Triều đại nhà Nguyễn (1802 - 1945)
Đầu thế kỷ XIX, khi thế giới tư bản đang phát triển cực thịnh
với những thể chế chính trị mang tính chất dân chủ hơn thời trung cổ, thì ở Việt
Nam, một nhà nước phong kiến đã ra đời. Đây là vương triều cuối cùng
trong lịch sử quân
chủ chuyên chế Việt Nam - triều đại nhà Nguyễn.
Ra đời trong bối cảnh đặc biệt, nhà Nguyễn đã trải qua rất
nhiều biến cố trong khoảng thời gian tồn tại, mang nhiều thị phi như
cầu viện ngoại bang, làm mất nước vào tay Pháp quốc và cũng có nhiều công lao
trong việc thống nhất đất nước mở mang lãnh thổ, phát triển kinh tế. Nên khi
nhìn nhận về triều đại này cần những đánh giá công tâm, khách quan vai trò của
nó trong lịch sử nước Việt.
Tựu trung lại, khi nhìn lại sự phát triển của triều đại nhà
Nguyễn đến khi sụp đổ, chúng ta có thể thấy hai giai đoạn rõ rệt: giai đoạn độc
lập tự chủ và giai đoạn mất quyền tự chủ khi bị đế quốc Pháp xâm lăng áp đặt
quyền bảo hộ.
Giai đoạn độc lập tự chủ của nhà Nguyễn (1802 - 1858)
Giai đoạn này kéo dài trong tộng cộng 56 năm bắt đầu từ khi
vua Gia Long lên ngôi vào năm 1802 trải qua 4 đời vua. đến năm 1858 thời vua Tự
Đức.
Vua Gia Long lên ngôi lập ra nhà Nguyễn
Triều Nguyễn đặc biệt ngay từ sự ra đời - hành trình giành lại
chính quyền đầy gian truân của Vương tử Nguyễn Phúc Ánh - tức vua Gia Long sau
này.
Vua Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) vị vua
sáng lập nên triều đại
nhà Nguyễn
Năm 1771, phong trào nông dân Tây Sơn bùng nổ. Đối tượng đầu
tiên mà cuộc khởi nghĩa này hướng tới chính là chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng
Trong đang bị quyền thần Trương Phúc Loan thao túng. Cả gia tộc chúa Nguyễn phải
bỏ mạng, duy chỉ có một người hậu duệ mới 15 tuổi sống sót, chạy ra đảo Thổ Chu
năm 1777. Đó chính là Nguyễn Phúc Ánh.
Năm 1778, chàng thiếu niên đã quay về, được tôn làm Đại
nguyên súy, Nhiếp quốc chính. Nguyễn Ánh đã tập hợp lực lượng, tái chiếm Gia
Định rồi xưng vương năm 1780. Trong sự nghiệp trung hưng dòng họ, Nguyễn
Ánh liên tiếp nhận những thất bại trước quân đội Tây Sơn đầy binh hùng, tướng
giỏi.
Một trong những thất bại gây ra hệ lụy xấu của Nguyễn Ánh xuất
phát từ trận thủy chiến ở sông Ngã Bảy, cửa Cần Giờ năm 1782 với
quân Tây Sơn. Dù thuyền của chúa Nguyễn tân tiến và áp đảo, nhưng lại thua trước
tài thao lược của Nguyễn Huệ, lòng can đảm của nghĩa quân. Nguyễn Ánh bỏ chạy về Ba
Giồng, rồi có khi trốn sang tận rừng Romdoul, Chân Lạp. Nguyễn Nhạc tuy
chiếm được Nam bộ nhưng người Hoa ở đây lại ủng hộ Nguyễn Ánh, cộng
thêm cái chết của tướng Đô đốc Phạm Ngạn, cùng tình trạng binh lính
thương vong nhiều, nên Hoàng đế Trung ương đã hạ lệnh tàn sát Hoa kiều, đốt phá
nhà cửa để trả thù, thiệt hại nhất là vùng Cù Lao Phố. Việc này đã cản chân Tây
Sơn trong việc truy bắt Nguyễn Ánh, tạo cơ hội cho Nguyễn Ánh quay trở về Giồng
Lữ, đoạt được 80 thuyền từ Nguyễn Học, một vị Đô đốc Tây Sơn. Chúa Nguyễn định
kéo về giành lại Gia Định nhưng Nguyễn Huệ đã kịp dàn binh và đánh bật Nguyễn
Ánh. Chúa Nguyễn phải chạy trốn ra Phú Quốc, và sai Nguyễn Hữu Thụy
sang Xiêm La cầu viện. Tuy nhiên, Xiêm La đã nhân cớ đó để xâm lược Việt Nam, rồi
chuốc lấy thất bại nhục nhã trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút (tháng 1 năm 1785).
Nguyễn Ánh cũng vì đó mà mang tiếng “cõng rắn cắn gà nhà”.
Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) kẻ thù
không đội trời chung của
Nguyễn Ánh
Năm 1792, vua Quang Trung đột nhiên băng hà. Quang
Toản nhỏ dại lên nối ngôi, niên hiệu Cảnh Thịnh. Các sĩ phu Bắc Hà, cựu
thần nhà Lê tôn Lê Duy Cận làm minh chủ, kết hợp với Nguyễn Ánh ở Gia
Định, cùng tấn công Tây Sơn, tuy liên quân này bại trận nhưng cũng khiến nhà
Tây Sơn nhanh chóng suy yếu. Không những thế, triều chính Tây Sơn bị nhũng loạn
bởi bàn tay Thái sự Bùi Đắc Tuyên. Nội bộ Tây Sơn cũng rơi vào lục đục, “nồi da
xáo thịt”.
Nhân tình hình này, Nguyễn Ánh liên tiếp mở các cuộc phản
công. Năm 1793, quân Nguyễn công thành Quy Nhơn của Thái Đức - Nguyễn
Nhạc. Chính quyền Quy Nhơn phải cầu cứu Phú Xuân và đã đẩy lùi quân Nguyễn Ánh,
nhưng rồi Nguyễn Nhạc cũng qua đời sau đó không lâu.
Trong thế dùng dằng một thời gian, Nguyễn Ánh kéo quân giao
chiến dữ dội với Tây Sơn ở cửa Tư Dung; rồi đụng Quang Toản ở cửa Eo,
Quang Toản thua trận bỏ chạy ra Bắc và Nguyễn Ánh giành được Phú Xuân
(3/5/1801).
Đầu năm 1802, Trần Quang Diệu hạ được thành Quy Nhơn. Tướng
Võ Tánh của chúa Nguyễn tự vẫn để xin tha mạng cho lính tráng. Trần Quang
Diệu đồng ý, rồi bỏ thành Quy Nhơn; cùng Vũ Văn Dũng mang quân cứu
viện ra Nghệ An, bị quân Nguyễn bắt sống. Bà Bùi Thị Xuân, vợ Trần Quang Diệu
giải cứu không được, cũng bị bắt và áp giải.
Cũng trong năm này, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, chính thức
khôi phục quyền lực dòng họ, thống nhất đất nước sau nhiều thập kỉ chia cắt.
Ông lấy niên hiệu là Gia Long, “Gia” trong Gia Định, “Long” trong
Thăng Long. Sau đó Gia Long tổ chức lễ Hiến phù, trả thù Tây Sơn một cách man rợn,
như một hành động “đáp lại” những gì mà Tây Sơn đã gây ra cho gia tộc, cũng như
năm tháng chui lủi, lưu vong của vị tân vương.
Bộ máy Nhà nước
Tổ chức chính quyền
Sau khi lập ra triều Nguyễn, Gia Long đã xây dựng, kiện toàn
hệ thống hành chính cũng như quan chế cho chính quyền mới. Về cơ bản hệ thống
quan chế và cơ cấu chính quyền trung ương của triều đại này giống như các triều
đại trước đó: Vua vẫn có quyền tối thượng. Có các cơ quan trợ giúp cho vua như
có Văn thư phòng (năm 1829 đổi là Nội các), chuyên về giấy tờ,
văn thư và ghi chép. Tứ trụ Đại thần, đảm đương những việc quân cơ đại sự, tới
năm 1834 gọi là viện Cơ mật. Bên cạnh đó còn có Tông nhân phủ lãnh nhiệm các
công việc của Hoàng tộc.
Cơ mật viện này nay là trụ sở của
Trung tâm bảo tồn di tích Cố
đô Huế
Bên dưới, triều đình lập ra Lục bộ là Lại, Hộ, Lễ, Binh,
Hình, Công. Thượng Thư đứng đầu mỗi bộ, có vai trò chỉ đạo các công việc
chung của Nhà nước. Đô sát viện (tức là Ngự sử đài bao gồm 6 khoa)
mang trọng trách thanh tra quan lại, Hàn lâm viện phụ trách các sắc dụ, công
văn, 5 Tự phụ trách một số sự vụ, phủ Nội vụ trông coi các kho tàng, Quốc tử
giám quản lý mảng giáo dục, Thái y viện thực hiện việc chữa bệnh và thuốc
thang,… cùng với một số Ti và Cục khác.
Với cơ cấu bộ máy chính quyền như vậy, khi có việc quan trọng, vua sẽ
giao cho triều thần cùng nhau bàn xét. Quan lại dù phẩm hàm như nào đều được
quyền đưa ra ý kiến. Mọi việc phải có sự chuẩn của vua mới được thi hành.
Hoàng đế tuy ở ngôi vị cao nhất nhưng không được phép làm điều sai trái. Các
quan Giám Sát Ngự Sử có quyền can gián khi vua mắc phải sai lầm. Quan chức của
triều đình chỉ chạm tới phủ huyện, từ tổng trở xuống do dân tự trị. Người
dân tự lựa chọn lấy người của mình mà cử ra quản trị mọi việc ở địa bàn sinh sống.
Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội
đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong
tổng.
Quan phục thời nhà Nguyễn
quan văn bên trái, quan võ bên phải
quan văn bên trái, quan võ bên phải
Quan lại được phân ra ban văn, ban võ. Minh Mạng đã
xác định rõ rệt giai chế phẩm trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm, mỗi
phẩm chia ra chánh và tòng 2 bậc. Lúc đất nước ổn định quan võ phải dưới quan
văn cùng phẩm với mình; còn khi có binh biến thì ngược lại. Quan Tổng đốc
(văn) vừa cai trị tỉnh vừa chỉ huy quân lính của tỉnh. Lương bổng của quan lại
tương đối ít nhưng họ được hưởng nhiều phúc lợi, phụ thân không phải đi lính,
miễn sưu thuế dựa theo ngạch (văn/ võ), và phẩm hàm. Không những vậy, con
cái các quan còn được hưởng tập ấm, tức là hưởng phúc cha ông để lại, có thể là
được bạn đất đai, chức quan. Bộ máy quan lại không quá nặng nề, nhưng nhà
Nguyễn vẫn đau đầu bởi nạn tham nhũng.
Phân chia hành chính đất nước
Năm 1802, trong khi đã quyết định Phú Xuân là quốc đô, Nguyễn
Ánh vẫn tạm đặt 11 trấn phía Bắc (tương đương khu vực Bắc Bộ ngày nay) thành một
Tổng trấn với tên cũ Bắc Thành, do một Tổng trấn đứng đầu.
Kinh thành Huế ngày nay
Đến thời Minh Mạng, không thể bỏ sót cuộc cải cách hành
chính của ông trong các năm từ 1831 đến1832. Vua quy đổi các tổng trấn, các
dinh, trấn hợp nhất trong đơn vị tỉnh. Năm 1831, Minh Mạng đổi các trấn từ
Quảng Trị trở ra thành 18 tỉnh, và vùng còn lại ở phía Nam được chia làm
12 tỉnh. Thừa Thiên, thủ phủ của kinh đô Phú Xuân, trực thuộc Trung ương.
Toàn quốc bao gồm 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên.
Tổng đốc đứng đầu tỉnh (mỗi người phụ trách 2-3 tỉnh và
chuyên trách 1 tỉnh) và Tuần phủ (dưới Tổng đốc, phụ trách chỉ 1 tỉnh).
Có các cơ quan hỗ trợ như Bố chánh sứ ti lo về thuế khóa, hộ khẩu, hành chính;
Án sát sứ ti lo về an ninh, luật pháp, còn lãnh binh đảm đương mặt quân sự. Các
quan chức đứng đầu tỉnh đều do chính quyền trung ương trực tiếp bổ nhiệm, và
thường là võ quan cao cấp, về sau mới bổ dụng thêm các quan văn.
Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng và xã. Quan chức của triều
đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống do người dân tự lựa chọn cử
ra quản trị. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội
đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng.
Hệ thống chính quyền có xu hướng giảm bớt quyền lực ở địa
phương, tập trung ở Trung ương, cùng với cơ cấu hành chính của các tổng, xã được
tổ chức khá chặt chẽ để triều đình dễ dàng quản lý và có đối sách kịp thời khi
có sự cố.
Đối với miền núi và địa bàn sinh sống của những tộc người thiểu
số, Minh Mạng thực hiện nhất thể hóa hành chính đồng loạt với miền xuôi. Năm
1829 ông bãi bỏ chế độ thế tập của các Thổ ti (các tù trưởng của dân tộc thiểu
số), để quan lại lựa chọn những thổ hào ở địa phương làm Thổ tri các châu huyện.
Sau đó, Minh Mạng còn đặt thêm một chức lưu quan do người Kinh nắm giữ
để khống chế các vùng này tốt hơn và tiến hành thu thuế như ở miền xuôi. Tuy
nhiên, do phản ứng của người dân địa phương, vuaTự Đức đã bãi bỏ chế độ
này.
Chính thực dân Pháp đã ca ngợi sự phân chia hành chính khoa học
của Minh Mạng. Và có thể thấy bộ mặt hành chính ngày nay của Việt Nam không
khác biệt nhiều so với thời nhà Nguyễn độc lập.
Từ thời nhà Nguyễn, vấn đề biển đảo đã được chú trọng bằng việc
xác lập chủ quyền và thành lập các đội hải quân, đặc biệt chú trọng Hoàng Sa và
Trường Sa. Từ năm 1816, Gia Long đã chính thức ra lệnh tiếp thu Hoàng Sa,
cắm cờ trên đảo và đo thủy trình. Dưới triều Minh Mạng, ông cho xây đền, đặt
bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải đảm nhiệm nhiều trọng
trách: khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ
hai quần đảo. Tới khi thực dân Pháp xâm lược Đông Dương thì hai đội hải
quân này ngừng hoạt động. Cuối thế kỷ XIX, chính quyền Bảo hộ nhân danh
triều đình Huế có Ý định dựng ngọn hải đăng để khẳng định quyền chiếm
hữu của Pháp trên quần đảo Hoàng Sa nhưng không thành. Đến tận năm
1938 mới có lực lượng chính thức chiếm đóng quần đảo này. Dù vậy khi nhà
Thanh gửi thuyền xâm phạm Hoàng Sa vào những năm đầu thế kỷ XX thì Bộ Ngoại
giao Pháp đã lập tức phản đối dẫn đến tình trạng tranh chấp kéo dài.
Lãnh Thổ Việt Nam thời vua Minh Mạng
vươn tới cực
đại tới tận Ai Lao, Chân Lạp.
Năm 1830, vua Minh Mạng sáp nhập vùng Tây Nguyên vào lãnh thổ
Việt Nam, tuy nhiên các bộ tộc người Thượng vẫn được quyền tự trị của mình cho
tới năm 1898 khi người Pháp trực tiếp tổ chức cai trị ở đây. Năm
1832 nhà Nguyễn bỏ chế độ tự trị của người Chăm ở trấn Thuận
Thành (Bình Thuận, Ninh Thuận ngày nay) chính thức sát nhập vùng đất
này vào lãnh thổ Việt Nam. Vào năm 1835 Vua Minh Mạng
cho thành lập Trấn Tây Thành (Campuchia ngày nay) thời kỳ
này lãnh Thổ Việt Nam thời vua Minh Mạng vươn tới cực đại tới
tận Ai Lao, Chân Lạp.
Những chữ quốc húy dưới thời Nhà Nguyễn
thường gặp.
Việc kiêng kỵ tên húy của vua chúa có thể coi là một “đặc sản”
của triều Nguyễn dù nó đã hình thành từ trước đó. Mỗi vị vua Nguyễn khi lên
ngôi đều có công bố những chữ húy và chỉ thị rõ ràng về cách tránh. Cũng
vì hiện trạng này mà nhà Nguyễn chiếm kỷ lục trong số lượng lệnh kỵ húy xuyên suốt lịch sử phong kiến (22/40), và đó mới
chỉ dựa trên giấy tờ của 40 lệnh kiêng còn sót lại. Sau khi “Ngự chế mạng danh
thi” được công bố, thì từ đời vua Thiệu Trị trở về sau, mỗi vị vua Nguyễn có
năm tên là: Danh tự, Ngự danh, Niên hiệu, Thụy hiệu và Miếu hiệu.
Quân đội nhà Nguyễn
Một trong những thành quả Gia Long đạt được sau nhiều năm nội
chiến với Tây Sơn là quân đội tương đối mạnh với trang bị và tổ chức kiểu
phương Tây. Sau khi quản làm chủ toàn bộ quốc gia, nhà Nguyễn xây dựng quân đội
chính quy hoàn thiện hơn,... Để sung binh ngạch mới, vua Gia Long cho thực hiện
phép giản binh, theo hộ tịch tùy nơi mà định, lấy 3, 5 hay 7 suất đinh tuyển 1
người lính. Quân chính quy đóng tại kinh thành và những nơi xung yếu; các
địa phương đều có lực lượng vũ trang tại chỗ làm nhiệm vụ trị an. Quân chính
quy có 14 vạn người, bên cạnh đó còn có quân trừ bị. Quân đội còn được tổ chức
thành 4 binh chủng: bộ binh, tượng binh, thủy binh và pháo
binh, trong đó bộ binh và thuỷ binh được chú trọng xây dựng để tác chiến độc lập.
Trình độ chính quy thống nhất cao. Ngoài vũ khí cổ truyền, quân chính quy được
trang bị hỏa khí mua của phương Tây như đại bác, súng trường, thuyền
máy, thuốc nổ…Các loại súng thần công, đại bác được đúc với kích thước, trọng
lượng thống nhất; thành lũy, đồn to nhỏ cũng được quy định cho từng cấp với số
lượng quân nhất định.
Đến thời Minh Mạng, ông tổ chức quân đội theo kiểu mẫu phương
Tây, hướng đến tiêu chí “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, số lượng người cầm cờ từ
40 người giảm xuống 2 người trong đội ngũ đơn vị 1 vệ (500 người). Vua còn
thuê các sĩ quan huấn luyện Tây Dương nên phương thức tác chiến được các học giả
Mãn Thanh ghi nhận là giống hệt kiểu Pháp. Quân đội Nguyễn triều thời điểm
đó, có thể coi là lực lượng quân sự tân tiến hiện đại nhất ở khu vực Đông Á,
hơn hẳn các nước lân bang như Trung Hoa, Thái Lan, Campuchia.
Sang thời Tự Đức, công tác quốc phòng bắt đầu có dấu hiệu đi
xuống. Một nguyên nhân quan trọng là vấn đề tài chính. Bộ binh được trang bị
thô sơ: 50 người mới có 5 súng, mỗi năm chỉ tập bắn 1 lần 6 viên đạn. Chất lượng
bảo trì vũ khí cũng kém. Về thủy binh, không có thêm tàu hơi nước mới nào,
thủy quân yếu ớt đến mức không đủ khả năng bảo vệ bờ biển chống hải tặc. Đời sống
quân lính không được quan tâm thoả đáng, lương thực lại bị ăn bớt. Bởi vậy nhuệ
khí của quân sĩ suy giảm. Quan điểm khoa học quân sự của vua quan nhà Nguyễn
không hề vượt quá khuôn khổ của khoa học quân sự phong kiến. Việc giảng dạy
binh pháp không hướng tới học hỏi phương Tây nữa mà quay về Binh thư yếu lược của Hưng
Đạo Đại vương. Chính vì Pháp bỏ xa Đại Nam về khoảng cách vũ khí tân tiến, quân
đội thiện chiến, nên nhà Nguyễn dần dà trở nên sợ hãi.
Chế độ thuế khóa - lao dịch
Sau khi đăng cơ, vua Gia Long đã tổ chức lại vấn đề
đăng tịch, bắt buộc mỗi làng xã phải ghi vào sổ đinh trong làng số đàn
ông từ 18 đến 60 tuổi.
Đơn vị làng có quyền tự trị rất lớn, tự họ cai trị theo những
tục lệ riêng ghi trong hương ước của làng nên xưa nay vẫn có câu
“Phép vua thua lệ làng”. Hội đồng Kỳ mục trông coi tất cả công sản
(tài sản công) và thuế khóa, đê điều, trị an. Họ cũng phải lo phân phối công
điền (ruộng công) giữa các dân đinh mỗi kỳ quân cấp và chỉ định thanh niên
đi lính. Nói chung, những người đứng đầu các làng làng toàn quyền lo việc
thuế má và sưu dịch, triều đình không quan tâm làng sẽ phân chia trách nhiệm giữa
các dân làng như nào.
Về thuế nhân đinh và thuế ruộng, triều Nguyễn đặt mức thuế
khóa mới nặng hơn thời trước. Vua Gia Long cho sửa lại hộ tịch và điền tịch đã
hư hỏng trong giai đoạn đất nước bị chia cắt. Hộ tịch phân ra 9 hạng, tùy từng
hạng mà nộp thuế toàn phần hoặc được miễn giảm phân nửa hay miễn trừ cả sưu thuế
lẫn sai dịch. Dân công nghệ thì nộp thuế sản vật. Thời Minh Mạng thì định lại
thuế điền, chia cả nước ra 3 khu vực để đánh thuế. Dân Thanh Nghệ và Bắc
Hà chịu thuế đinh và thuế điền cao nhất cả nước. Theo thống kê của bộ Hộ thì số
đinh năm đầu đời Gia Long là 992.559 người, cuối đời Thiệu Trị là 1.024.380 người.
Về điền thổ thì đầu đời Tự Đức có 3.398.584 mẫu ruộng và 502.672 mẫu đất.
Mỗi năm, người dân đinh phải bỏ ra 60 ngày lao dịch cho
triều đình với các công việc như xây làm thủy lợi, xây đắp các thành lũy; nặng
nề nhất là xây dựng các cung điện cho hoàng tộc. Năm 1807, ngay khi kinh thành
Huế vừa được hoàn thành, vua Gia Long lại huy động hàng nghìn dân đinh và binh
lính tiếp tục sửa chữa và tu bổ thêm trong một thời gian dài. Vua Minh Mạng là
người nối tiếp công việc xây dựng kinh đô. Vua Thiệu Trị thì không tập trung
xây dựng cấm thành, song, trong một cuộc tuần du lớn ra Bắc Kỳ năm 1842, người
dân đã phải xây 44 hành cung cho một phái đoàn đông đến 17.500 người, 44 con
voi và 172 con ngựa của nhà vua. Giáo sĩ Pháp Guérard đã nhận định: “… sự
bất công và lộng hành làm người ta rên xiết hơn cả thời Tây Sơn: thuế khóa và
lao dịch đã tăng lên gấp ba”. Trong dân gian đã xuất hiện các bài vè, bài ca
nói lên sự thống khổ từ chế độ lao dịch, đặc sắc nhất là “Tố khuất khúc” của
vùng Sơn Nam Hạ:
Binh tài hai việc đã xong,
Lại còn lực dịch thổ công bao giờ.
Một năm ba bận công trình,
Hỏi rằng mọt sắt dân tình biết bao…
Luật pháp trong nước
Thuở mới khai quốc, vua Gia Long chỉ mới lệnh cho các quan
tham khảo bộ luật Hồng Đức để rồi từ đó tạm đặt ra 15 điều luật quan trọng nhất.
Năm 1811, Gia Long lệnh cho tổng trấn Bắc Thành - Nguyễn Văn Thành chủ trì biên
soạn một bộ luật mới. Vào năm 1815, nó mới được ban hành, mang tên Hoàng
Việt luật lệ (còn có tên khác là luật Gia Long. Bộ luật này gồm 398
điều chia làm 7 chương và chép trong một bộ sách gồm 22 cuốn, được in phát ra
khắp mọi nơi. Theo lời tựa, bộ luật ấy hình thành do tham khảo luật Hồng Đức và
luật nhà Thanh nhưng kỳ thực là chép luật của nhà Thanh và chỉ thay đổi
ít nhiều. Chương “Hình luật” chiếm tỉ lệ lớn, đến 166 điều trong khi những
chương khác như “Hộ luật” chỉ có 66 điều còn “Công luật” chỉ có 10 điều. Trong
bộ luật có một số điều luật khá nghiêm khắc, nhất là về các tội phản nghịch, tội
tuyên truyền “yêu ngôn, yêu thư”, và tệ tham nhũng. Những vị vua sau này đã chỉnh
sửa và cải tiến luật Gia Long, đặc biệt là vua Minh Mạng.
Ngoại giao
Với các nước láng giềng
Theo truyền thống bang giao, phương Bắc luôn là điểm tới đầu
tiên. Tháng 5 năm 1802, Gia Long cử sứ giả mang cống phẩm sang Trung Quốc
cầu phong triều đình Mãn Thanh. Dẫn đầu phái đoàn ngoại giao là Trịnh
Hoài Đức chánh sứ, Ngô Nhân Tĩnh và Hoàng Ngọc Uẩn là
phó sứ. Ở Quảng Tây, cống phẩm được chuyển lên Kinh thành, còn đoàn sứ giả nhà
Nguyễn ở lại chờ xem lên có được yết kiến vua Thanh hay không.
Sứ đoàn này chưa quay về thì cuối năm đó vua Gia Long tiếp tục cử Binh bộ Thượng
thư là Lê Quang Định sang cầu phong vua Gia Khánh, xin dùng quốc hiệu là Nam Việt. Thanh lo ngại nhầm lẫn với nước Nam Việt xưa
nằm ở Lưỡng Quảng, nên đồng ý đảo ngược lại thành Việt Nam. Gia
Khánh cho Tổng đốc Quảng Tây là Tề Bố Xâm sang làm lễ tấn phong
cho Gia Long là Việt Nam quốc vương, ấn định thể lệ tiến cống hai năm một
lần và cứ bốn năm một lần Việt Nam sẽ phái sứ bộ sang làm lễ triều kính.
Khi phân tranh với Tây Sơn, Gia Long đã từng cầu viện Rama
Chakkri. Vậy nên, không có gì lạ lẫm khi giữa triều Gia Long và Xiêm La vẫn giữ
được mối quan hệ hòa hảo. Từ năm 1802 trở đi hai bên vẫn có sự sứ bộ qua
lại trao đổi thân thiện và tặng phẩm.
Thời vua Minh Mạng, nhiều xứ ở Ai Lao xin thuộc quyền bảo hộ
của Việt Nam. Các vùng nay là Sầm Nứa, Trấn Ninh, Cam
Môn và Savannakhet giáp với các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ
An, Quảng Trị, đều xin làm nội thuộc và trở thành các châu, phủ của Việt
Nam.
Còn với Chân Lạp, khi vua Gia Long lên ngôi, nước Cao
Miên để Thủy Chân Lạp rơi vào tay người Việt nhưng vẫn phải chịu thần
phục. Thời Minh Mạng, sau khi phá được quân Xiêm, Tướng Trương Minh Giảng và
tham tán Lê Đại Cương lập đồn đóng quân ở gần Nam Vang để bảo
hộ Chân Lạp.
Với Tây phương
Nước Anh là một trong những quốc gia châu Âu tiên phong đặt
quan hệ với Việt Nam, xin cho mở cửa hàng buôn bán ở Trà Sơn, thuộc Quảng
Nam, nhưng liên tục bị vua Gia Long từ chối. Đối với nước Pháp, do mối nợ
từ những tháng ngày giao tranh với Tây Sơn nên Gia Long mềm mỏng hơn. Khi chiến
thắng về phía chúa Nguyễn, các ông Chaigneau, Vannier và Despiau làm quan tại
Nam triều, Gia Long cho mỗi người 50 lính hầu và đặc cách không cần quỳ lạy
vua. Năm 1817, chính phủ Pháp phái tới Việt Nam chiếc tàu Cybèle để thăm dò
bang giao. Tuy nhiên, Gia Long cũng hết sức đề phòng người “ân nhân” này.
Khi vua Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước Versailles
năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn, Gia Long đã lập luận những
điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay không còn hiệu lực.
Sau sự kiện nước Anh chiếm được Singapore, Gia Long nhận
ra cần phải giao hảo với phương Tây. Năm 1819, John White, một thương
gia Hoa Kỳ tới Gia Định và được hứa hẹn sẽ dành cho mọi sự
dễ dàng khi buôn bán ở Việt Nam.
Dưới thời Minh Mạng, ông không ưa những người Âu - Mỹ, đặc biệt
là Công giáo. Bởi vậy, Minh Mạng đã cho thi hành chính sách cấm đạo cực kỳ khắc
nghiệt, việc sát hại giáo sĩ xảy ra như cơm bữa. Những người Pháp đã từng làm
việc ở triều tiên đế, Minh Mạng tỏ thái độ lạnh nhạt. Và đây trở thành lối mòn
trong thái độ của các vua Nguyễn với các quốc gia phương Tây, một cái nhìn đầy
khinh mạt, và hằn học. Đến thời Tự Đức, vua khước từ mọi việc giao thiệp với
các nước ngoài, dầu việc giao thiệp chỉ nhằm phục vụ thương mại.
Giữa thế kỷ XIX, các tàu buôn của Anh, Pháp, Tây
Ban Nha nhiều lần vào cửa Hàn, cửa Thị Nại và Quảng
Yên xin thông thương nhưng vẫn vấp phải sự ức thương của nhà Nguyễn. Sau
khi Gia Định rơi vào tay Pháp, việc ngoại giao giữa triều đình với các nước phương
Tây khó khăn, Tự Đức mới thay đổi chính sách, đặt ra Bình Chuẩn
Ty để lo buôn bán và Thượng Bạc Viện để giao dịch với người nước
ngoài nhưng không có kết quả vì những người được ủy thác vào các việc này không
được trang bị kiến thức về ngoại giao.
Kinh tế
Thương mại
Thương mại Việt Nam lúc đó là một bức tranh ảm đạm. Các tổ chức
thương mại trong nhân dân chủ yếu trong phạm vi gia đình, nếu có hội buôn
lớn thì đó cũng chỉ là sự hợp tác có thời vụ. Người Việt chủ yếu mua bán các mặt
hàng thuộc về lương thực, thực phẩm, gia vị, các vật dụng nhỏ như: gạo, lúa, bắp, đường, hạt
tiêu… và bán và nhập cảng trà, thuốc Bắc, vải, đồ đồng, giấy.
Ở nông thôn, hoạt động thương mại mang tính chất trao đổi nông sản
và hàng tiểu thủ công ở các chợ. Việc làm ăn lớn do thương nhân Hoa kiều chi phối,
dẫu họ chỉ chiếm số lượng nhỏ.
Triều đình đã tổ chức nhiều chuyến công du đến các nước trong
khu vực để đặt mối buôn bán. Dưới triều Minh Mạng, từ 1831-1832 trở đi, hoạt động
này diễn ra với tần suất mạnh, điểm đến cũng khá đa dạng: Hạ Châu, Lữ Tống
(Luzon - Philippines), đảo Borneo, Quảng Đông, Giang Lưu Ba,…
Trong khoảng 1835-1840 đã có 21 chiếc được cử đi. Mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của triều Nguyễn là gạo, đường, lâm thổ sản quý, và nhập khẩu len dạ và vũ khí, đạn dược. Các hoạt động này gần như
là độc quyền của triều đình dù luật pháp không hê cấm đoán tư nhân. Tuy
nhiên, các lái buoob cũng dùng mánh lới để lợi dụng các chuyến đi này để buôn lậu
gạo và thổ sản sang Hạ Châu hay Quảng Châu.
Hàng năm, thuyền buôn Trung Hoa thường đi lại giữa Việt
Nam và Singapore. Một mối nguy hại là thương nhân người Hoa đã du nhập thuốc
phiện về Việt Nam, may thay đất nước của chúng ta không có Chiến tranh thuốc
phiện như ở Trung Quốc. Khi Nam Kỳ chuẩn bị Pháp thâu tóm gọn ghẽ, thống kê tài
chính cho thấy quan thuế hàng năm tương đương 3.000.000
france vàng trên tổng ngân sách 40.000.000 mà các quan viên
đã giữ lại gấp đôi số tiền thuế kia, như vậy số tiền thu được vượt quá số tiền
chuyển về triều đình rất nhiều. Từ thời Thiệu Trị, do xung
đột với phương Tây từ xung đột tôn giáo, quan hệ thương mại với các nước này đi
xuống. Năm 1850, Tự Đức không phái thuyền đi buôn ở Hạ Châu nữa. Triều
đình lại buộc người dân đoạn tuyệt giao dịch với người Tây nên kết quả là
thương gia ngoại quốc chủ yếu là Hoa kiều, Xiêm và Mã Lai,
trong đó người Hoa chiếm tỷ lệ vượt trội.
Thủ công nghiệp
Ngành kinh tế này được chia thành thủ công nghiệp nhân dân và
thủ công nghiệp Nhà nước. Thủ công nghiệp nhân dân không có tính bứt phá, sáng
tạo bởi kĩ thuật lạc hậu, nhà nước lại trưng thu thợ giỏi về phục vụ triều
đình, đặc biệt trong các ngành như khảm xà cừ, kim hoàn, thêu
thùa… tới làm việc để cung cấp đồ dùng cho Hoàng gia, nên tạo ra hai mảng đối lập.
Chính quyền Trung ương đã tập trung xây dựng hệ thống các xưởng
thủ công Nhà nước, nhất là ở kinh đô và các vùng phụ cận. Năm 1803, Gia Long
thành lập xưởng đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở Thăng Long. Nhà
Nguyễn cũng lập các Ti trông coi các ngành thủ công, như ti Vũ khố chế tạo quản
lý 57 cục (làm đất, đúc, kim hoàn, vẽ tranh, làm ngói, làm đồ pha lê,
khắc chữ, đúc súng, làm trục xe, luyện đồng,…). Ti Thuyền đảm nhiệm
các loại thuyền công và thuyền chiến, gồm 235 sở trong phạm vi cả nước. Bên cạnh đó là các ti Doanh kiến, ti Tu tạo, ti Thương bác
hỏa dược.
Nghề đóng tàu rất phát triển, sản phẩm có cả thuyền gỗ lẫn
các loại tàu lớn bọc đồng. Một sĩ quan người Hoa Kỳ, tên John White đã công nhận: “Người Việt Nam quả là những người đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành công trình
của họ với một kỹ thuật hết sức chính xác”.
Dù chậm tiến so với thế giới nhưng nhiều máy móc tiên tiến đã
được ra đời và ứng dụng vào thời đó, có thể điểm tên như máy cưa xẻ gỗ, máy tưới
ruộng… và cả máy hơi nước. Trong ngành khai mỏ, đến nửa đầu thế kỷ XIX,
triều đình đã quản lý 139 mỏ, và năm 1833 có 3.122 nhân công trong các mỏ Nhà
nước.
Nông nghiệp
Cũng như phần đa các triều đại khác, triều Nguyễn “dĩ nông vi
bản”. Tâm lý này đã đưa đến những chính sách phát triển nông nghiệp, như
là cấm mua bán ruộng đất công, lập kho Thường bình, Sở Tịch điền, Sở Diễn canh,
kho Bình thiếu, Sở Đồn điền, Đàn Xã tắc,… Năm 1828, bộ Lễ vâng mệnh
vua, soạn thảo các điển lễ khôi phục lại nghi lễ Tịch điền và làm
thành luật lệ lâu dài, cũng như quy định rất nghiêm túc, cụ thể.
Quỹ ruộng đất công là một vấn đề nan giải của triều Nguyễn,
nó ảnh hưởng đến thu nhập quốc khố, và cũng là một trong những nguyên nhân
khích lên khởi nghĩa nông dân. Ý thức được được điều này, ngay từ đầu triều đại,
Gia Long đã ra lệnh cấm bán ruộng đất công và quy định chặt chẽ việc cầm cố loại
công điền công thổ này để đảm bảo nông dân ai cũng có đất cày. Khi nhân
dân liên tục thất thu, triều đình thường phải giảm thuế, miễn thuế và
phát chẩn. Vua Minh Mạng đã định lại phép quân cấp ruộng khẩu phần, quan lại,
binh lính, công tượng (thợ làm quan xưởng) cùng các hạng dân đinh, phẩm trật
cao thấp đều có khẩu phần nhưng quan lại, cường hào giành được những phần tốt
hơn. Người già, người tàn tật thì được nửa phần. Cô nhi, quả phụ được 1/3.
Tại miền Nam, nhà Nguyễn vẫn tiếp tục việc khai hoang và phục
hóa, từ thời các chúa Nguyễn để lại như việc khẩn hoang, mở rộng,
phát triển nông nghiệp. Ruộng đất tư ở Nam Kỳ rất lớn nhưng chính quyền
không thể chạm tay vào bởi lực lượng đại địa chủ Gia Định đã từng ủng hộ Nguyễn
Ánh trong thời kỳ nội chiến. Vấn đề khẩn hoang ta không thể không nhắc đến hai
tên tuổi Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Tri Phương. Đồn điền xuất hiện nhiều
nhất ở vùng Gia Định. Đợt lập đồn điền lớn nhất do Kinh lược sứ Nam Kỳ là Nguyễn
Tri Phương tổ chức vào năm 1853-1854, lập được 21 cơ, 124 ấp phân phối ở cả 6 tỉnh.
Doanh điền là hình thức khai hoang có sự kết hợp giữa triều đình và nhân dân,
thực hiện di dân để lập ấp mới. Hình thức này bắt đầu được thực hiện từ năm
1828 dưới thời vua Minh Mạng theo đề nghị của Nguyễn Công Trứ. Bản
thân Nguyễn Công Trứ cũng là cha đẻ của hai huyện Tiền Hải (Thái Bình), và Kim
Sơn (Ninh Bình).
Ngoài ra, triều đình nhà Nguyễn còn khuyến khích nhân dân tự
do khai hoang kết hợp phục hóa. Việc đinh điền cũng có chỉnh đốn và kiểm
soát chặt chẽ hơn. Ruộng đất thời vua Minh Mạng được đo đạc lại, tính ra được
630.075 mẫu. Tổng số đinh toàn quốc là 970.516 suất và 4.063.892 mẫu ruộng đất.
Diện tích ruộng đất thực trưng tăng lên nhiều: năm 1847 là 4.273.013 mẫu. Tuy
nhà Nguyễn đã hết sức nỗ lực trong việc mở rộng quỹ đất công, hạn chế chiễm hữu
đất đai thành tài sản riêng nhưng vấn nạn này vẫn nhức nhối, không những thế, vẫn
còn đất đai bị bỏ hoang.
Văn hóa và giáo dục
Giáo dục và khoa cử
Vua Gia Long rất đề cao Nho học, cho lập Văn
Miếu ở các doanh, các trấn thờ đức Khổng Tử và lập Quốc Tử Giám
năm 1803 ở Kinh thành Huế để dạy cho các quan và các sĩ tử, mở
khoa thi Hương lấy những người có học, có hạnh ra làm quan. Trong kì
thi năm 1829, người đỗ Tam khôi không lấy được ai, nhưng người đạt phân điểm
suýt soát với bậc Tiến sĩ thì khá nhiều. Trước tình trạng này, vua Minh Mạng
đưa ra quyết định: mỗi khoa thi lấy thêm những người có phân điểm gần sát với Đệ
Tam giáp, nhưng tính riêng thành một bảng phụ (Phó bảng). Như vậy Phó bảng (còn
gọi là Ất tiến sĩ, Chánh bảng hay Giáp bảng là tiến sĩ trở lên) cũng được chọn
luôn trong kỳ thi đại khoa, nhưng về mặt quyền lợi đãi ngộ thì không bằng những
người đỗ Chánh bảng.
Trường thi Nam Định năm 1897
Trong thực tế, dưới thời nhà Nguyễn, nhiều người đỗ học vị
Phó bảng ra làm quan, đem đức hạnh và trí lực thi thố với đời rất nhiều người
tài năng lưu danh sử sách, chẳng hạn các vị Phó bảng như cụ Nguyễn Văn Siêu, cụ
Phan Chu Trinh, cụ Nguyễn Sinh Sắc… Cũng có nhiều người chỉ đỗ Cử nhân nhưng
đóng góp bao sức lực cho nước nhà như các cụ Nguyễn Công Trứ, Đặng Huy Trứ,
Phan Bội Châu…
Trong dân chúng, việc học tập khá thông thoáng. Chỉ cần có học
lực khá, người ta cũng có thể mở trường tư thục để dạy học. Mỗi làng
có vài ba trường tư thục, hoặc ở nhà thầy, hoặc ở nhà người hào phú nuôi
thầy cho con học và cho con các nhà lân cận đến học.
Nguyễn Trường Tộ đã đả kích mạnh mẽ lối học từ chương, hư
văn, khuyến khích đẩy mạnh tiếp thu khoa học kỹ thuật, học thiên văn, địa lý,
luật, sinh ngữ… Học tức là học cái chưa biết để mà biết, “biết để mà làm”
(Tế cấp bát điều). Ông tâm huyết đến mức viết các bản điều trần
ngay cả khi nằm trên giường bệnh.
Văn học
Thuở mới thành lập, các nhà thơ có hai nguồn gốc chính là
quan của Gia Long và các cựu thần nhà Hậu Lê bất phục nhà Nguyễn. Những cái tên
nổi bật cho văn học lúc này: Phạm Quy Thích, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang
Định, và đại thi hào Nguyễn Du với kiệt tác Truyện Kiều. Nội dung bao
chùm là tâm lý hoài Lê và một lãnh thổ văn chương Việt Nam mới hình thành ở
phương Nam. Thời nhà Nguyễn độc lập là thời của các nhà thơ thuộc đủ mọi xuất
thân trong đó có các vua như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, và
các thành viên hoàng tộc như Tùng Thiện Vương Nguyễn Phúc Miên Thẩm, ba
nàng công chúa tạo nên “Tam khanh” của nhà Nguyễn. Các nho sĩ thì gồm
có Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Hà Tôn Quyền,Trương Quốc Dụng, Phan
Thanh Giản, Phạm Phú Thứ. Hai thể kiểu thơ chủ yếu của thời kỳ này là thơ
ngự chế của các vị vua và các thi tập của nho sĩ. Thời nhà Nguyễn thuộc Pháp là
thời kỳ ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử đương thời tác động rất lớn vào văn
chương, thể hiện sự căm phẫn trước hành vi xâm lăng của Pháp và tố cáo tội ác,
tâm trạng bất lực trước thời cuộc. Tác giả tiêu biểu thời kỳ này gồm Nguyễn Tư
Giản, Nguyễn Thông, Nguyễn Khuyến, Dương Lâm, Nguyễn Thượng
Hiền.
Văn học nhà Nguyễn phát triển ở cả Hán văn lẫn chữ Nôm. Hai
thể lục bát và lục bát gián cách được sử dụng phổ biến với nghệ thuật ngôn từ đặc
sắc. Về nội dung, ngoài các nội dung văn chương mang đậm tư tưởng Nho giáo truyền
thống thì số phận con người và phụ nữ cũng được đề cập đến.
Khoa học, kỹ thuật
Đây là niềm kiêu hãnh của nhà Nguyễn với những tác phẩm đồ sộ.
Năm 1820, Quốc sử quán ra đời với nhiệm vụ thu thập các bộ sử xưa, in
lại Quốc sử thời Lê và biên soạn các bộ sử mới. Quốc sử quán phải nói là được tổ
chức kỷ cương, hoạt động một cách đầy hiệu quả. Vương triều Nguyễn cũng cho lập
các kho tàng lưu trữ các sáng tác từ cổ chí kim.
Chính sử nhà Nguyễn đã có nhiều đóng góp cho sử học nước nhà
với những công trình sử học đồ sộ như: Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Đại
Nam liệt truyện, Đại Nam Thực lục - Tiền biên và chính biên (có tới 587
quyển), Khâm định tiễu bình lưỡng kỳ phỉ khẩu phương lược, Bản triều
bạn nghịch liệt truyện… Các nhà sử học cũng cho ra đời nhiều công trình của cá
nhân như Lịch triều tạp kỷ của Ngô Cao Lãng, Sử học bị khảo của
Đặng Xuân Bản, Quốc sử dĩ biên của Phan Thúc Trực,… và nhất
là Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú.
Từ các tỉnh lớn cho đến tận các huyện xã rộ lên phong trào
biên soạn các bộ địa phương chí. Trong đó có rất nhiều bộ chí được biên soạn
khá công phu với nhiều chi tiết quý mà các bộ sử lớn không có. Tiêu biểu cho địa
phương chí là Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, Nghệ
An ký của Bùi Dương Lịch
Thể loại Gia Phả thì có Mạc Thị Gia phả của Vũ
Thế Dinh.
Năm 1942, Giám đốc Nhà lưu trữ Đông Dương Paul
Boudet cho biết rằng các tài liệu trước thế kỷ XIX (thời Nguyễn) chỉ còn
lưu lại được khoảng 20 bản. Từ triều vua Minh Mạng, công tác lưu trữ mới được
quan tâm. Cũng năm 1942, số lượng địa bạ ở Tàng thư lâu giữ
được có tới 12.000 quyển. Như vậy nhà Nguyễn đã có công lao trong việc lưu giữ
các tác phẩm xưa, bổ sung trong kho tàng sử học dân tộc.
Địa lý
Mảng địa lý rất được nhà nước coi trọng, bộ Hoàng Việt
Nhất thống dư địa chí do Thượng thư Lê Quang Định tuân mệnh
vua Gia Long mà biên soạn. Sau đó cơ quan Quốc sử quán triều Nguyễn cũng
soạn tiếp nhiều công trình khác gồm Đại Nam nhất thống toàn đồ, Đại
Nam nhất thống chí. Ngoài ra, còn có nhiều tác phẩm có giá trị cao của cá nhân
như Bắc Thành địa dư chí và Hoàng Việt dư địa chí của Phan
Huy Chú; Phương Đình dư địa chí của Nguyễn Văn Siêu; Đại Việt
cổ kim duyên cách địa chí khảo và Gia Định thành thông chí của Trịnh
Hoài Đức; Nam Hà tiệp lục của Quốc sử quán,… Ngoài ra dưới triều
Minh Mạng cũng xuất hiện rất nhiều bản đồ về các địa phương của nước ta giai
đoạn đó.
Kỹ thuật công nghệ
Trong nội chiến với Tây Sơn, Nguyễn Ánh (tức Gia Long), đã từng
sử dụng tàu chiến nước ngoài. Sau khi lên ngôi, ông cũng cho đóng loại thuyền lớn
bọc đồng phục vụ tuần tra biển.
Sang đến thời Minh Mạng, đã có nhiều phát minh quan trọng,
chủ yếu trong nông nghiệp gồm: máy cưa chạy bằng sức trâu và sức nước, máy xẻ gỗ
chạy bằng sức trâu, máy hút nước tưới ruộng. Năm 1834, Nguyễn Viết
Túy dưới sự đồng ý của vua Minh Mạng đã chế tạo ra chiếc máy nghiền thuốc
súng bằng sức nước mang tên Thủy hỏa ký tế. năm 1839, khoa học kỹ thuật
triều Nguyễn đã có bước tiến quan trọng khi dựa theo các kiểu phương Tây - các
đốc công Hoàng Văn Lịch, Vũ Huy Trịnh cùng các thợ của ông đã
đóng thành công chiếc tàu máy hơi nước đầu tiên, được vua Minh Mạng hết sức
khen ngợi. Năm sau, Minh Mạng lại chỉ đạo cho họ đóng một chiếc kiểu mới tân tiến
hơn và sửa chữa một chiếc bị hỏng. Tiếc thay sau đó mọi việc dường như bị đình
chỉ. Thời Tự Đức, nhiều sách kỹ thuật phương Tây được dịch sang tiếng
Hán như Bác Vật tân biên, Khai Môi yếu pháp, Hàng hải Kim châm, nhưng chúng vẫn
chưa kịp tác động và thay đổi xã hội Việt Nam.
Kiến trúc
Kinh thành Huế là công trình kiến trúc đặc sắc của Nguyễn Triều,
tọa ở bờ Bắc sông Hương với tổng diện tích hơn 500 ha và 3 vòng thành
bảo vệ. Kinh thành được xây dựng từ năm 1805 và hoàn thành vào năm 1832, theo
kiến trúc của phương Tây kết hợp kiến trúc thành quách Á Đông. Khu quần
thể này tiếp thu và kế thừa kiến trúc truyền thống thời Lý, Trần, Lê đồng thời
tiếp thu tinh hoa của Mỹ thuật Trung Hoa nhưng đã được Việt hóa. Huế
cũng đã được hiện đại hóa bởi những công trình sư người Pháp phục vụ
dưới thời vua Gia Long. Khi xây dựng hệ thống thành quách và cung điện,
các nhà kiến trúc dưới sự chỉ đạo của nhà vua đã bố trí trục chính của công
trình theo hướng Tây Bắc- Đông Nam. Yếu tố Ngũ hành quan trọng trong
bố cục mặt bằng của kiến trúc cung thành tương ứng với ngũ phương.
Ngoài ra phải kể đến hai thành cổ trấn thủ Sài Gòn xưa là
thành Quy và thành Phụng, nhưng giờ chỉ còn lại trong tiềm thức.
Thành Quy (thành Gia Định) được thiết kế theo phong kiến
trúc Vauban, nhưng vẫn ẩn chứa phong thủy Á Đông. Điều này thể hiện rõ
nét khi thành có hình hoa sen. Giáo sư Nguyễn Đình Đầu đã miêu tả: “Gia Định
là ngôi thành đồ sộ, lớn nhất trong lịch sử nhà Nguyễn. Lúc đầu được gọi là Bát
quái, do có 8 cửa, bên trong thành xẻ 4 đường ngang, 4 đường dọc thành những ô
vuông”. Thành có liên quan đến Tả quân Lê Văn Duyệt, người có hiềm khích với
Minh Mạng, cũng như binh biến Lê Văn Khôi. Vì lý do này mà sau khi dẹp được
binh biến, vua Minh Mạng cho phá bỏ thành.
Năm 1836, Minh Mạng ra lệnh xây dựng thành Phụng. Ngày
17.2.1859, thực dân Pháp nổ súng tấn công đánh chiếm Gia Định, thành Quy nổ
tung và cháy rụi.
Ra đời trong bối cảnh chế độ quân chủ chuyên chế đã khủng hoảng
trầm trọng, nhà Nguyễn vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ nhiều tầng lớp nhân dân.
Thông thường, đầu triều đại, lực lượng triều đình còn hùng hậu, sẽ ít xuất hiện
khởi nghĩa nhưng với triều Nguyễn lại là ngoại lệ. Theo thống kê của các nhà sử
học, số lượng các cuộc nổi dậy nửa đầu thế kỷ XIX còn nhiều hơn thế kỷ XVIII. Từ
năm 1802 cho tới năm 1862, tại Bắc Hà có từ 350 cho tới 400 cuộc nổi dậy của
nông dân nổ ra. Mạnh mẽ và dồn dập nhất là 254 cuộc khi Minh Mạng cầm quyền
(1820-1840). Có thể điểm tên rất nhiều cuộc khởi nghĩa lớn như Phan Bá
Vành ở Nam Định (1821-27), Lê Duy Lương ở Ninh
Bình (1833-1834), Cao Bá Quát (1854-1856) ở Hà Nội, đặc biệt là
phong trào bạo loạn do Lê Duy Phụng dẫn đầu (1861-1865) trên khắp
lãnh thổ Bắc Kỳ.
Ở Nam Kỳ thì nổi tiếng với binh biến Lê Văn Khôi ở thành
Phiên An (1833 - 1835).
Do chính sách bãi bỏ chế độ Thế tập, thay bằng lưu quan với
các tộc người thiểu số nên vua Nguyễn cũng vấp phải sự chống đối của các tù trưởng
như: Cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân (1833 - 1835), Năm 1804, Ma Danh Cúc
(Dương Đình Cúc), bộ hạ triều Tây Sơn cũ, tập hợp người Cao Lan nổi dậy ở Thái
Nguyên, những cuộc khởi nghĩa của tộc người Khơ me ở Nam Bộ trong những năm 40
của thế kỷ XIX…
Ngoài ra triều đình còn phải lo đối phó dư đảng Thái
Bình Thiên Quốc do Hồng Tú Toàn tổ chức chống lại nhà
Thanh bị bại tràn sang Việt Nam. Tàn quân Thái Bình Thiên Quốc cướp
phá các vùng thượng du khiến quân đội nhà Nguyễn phải đi đánh dẹp rất
phiền phức.
Giai đoạn mất quyền tự chủ
Cuộc chiến chống Pháp xâm lăng
Ngay từ triều Minh Mạng, do chính sách tàn sát giáo dân của vị
vua này mà trong năm 1838 đã có sĩ quan Hải quân Fourichon đề nghị nước
Pháp gửi Hải quân tới can thiệp nhưng bị bác bỏ, còn dư luận Pháp
thì ủng hộ đề nghị dùng vũ lực. Đến đời vua Thiệu Trị, ông đã đồng ý cho
thả một số linh mục bị bắt và tỏ ý sẽ cho tàu sang Châu Âu mua bán.
Song cuộc đàm phán còn chưa dứt thì quan nước Pháp thấy thuyền của Đại Nam đóng
gần tàu của Pháp. Ở trên bờ lại thấy có quân đắp đồn lũy, nghĩ rằng triều
Nguyễn sắp kế mai phục, liền cho bắn đắm thuyền nhà Nguyễn, rồi nhổ chạy ra biển.
Vua Thiệu Trị tức giận, hạ lệnh xử tử ngay tại chỗ tất cả người Âu bắt được tại
Việt Nam. Pháp và Tây Ban Nha đã lợi dụng ngọn cờ tôn giáo để nổ súng xâm lược
Việt Nam, bắt đầu từ vụ đụng độ ở bán đảo Sơn Trà, ngày 1/9/1858.
Trước thái độ hung hãn của thực dân Pháp, triều đình Huế đã tổ
chức phản công ngay sau sự vụ bán đảo Sơn Trà vang tiếng súng xâm lược. Tự Đức
điều Nguyễn Tri Phương về Đà Nẵng, cầm quân đánh giặc, được nắm toàn quyền quyết
định trên chiến trường. Tháng 10-1858, phòng tuyến Điện Hải, An Hải bị vỡ, quân
triều đình tan tác nhưng dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương phòng tuyến Liên
Trì đã được xây dựng, lấy phòng thủ để tiến công. Trong trận Liên Trì, quân ta
thương tổn khá nặng, Nguyễn Tri Phương xin vua trách tội. Tự Đức đã giáng chức
nhưng để ông ở lại đoái công chuộc tội. Không phụ lòng vua, ông đồng lòng hiệp
sức với quân dân Đà Nẵng đã quét văng quân xâm lược ra khỏi Đà Nẵng vào ngày
23-3-1860. Ở mặt trận phía Bắc, trong các trận Cầu Giấy 1873, 1883, quân triều
đình đã phối hợp với nhân dân tạo nên chiến thắng oanh liệt, các đại úy giặc
như Francis Garnier, Rivière phải lần lượt bỏ mạng.
Chính quyền thực dân nửa phong kiến
Đáng lẽ với những chiến thắng trên, nhà Nguyễn có thể nhân đà
này cùng hợp lực với nhân dân để chiến đấu tận cùng với Pháp. Đáng tiếc, vương
triều này đã bị rơi vào hố sâu của con đường thỏa hiệp, dần dà đã nằm trong quyền
“Bảo hộ” của thực dân Pháp. Việc Tự Đức băng hà năm 1883 khiến tình hình đất nước
thêm rối loạn, các Hiệp ước Harmand (1883) và Patenôtre (1884) đã chấm
dứt tư ách một quốc gia độc lập của Việt Nam, thay vào đó là chế độ thuộc
địa nửa phong kiến kéo dài đến cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa triều đình Nguyễn hết thảy
đều bạc nhược, vẫn có những người đứng đầu chính quyền yêu nước như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân.
Về phía nội bộ quần thuần thì chia làm hai phe chủ chiến và
chủ hòa. Năm 1885, Tôn Thất Thuyết - người đứng đầu lực lượng chủ chiến quyết định
mở cuộc tấn công Pháp ở Đồn Mang Cá và Tòa Khâm Sứ nhưng thất bại. Ông đưa
vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), rồi xuống chiếu Cần Vương kêu gọi
nhân dân giúp vua đánh Pháp. Cùng chung ý chí với lòng dân, Cần Vương đã
thổi bùng ngọn lửa đấu tranh. Hàng loạt cuộc nổi dậy đã nổ ra, tiêu biểu là những
cuộc khởi nghĩa ở Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công
Tráng, khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy, khởi
nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng và Cao Thắng, khởi
nghĩa ở Hưng Hóa do Nguyễn Quang Bích lãnh đạo… Chẳng
may, trong năm 1888, vua Hàm Nghi đã bị hai tên bội phản là Trương Quang Ngọc
và Nguyễn Đình Tình bán rẻ cho Pháp. Không mua chuộc được vua Hàm Nghi, thực
dân Pháp cho ông đi an trí ở Algérie. Tuy nhiên, Cần Vương vẫn tiếp tục
phát triển, phong trào chỉ thực sự chấm dứt khi thủ lĩnh Phan Đình
Phùng chết cuối năm 1895.
Ngoài ra, hòa chung với phong trào Cần Vương còn có khởi
nghĩa Yên Thế. Đây là một cuộc khởi nghĩa nông dân nhưng đóng góp lớn vào phong
trào yêu nước. Sự đấu tranh bền bỉ vắt chéo qua hai thế kỉ khiến thực dân Pháp
nhiều phen lao đao.
Phong trào Cần Vương diễn ra rầm rộ nhưng cuối cùng vẫn thất
bại bởi nhiều nguyên nhân. Thứ nhất là các phong trào còn rời rạc, chưa có sự
liên kết giữa các cuộc khởi nghĩa để tạo thành bức tường thành vững chãi của chủ
nghĩa yêu nước. Thứ hai là sai lầm khi không tập hợp được mặt trận dân tộc thống
nhất: một bộ phận quân Cần Vương đã tàn sát những người theo Công giáo (hơn
20.000 giáo dân - theo thống kê của Pháp). Như vậy là xác định sai kẻ thù giống
như phong trào đập phá máy móc của công nhân thuộc các nước tư bản... Chính
sách sa thải các quan chức Việt và cho các dân tộc thiểu số được quyền
tự trị rộng rãi cũng làm cho các sắc dân này đứng về phía Pháp. Về mặt
khách quan thì lực lượng nghĩa quân của Cần Vương bị chênh lệch quá lớn trước một
quân đội thực dân hùng mạnh, nên khó lòng chống đỡ được.
Sau Hàm Nghi thì có vua Thành Thái và Duy Tân có quyết tâm
kháng Pháp, hợp thành bộ ba vị đế vương yêu nước của nhà Nguyễn. Từ nhỏ, vua
Duy Tân đã kế thừa tinh thần kháng Pháp của tiên đế Thành Thái, với câu nói nổi
tiếng “Nước bẩn thì lấy máu mà rửa”. Ông có kết nối với Việt Nam Quang phục hội
(Thái Phiên và Trần Cao Vân) để làm cuộc khởi nghĩa. Tuy nhiên, cuộc
khởi nghĩa đã thất bại, vua Duy Tân bị đày ra đảo La Réunion cùng lúc
với phụ hoàng Thành Thái.
Những vị vua sau này của thời kỳ thuộc Pháp lại đi theo con
đường thân Pháp. Vua Đồng Khánh phải nhượng bộ cho người Pháp để
đổi lấy sự giúp đỡ về mặt hành chính và quân sự. Năm 1887, Liên bang Đông
Dương được thành lập gồm thuộc địa Nam Kỳ, 2 xứ bảo hộ Trung Kỳ và Bắc
Kỳ cùng Lào và Cao Miên đều đặt dưới một viên
quan Toàn quyền Đông Dương người Pháp. Năm 1888, vua Đồng Khánh còn
phải nhường cho nước Pháp mọi quyền hành trên 3 thành phố Hà Nội, Hải
Phòng và Đà Nẵng, 3 khu vực này cũng trở thành 3 thuộc địa. Sự hèn yếu
của Đồng Khánh khiến ông vấp phải sự phản ứng mãnh liệt của nhân dân, chính ông
đã phải thừa nhận “Không đời nào tôi có thể tin rằng Hà Tĩnh, Quảng Bình trung
thành với tôi, vì hai tỉnh ấy có nhiều sĩ phu quá?!”.
Quyền hành của nhà vua bị thu hẹp tối đa khi Paul
Doumer nắm giữ vị trí Toàn quyền Đông Dương. Trong giai đoạn từ năm
1897 đến năm 1902, Paul Doumer đã áp dụng một chính sách cai trị độc tài:
Quan lại cấp tỉnh phải phụ thuộc trực tiếp Thống sứ Pháp,
cai trị xứ Bắc Kỳ nhân danh Hoàng đế nhưng lại không cần phải nghe lệnh
của vị vua Đại Nam. Các quan cũng phải nhường cho Công sứ Pháp quyền
đề cử và bổ nhiệm hương chức. Cơ quan hành chính Pháp cũng phụ trách
thu thuế và giao cho ngân khố của triều đình một ngân
sách cần thiết cho việc duy trì triều đình. Paul Doumer đã thay thế chế độ
bảo hộ bằng chế độ trực trị và triều đình từ lúc đó chỉ còn giữ lại được những
hình thức bề ngoài.
Vua Khải Định lại mang vết nhơ với câu ca dao “Tiếng đồn Khải
Định nịnh Tây - Nghề này thì lấy ông này tiên sư”. Năm 1925, Khải Định
qua đời, Toàn quyền Alexandre Varenne đã ép tân đế là Bảo Đại mới
12 tuổi phải ký thỏa ước giao cho quan Khâm sứ Pháp các quyền hạn cuối
cùng. Thậm chí nhà vua còn không thể lựa chọn các Thượng thư và quan chức.
Nam quốc trên thực tế đã phân thành 3 mảnh tách biệt. Nam Kỳ sáp nhập
vào Pháp, Bắc Kỳ gần như một thuộc địa và Trung Kỳ là
nơi mà quy chế bảo hộ chỉ là lý thuyết.
Ngoài ra, có những vị vua tại vị rất ngắn như Dục Đức (3
ngày), Hiệp Hòa (3 tháng) và Kiến Phúc (8 tháng). Trong đó vua thì bị bức tử,
vua thì bị nghi là chết do bị hạ độc. Thế sự thực quá đa đoan!
Nhà Nguyễn sụp đổ chấm dứt 143 năm tồn tại
Tháng Tám năm 1945, nhân sự kiện Nhật Bản đầu hàng Đồng minh
vô điều kiện, thời cơ đã chín muồi, Đảng Cộng sản Việt Nam phất cờ khởi nghĩa.
Cách mạng tháng Tám diễn ra trong 15 ngày, và không hề đổ máu, nhưng đã giành
được độc lập chủ quyền sau gần thế kỷ bị xiềng xích. Đó cũng là tiếng chuông
cáo chung cho lịch sử phong kiến Việt Nam. Ngày 25/8/1945, tại Ngọ Môn, Bảo Đại
- vị vua thứ 13 và cũng là cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn đã đọc Chiếu
thoái vị. Chiều 30/8/1945, Bảo Đại trao lại ấn kiếm cho chính quyền cách mạng.
Đến ngày 2/9/1945, Hồ Chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
Di sản để lại
Nhà Nguyễn đã để lại những di sản vật thể lẫn phi vật thể vô
cùng phong phú, được thế giới công nhận, dù một thời đã bị xem nhẹ, thậm chí bị
coi là tàn dư của sự thối nát.
Nhã nhạc cung đình Huế
Được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật
thể của nhân loại trong năm 2003, nhã nhạc chẳng những là một “thú vui
thanh tao” thời phong kiến, mà còn thể hiện sự tinh tế trong nghệ thuật âm nhạc.
Cố đô Huế và các lăng tẩm
Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận
là Di sản Văn hóa Thế giới vào ngày 11 tháng 12 năm 1993.
Trong lịch sử Việt Nam thời cận đại, công trình xây dựng Kinh
thành Huế có lẽ là công trình đồ sộ, quy mô nhất với hàng vạn lượt người
tham gia thi công, hàng triệu mét khối đất đá, với một khối lượng
công việc khổng lồ như đào hào, lấp sông, di dân, dời mộ, đắp thành… kéo
dài từ thời điểm tiến hành khảo sát dưới triều vua Gia Long năm 1803
đến khi hoàn chỉnh triều vua Minh Mạng vào năm 1832. Phong cách kiến
trúc và cách bố phòng khiến Kinh thành Huế thực sự là một pháo đài vĩ
đại và kiên cố nhất từ trước đến nay ở Việt Nam mà một thuyền
trưởng người Pháp là Le Rey khi tới Huế năm 1819 phải thốt
lên: “Kinh Thành Huế thực sự là pháo đài đẹp nhất, đăng đối nhất ở Đông
Dương, thậm chí so với cả pháo đài Williamở Calcutta và Saint
Georges ở Madras do người Anh xây dựng”.
Lăng tẩm của các đời vua được coi là “ngôi nhà vĩnh cửu” để
các vua gửi gắm linh hồn. Nổi bật lên trong đó là lăng Khải Định (Ứng Lăng), với
quy mô hoành tráng, họa tiết và phong cách kiến trúc có sự giao thoa giữa truyền
thống và hiện đại, phương Đông với phương Tây.
Mộc bản
Mộc bản được UNESCO công nhận là di sản tư liệu
thế giới đầu tiên tại Việt Nam ngày 31/7/2009. Bộ Mộc bản này gồm
34.618 tấm, là những văn bản chữ Hán Nôm được khắc ngược trên gỗ để in ra
các sách tại Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.
Đóng góp nhiều nhất cho kho tàng này là bộ sưu tập kim ấn, ngọc
tỷ truyền quốc, bửu tỷ, bảo kiếm, hàng thủ công nghệ và mỹ thuật. Cuối năm
2010, lần đầu tiên sau 50 năm được bảo quản tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam,
những báu vật này đã được trưng bày trước công chúng. Tuy nhiên có những
báu vật bị mất dấu như quốc ấn (nặng khoảng 10 kg vàng) và quốc kiếm của
vua Bảo Đại, trao lại cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa vào năm 1945, hay ấn tín của Nam Phương hoàng hậu đã bị mất trộm.
Lệ Tứ bất
Có nhiều quan điểm cho rằng, để thâu tóm quyền lực vào tay
Hoàng đế, nhà Nguyễn đã đề ra Tứ bất - tức 4 điều cấm kỵ. Đó là không đặt chức
tể tướng, không lấy đỗ trạng nguyên, không lập hoàng hậu và không phong Đông
cung Thái tử. Thế nhưng, căn cứ vào chính sử nhà Nguyễn, cùng những tài liệu có
liên quan đến triều đại này thì không hề nhắc đến lệ Tứ bất. Trên thực tế, vẫn
có những trường hợp được phong hậu (Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, Thừa Thiên Cao
Hoàng hậu, Nam Phương Hoàng hậu), các Đông cung như Nguyễn Phúc Cảnh. Về vấn đề
triều Nguyễn không có Tể tướng thì bắt đầu từ thời Lê trung hưng đã không còn.
Hiện tượng không có Trạng nguyên là do điểm thi không cao, không đạt chuẩn mực
triều đình đề ra chứ không có nghĩa nhà Nguyễn phế bỏ danh Trạng nguyên trong
Khoa bảng. Có thể, Lệ tứ bất là sản phẩm từ sự suy luận chứ chưa có văn bản nào
công nhận điều này.
Nhận xét về vai trò của nhà Nguyễn
Nhà Nguyễn có thể canh tân đất nước để giữ chủ quyền không?
Trước những đề xướng cải cách, nhà Nguyễn không hề quay lưng
hoàn toàn theo cách bảo thủ. Những người từng đi du học nước ngoài như
Phan Thanh Giản, Nguyễn Trường Tộ đã dâng điều trần xin nhà vua cải cách toàn
diện. Vua Tự Đức và triều thần dường như đã đọc không bỏ sót một bản điều trần
nào của các nhà cải cách gửi về Huế. Tháng 11 năm 1878, vua đã cử sứ bộ và một
số thanh niên sang học tiếng Xiêm. Tuy nhiên, nhà Nguyễn vẫn không thể bứt phá.
Vậy nguyên nhân là do đâu?
Thứ nhất, nhà Nguyễn đã không xây dựng được cơ sở xã hội vững
chắc. “Dễ trăm lần không dân cũng chiu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”, vậy mà
triều Nguyễn ngay từ khi mới ra đời đã liên tục vấp phải sự phản kháng của nhân
dân, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tục nổ ra. Cơ sở xã hội đã
lung lay thì sao có thể cải cách xã hội?
Thứ hai, một triều đình trọng văn, không chú trọng đến phát
triển khoa học, kĩ thuật thì tầm nhìn không thể tiến xa, và có tâm lí “sợ” cái
mới, dè chừng cải cách. Năm 1878, xem báo “Hương cảng tân văn”, có bàn đến
việc chấn hưng đất nước phải thông thương, và chống lại bảo thủ, tăng cường học
hỏi nước ngoài, Tự Đức muốn cho thi hành nhưng Viên cơ mật lại cho rằng những
việc đó dễ người khó ta. Các quan trong viện còn nói thêm, muốn thay đổi tập
quán phải từ từ, rồi còn phải chờ kỳ tiến công nhà Thanh năm sau để liệu.
Thứ ba là yếu tố khách quan: nhiều chương trình học nước
ngoài bị bỏ dở nửa chừng vì triều đình không đủ lực tài trợ. Ngoài ra còn có
tác động từ phía Pháp: không ít lần người Pháp đã ngăn không cho du học sinh Việt
Nam ra nước ngoài học; hoặc việc mua tàu máy, vũ khí của nước ngoài cũng bị
Pháp phá hỏng…
Trách nhiệm của nhà Nguyễn trong vấn đề để mất nước
Đến tận bây giờ, đây vẫn là một câu hỏi lớn và gây nhiều
tranh cãi, chia ra làm hai luồng ý kiến.
Một là quy chụp hoàn toàn mọi trách nhiệm cho nhà Nguyễn, đặc
biệt là trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1975. Các sử gia miền Bắc đã
có những đánh giá vô cùng gay gắt, quy trách nhiệm hoàn toàn cho các vua Nguyễn
đối với việc mất nước rằng Nguyễn Ánh đã “cõng rắn cắn gà nhà” (cầu viện Pháp)
và Tự Đức “bán rẻ đất nước” cho thực dân. Ngay cả sử gia Pháp Gosselin cũng cho
rằng các vua Nguyễn phải chịu trách nhiệm về sự đổ vỡ và xuống dốc của
đất nước An Nam, đánh giá triều Nguyễn là một chính quyền mù quáng.
Tuy nhiên, cũng có những nhận định mang tính công tâm hơn, và
cũng là xu thế đánh giá chủ đạo hiện nay. Trong “Việt Sử tân
biên”, Phạm Văn Sơn cho rằng Việt Nam mất vào tay thực dân Pháp là một
tất yếu lịch sử, hoặc ít ra cũng do trình độ dân trí Việt Nam quá thấp kém so với
người Pháp. Bản thân người viết cũng đồng tình với quan điểm này. Khi các cuộc
phát kiến địa lý diễn ra đã tạo nên sự giao lưu mạnh mẽ giữa phương Đông và
phương Tây. Đến khi chủ nghĩa tư bản đi theo con đường đế quốc - thực dân, xâm
chiếm thuộc địa, thì hầu hết các quốc gia nhỏ yếu, lạc hậu hơn, đều rơi vào
vòng xoáy “cá lớn nuốt cá bé”, bị thôn tính, đô hộ. Tại châu Á, có Nhật Bản và
Xiêm nhờ những cải cách kịp thời mà vẫn giữ được độc lập. Văn minh súng ống đã
chiếm ưu thế tuyệt đối trước quân đội thô sơ, lạc hậu của nhà Nguyễn. Nói như vậy
không đồng nghĩa người viết đang cố tình giảm nhẹ trách nhiệm của nhà Nguyễn
khi để thực dân Pháp đô hộ.
Trước hết, nhà Nguyễn đã đi những nước thụt lùi trong lịch sử,
không thực hiện những cuộc canh tân đất nước theo xu hướng tiến bộ. Nhà nước
này đã có những chính sách sai lầm, đặc biệt là vấn đề cấm đạo và tàn sát
người Công giáo. Chính sách này chẳng những tạo cái cớ hợp lý để Pháp nổ súng
xâm lược, mà còn phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc. Trong những trường hợp hoàn
toàn có thể thừa thắng xông lên đánh Pháp thì triều Nguyễn lại lún sâu vào con
đường thỏa hiệp, tạo khoảng trống cho quân Pháp hồi sức. Không những thế, chính
nội tại nhà Nguyễn đã không thể thống nhất phương hướng, chia thành hai phe chủ
chiến và chủ hòa. Kết hợp cả nguyên nhân khách quan và chủ quan thì việc để mất
nước là điều không thể tránh khỏi.
Vai trò của nhà Nguyễn trong lịch sử dân tộc
Tương tự như vấn đề trên, cách nhìn nhận về nhà Nguyễn cũng bị
chia thành 2 phe.
Phe thứ nhất phủ định sạch trơn mọi đóng góp của triều đại
này, và dùng những cụm từ “xấu xí” để miêu tả: “Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát”,
“Chế độ áp bức bóc lột nặng nề”, “Chính sách kinh tế lạc hậu và phản động”,
“Chính sách đối ngoại mù quáng”, v.v…, thậm chí là những từ ngữ tiêu cực
hơn như “triều đình nhà Nguyễn thối nát và hèn mạt”, “Vương triều Nguyễn tàn ác
và ngu xuẩn”, “cực kỳ ngu xuẩn”, “tên chúa phong kiến bán nước số 1 là Nguyễn
Ánh… (trích bộ “Lịch sử Việt Nam “thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội). Hệ lụy
là trong một thời gian dài, các di tích có liên quan đến triều Nguyễn bị phá hủy,
xoá bỏ từ tên đường phố, trường học, hay các công trình công cộng, ngay cả với
những vị Hoàng đế yêu nước, có tinh thần kháng Pháp (Duy Tân) cũng không
ngoại lệ. Thậm chí quần thể di tích cố đô Huế bị bỏ mặc trở thành phế tích
do chịu tác động của chiến tranh và phong hóa của thời gian.
Bản thân người viết xin đưa ra kiến giải của mình về việc
Nguyễn Ánh cầu viện nước ngoài. Bản thân Nguyễn Ánh chỉ có mục đích muốn xin viện
trợ, chứ không hề có ý định rước giặc vào giày xéo đất mẹ. Bản thân ông trót
mang nợ với Bá Đa Lộc, nhưng cũng có sự cảnh giác với ý đồ của Tây phương. Sau
đây xin được đưa ra một số ý kiến đánh giá khách quan nhất về triều đại phong
kiến này:“Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát”, “Chế độ áp bức bóc lột nặng nề”,
“Chính sách kinh tế lạc hậu và phản động”, “Chính sách đối ngoại mù quáng”,
v.v…, thậm chí là những từ ngữ tiêu cực hơn như “triều đình nhà Nguyễn thối
nát và hèn mạt”, “Vương triều Nguyễn tàn ác và ngu xuẩn”, “cực kỳ ngu xuẩn”,
“tên chúa phong kiến bán nước số 1 là Nguyễn Ánh… (trích bộ “Lịch sử Việt
Nam “thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội). Hệ lụy là trong một thời gian dài, các
di tích có liên quan đến triều Nguyễn bị phá hủy, xoá bỏ từ tên đường phố, trường
học, hay các công trình công cộng, ngay cả với những vị Hoàng đế yêu nước, có
tinh thần kháng Pháp (Duy Tân) cũng không ngoại lệ. Thậm chí quần thể di
tích cố đô Huế bị bỏ mặc trở thành phế tích do chịu tác động của chiến
tranh và phong hóa của thời gian.
Giáo sư Phan Huy Lê nhận định, triều Nguyễn được đặt trong
“khung” lý thuyết hình thái kinh tế xã hội là triều đại suy
vong, lâm vào khủng hoảng nặng nề, và chịu nhiều phán xét không công bằng.
Trong hội thảo quốc gia mang tên “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch
sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX” năm 2008, giáo sư chỉ ra “sự phê
phán, lên án đến mức độ gần như phủ định mọi thành tựu của thời kỳ các chúa
Nguyễn và triều Nguyễn trước đây là quá bất công, thiếu khách quan, nhất là khi
đưa vào nội dung sách giáo khoa phổ thông để phổ cập trong lớp trẻ và xã hội…
các nhà sử học dĩ nhiên có trách nhiệm của mình trong vận dụng phương pháp luận
sử học chưa được khách quan, trung thực”. Ông Phan Huy Lê cũng khẳng định vai
trò mở mang bờ cõi, thống nhất đất nước, phát triển giáo dục, văn hóa của vua
chúa Nguyễn.
Theo ông Nguyễn Đắc Xuân (Hội sử học Thừa Thiên - Huế), có 4
“nguồn” nhận định sai về nhà Nguyễn, bao gồm: hậu duệ vua Lê - chúa Trịnh,
thực dân Pháp, Công giáo và những người nghiên cứu nhà Tây Sơn, thích Tây
Sơn.
Nguy hiểm hơn nữa, những đánh giá sai lệch lại nằm trong tư
tưởng giáo điều của một số sử gia mác xít. Khuynh hướng này đã ảnh hưởng lớn đến
việc biên soạn sách giáo khoa, đem đến cái nhìn không được thiện cảm về nhà
Nguyễn.
Trước thực trạng ý thức hệ chi phối khoa học, trên tờ “Sông
Hương” (Huế) vào năm 1987, Giáo sư Trần Quốc Vượng đã bày tỏ
chính kiến “Tôi không thích nhà làm sử cứ theo ý chủ quan của mình, và từ chỗ đứng
của thời đại mình mà chửi tràn chửi lấp toàn bộ nhà Nguyễn cho sướng miệng và
ra vẻ có lập trường. Có thời nhà Nguyễn chúng ta mới có một Việt Nam hoàn chỉnh
như ngày nay”.
Nhà thơ Nguyễn Duy đã bày tỏ bức xúc về những thành
phần “hùa theo đám đông” để tạo nên xu thế xem thường Nguyễn triều “nhiều người
biết rằng nhà Nguyễn có công lớn đối với nước nhà, nhưng không hiểu tại sao và
từ lúc nào, lại bị biến dạng, bị hạ thấp một cách oan sai về thang bậc giá trị
lịch sử và văn hóa”.
Sơ đồ phả hệ 13 vị vua triều Nguyễn
Trải qua 13 đời vua - 7 thế hệ, nhiều biến chuyển thăng trầm,
nhà Nguyễn không tránh khỏi những công và tội. Đặc biệt, đặt trong hoàn cảnh hết
sức phức tạp, nhà Nguyễn đã có sự cố gắng nhưng do đi không đúng hướng, phần vì
trễ nãi cải cách nên đã không thể đưa dân tộc ra khỏi cơn bĩ cực. Tuy nhiên,
triều đại này vẫn có những đóng góp tích cực mà giá trị vẫn tồn tại đến ngày
nay.
Vua Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) tại vị từ năm 1802 đến 1820,
an táng tại Thiên Thọ Lăng.
Vua Minh Mạng (Nguyễn Phúc Đảm) tại vị từ 1820 đến
1841, an táng tại Hiếu Lăng.
Vua Thiệu Trị (Nguyễn Phúc Miên Tông) tại vị tư 1841 đến
1847, an táng tại Xương Lăng.
Vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Hồng Nhậm) tại vị từ 1847 đến
1883 an táng tại Khiêm Lăng.
Vua Dục Đức (Nguyễn Phúc Ưng Aí) tại vị được 3 ngày an táng tại An Lăng.
Vua Hiệp Hòa (Nguyễn Phúc Hồng Dật) tại vị được hơn 4 tháng.
Vua Kiến Phúc (Nguyễn Phúc Ưng Đăng) tại vị từ năm 1883 đến
1884.
Vua Hàm Nghi (Nguyễn Phúc Ưng Lịch) tại vị từ năm 1884 đến
1885
Vua Đồng Khánh (Nguyễn Phúc Ưng Kỷ) tại vị từ năm 1885
đến 1889 an táng tại Tư Lăng.
Vua Thành Thái (Nguyễn Phúc Bửu Lân) tại vị từ năm 1889 đến
1907 an táng tại An Lăng.
Vua Duy Tân (Nguyễn Phúc Vĩnh San) tại vị từ năm 1907 đến
1916 an táng tại An Lăng.
Vua Khải Định (Nguyễn Phúc Bửu Đảo) tại vị từ năm 1916
đến 1925 an táng tại Ứng Lăng.
Vua Bảo Đại (Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy) tại vị từ năm 1926
đến 1945.
10/10/2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét