hội,
những làng nghề truyền thống, và con sông Cầu đã làm nên một xứ Kinh Bắc rất
nên thơ. Bắc Ninh là thế…
Thành Bắc Ninh, một trong Thăng Long tứ trấn (Ảnh: Wikipedia)
Luy Lâu - Cái nôi kết tinh của văn hóa xưa
Nói đến Bắc Ninh không thể không nói tới Luy Lâu, một thủ phủ
nổi tiếng của đất Việt thời cổ. Ngày nay, vết tích của Luy Lâu chỉ còn một đoạn
tường thành nhỏ còn sót lại tại xã Thanh Khương, Thuận Thành, Bắc Ninh.
Luy Lâu là lỵ sở địa phương của quận Giao Chỉ, và cũng là thủ
phủ của cả Giao Châu, một châu phủ bao trùm vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày
nay. Luy Lâu thời Bắc thuộc không chỉ là trung tâm chính trị, mà còn là trung
tâm kinh tế - thương mại, trung tâm văn hóa - tôn giáo lớn và cổ xưa nhất của
Việt Nam.
Thành cổ Luy Lâu (Ảnh: ktxd.vn)
Luy Lâu nằm giữa khu vực giao nhau giữa Sông Dâu và Sông Đuống,
giữa trung tâm đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Trong đó, Sông Dâu giữ vai trò trục
không gian kiến trúc chính. Các công trình của đô thị chủ yếu dựng đặt, xây cất
bên bờ Sông Dâu. Trung tâm đô thị xưa kia là tòa Thành Luy Lâu kiên cố và bề thế.
Ngoài thành, ở hai phía Nam - Bắc chủ yếu là nhà ở, dinh thự, lầu gác của quan
lại, quý tộc mà ngày nay vẫn còn những dấu tích khảo cổ và địa danh Văn Quan,
Phương Quan, Mã Quan, Cánh Sở…
Theo các nguồn sử liệu, các nước phương Tây và phương Nam muốn
buôn bán, giao thiệp với Trung Quốc đều phải theo con đường Giao Chỉ. Từ trước
Công Nguyên, và nhất là từ thế kỷ II-III trở đi, ngày càng có nhiều thương nhân
nước ngoài đến buôn bán ở Giao Châu và thuyền buôn của họ thường xuyên có mặt ở
Luy Lâu. Những chứng tích vật chất và các nguồn tài liệu ở Luy Lâu đã khẳng định
Luy Lâu thực sự là trung tâm thương mại lớn, một đô thị cảng mang tính quốc tế
của nước ta thời xưa.
Tại đây, tư tưởng Nho giáo và văn hoá Hán Đường đã được truyền
bá liên tục vào nước ta. Đây là nơi đầu tiên Sĩ Nhiếp mở trường lớp dạy chữ và
văn hoá Hán. Ngoài ra Luy Lâu còn là trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa nhất của
người Việt. Hệ thống di tích, chùa tháp quần tụ dày đặc ở đây với trung tâm là
chùa Dâu cùng nhiều nguồn di vật, tài liệu như tượng pháp, bia ký, bản khắc “Cổ
Châu Pháp Vân Phật bản hạnh” và lễ hội chùa Dâu.
Khu lăng mộ Sĩ Nhiếp tại làng Tam Á (Ảnh sưu tầm)
Từ mấy nghìn năm trước người Việt cổ đã cư trú và lập làng ở
ven sông Cầu, sông Dâu, sông Đuống, sông Ngũ Huyện Khê, sông Tiêu Vương. Họ sống
chủ yếu bằng canh tác nông nghiệp kết hợp làm nghề thủ công. Những giá trị tinh
thần, tư tưởng được phản ánh qua các huyền thoại về Kinh Dương Vương, Lạc Long
Quân, Âu Cơ, Thánh Gióng, An Dương Vương, Mỵ Châu, Trọng Thuỷ và thành Cổ Loa.
Cùng với huyền thoại truyền thuyết là các di tích tiêu biểu như lăng mộ Kinh
Dương Vương; các đền thờ Lạc Long Quân, Âu Cơ; đền thờ Phù Đổng Thiên Vương ở
Thuận Thành, Từ Sơn, Tiên Du.
Văn hoá Việt Nam cổ kết tinh với văn hoá Phật - Ấn ở Nam
Á; văn hoá Nho giáo, Đạo giáo ở Đông Á để rồi hình thành bản sắc văn hoá Kinh
Việt.
Chùa Dâu - Nơi đầu tiên Phật giáo truyền vào Việt Nam
Chùa Dâu Bắc Ninh là nơi giao lưu của hai luồng văn hóa Phật
giáo từ Ấn Độ sang và từ phương Bắc xuống, chủ yếu bằng đường thủy theo dòng
sông Dâu. Vào buổi đầu Công Nguyên, các tăng sỹ Ấn Độ, tiêu biểu là Khâu-đà-la
đã tới đây truyền bá đạo Phật đầu tiên. Sau đó, cuối thế kỷ VI, nhà sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi
từ Trung Quốc đến chùa này và lập nên một phái thiền ở Việt Nam. Chùa Dâu trở
thành trung tâm của phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, nơi trụ trì của nhiều cao tăng Việt
Nam, Ấn Độ và Trung Quốc đến để nghiên cứu, biên soạn, phiên dịch kinh Phật,
đào tạo tăng ni.
Chùa Dâu (Ảnh: Internet)
Chùa Dâu gắn liền với sự tích Phật Mẫu Man Nương thờ tại chùa
Tổ ở làng Mèn Mãn Xá cách chùa Dâu 1 km. Chùa được xây dựng lại vào năm 1313 và
trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp theo. Vua Trần Anh Tông đã sai trạng
nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín
tầng, cầu chín nhịp. Hiện nay, ở tòa thượng điện, chỉ còn sót lại vài mảng chạm
khắc thời nhà Trần và thời nhà Lê.
Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt Nam, kiến trúc chùa
được xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Bố cục mặt bằng chùa có dạng
phía trong hình chữ Công (工), còn phía ngoài có khung bao quanh
như chữ khẩu (口) hay như ở chữ Quốc (國). Chùa
bao gồm: tiền đường, thiêu hương và thượng điện, hậu đường.
Giữa sân của chùa trải rộng là tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng
loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại
sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao
khoảng 17 m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có
gắn bảng đá khắc chữ “Hòa Phong tháp”. Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng
dưới có 4 cửa vòm. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc
khánh đúc năm 1817.
Ngày nay chùa Dâu nhiều phần được xây dựng lại mới, tuy nhiên
khi tìm về chùa Dâu là tìm về văn hóa tín ngưỡng tâm linh, kính thần, kính phật..
tìm về những giá trị văn hóa truyền thống xưa, dạy con người tu tâm, hành thiện,
tích đức. Đến với chùa Dâu dân gian vẫn lưu truyền bài thơ, như một lời nhắc nhở:
“Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu”
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu”
Nét văn hóa của những làn điệu quan họ
Dân ca Quan họ là một trong những làn điệu dân ca tiêu biểu của
vùng châu thổ sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam. Nó được hình thành và phát triển ở
vùng văn hóa Kinh Bắc xưa, đặc biệt là khu vực ranh giới hai tỉnh Bắc Giang và
Bắc Ninh ngày nay. Nơi ranh giới này được ngăn cách bởi sông Cầu, còn được mệnh
danh là “dòng sông quan họ”. Dân ca Quan họ đã trở thành tài sản văn hoá chung
của dân tộc Việt, tiêu biểu cho loại hình dân ca trữ tình Bắc Bộ.
Quan họ Bắc Ninh (Ảnh sưu tầm)
Hát Quan họ truyền thống là hình thức sinh hoạt văn hóa dân
gian của người dân Kinh Bắc xưa. Thời bấy giờ, hát Quan họ có những quy định
nghiêm ngặt, khắt khe đòi hỏi liền anh, liền chị phải am tường tiêu chuẩn, tuân
theo luật lệ. Vậy nên người xưa gọi là “chơi Quan họ”, chứ không phải là “hát
Quan họ”. Quan họ truyền thống không có nhạc đệm và chủ yếu hát đôi giữa liền
anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân thu nhị kỳ ở các làng quê. Đôi liền anh đối
đáp với đôi liền chị được gọi là hát hội, hát canh; hát cả bọn, cả nhóm liền
anh đối đáp cùng cả nhóm liền chị được gọi là hát chúc, hát mừng.
Văn hóa trong hát Quan họ là cách ứng xử thật khéo léo, tế nhị,
kín đáo và mang đầy ý nghĩa như các làn điệu mời nước, mời trầu thật chân tình,
nồng thắm, “đôi tay nâng chén rượu đào, đổ đi thì tiếc, uống vào thì say”. Người
hát Quan họ uống chén rượu vui bầu, vui bạn, rồi ca xướng cho tàn đêm rạng
ngày, rồi hát các làn điệu chia tay giã bạn đầy quyến luyến. Giã hội rồi mà
Quan họ vẫn còn ngậm ngùi tiếc nhớ “Người về tôi vẫn ngậm ngùi, để thương, để
nhớ…”. Để rồi kết thúc bằng những lời hứa hẹn tha thiết trong mùa hội tới. Ngày
nay, hát Quan họ đã bị thiên về biểu diễn hơn, cách tân hơn, có âm nhạc đệm,
tiêu chuẩn cũng không còn khắt khe như trước.
Nói đến Quan họ thì cũng không thể không nhắc đến hội
Lim. Đây là một lễ hội dân gian được tổ chức tại trấn Lim, Tiên Du, Bắc Ninh. Nổi
bật nhất trong hội Lim là màn thi hát Quan họ. Hội thi hát này diễn ra khoảng gần
trưa, được tổ chức theo hình thức du thuyền hát Quan họ. Tại một hồ nước nhỏ
sát bên cánh đồng làng Lim, chiếc thuyền hình rồng được sơn son thiếp vàng rời
bến trong những câu hát đậm đà nghĩa tình.
Làng nghề truyền thống
Bắc ninh có nhiều làng nghề, như gỗ Đồng Kỵ, tranh Đông Hồ,
v.v. Nói về làng tranh Đông Hồ, người làng vẫn truyền lại mấy câu ca rằng:
“Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có sông tắm mát có nghề làm tranh”
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có sông tắm mát có nghề làm tranh”
Làng tranh Đông Hồ xưa là làng nghề nổi tiếng về tranh
dân gian, thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội chừng
trên 35 km. Làng Đông Hồ (đôi khi dân địa phương chỉ gọi là làng Hồ) nằm trên bờ
nam sông Đuống, cạnh bến đò Hồ, nay là cầu Hồ. Làng này xưa còn gọi là “làng
Mái”. Làng nằm ngay sát bờ sông Đuống, ngày xưa chỉ cách sông một con đê, nên mới
gọi là “Có sông tắm mát có nghề làm tranh”. Ngày nay, do sự bồi lấp của dòng
sông nên từ đê ra đến mép nước cách khá xa.
Tranh dân gian Đám cưới chuột
Còn “làng Mái có lịch có lề” thì nghĩa là gì? Tục ngữ có câu:
giấy rách phải giữ lấy lề. Chữ “lề” ở đây tượng trưng cho những quy tắc đạo đức
của người xưa, rất trọng danh dự, khí tiết. Quan niệm người xưa cho rằng làm
nghề thì phải giữ lấy chuẩn mực đạo đức, chữ tín và sự liêm khiết, có như vậy
thì mới có thể sáng tạo ra những tác phẩm có giá trị.
Nói đến Bắc Ninh còn phải nói đến gỗ Đồng Kỵ. Đồng Kỵ
thuộc thị xã Từ Sơn, có làng nghề đồ gỗ mĩ nghệ truyền thống nổi tiếng của Việt
Nam, trước đây ít lâu vẫn được cho là làng nghề giàu nhất Việt Nam.
Nghề làm gỗ mỹ nghệ ở Đồng Kỵ có từ bao giờ thì hầu như người
dân không rõ. Chỉ biết những đứa trẻ nơi đây mới lớn đã được bố mẹ dạy cho cách
đục đẽo, chạm trổ. Hiện nay, làng vẫn giữ được ngôi đền cổ hơn 300 năm tuổi, được
làm bằng gỗ với những đường nét chạm khắc tinh xảo, do 36 người thợ của làng tạo
nên. Ngày trước, người thợ Đồng Kỵ đi làm ở khắp nơi, ai thuê gì làm đó, từ giường
tủ, bàn ghế đến cả chạm khắc tượng Phật… Đến đầu những năm 1990, khi nhu cầu của
thị trường ngày càng tăng, người làng mới bắt đầu mở cơ sở sản xuất gỗ mỹ nghệ
ngay tại làng.
Làng Đồng Kỵ nổi tiếng với những sản phẩm gỗ như tủ chè, bàn
ghế, gụ, sập… Với những chi tiết chạm khắc vô cùng tinh xảo, mẫu mã đẹp nên đồ
gỗ của làng nổi tiếng khắp gần xa. Đồ gỗ Đồng Kỵ còn được chế tác từ nhiều loại
gỗ quỹ như hương, trắc, sưa, vô cùng giá trị. Có những sản phẩm có giá hàng tỉ
đồng, không phải ai cũng có khả năng mua được.
Đặc sản Bắc Ninh
Dù có khá nhiều nơi làm bánh tẻ cũng nổi tiếng như Phú Nhi,
hay Hưng Yên, nhưng không có bánh tẻ nào nổi tiếng như bánh tẻ làng Chờ ở
Bắc Ninh. Bánh tẻ làng Chờ luôn mang một hương vị đặc trưng đậm đà của đặc sản
Miền Bắc. Bánh được làm từ bột gạo tẻ, gói ngoài bằng lá dong và được luộc
chín. Bánh tẻ chấm với nước mắm rắc hạt tiêu xay với chanh, tỏi, ớt hoặc chấm với
tương ớt. Ở một số nơi người ta còn dùng thêm món chả gà và dầu cà cuống trộn với
nước mắm để tăng thêm hương vị của món bánh.
Làm bánh phu thê Đình Bảng (Ảnh qua vietnamplus.vn)
Bánh phu thê Đình Bảng cũng là một đặc sản nổi tiếng.
Bánh phu thê khi ăn sẽ thấy độ dẻo của nếp, độ giòn của đu đủ, độ ngậy của đỗ
xanh, vị béo của cùi dừa, vị bùi của hạt sen, vị ngọt của đường… tất cả hòa quyện
vào nhau làm thành hương vị rất riêng của bánh. Nhân bánh hình tròn nằm trong vỏ
bánh bẻ khuôn hình vuông bằng lá dừa, như biểu tượng vuông tròn của triết lý âm
dương. Người ta dàn mỏng bột lên khuôn, đặt nhân vào một đầu rồi đắp phần bột
còn lại lên nhân như thể hiện sự ôm ấp, che chở của tình phu thê.
Rượu làng Vân (Ảnh qua ruoulangvan.wordpress)
Rượu làng Vân là một thứ đặc sản Bắc Ninh không thể thiếu
vào các dịp lễ hội, tết hay làm quà, Rượu được nấu bằng thứ gạo nếp thơm ngon,
ngoài ra còn làm bằng sắn khô hoặc tươi, cộng thêm men gia truyền là 35 vị thuốc
bắc quý hiếm và nghệ thuật ngâm ủ tài tình của người dân nơi đây. Rượu uống êm,
vị đậm, uống xong có cảm giác lâm ly hương vị đặc biệt trong họng và không đau
đầu. Khi cầm chai rượu lắc mạnh, ngay lập tức có rất nhiều bọt tăm li ti nổi
lên rồi tan dần như pháo bông, pháo hoa. Tất cả tạo nên nét riêng có của loại
rượu mang thương hiệu làng Vân vốn tồn tại từ hàng chục thế kỷ qua, được mọi
người trong và ngoài nước biết đến.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét