Dấu ấn văn hóa Chămpa
Nhớ lại về những năm đầu tiên (2002-2004) khai quật và nghiên
cứu Hoàng Thành Thăng Long, những nhà khảo cổ học với mục đích gìn giữ di sản
đã sẵn lòng kể chuyện, giải thích về lịch sử nước nhà, lịch sử Thăng Long, về tầm
quan trọng của di tích, của văn hóa Việt của tinh thần dân tộc... và sự cần thiết
phải bảo vệ di sản, biến nơi đây thành một bảo tàng gìn giữ truyền thống này
cho hậu thế. Đến công trường khai quật thời điểm ấy gần như lúc nào cũng thấy
tiếng loa cầm tay do các nhà khảo cổ đang giải thích cho hàng đoàn khách đến
thăm di tích Hoàng Thành Thăng Long vừa phát lộ. Mỗi khi dẫn các đoàn khách đi
thăm di tích, nhìn lên bức tường ngăn khu di tích với phố Hoàng Diệu, tôi thấy
không biết bao nhiêu người dân Hà Nội đã dừng lại trèo lên xe ngó vào và chăm
chú nghe, lúc đó trong tôi cảm giác thật khó tả, thật cảm động. Nhiều kỷ niệm về
công việc này sẽ không bao giờ tôi quên được. Chúng tôi luôn thuyết minh về di
tích và luôn lắng nghe rồi trả lời tất cả các câu hỏi của khách thăm.
Nhớ lại về những năm đầu tiên (2002-2004) khai quật và nghiên
cứu Hoàng Thành Thăng Long, những nhà khảo cổ học với mục đích gìn giữ di sản
đã sẵn lòng kể chuyện, giải thích về lịch sử nước nhà, lịch sử Thăng Long, về tầm
quan trọng của di tích, của văn hóa Việt của tinh thần dân tộc... và sự cần thiết
phải bảo vệ di sản, biến nơi đây thành một bảo tàng gìn giữ truyền thống này
cho hậu thế. Đến công trường khai quật thời điểm ấy gần như lúc nào cũng thấy
tiếng loa cầm tay do các nhà khảo cổ đang giải thích cho hàng đoàn khách đến
thăm di tích Hoàng Thành Thăng Long vừa phát lộ. Mỗi khi dẫn các đoàn khách đi
thăm di tích, nhìn lên bức tường ngăn khu di tích với phố Hoàng Diệu, tôi thấy
không biết bao nhiêu người dân Hà Nội đã dừng lại trèo lên xe ngó vào và chăm
chú nghe, lúc đó trong tôi cảm giác thật khó tả, thật cảm động. Nhiều kỷ niệm về
công việc này sẽ không bao giờ tôi quên được. Chúng tôi luôn thuyết minh về di
tích và luôn lắng nghe rồi trả lời tất cả các câu hỏi của khách thăm.
Nói về ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài trên kiến trúc Hoàng
Thành Thăng Long, tôi muốn nhớ lại một thắc mắc rất hay từ một nữ Việt kiều ở Cộng
Hòa Séc. Chị ấy đẹp, trong suốt buổi tôi trình bày về di tích gần 2 giờ đồng hồ,
chị ấy cứ im lặng nghe và cuối buổi, rất dịu dàng và hơi ngại ngùng đến gần tôi
và hỏi: “ Xin lỗi, tôi thấy anh giải thích rất hay về kiến trúc, về di vật của
Hoàng Thành Thăng Long, là một người Việt Nam, tôi rất tự hào nhưng tôi thấy ở
đây có rất nhiều hoạ tiết, motif hoa văn trên kiến trúc đặc biệt là thời Lý -
Trần có hơi giống tháp Chàm và bảo tàng Chàm Đà Nẵng”. Đây là một câu hỏi rất
thú vị và nó đã đến với tôi, một người có nhiều năm nghiên cứu khảo cổ học
Champa, đang rất muốn trình bày về sự ảnh hưởng của nền văn hóa này đến văn
minh Đại Việt nói chung và trên kinh thành Thăng Long nói riêng.
1. Tiền đề cho sự du nhập văn hóa Chămpa
Ngay từ buổi đầu của nền độc lập, nhà Tiền Lê đã cất quân đi
đánh Chămpa, sử cũ chép rằng: Năm Nhâm Ngọ thứ 3 [982]... Vua thân đi đánh nước
Chiêm Thành thắng được. Trước đây, vua sai Từ Mục và Ngô Tử Canh sang sứ Chiêm
Thành, bị họ bắt giữ, vua giận, mới đóng thuyền chiến, sửa binh khí, tự làm tướng
đi đánh, chém được Phê - mỵ - thuế tại trận; Chiêm thành thua to; bắt sống được
binh sĩ không biết bao nhiêu mà kể; bắt được kỹ nữ tong cung trăm người và một
thầy tăng người Thiên Trúc... (Ngô Sĩ Liên, 1967, tr.168).
Chắc chắn trong những năm tháng ban đầu ấy, với những tiếp
xúc với Chămpa, thân thiện hay không thân thiện, hình ảnh con người và đất nước
Chămpa đã in dấu ấn vào vị vua đầu triều của nhà Tiền Lê, rồi những tù binh,
cung nữ, cùng những đồ quý giá được đưa về Đại Việt. Trong suốt những năm tháng
cuối cùng của thế kỷ 10 dưới triều Tiền Lê đã có không ít hơn một lần người
Chămpa quấy rối bờ cõi và nhân đó quân Đại Việt lại tiến vào Chămpa, những cuộc
tiếp xúc đó ngày càng nhiều hơn, đều đặn hơn và đương nhiên những ảnh hưởng của
nền văn minh Chămpa cũng ngày càng rõ nét hơn vào Đại Việt. Chúng ta, sau này
còn thấy ở Kinh đô Hoa Lư dấu ấn ấy trên những mặt hổ phù trên kiến trúc, trên
những hình chạm trên gạch, những cột kinh khắc chữ Phạn... (Hà Văn Tấn, 1997,
tr.786-815). Nhưng, cuộc mở cõi về phương Nam của người Việt phải thực sự quyết
liệt vào thời Lý trở về sau, và những yếu tố văn hóa Chămpa cả vật thể và phi vật
thể theo bước chân những đoàn quân Nam chinh trở về càng hiển hiện rõ ràng hơn,
thậm chí có thể thấy, nền văn minh ấy còn là nguồn cảm hứng vô bờ cho nền nghệ
thuật Đại Việt vào thời kỳ sau.
Ngay sau khi lên ngôi vua được một năm, Lý Công Uẩn đã xuống
chiếu dời đô về thành Đại La.
Chắc rằng trong những năm đầu của triều đại nhà Lý, việc xây
cất kinh thành mới dựa trên những thành tựu của Đại La cũ phải được thực hiện rất
ráo riết và những dấu ấn mới, dấu ấn của người Việt, của một quốc gia độc lập
phải được xác lập trên kiến trúc, điêu khắc, và phải khác với một nghìn năm Bắc
thuộc. Kinh thành Thăng Long được dựng lên bằng tâm hồn Việt, ý chí Việt nhưng
rõ ràng những ảnh hưởng từ các nền văn hóa khác là không nhỏ. Quá mệt mỏi với
những gì người phương Bắc áp đặt lên con người, lên tâm thức Việt cả ngàn năm
qua, Lý Công Uẩn cùng triều đình và người dân nước Việt thấu hiểu cần phải có một
diện mạo mới cho kinh thành, một kinh thành của một dân tộc khát khao tự do,
khát khao khẳng định mình với tư cách một quốc gia không chỉ độc lập về hành
chính mà còn cả về tâm hồn, nghệ thuật đặc biệt là nền kiến trúc. Đến kỷ nguyên
của các triều đại sau, đặc biệt là thời Trần việc khẳng định tư cách Đại Việt
trước người láng giềng khổng lồ mà sự mô phỏng về nhiều phương diện từ người
láng giềng ấy là không tránh khỏi, là tất yếu (Trần Quốc Vượng, 2000:
142).
Tuy vậy, như trên đã nói, một ngàn năm thuộc Bắc với người Việt
là quá mệt mỏi và sự kháng cự về văn hóa cũng đã đến kỳ bùng nổ. Bằng tất cả nỗ
lực của một nền văn hoá, lòng tự trọng của một dân tộc, thời kỳ Lý - Trần là một
cuộc phục hưng mạnh mẽ, đậm bản chất Việt nhất trong lịch sử dân tộc thời trung
đại, để lại dấu ấn rõ rệt nhất trong lịch sử ngàn năm Thăng Long. Tuy nhiên những
thành tựu đó điều đó không phải ngẫu nhiên mà có. Từ truyền thống văn hoá bản địa,
tiếp nối một văn hoá Đông Sơn vẫn ẩn chứa đâu đó trong người dân Việt kết hợp với
những yếu tố văn hóa ngoại lai, tiền nhân chúng ta đã tạo nên một nền nghệ thuật
kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, và một kinh đô rất Việt nhưng cũng ẩn chứa nhiều
tinh hoa của văn minh bên ngoài. Trong đó có nguồn cảm hứng từ Chămpa, một nước
láng giềng đã có một nền văn minh phát triển rực rỡ với một nền nghệ thuật làm
say đắm lòng người. Từ nguồn văn hóa phương Nam này, người Việt đã nhận ra đây
chính là một trong những yếu tố làm nhạt nhòa sự mô phỏng từ phương Bắc, hay
nói theo cách của cố Giáo sư Trần Quốc Vượng là việc “giải Hoa hóa”.
2. Vài ví dụ của sự du nhập văn hóa Chămpa vào Đại Việt
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ có thể đưa ra một vài
chứng cứ sự hiện diện văn hoá Chămpa chủ yếu trên vùng Thăng Long và phụ cận.
2.1. Điểm qua tư liệu văn hóa Chămpa ở xung quanh Thăng Long
Sau những cuộc tiến quân vào Chămpa, gần như vị vua nào, tướng
nào của Đại Việt cũng đều mang về nước rất nhiều quân lính, thợ thủ công, vũ nữ,
nhạc công... phục vụ cho một công cuộc xây dựng một nền nghệ thuật mới, kiến
trúc mới của Đại Việt. Những khu định cư của người Chăm được thiết lập xung
quanh Thăng Long cả Đông, Nam, Đoài, Bắc. Các nhà nghiên cứu đã biết đến những
địa danh như thôn Bà Già bên Hồ Tây (nay thuộc đất làng Phú Gia, phường Phú Thượng,
quận Tây Hồ, Hà Nội) là nơi an cư của tù binh Chămpa từ thời Lý Thánh Tông
(Nguyễn Vinh Phúc, 1977: 280-281). Qua bên kia sông Hồng, đến làng Võng La, một
địa bàn ngay sát sông, các nhà khảo cổ học đã phát hiện trong ngôi chùa làng 2
pho tượng Chămpa chính hiệu, một là tượng thần Shiva, chất liệu sa thạch, một
là tượng Bà mẹ Xứ sở (Thiên Yana) tiếc là pho tượng này đã bị đánh tráo từ những
năm 60 của thế kỷ trước, tuy nhiên pho tượng đá còn lại và phiên bản của pho tượng
bị đánh tráo thì không ai có thể nói là không phải của người Chăm (Nguyễn Tiến
Đông, Nguyễn Hữu Thiết, 2005: 806-808).
Tượng thần Shiva (chùa Võng La, Đông Anh, Hà Nội).
Chất liệu
đá, nguồn: Nguyễn Tiến Đông
Tượng Bà mẹ Xứ sở (Thiên Yana) (chùa Võng La,
Đông Anh, Hà Nội).
Phục chế, nguồn: Nguyễn Tiến Đông
Bên xứ Bắc, cả một quần thể di tích chùa chiền được khởi dựng
từ thời Lý với những chứng cứ về sự có mặt của văn hóa Chămpa như cột đá chùa Dạm,
bệ sen chùa Phật tích, hình tượng chim thần Garuda chùa Phật Tích... Điều đó gợi
ý rằng làng Võng La cũng có thể là một trong những làng của người Chăm xưa.
Chúng ta đều biết ở nhiều ngôi chùa Việt Nam người ta đã thống kê được hàng
trăm bệ đá hoa sen mang dấu ấn của văn hóa Chămpa với những nét chạm khắc tinh
xảo mà tôi nghĩ có sự tham gia của các nghệ nhân Chăm. Những ngôi tháp cổ như
Chương Sơn, Bình Sơn với những đặc trưng về gạch, đất nung và đặc biệt là trang
trí rất gần gũi với văn hóa Chămpa từ lâu đã được nhiều người biết tới và Nguyễn
Hồng Kiên đã cho rằng nơi đây có sự góp mặt chung tay xây dựng của những người
thợ Chămpa mà anh còn nói thẳng ra là tù binh Chămpa (Nguyễn Hồng Kiên, 2000:
744-745). Ở vùng ven sông Đáy thuộc huyện Đan Phượng (Hà Tây cũ, ngoại ô kinh
thành Thăng Long xưa) ngoài hệ thống các chùa những bệ đá hoa sen ảnh hưởng từ
hình thức bệ thờ Chămpa đã được nhắc đến, người ta còn thấy dấu vết của các
công trình dân sinh như những giếng nước được xây bằng kỹ thuật của người Chăm ở
xã Song Phương. Điều này cho thấy những người Chăm đến Đại Việt không chỉ mang
đến những tác phẩm nghệ thuật mà còn mang theo cả những kiến thức, những kỹ thuật
phục vụ cho cuộc sống thường nhật của cộng đồng (Nguyễn Tiến Đông, Ogawa Yako,
2000: 717-718). Có một hình tượng điêu khắc thể hiện cả yếu tố văn hóa vật thể
lẫn phi vật thể có nguồn gốc Chăm mà người ta không thể không nhắc đến ở Đại Việt,
đó là những pho tượng Phỗng Chàm. Có thể thấy ở bất cứ đâu từ các tỉnh miền núi
phía Bắc, đến châu thổ sông Hồng, Thanh Hoá... trong những ngôi chùa, đền, đình
đều có sự hiện diện của hình tượng này. Tư liệu văn hóa dân gian cho thấy: “Ở
làng Xuân Phả, xã Xuân Trường, huyện Thọ Xuân,Thanh Hóa trước kia còn có một
trò diễn trong lễ hội làng gọi là trò Chiêm Thành, với 14 người tham gia (1
chúa, 1 nàng, 2 phỗng, 10 quân). Hai phỗng này làm động tác quỳ dâng hương và động
tác quỳ bái rất giống với các pho tượng phỗng Chàm” (Nguyễn Xuân Diện,
2000: 727).
Phải nói rằng trên khắp Đại Việt xưa, sự có mặt của văn hóa phi vật thể Chămpa cũng khá phổ biến mà ngày nay dấu ấn còn thấy rất rõ. Tôi có
liên tưởng rằng: Những làn điệu quan họ nổi tiếng của đất Kinh Bắc thoảng đâu
đó giai điệu của nhạc Chăm. Điệu múa dân gian “Con đĩ đánh bồng” thường được thấy
trong các hội làng ở châu thổ Bắc bộ, nhất là bên Kinh Bắc và Phú Thọ khá giống
với điệu Múa bóng ở xóm Bóng, thành phố Nha Trang, một lưu dấu rõ nét của điệu
múa Chămpa (Ngô Văn Doanh, 2006: 48-53). Tài liệu cũng cho biết vua Lý rất mê
khúc nhạc Tây Thiên của Chămpa. “Tháng 8, ban ra khúc nhạc và điệu đánh trống
của Chiêm Thành khiến nhạc công hát” (Ngô Sĩ Liên, 1967: 231) Hình ảnh
trên cho thấy sự đồng điệu về các nét chạm vũ công trên bệ thờ Mỹ Sơn E1 với họa tiết vũ công trên đồ gốm ở Hoàng thành Thăng Long.
Vũ nữ trên mô hình tháp bằng gốm
men trắng (18 Hoàng Diệu, Hà
Nội)
2.2. Thử góp bàn về dấu ấn văn hóa Chămpa ở Hoàng Thành Thăng
Long
Mặc dầu người ta nói nhiều đến sự ảnh hưởng văn hóa từ Chămpa
qua nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc, tuy nhiên tư liệu vật chất, đặc biệt là
vào thời kỳ Lý - Trần còn lại không nhiều, hơn nữa rất tản mát, chưa đủ để đưa
ra những nhận định xác thực. Trong những năm gần đây, với cuộc khai quật di
tích Hoàng Thành Thăng Long ở 18 Hoàng Diệu (Ba Đình, Hà Nội), một hệ thống di
tích kiến trúc và các loại hình di vật từ gốm sứ, đồ kim loại, mộ táng, đồ gỗ...
đặc biệt là vật liệu và trang trí kiến trúc bằng đất nung, gạch, ngói, các cấu
kiện kiến trúc bằng đá có trang trí rồng, phượng... của Hoàng Thành Thăng Long
xưa đã được các nhà khảo cổ học làm xuất lộ.
Với khối tư liệu này có thể thấy ở trên kinh thành Thăng Long
xưa, sự hiện diện của văn hoá Chămpa là rất rõ thể hiện qua vật liệu kiến trúc
và nghệ thuật tạo hình thời kỳ Lý - Trần.
2.2.1. Vật liệu gạch
Viên gạch khắc chữ Chăm tại 18 Hoàng Diệu.
Nếu như những viên gạch của thời kỳ Đại La chủ yếu có màu xám
với độ nung khá cao, cứng và khó chạm khắc thì gạch của Hoàng Thành Thăng Long
thời kỳ này đại bộ phận là có màu đỏ tươi, chất liệu mịn, độ nung không cao và
dễ gọt cắt, chạm khắc. Những đặc trưng kỹ thuật này cho thấy đã có sự thay đổi
lớn trong kỹ thuật làm gạch để phục vụ cho một ý đồ tạo hình và xây dựng khác với
thời trước đó. Kỹ thuật này có thể đã được tham khảo từ kỹ thuật làm gạch của
Chămpa, một dân tộc sản xuất và sử dụng gạch bậc thầy ở khu vực. Ý nghĩ này
càng được củng cố khi một viên gạch có viết những dòng chữ Chăm trên cả hai mặt
được phát hiện. Quan sát thật kỹ có thể nhận ra những dòng chữ này được viết
lên gạch khi còn ở dạng mộc và chưa khô, dứt khoát không phải được viết khi đã
nung. Sự xuất hiện của viên gạch này có ý nghĩa to lớn cho việc nghiên cứu. Trước
hết nó khẳng định sự có mặt của người thợ Chăm trên Hoàng Thành Thăng Long là sự
thật như sử đã chép. Thứ hai, điều này quan trọng hơn, nó chứng tỏ người thợ
Chăm ở Thăng Long không chỉ là người thợ xây mà còn là người làm ra những viên
gạch đó, và chính họ đã mang đến Thăng Long kỹ thuật làm ra những viên gạch đỏ
tươi, tạo hình đẹp, cùng với màu đỏ của bộ mái tuyệt vời và rất Việt xây cất
lên những kiến trúc, lộng lẫy của Thăng Long khác xa những viên gạch xám đậm chất
phương Bắc trước đó.
2.2.2. Vật liệu đá
Chân tảng đá hoa sen tại 18 Hoàng Diệu
Trang trí kiến trúc bằng đá mô típ
hoa dây tại 18 Hoàng Diệu
Trang trí kiến trúc bằng đá mô típ
hoa dây tại tháp Dương
Long
Trên kinh thành Thăng Long người ta có thể nhận thấy có rất
nhiều cấu kiện kiến trúc bằng đá, chủ đạo là sa thạch, một loại đá rất gần gũi
với người thợ Chămpa, loại đá không có thớ, dễ đục đẽo, tạo hình.
Gần như toàn bộ các tảng kê cột của kiến trúc Hoàng Thành
Thăng Long đều bằng đá và được chạm hoa sen rất đẹp, nhất là những tảng kê cột
thời Lý. Những bệ tượng tạo hình rồng, đặc biệt là những bậc lan can trang trí
rồng, phượng, sóng nước, vân mây cực kỳ tinh xảo của thời Lý chắc sẽ có sự góp
công của người thợ đá Chămpa, thực hiện những ý tưởng Việt để tạo nên những tác
phẩm tuyệt vời đến vậy. Minh họa ảnh cho thấy sự tương đồng và ảnh hưởng qua 2
bức chạm họa tiết hoa dây bệ đá Hoàng Thành Thăng Long và đá ốp chân tường tháp
Chăm Dương Long (Bình Định).
2.2.3. Nghệ thuật tạo hình
Lá đề cân trang trí hình
chim phượng tại 18 Hoàng Diệu
Lá nhĩ, hay gọi là tympan theo các học giả
phương Tây trên
trán các ngôi đền thờ Chămpa
Trước hết về biểu tượng lá đề ở Hoàng Thành Thăng Long, rõ
ràng đó là vật trang trí kiến trúc, tuy nhiên nó còn mang tính quyền uy của
vương triều. Hình tượng lá đề lớn, có tạo hình rồng hoặc phượng được đặt ở
chính giữa bờ nóc của kiến trúc (vị trí của mặt nhật, nguyệt, hồ lô... trên các
kiến trúc Trung Hoa hay ảnh hưởng Trung Hoa) là một sáng tạo tuyệt vời của tiền
nhân. Điều chắc chắn là trong nghệ thuật Trung Hoa không có motif này. Nhưng tại
sao lại là motif lá đề? Tôi mạnh dạn cho rằng nguồn cảm hứng của sự sáng tạo ấy
đến từ cái lá nhĩ, hay gọi là tympan theo các học giả phương Tây trên trán các
ngôi đền thờ Chămpa. Ở Chămpa, lá nhĩ trang trí các vị thần, đặt ở trên cửa
chính của ngôi đền thờ, còn ở Đại Việt lá đề trang trí linh thú như rồng, phượng,
đem đặt chính giữa bờ nóc. Với ý nghĩa, nội dung và hình thức như vậy, người
Chăm không thấy đó là của mình và người phương Bắc cũng không thể bảo là của họ
và đó chính là Đại Việt.
Còn lá đề lệch, nhìn qua ta thấy đâu đó phảng phất hình bóng
của vật trang trí góc tháp Chăm (người Pháp gọi là pierre d’accent). Tuy nhiên,
cũng không hoàn toàn là vậy, chỉ phảng phất thôi và ở Chămpa nó được đặt ở các
góc tháp, đền để tạo nên sự bay bổng, nhẹ nhõm cho một khối gạch đá khổng lồ.
Còn ở đây, nó chạy dọc hai bên bờ nóc, chạy xuống bờ dải cùng với tàu mái lượn
lên, với những hàng ngói ống có đầu ngói trang trí phong phú và cái lá đề tinh
xảo trên lưng tạo nên một bộ mái mỹ miều và thanh thoát. Đó là nét đặc trưng
không ai phủ nhận được của một bộ mái cung đình Đại Việt.
Lá đề lệch trang trí hình rồng tại 18 Hoàng Diệu
Tượng Makara (Chămpa) tại
Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng
Tượng đầu rồng tại 18 Hoàng Diệu
Rồng Tháp Mẫm, Bảo tàng Điêu khắc Chăm, Đà Nẵng
Mặt hổ phù đất nung tại 18 Hoàng Diệu
Mặt Kala trên tường tháp Mỹ Sơn F1
Tượng Kinari chùa Phật Tích, Bắc Ninh
Lại bàn thêm về một số hình tượng khác như đầu rồng, chúng ta
dễ nhận thấy rồng thời kỳ này có cái vòi, cái nanh, cái lưỡi mang dáng dấp của
makara Chămpa (Hà Bích Liên, 1998: 75-80). Tuy nhiên rồng của Đại Việt ngậm ngọc
và có một cái bờm vút cao nhẹ nhàng bay bổng phía sau gáy. Những chi tiết này
trong nghệ thuật Chămpa không có được. Còn cái thân uốn lượn của con rồng thời
Lý - Trần, đặc biệt là thời Lý thì đúng là một tuyệt tác của nghệ thuật tạo
hình Đại Việt. Những mặt hổ phù, dường như cũng mang cảm hứng từ mặt Kala của
Chămpa chăng?
Và còn Garuda, Kinari của Chămpa thì mọi người đều thấy xuất
hiện khá nhiều trên các kiến trúc Lý - Trần. Ở đây chúng ta dễ dàng nhận thấy một
minh chứng tượng Kinari ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh).
3. Tạm kết
Sau một ngàn năm thuộc Bắc, nước Đại Việt ra đời và bước vào
kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập. Những gì người phương Bắc mang đến và để lại
trong nền văn hóa Việt quả thật không nhỏ và nó cũng phần nào, cùng với các yếu
tố văn hoá nội sinh của xứ này tạo nên một bản sắc riêng của phương Nam. Ở đây
tôi muốn viện dẫn cố Giáo sư Trần Quốc Vượng về sự “mô phỏng” Trung Hoa là một
sự tất yếu, bởi các nguyên do:
a. Do sự dính líu với Trung Hoa hàng chục thế kỷ Bắc thuộc.
b. Do áp lực thường xuyên của Trung Quốc - dù ẩn tàng hay hiển
minh suốt từ sau thế kỷ 10 trở lại đây, ngăn cản sự phát triển của đời sống xứ
sở này
c. Bởi vậy Việt Nam làm bất cứ một cái gì cũng phải để một con
mắt về phía Bắc. Trung Hoa thì To, Việt Nam thì Nhỏ: Bắt chước Trung Hoa cũng để
tỏ ra “không kém” và “không khác” Trung Hoa, cũng “văn hiến” như Trung Hoa và
do đó không cần Trung Hoa cai trị...
Sau thế kỷ 10, thời kỳ phục hồi dân tộc và phục hưng văn hóa dân tộc... Những ảnh hưởng cũ của văn hóa Ấn Độ (Phật giáo và cả Bà La Môn) qua
việc thờ Đế Thích và Nhị Thiên Vương (hai thần Nhật Nguyệt đời Lý) cũng như ảnh
hưởng mới từ văn hóa Chiêm Thành, Chân Lạp - những nền văn hóa cao và không
Trung Hoa, trở thành “đối trọng” (contre - poids) của văn hóa Việt Nam có tác dụng
trung hòa ảnh hưởng của văn minh Trung Quốc, tăng cường cái căn cước riêng biệt
của Việt Nam... (Trần Quốc Vượng, 2000: 142).
Với ý tưởng trên tôi cũng cho rằng, việc Đại Việt lấy nguồn cảm
hứng từ phương Nam, từ Chămpa để tạo nên một đối trọng với phương Bắc, một diện
mạo mới cố gắng tách khỏi sự ràng buộc trong văn hóa từ phương Bắc cũng là điều
hoàn toàn tự nhiên. Người xưa không sao chép nguyên xi các nguyên mẫu của văn
hóa Chămpa, mà học hỏi tiếp nhận và sáng tạo những nét tinh túy nhất dựa trên một
nền tảng văn hóa bản địa. Nguồn lửa từ mặt trời Đông Sơn tưởng chừng như đã tắt
nhưng đã cháy bùng trở lại sau ngàn năm thuộc Bắc, để thắp sáng một ngọn lửa Việt
không chỉ trên kinh đô Thăng Long mà còn trên cả xứ sở này. Những gì chúng ta
thấy ngày hôm nay trên Hoàng Thành Thăng Long là chứng minh hùng hồn sức sống
mãnh liệt của dân tộc, của một đất nước độc lập.
Tài liệu tham khảo:
Hà Bích Liên 1998: Nghệ thuật cổ Chămpa - Những dấu ấn của
giao lưu văn hóa khu vực, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2: 75-80.
Hà Văn Tấn 1997: Từ cột kinh Phật năm 973 vừa phát hiện ở Hoa
Lư, Theo dấu các văn hóa cổ. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội: 786-815.
Ngô Văn Doanh 2006: Lễ vía Bà Thiên Yana với tục thờ Mẫu của
người Chăm và người Việt. Nghiên cứu Đông Nam Á số 2: 48-53.
Nguyễn Xuân Diện 2000: Những phát hiện mới về loại các tượng
phỗng Chàm trong các di tích. Trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm
1999: 727-728.
Nguyễn Tiến Đông, Ogawa Yako 2000: Hai giếng nước có kỹ thuật
Chămpa ở xã Song Phương (Đan Phượng, Hà Tây). Trong Những phát hiện mới về
khảo cổ học năm 1999: 717-718.
Nguyễn Tiến Đông, Nguyễn Hữu Thiết 2005: Hai bức tượng Chăm tại
chùa Bạch Sam (Hà Nội). Trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2004:
806-808.
Nguyễn Hồng Kiên 2000: Có hay không nghệ nhân - tù binh
Chămpa trong việc xây dựng tháp Then - Bình Sơn. Trong Những phát hiện mới
về khảo cổ học năm 1999: 744-745.
Nguyễn Vinh Phúc 1987: Tìm ra thôn Bà Già Hà Nội. Trong Những
phát hiện mới về khảo cổ học năm 1986: 280-281.
Trần Quốc Vượng 2000: Xuân lửa Đống Đa trong bối cảnh văn hóa
xã hội đương thời. Trên mảnh đất ngàn năm văn vật. NXB Hà Nội.
Nguyễn Tiến Đông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét