Nhạc trữ tình ở vùng đô thị
Trần Văn Khê, Trần Văn Trạch
và Lê Thương ở Sài Gòn, 1949
Trong hoàn cảnh chiến tranh, ở
vùng đô thị do thực dân Pháp chiếm đóng, tâm lý người dân là chán ghét thực tại,
tránh né thời cuộc, hướng về những gì cao đẹp, người nhạc sĩ cũng là người nói
hộ tâm tình đó. NS-PGS.TS Thế Bảo trong cuốn Lịch sử âm nhạc Việt Nam (NXB
Thanh Niên - 2017) cho rằng: “dòng chảy cơ bản của âm nhạc vùng tạm chiếm
là trốn thực tại đau khổ vào tình yêu lứa đôi, vào giấc mơ, vào lịch sử xa xưa,
hình thành dòng nhạc trữ tình lãng mạn”. Ca khúc của họ là sự nối tiếp
dòng nhạc lãng mạn thời tiền chiến và sau này được xếp chung vào dòng nhạc tiền
chiến.
Giới sáng tác ca khúc ở vùng tạm chiếm
lúc nầy gồm 2 nguồn: những nhạc sĩ ở lại thành, không vào chiến khu ngay từ đầu,
như: Lê Thương, Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước…, hoặc đang tuổi thiếu niên như
Cung Tiến, Lam Phương…, và những nhạc sĩ tham gia kháng chiến, rồi do thời
cuộc, do hoàn cảnh riêng, do bị Pháp bắt hoặc không chịu được gian khổ kháng
chiến đã bỏ về “tề” từ đầu thập niên năm 1950, như: Phạm Duy, Hùng Lân, Đoàn
Chuẩn, Hoàng Thi Thơ, Hoàng Giác, Võ Đức Thu,…
NS Đoàn Chuẩn
Lực lượng sáng tác
tuy đông, nhưng số lượng tác phẩm không nhiều. Một số nhạc sĩ chựng lại, không
viết nữa, một số đổi lại tựa đề ca khúc cũ hoặc sửa chữa lại lời cho hợp vời
hoàn cảnh mới ở vùng tạm chiếm rồi mới phổ biến. Như Phạm Duy trong 4 năm chỉ
viết được một ca khúc Đàn tôi lúc mới rời bỏ kháng chiến.
Hoàng Giác viết Ngày về (1946 - sau này làm ông chịu
nhiều hệ lụy vì trở thành nhạc hiệu cho chương trình chiêu hồi của VNCH) khi
tham gia kháng chiến, sau “về thành” Hà Nội đã viết Lỗi cung đàn, Quê
hương, Hương lúa đồng quê, Bóng ngày qua…
Một số khác viết nhiều hơn, như Hùng Lân viết một loạt ca
khúc: Một mùa xuân huyền ảo, Vườn xuân, Hận Trương Chi, Hè về, Cô gái Việt, Mùa
hợp tấu, Ca xuân hẹn ước, Luống cầy mạch sống, Nhớ rừng, Sầu lữ thứ, Tơ vương,
Xóm nghèo…
Đặc biệt, Đoàn Chuẩn trở thành
một hiện tượng âm nhạc thời đó khi từ chiến khu về Hà Nội tung ra nhiều tình ca
được viết trước đó và được công chúng thị thành nồng nhiệt đón nhận: Ánh trăng
mùa thu (1947- ca khúc đầu tay), Tình nghệ sĩ (1947), Đường về Việt Bắc (1948), Lá thư (1949). Sau đó, ông viết tiếp: Thu quyến rũ (1950), Chuyển bến
(1952), Gửi gió cho mây ngàn bay (1952), Cánh hoa duyên kiếp (hay "Dạ
lan hương" (1953), Lá đổ muôn chiều (1954). Cũng cần phải kể thêm những
tình ca cùng một phong cách ấy, giai điệu ấy, có nét buồn, day dứt mà
thanh cao, trang nhã, ông viết trong năm 1955: Tà áo xanh (hay Dang
dở), Chiếc lá cuối cùng, Để có những chiều tắt nắng, Một gói nho khô, Một
cánh pensée, Vàng phai mấy lá (hay Vĩnh biệt), Gửi người em gái miền Nam…
Những tình khúc nầy được ký tên Đoàn Chuẩn - Từ Linh như một “thương hiệu” uy
tín và có ảnh hưởng sâu rộng đến dòng tình khúc miền Nam sau 1954.
NS Hoàng Giác
Ở lại thành từ đầu, Thẩm
Oánh tiếp tục viết những ca khúc theo 2 dòng nhạc cũ: tình ca và nhạc hùng như:
“Việt Nam cùng tiến" đã được dùng làm nhạc hiệu cho đài Pháp - Á ở Hà Nội
và Sài Gòn, "Nhà Việt Nam", "Trưng nữ vương", "Chu Văn An hành khúc, "Xuân về", “Cô
lái đò"…
Cũng vậy, từ
những năm cuối thập niên 1940, đầu thập niên 1950, Dương Thiệu Tước viết
nhiều ca khúc lãng mạn: Đêm tàn Bến Ngự (1946), Kiếp hoa, Áng mây chiều, Nhạc
ngày xanh, Dưới nắng hồng, Xuân mới, Thiếu niên xuân khúc ca, Thuyền mơ…
Cung Tiến được xem
như nhạc sĩ trẻ nhất có hai sáng tác đầu tay viết theo dòng nhạc tiền chiến
được phổ biến rộng: Hoài cảm (1952) viết lúc mới 14 tuổi, Thu vàng (1953) lúc
15 tuổi, nhưng được coi là hai tình khúc bất hủ của tân nhạc Việt Nạm.
Còn Lê Thương,
ngoài tình ca ra, nhạc sĩ tài hoa đa hệ này, “chuyển hệ” viết các bản nhạc hài
hước, trào phúng Hòa bình 48, Liên hiệp quốc, Làng báo Sài Gòn, Đốt
hay không đốt… Ông còn đặt lời cho những bản nhạc ngoại quốc ngắn
như Nhớ Lào (nhạc Lào), Bông hoa dại tức Ô Đuồng
Chăm Pá (nhạc Lào), Lòng trẻ trai (nhạc Hoa Kỳ), Hoa
anh đào (tức Sakura - nhạc cổ Nhật), Màn Brúc đánh giặc
(dân ca Pháp)… Lê Thương được xem như những nhạc sĩ mở đầu của dòng nhạc
dành cho thiếu nhi với những bản: Tuổi thơ, Cô bán bánh, Con mèo
trèo cây cau, Thằng bé tí non, Ông Nhang bà Nhang, Truyền kỳ Việt
sử, Học sinh hành khúc… Nổi tiếng hơn cả là bài Thằng Cuội thường
được trẻ em hát trong mỗi dịp tết Trung Thu, được nhiều người xem như đồng
dao mà quên hẳn tên tác giả: Bóng trăng trắng ngà/ Có cây đa to/ Có thằng Cuội
già/ Ôm một mối mơ… Thời kỳ này, ông có soạn một ca khúc rất nổi tiếng Lòng
mẹ Việt Nam (Bà Tư bán hàng) nói về một bà mẹ thành phố có các con tham
gia kháng chiến. Và bài hát đó là một trong những lý do Lê Thương bị Pháp bắt
giam vào khám Catinat cùng Phạm Duy và Trần Văn
Trạch năm 1951.
NS Thẩm Oánh
Đáng
lưu ý là năm 1949, Văn Phụng và Văn Khôi viết Trăng sơn cước, tác phẩm điệu
Rumba đầu tiên và năm 1952, Lam Phương viết Chiều thu ấy lúc mới 15 tuổi,
Lưu Trọng Nguyễn viết Nắng chiều, hai nhạc phẩm điệu bolero đầu tiên ra đời
cùng năm. Giai điệu cả ba đều đơn giản, nhẹ nhàng được coi như là ba ca khúc
khai mở cho dòng nhạc vàng sau nầy.
Việc quảng bá,
trình diễn ca khúc trữ tình được chính quyền thực dân khuyến khích, tạo điều kiện.
Ở các thành phố lớn như Hà Nội, Huế, Sài Gòn…, chính quyền lập nhiều ban nhạc:
mỗi nơi đó đều có các ban nhạc của đài phát thanh khu vực, đoàn quân nhạc của Bảo
chính đoàn, của Tiểu đoàn danh dự. Riêng ở Sài Gòn có thêm ban nhạc của đài
phát thanh Pháp Á với một dàn nhạc “hoành tráng” và một lực lượng biên tập, nhạc
sĩ, nhạc công, ca sĩ hùng hậu. Các phòng trà, quán bar có nhóm nhạc nhẹ, nhạc
khiêu vũ vô cùng nhộn nhịp với nam thanh nữ tú dập dìu trong những bản tình ca
lãng mạn, lãng quên thời cuộc. Lúc này ở các thành phố lớn có những ca sĩ
chuyên nghiệp nổi tiếng: ở Sài Gòn, có Thu Hồ, Minh Diệu, Mạnh
Phát, Châu Kỳ, Tôn Thất Sở…, ở Hà Nội cũng nhiều nhưng được mến mộ nhất
là tài tử Ngọc Bảo.
Ở giai đoạn này, Pháp
cũng đẻ ra một loại nhạc tâm lý chiến chống Việt Minh, nhưng rất gầy guộc và èo
uột, do chính nghĩa sáng ngời tỏa ra từ cuộc đấu tranh giải phóng, nhân dân ở
thành lòng hướng về phía chính nghĩa, còn các nhạc sĩ tài năng hoặc đã đi theo
chính nghĩa hoặc “trùm chăn” viết tình ca, né tránh chuyện chính trị, thế
thời.
(Trích trong cuốn sách “9 THẬP KỶ CA KHÚC
TÂN NHẠC VIỆT NAM”- nghiên cứu, nhận định - Lê Thiên Minh
Khoa - trang 31- 34 (PHẤN: NHẠC TRỮ TÌNH Ở VÙNG TẠM CHIẾM GIAI ĐOẠN 1946-1954).
Rất cảm ơn BBT trang nhà. Kính chúc an vui.
Trả lờiXóa