Cố đô Huế - Nơi hội tụ tinh hoa
văn hóa Việt
Nhắc đến Huế là người ta liên tưởng ngay tới cố đô Huế
nghiêng mình bên dòng sông Hương hiền hòa, núi Ngự, chùa Thiên Mụ… vẻ đẹp huyền
ảo mộng mơ.
Cầu Tràng Tiền (Ảnh: Internet)
Trong thời kỳ phát triển của Văn Lang - Âu Lạc, tương truyền
Thừa Thiên Huế vốn là một vùng đất của bộ tộc Việt Thường. Trong thời kỳ nước
Nam Việt, Huế lại thuộc về Tượng Quận. Năm 116 TCN, quận Nhật Nam ra đời thay
thế cho Tượng Quận. Thời kỳ Bắc thuộc, trong suốt thời gian dài gần 12 thế kỷ,
vùng đất này là địa đầu phía Bắc của Vương quốc Chămpa.
Sau chiến thắng Bạch Ðằng lịch sử của Ngô Quyền (năm 938), Ðại
Việt trở thành quốc gia độc lập và qua nhiều thế kỷ phát triển, biên giới Ðại
Việt đã mở rộng dần về phía Nam. Thừa Thiên Huế trở thành địa bàn giao thoa giữa
hai nền văn hóa của phương Ðông.
Kinh Thành Huế (Ảnh: Internet)
Nằm giữa lòng Huế, bên bờ Bắc của con sông Hương chảy xuyên từ
Tây sang Đông, hệ thống kiến trúc kinh thành vẫn đang sừng sững trước bao
biến động của thời gian. Đó là Kinh Thành, Hoàng Thành, Tử cấm Thành, ba tòa
thành lồng vào nhau được thiết kế theo một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt
Bắc. Hệ thống thành quách ở đây là một mẫu mực của sự kết hợp hài hòa nhuần
nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc phương Đông và phương Tây. Nơi đây còn có một
khung cảnh thiên nhiên kỳ thú với nhiều yếu tố tự nhiên kết hợp hài hòa đến mức
người ta mặc nhiên xem đó là những bộ phận của Kinh thành Huế: núi Ngự Bình,
dòng Hương Giang, cồn Giã Viên, cồn Bộc Thanh…
Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản
văn hóa vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ
và tâm hồn của dân tộc Việt.
Kinh Thành Huế tập hợp những kiến trúc như, Kỳ Đài, Trường
Quốc Tử Giám, Điện Long An, Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, Đình Phú Xuân, Hồ
Tịnh Tâm, Tàng thư lâu, Viện Cơ Mật - Tam Tòa, Đàn Xã Tắc, Cửu vị thần công.
Kinh thành Huế được vua Gia Long tiến hành khảo sát từ năm
1803, khởi công xây dựng từ 1805 và hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều vua Minh
Mạng. Kinh thành Huế được xây dựng theo kiến trúc Vauban, quy hoạch bên bờ Bắc
sông Hương, xoay mặt về hướng Nam, với diện tích mặt bằng 520 ha.
Bên Trong Kinh thành Huế là Hoàng Thành, gồm Ngọ
Môn, Điện Thái Hòa và sân Đại Triều Nghi, Triệu Tổ Miếu, Hưng Tổ Miếu, Thế Tổ
Miếu, Thái Tổ Miếu, Cung Diên Thọ, Cung Trường Sanh, Hiển Lâm Các, Cửu Đỉnh, Điện
Phụng Tiên.
Hoàng Thành gồm một bộ hệ thống cung điện với khoảng 147 công
trình, có mặt bằng gần vuông, mỗi bề khoảng 600m, xây bằng gạch, cao 4m, dày
1m, xung quanh có hào bảo vệ, có 4 cửa để ra vào: Cửa chính phía Nam là Ngọ
Môn, phía Đông có cửa Hiển Nhơn, phía Tây có cửa Chương Đức, phía Bắc có cửa
Hòa Bình. Các cầu và hồ được đào chung quanh phía ngoài thành đều có tên Kim Thủy.
Bên trong Hoàng Thành là Tử Cấm thành, gồm Tả Vu và
Hữu Vu, Vạc đồng, Điện Kiến Trung, Điện Cần Chánh, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường.
Tử Cấm thành là trung tâm sinh hoạt hằng ngày của vua và
hoàng gia triều Nguyễn. Bố cục mặt bằng của hệ thống kiến trúc chặt chẽ và đăng
đối. Các công trình đều đối xứng từng cặp qua trục chính (từ Ngọ Môn đến lầu Tứ
Phương Vô Sự) và ở những vị trí tiền, hậu; thượng, hạ; tả, hữu; luôn nhất
quán (tả văn hữu võ, tả nam hữu nữ, tả chiêu hữu mục). Con số 9 và 5 được
sử dụng nhiều trong kiến trúc vì theo Dịch lý, con số ấy ứng với mạng thiên tử.
Xuyên suốt cả ba tòa thành, khi thì lát đá cụ thể, khi thì
mang tính ước lệ, con đường chạy từ bờ sông Hương mang trên mình những công
trình kiến trúc trọng yếu của Kinh thành Huế: Nghinh Lương Đình, Phu Văn
Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, điện Càn Thành, cung Khôn
Thái, lầu Kiến Trung… Hai bên đường này là hàng trăm công trình kiến trúc lớn
nhỏ bố trí cân đối đều đặn, đan xen cây cỏ, chập chờn khi ẩn khi hiện giữa những
sắc màu thiên nhiên.
Bên cạnh thành quách cung điện lăng tẩm nguy nga tráng lệ, Huế
còn lưu giữ trong lòng nhiều công trình kiến trúc độc đáo. Song song với
Kinh thành vững chãi bảo vệ bốn mặt, Trấn Bình Đài án ngữ đường sông, Trấn Hải
Thành trấn giữ mặt biển, Hải Vân Quan phòng ngự đường bộ phía Nam, Đan xen giữa
các khu vực kiến trúc độc đáo ấy, còn có đàn Nam Giao - nơi vua tế trời; đàn Xã
Tắc - nơi thờ Thần đất, Thần lúa; Văn Miếu - nơi thờ Khổng Tử và dựng bia
khắc tên Tiến sĩ thời Nguyễn.
Huế từng hiện hữu những khu vườn ngự danh tiếng như Ngự Viên,
Thư Quang, Thường Mậu, Trường Ninh, Thiệu Phương… Chính phong cách kiến trúc vườn
ở đây cũng lan tỏa khắp nơi trong dân gian, phối hợp với những nhân tố sẵn có,
dần dần định hình một kiểu thức nhà vườn đặc thù của xứ Huế. Đây là thành phố của
những khu nhà vườn với những ngôi nhà cổ ẩn hiện giữa xóm phường bình yên trong
lòng cố đô.
Sông Hương (Ảnh: Internet)
Sông Hương hay Hương Giang có hai nguồn chính đều từ dãy
núi Trường Sơn. Dòng chính của Tả Trạch dài khoảng 67 km, bắt nguồn từ dãy Trường
Sơn Đông, ven khu vực vườn quốc gia Bạch Mã chảy theo hướng Tây Bắc với 55
thác nước hùng vĩ, qua thị trấn Nam Đông rồi sau đó hợp lưu với dòng Hữu Trạch
tại ngã ba Bằng Lãng (khoảng 3 km về phía Bắc khu vực lăng Minh Mạng). Hữu Trạch
dài khoảng 60 km là nhánh phụ, chảy theo hướng bắc, qua 14 thác và vượt qua phà
Tuần để tới ngã ba Bằng Lãng, nơi hai dòng này gặp nhau và tạo nên sông Hương.
Con sông chảy chậm qua các làng mạc như Kim Long, Nguyệt Biều,
Vỹ Dạ, Đông Ba, Gia Hội, chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh. Nó từng là nguồn cảm xúc
của du khách khi họ đi thuyền dọc theo dòng sông để nhìn ngắm phong cảnh và lắng
nghe những điệu hò Huế truyền thống. Các công trình kiến trúc hai bên bờ sông gồm
thành quách, thị tứ, vườn tược, chùa chiền, tháp và đền đài… Ánh phản chiếu của
chúng trên dòng nước khiến con sông mang theo nhiều chất thơ và chất nhạc, sự
thanh bình, thanh lịch và một vẻ đẹp huyền diệu.
Núi Ngự (Ảnh: Internet)
Núi Ngự Bình gọi ngắn gọn là núi Ngự. Sông Hương và
núi Ngự hòa quyện vào nhau tạo nên vẻ sơn thủy hữu tình của Huế, và đã trở thành
biểu tượng của thiên nhiên Huế từ rất lâu. Vì vậy, người ta quen gọi Huế là xứ
sở của “sông Hương - núi Ngự”
Văn hóa và tín ngưỡng
Chùa Thiên Mụ hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi
chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế
khoảng 5 km về phía Tây. Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm
Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa
thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho
dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược
lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn
khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên
là đồi Hà Khê.
Chùa Thiên Mụ (Ảnh: Internet)
Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một
bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: “Rồi đây
sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước
Nam hùng mạnh”. Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ.
Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa cổ kính, an lạc giữa những
núi rừng hoang vu u tịch. Nền tảng giáo dục của triều Nguyễn là nho Giáo và nơi
đây từng là thủ phủ của Phật giáo, nên Huế cũng mang một nét văn hóa tâm linh
và triết lý nhân sinh rất sâu sắc.
Nhã nhạc cung đình Huế là một loại hình nghệ thuật đặc sắc còn
được lưu giữ tại kinh đô cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam.
Đời Tự Đức, âm nhạc cổ điển, nhã nhạc cung đình và hát bội
cung đình đạt tới đỉnh cao. Tương truyền chính vua Tự Đức đã sáng tác bản nhạc
Tứ đại cảnh nổi tiếng. Say mê thơ, nhạc và hát bội hơn chính trị, vua lập nên
Hiệu thơ phòng để cùng các danh nho trong triều đình xướng họa thơ văn, thưởng
thức âm nhạc, sáng tác hay nhuận sắc các vở hát bội.
Nhã nhạc cung đình Huế (Ảnh: Internet)
Sử sách của triều Nguyễn ghi lại có đến 12 cuộc lễ cung đình,
mỗi cuộc lễ đều có ghi đầy đủ các bài ca chương. Có tổng cộng 126 bài ca chương
ghi đầy đủ lời ca nguyên gốc và bản dịch. Phần nhạc khí được quy định gồm 6 loại
dàn nhạc. Đó là các dàn: Nhã nhạc, Nhạc huyền (bộ nhạc treo), Đại nhạc (Cổ xuý
đại nhạc), Tiểu nhạc (ti trúc tế nhạc), Ty chung và Ty khánh (dàn nhạc chuông
và khánh đá), Quân nhạc (đội bả lệnh). Các dàn nhạc trên đều có các nhạc khí cụ
thể và không dưới 30 chủng loại với số lượng trên hàng trăm nhạc khí. Ví dụ
riêng dàn Đại nhạc có đến 42 nhạc cụ của 4 chủng loại nhạc khí của 2 bộ gõ và
hơi. Riêng bộ gõ thuộc về loại màng rung có 20 trống.
Âm nhạc đã trở thành đại lễ, trở thành tiếng nói huyền diệu,
có khả năng giao cảm với trời đất, thần linh, tổ tiên. Đó cũng chính là những
giá trị vô giá và trường tồn của dân tộc. Nhã nhạc Huế, di sản văn hoá âm nhạc
“cổ điển bác học Việt Nam”, ẩn chứa những nguyên lý cấu trúc của âm nhạc, cùng
những tư tưởng văn hoá triết lý phương Đông.
Bánh Trưng Nhật Lệ (Ảnh: Internet)
Bánh chưng Nhật Lệ Đây là món ăn nổi tiếng ở Huế và có
xuất xứ từ con phố Nhật Lệ trong thành Nội, nơi tập trung hàng chục lò làm
bánh. Bánh thơm dẻo, ăn rất khoái khẩu do sự kết hợp nhuần nhuyễn mùi vị giữa
nhân đậu, thịt mỡ và nạc với gạo nếp và các loại gia vị như tiêu, hành. Người
ăn quen lâu ngày thành nghiện, thành thèm.
Cơm hến ngon nhất chỉ có ở Huế. Cơm hến tuy là món ăn
dân dã có khắp mọi nơi dù ở thôn xóm hay đường quê, nghèo mà vẫn sang, đậm đà
hương vị. Cơm hến được làm từ cơm trắng nấu chín và để nguội. Người ta cho phần
thịt hến cùng các phụ gia, thêm tóp mỡ được chiên giòn. Cơm hến có thêm chút mắm
ruốc Huế vừa bùi, chát, cay và hăng. Được ăn kèm với phụ gia là rau sống gồm
có: rau sống, bắp chuối, giá đỗ và ít thân khoai môn trắng thái nhỏ. Lạc được
rang vàng và phi dầu vàng cho có màu đẹp mắt.
Ông bà ta ngày xưa thường nói nếu ngoài Hà Nội có “36 phố phường”
thì Huế cũng có “36 thứ chè”. Không ai biết chè hẻm có ở Huế từ bao
giờ mà chỉ biết gọi là thế, bởi nó thường nằm sâu trong các ngõ ngách với rất
nhiều loại chè khác nhau. Mỗi loại chè có một hương vị riêng, ngon bổ, tinh tế
và cầu kỳ như chính con người nơi đây. Chè bắp ngọt mát tinh khiết, vừa thơm vừa
bùi nấu từ bắp ngô non của cồn Hến, chè hạt sen với thứ hương trầm thật lạ của
giống sen hồ Tịnh Tâm - loại sen “tiến vua”. Lại còn chè nhãn bọc hạt sen ngọt
thanh, thơm bùi và nhiều loại chè như chè hạt lựu, chè trôi nước, chè khoai sọ,
chè bột lọc…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét