* Kệ (thơ) "Cáo tật thị
chúng" của Mãn Giác Thiền sư (1045-1096):
"Xuân đáo bách hoa khai
Xuân khứ bách hoa lạc
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai" (*)
Xuân khứ bách hoa lạc
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai" (*)
(Xuân đến trăm hoa nở
Xuân đi trăm hoa rụng
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở cành mai)
Xuân đi trăm hoa rụng
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở cành mai)
Vừa được Nghệ nhân dân gian Lê Văn Kinh
(Huế) hoàn thành bộ tranh thêu bài kệ (thơ) bằng 14 thứ tiếng.
* Ngày 8/11/2010, đại diện Trung tâm
Sách kỷ lục Việt Nam đã trao chứng nhận đạt Kỷ lục Việt Nam cho cặp hoa Atiso
bằng vàng lớn nhất do tập thể nghệ nhân Công ty Vàng bạc đá quý PNJ chế tác.
Cặp hoa Atiso này được chế tác bằng vàng 99.99 với kích cỡ lớn như hoa thật.
Mỗi đóa hoa gồm 50 cánh, dài 400mm và đường kính hoa là 105mm, nặng hơn 1 kg
vàng (31 lượng).
* Kỷ lục thế giới năm 2010 về rượu thuộc
về chai rượu vang Chavel Blanc 1947 đã được bán với giá 304.375 USD trong phiên
đấu giá tại sàn Christie (Thuỵ Sĩ).
Điểm qua ba sự kiện: thơ - hoa - rượu
trên để thấy đời... mãi xuân và xuân mãi gắn liền với hoa - rượu và thơ.
Ta hãy ngẩm lại đôi tứ thơ xuân mang đậm
ý vị sắc hương đã thật sự chạm khắc rõ nét lên trang sử văn học của nước nhà:
Chẳng biết xuân tình, xuân ý thế
nào, mà đến độ Đại thi hào - Danh nhân văn hoá thế giới - Nguyễn
Du đã phải thốt lên: "Sinh tiền bất tận tôn trung tửu/ Tử hậu thuỳ
kiêu mộ thượng bôi" (Khi sống chẳng nghiêng bình cạn rượu/ Chết đi
ai tưới mộ ly đầy). Bởi: "Xuân sắc tiệm thiên hoàng điểu khứ/ Niên
quang ám trục bạch đầu lai" (Sắc xuân dần chuyển oanh bay mất/ Năm tháng
ngầm đưa trắng tóc lay - Trước Chén Rượu - Phạm Thảo Nguyên dịch).
Chí sĩ Phan Đình Phùng cảm
tác ngày đầu xuân với một tâm thế trong bối cảnh đất nước đắm chìm nô
lệ: "Lưu oanh đình ngoại ngữ hoa chi/ Hoa báo xuân quy nhân
vị quy" (Ngoài sân oanh hót hoa chào/ Nhắn ai xuân tới rằng sao chưa
về? - "Mùng một tết Mậu Tý cảm tác" - Nguyễn Tấn
Hưng dịch)
Trước năm cùng, tháng tận, ngày
tàn, Thiền sư Huyền Quangtầm xuân miên viễn trong "Hoa
Cúc": Vong thân vong thể dĩ đô vong/ Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp
lương/ Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật/ Cúc hoa khai xứ tức trùng dương (Thân
mất thể mất còn với mất/ Ngồi giường lạnh ngắt một phương trông/ Giữa núi cuối
năm quên ngày tháng/ Đầu tiết trùng dương cúc ngấp vườn - Chu
Vương Miện dịch).
Cao Bá Quát cả đời kiêu
bạt có lúc phải lắng lòng gieo hạt "Trồng Mai": Thí
tương mai tử trịch sơn gian/ Nhất ác thanh tư ký bích loan/ Ký tử lai thời xuân
sắc hảo/ Dữ nhân cộng tác họa đồ khan (Trên non ươm hột giống Mai vàng/ Trân
quý thanh cao mọc giữa ngàn/ Xuân sang hoa nở men triền núi/ Bức tranh tuyệt mỹ
gửi thế gian - M.loan hoa sử/ Phong lữ thảo dịch).
"Hoa với Rượu" của Nguyễn
Bính là hoài niệm tình mơ mộng: Hoa thơm mơ mãi vườn tiên
giới/ Chuốc mãi men say rượu ái tình, và: Đời say men rượu thơm hoa rụng/ Tràn
những thơ ngây, ngập cảm tình; là giằng xé đớn đau: Khóc vụn mỗi
lần tôi nhớ lại/ Men nồng gạo nếp nước hoa cam, và: Đời tôi sa mạc, ôi sa
mạc/ Hoa hết thơm rồi rượu hết say. "Rượu xuân" của Nguyễn
Bính cũng chuyên biệt: Cao tay nâng chén rượu hồng/ Mừng
em, em sắp lấy chồng xuân nay/ Uống đi! Em uống cho say!/ Để trong mơ, sống những
ngày xuân qua/ Thấy tình duyên của đôi ta/ Đến đây là... đến đây là... Là thôi!/ Em
đi dệt mộng cùng người/ Lẻ loi xuân một góc trời riêng anh.
Với "Ngày xuân thơ rượu" Thi
sĩ Tản Đà đã tuyên ngôn: Trời đất sinh ta rượu với
thơ/ Không thơ không rượu sống như thừa,... Mạch nước sông Đà tim róc rách/ Ngàn
năm mây Tản mắt lơ ngơ,...Còn thơ còn rượu còn xuân mãi/ Còn mãi xuân, còn rượu
với thơ. Bởi lẽ, Thi sĩ còn biết gởi cái tình vào đâu: Thương ai
cho bận lòng đây/ Cho vơi hũ rượu, cho đầy túi thơ. Thôi đành gởi gấm vào rượu
với thơ: Rượu say, thơ lại khơi nguồn/ Nên thơ, rượu cũng thêm ngon giọng
tình/ Rượu thơ mình lại với mình/ Khi say quên cả cái hình phù du.
Có thể cái tình của Tản
Đà đã được Trần Huyền Trân san sẻ trong bài
"Với Tản Đà về bạn rượu, bạn thơ":
Cụ
hâm rượu nữa đi thôi
Be này chừng sắp cạn rồi còn đâu
Rồi lên ta uống với nhau
Rót đau lòng ấy và đau lòng này
Tôi say?
Thưa, trẻ chưa đầy???
Cái đau nhân thế thì say nỗi gì
(...)
Be này chừng sắp cạn rồi còn đâu
Rồi lên ta uống với nhau
Rót đau lòng ấy và đau lòng này
Tôi say?
Thưa, trẻ chưa đầy???
Cái đau nhân thế thì say nỗi gì
(...)
Rót đi rót rót đi thôi
Rót cho tôi cả mấy mươi tuổi đầu
Nguồn đau cứ rót cho nhau
Lời say sưa mới là câu chân tình.
Rót cho tôi cả mấy mươi tuổi đầu
Nguồn đau cứ rót cho nhau
Lời say sưa mới là câu chân tình.
Nguyễn Công Trứ có phong
thái khác Tản Đà? (Khác mà không khác): Dở duyên với rượu khôn từng
chén/ Chót nợ cùng thơ phải chuốc lời,... Ai say ai tỉnh ai thua được/ Ta mặc ta
mà ai mặc ai ("Cầm kỳ thi tửu"). Hay là: Hẹn với lợi danh ba chén
rượu/ Vui cùng phong nguyệt một bầu thơ ("Thoát vòng danh lợi").
Và với Bích Khê (Khác
mà không khác): Chén nầy khách hãy cạn liền/ Ngó đôi mắt ngọc thì quên bụi
hồng,... Xuân thơm tuy hết mặc dầu/ Rượu ngon còn mãi khách lưu sau cùng
("Mỹ tửu ca").
Riêng với Lưu Trọng Lư: Đêm
ấy rượu nàng ta không uống/ Từ sau thề không uống với ai. Lư thề không
uống rồi lại uống: Chén lại chén, kề môi thủ thỉ/ Càng vơi càng tuý luý càng
đầy. (Không uống với nàng, không uống với một ai nữa, nhưng không thể không uống
với vợ?).
Một lẽ khác (thật khác chăng?) thể hiện
ở một số thi nhân bày tỏ thái độ chê trách thói rượu (hay khuyến rượu?) như:
Vếu váo câu thơ cũ rích/ Khề khà chén rượu hăng xì (Nguyễn Bỉnh Khiêm);
Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy/ Độ dăm ba chén đã say nhè ("Tự
trào" - Nguyễn Khuyến) - Song, khi "Khóc Dương
Khuê": Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp/ Chén quỳnh tương ăm ắp bầu
xuân,... Rượu ngon không có bạn hiền/ Không mua không phải không tiền không mua.
Một lẽ khác nữa, đã có người cho Thế
Lữ rất tỉnh táo, trong suốt tập "Mấy vần thơ" gồm 47 bài,
chỉ có một lần Thế Lữ nhắc đến rượu mà cũng chẳng hề uống (?):
Lòng ta hồ vỡ tan tành/ Vì hờn, vì giận, vì tình, vì thương/ Vì cay đắng đủ trăm
đường/ Than ôi! Ly rượu mơ màng khi xưa/ Ai đem dốc cạn bao giờ/ Chẳng cùng chia
nửa, chẳng chờ hưởng chung ("Lời tuyệt vọng") <Còn rượu cho Thế Lữ
uống chết liền!>.
Đã có người uống rượu; có người chê
rượu; có người thề không uống rượu. Sao? Lại có "người thèm
rượu" đáng yêu như Đoàn Thị Lam Luyến với
"Huyền thoại một tình yêu": "Giá được một chén say mà ngủ suốt
triệu năm/ Khi tỉnh dậy anh đã chia tay với người con gái ấy/ Giá được anh hẹn hò
dù phải chờ lâu đến mấy/ Em sẽ chờ như thể một tình yêu. Cùng tâm trạng đó
còn có Lê Văn Bái: Một người xuống ngựa mười năm trước/ Một chén men
tràn suối lệ hoa ("Lớp tang thương"); còn có Yên Bằng: Cỏ
hoa vì biết tình thơ đó/ Nên biến sương thành giọt lệ tan ("Bại
tướng"). Đáng yêu và dễ thương hơn nữa khi Nguyễn
Thị Mai "Uống rượu với chồng": Thì mình cứ rót! Em say/ Tựa
vào hơi ấm mà bay một lần/ Đất xa trời tạt xuống gần/ Chung chiêng cả mấy mươi
phần thế gian.
Chính cái say rượu,
say hoa đã làm nên tuyệt tác thơ trên và còn biết bao áng thơ hay, đẹp nữa, với ngất
ngưỡng Vũ Hoàng Chương: Say đi em! Say đi em!/ Say cho lơi lả ánh
đèn/ Cho cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt/ Rượu, rượu nữa, và quên, quên
hết!/ Ta quá say rồi!/ Sắc ngã màu trôi ("Say đi em"), thơ tâm
sự: Rượu thơ là cõi lòng này/ Ủ hương trăng mật từ ngày có em ("Rượu
thơ"), thơ thở than: Gặp gở chừng như chuyện Liêu Trai/ Ra
đi chẳng hứa một ngày mai/ Em ơi! Lửa tắt, bình khô rượu/ Đời vắng em rồi, say
với ai? ("Đời vắng em rồi say với ai?"); với Đynh Trầm Ca trong
một lần "Uống rượu cuối năm bên bờ kinh phương Nam" mà thấy
lòng như bay lên mây: Rượu cuối năm mà lòng say chưa đã/ Thêm một ly để cảm
tạ đất này/ Thêm một ly gửi tới những tảng mây/ Để cuối kiếp ta trôi lên thường
trú; với hình ảnh ông lái đò của Yến Lan bên
"Bến My Lăng": Bến My Lăng nằm không, thuyền chờ khách/ Rượu hết rồi
ông lái chẳng buông câu; với kỷ niệm của Xuân Hoàng về
"Đồng Hới": Phố nhỏ quê ta thức nhiều kỷ niệm/ Dạ lan hương thơm ngát
những canh dài/ Em đi nhé! Bóng anh lồng bóng biển/ Bài thơ lành anh đến ngủ bên
vai... Ta về xây Đồng Hới quê ta/ Lại sẽ trồng hoa hồng quanh lối nhỏ/ Hoa thược
dược đến mùa xuân lại nở/ Vàng huân chương trong mỗi sân nhà...; với liên
tưởng mượt mà của Thanh Hải về "Mùa xuân nho
nhỏ": Mọc giữa dòng sông xanh/ Một bông hoa tím biếc...; với rạng
rỡ sắc hoa vàng theo Hoàng Việt Hằng vào cõi vô ưu:
Ta đến chùa nghe tụng kinh niệm Phật/Nơi tam quan cây mộc nở hoa vàng
("Thơ hai câu"); với Đỗ Hoàng giữa "Mênh mang
nông trường": Hoa vừng vương mờ hơi sương/ Gió đổi mùa đi nghe đằm thắm...;
với "Hoa Trắng" từng chùm nhỏ thơ ngây dịu dàng mong manh
sương khói riêng của mỗi Trần Nhuận Minh:... Mới đầu hoa
lấm tấm vàng/ Đến khi trắng muốt, là tàn mất hoa/Có gì muốn nói cùng ta/ Nhưng
chưa nói được thì hoa lìa cành...; với "Hoa Tường Vi" như
thực lại như mơ/ Cùng tôi sống suốt một thời trẻ dại của Xuân Quỳnh;
thậm với "Hoa Dại": Miên man hoa nở trắng sườn đồi/ Những niềm hoang
dã chốn xa xôi/ Hoa chẳng có tên hoa có sắc/ Hương vẫn gửi vào trong gió bay
của Hà Thiên Sơn;...
Thơ - hoa - rượu và
xuân vốn
dĩ đã - đang và sẽ tiếp diễn tồn tại để trang điểm cho đời người hướng đến chân
- thiện - mỹ. Nói đến trăm ngàn đời; viết đến trăm ngàn trang không vừa, không
đủ. Nên chăng, ta cứ học cách người xưa biết vừa là vừa, biết đủ là đủ. Suy cho
cùng sự tồn tại của nghịch lý lại không nghịch lý như lòng người không gió lại
luôn ẩn sóng; trong buổi đông tàn đã chớm huy hoàng sắc xuân. Xuân ý và xuân
tình như thế nào để lòng người lặng sóng, để thấy sắc xuân trong cảnh đông tàn.
Khi ta biết hòa quyện mình với cảnh vật,
đất trời, vũ trụ một cách an nhiên thì trong ta có xuân vậy.
(*) Bài viết có trích dẫn thơ, bản dịch thơ từ nhiều nguồn (chủ yếu từ
internet và trí nhớ) nên không thể tránh khỏi thiếu sót hoặc nhầm lẫn. Mong người
đọc thông cảm và góp ý để tác giả kịp thời hiệu đính.
Cuối năm Canh Dần - 2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét