Thơ mới Việt Nam 1930-1945 là kết quả của
sự bùng nổ cái tôi
cá nhân và sự bùng nổ của ngôn từ
1. Lý do chọn đề tài:
Văn học
Việt Nam 1930-1945 là một chặng đường phát triển rực rỡ đẩy nhanh tốc độ hiện đại
hóa nền văn học dân tộc. Đây cũng là chặng đường gắn liền với bước phát triển mới
của thơ ca Việt Nam dưới tên gọi phong trào Thơ mới.
Phong trào thơ mới 1930-1945 là một hiện tượng văn học
phong phú nhưng khá phức tạp. Xung quanh vấn đề này các nhà phê bình nghiên cứu
văn học vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất. Nhưng một điều phải thừa nhận răng
Thơ mới đã làm nên “một thời đại trong thi ca”, một sự cách tân văn học diễn ra
vô cùng gay gắt và quyết liệt. Chưa bao giờ không khí thi ca lại ồn ào và giàu
sức sống như thế. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã khẳng định: “Tôi quyết rằng
trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại
này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như
Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn
Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”. Biết bao nhiêu vì tinh
tú đã xuất hiện trên thi đàn. Mỗi vì tinh tú có một vị trí riêng, một ánh sáng
riêng nhưng nó đã góp phần tạo nên một bầu trời thi ca lung linh đầy màu sắc.
Thế giới ngôn từ văn học chưa bao giờ lại phong phú đa sắc, đa thanh như thế.
Thế giới tâm hồn của người thi sĩ cũng chưa bao giờ đa tình đa cảm đến như vậy.
Chỉ có thể nói rằng Thơ mới 1930-1945 là kết quả của sự bùng nổ cái tôi
cá nhân và sự bùng nổ của ngôn từ.
Tiếp cận
Thơ mới từ phương diện sự bùng nổ cái tôi cá nhân và sự bùng nổ ngôn từ chính
là chìa khóa mở cánh cửa phong trào thơ độc đáo này nhằm tìm hiểu sự hiện đại
hóa nền thi ca Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX diễn ra như thế nào. Đó cũng
chính là lý do người viết chọn đề tài này để trình bày.
2. Phạm vi đề tài:
Thơ mới
với một số nhà thơ tiêu biểu như: Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc
Tử, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương…
B. PHẦN NỘI DUNG
1. Vài
nét vắn tắt về Thơ Mới
Khái
niệm Thơ mới xuất hiện lần đầu tiên từ khi nào?. Theo Hoài Thanh trong bài viết
“Một thời đại trong thi ca” thì ông cho rằng người đầu tiên dùng khái niệm Thơ
mới là Phan Khôi với bài “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” đăng trên
tờ Phụ nữ tân văn số 122 ngày 10 tháng 3 năm 1932. Phan Khôi đã bày ra một
lối thơ “đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vần mà không
bó buộc bởi niêm luật gì hết” và tạm mệnh danh là Thơ Mới. Bài thơ “Tình già” của
Phan Khôi ra mắt bạn đọc như một ví dụ về sự mở đầu cho Thơ mới. Và người
hưởng ứng đầu tiên là Lưu Trọng Lư, rồi đến Thanh Tâm, Nguyễn Thị Kiêm, Hồ Văn
Hảo… Phong trào Thơ mới khai sinh từ mảnh đất Nam Bộ và dần dần Bắc tiến tạo
nên một hiện tượng thơ có sức lan tỏa mạnh mẽ.
Theo
cách hiểu này của Hoài Thanh, chúng ta thấy rằng khái niệm Thơ mới ra đời được
đặt trong vị thế so sánh với thi pháp của Thơ cũ - thơ ca cổ điển, thơ ca trung
đại Việt Nam. Thi pháp trung đại gần mười thế kỷ đã tạo nên những quy định chặt
chẽ về nghệ thuật thi ca trong đó có ba đặc điểm quan trọng nhất: mang tính
sùng cổ, mang tính ước lệ quy phạm, mang tính phi ngã. Thi pháp Thơ mới đã chủ
trương phá vỡ những khuôn khổ mang tính khuôn mẫu đó với ba đặc điểm mang tính
đối lập với thi pháp trung đại: mang tính hiện thực sâu sắc, phát huy cá tính
sáng tạo của nhà thơ, chủ trương đề cao cái tôi cá nhân. Đó chính là cái mới của
Thơ mới.
Chủ thể
của Thơ mới không phải là gia cấp quý tộc phong kiến suy tàn mà là tầng lớp trí
thức Tây học, đó là tầng lớp tiểu tư sản trí thức và viên chức thành thị.
Có thể coi đây là những lớp người công dân mới hệ quả của xã hội thực dân phong
kiến. Họ sinh ra trong một đời sống xã hội mới mà ở đó những giá trị văn hóa
phương Tây đang phát triển mạnh mẽ và có khi lấn át cái văn hóa phương Đông bao
đời nay. Xã hội đó đang tạo ra những cơ hội để phát huy quyền dân chủ, tính cá
nhân của mỗi người. Vì thế, những con người này khá quyết liệt trong trận chiến
đi từ thành trì thơ cũ sang mảnh đất thơ mới đầy màu mỡ và hứa hẹn những
mùa hoa rực rỡ sắc màu. Cũng trên mảnh đất màu mỡ đó, cái tôi cá nhân và vẻ đẹp
ngôn từ thi ca đã có dịp đơm hoa kết trái muôn sắc muôn hương.
2. Thơ
mới - sự bùng nổ của cái tôi cá nhân:
Hiểu
như thế nào là cái tôi cá nhân? Có thể nói cái tôi cá nhân là sự đề cao bản ngã
cá nhân. Con người được nói đến ở đây là con người cụ thể với những tình cảm,
những khát vọng, những quan điểm riêng về cuộc sống. Đối lập với cái tôi là cái
ta - con người được nhìn nhận với tư cách là thành viên của một tập thể, một cộng
đồng, không được nhìn nhận với tư cách con người cá nhân. Nền văn học trong
khuôn khổ của ý thức hệ phong kiến chủ yếu là nền văn học phi ngã, phủ định cái
tôi. Những hiện tượng đề cao cái tôi, cái bản ngã như Hồ Xuân Hương, Cao
Bá Quát thì không được chấp nhận. “Thơ mới lãng mạn ra đời cũng mang theo
một cái tôi cá nhân, một cái tôi cá thể hóa trong cảm thụ thẩm mỹ” (GS.Phan Cự
Đệ). Cái tôi cá nhân ở chừng mực nào đó đã nói lên được một nhu cầu lớn về mặt
giải phóng tình cảm, phát huy bản ngã, tự do cá nhân. Nó làm cho thế giới tâm hồn
ngày càn g mở rộng và phong phú hơn lên.
2.1.
Cái tôi cá nhân với nhu cầu giải phóng tình cảm, phát huy bản ngã, tự do cá
nhân.
Nếu
thơ ca trung đại gắn với hình ảnh con người phi ngã, con người trở thành phát
ngôn của đạo lý, của tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức… thì con người trong
thơ mới đã mở ra một thế giới nội tâm vô cùng phong phú với những cung bậc
tình cảm, những khát vọng, những đắm say và có cả những buồn đau hạnh phúc.
Đó có
thể là niềm khao khát được sống một cách mạnh mẽ của cái Tôi cá nhân trong thơ
Huy Thông, Xuân Diệu… Cái Tôi tự do của Xuân Diệu như một con “ngựa trẻ không
cương” cứ xông vào cuộc đời với những niềm hưng phấn, xúc cảm mãnh liệt. Nhà
thơ kêu gọi tuổi trẻ phải sống mạnh mẽ, sống có bản lĩnh, hãy hưởng thụ cuộc sống
trần gian đầy sắc hương hơn là giam mình trong cảnh sống im lìm, tẻ nhạt đầy vô
vị:
“Thà một
phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn
hơn buồn le lói suốt trăm năm
Em vui
đi răng nở ánh trăng rằm
Anh
hút nhụy của mỗi giờ tình tự”
(Giục giã)
Đó có
thể là cái tôi cá nhân tự do cuả Nguyễn Bính chính là sự rượt đuổi, kiếm
tìm bằng một cốt cách đa tình, một đam mê không bờ bến trên hành trình kiếm tìm
hạnh phúc.
“Chiều
nay… thương nhớ nhất chiều nay
Thoáng
bóng em trong cốc rượu đầy
Tôi uống
cả em và uống cả
Một trời
quan tái mấy cho say”
(Một trời quan tái)
Đó có
thể là cái Tôi cá nhân của chàng Thế Lữ khao khát tự do, vẫy vùng
giữa cảnh “núi non hùng vĩ”, thoát khỏi cảnh tù hãm sa cơ như tâm sự con hổ
trong vườn bách thú;
“Có biết
chăng trong những ngày ngao ngán
Ta
đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn
ta được phảng phất gần ngươi
- Hỡi cảnh
rừng ghê gớm của ta ơi!”
(Nhớ rừng)
Và chỉ
có trong Thơ mới là nói đến tình yêu. Và chỉ có trong tình yêu, cái Tôi cá nhân
mới được thể hiện một cách triệt để nhất. Thơ xưa không bao giờ nói đến tình
yêu nam nữ nên bước chân nàng Kiều “Xăm xăm băng lối vườn khuya” trở thành hiện
tượng độc đáo đầy mai mỉa thì tình yêu trong Thơ mới chính là sự giải thoát
khát vọng hạnh phúc đầy nhân văn của con người. Những từ “anh”, “em” mang đầy
giá trị về cái Tôi cá nhân xuất hiện rất nhiều trong Thơ mới. Tình yêu là đề
tài chủ yếu mà các nhà thơ mới ai cũng bước chân vào và khám phá nó với nhiều
cung bậc cả buồn đau lẫn hạnh phúc:
Những
lưu luyến, bâng khuâng của buổi đầu gặp gỡ:
“Buổi ấy
lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu
rung động nỗi thương yêu”
(Xuân Diệu)
Sự say
đắm, dào dạt trong tình yêu:
“Anh
nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ
em, anh nhớ lắm! Em ơi!”
(Xuân Diệu)
Sự
chán chường, thất vọng:
“Lòng anh như biển sóng cồn
Chứa
muôn con nước nghìn con sóng dài
Lòng em như chiếc lá khoai
Đổ bao
nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu”
(Nguyễn Bính)
2.2 Cái tôi cá nhân và những con đường thoát ly trong
Thơ mới:
Chủ thể
của Thơ mới là những nhà trí thức Tây học đang hàng ngày, hàng giờ đòi hỏi thể
hiện mình, khẳng định mình như một cá nhân. Cùng với sự tiếp xúc và ảnh hưởng
sâu sắc của văn học phương Tây đặc biệt là thơ lãng mạn Pháp, Thơ mới đã tạo
nên những nét riêng và cá tính, phong cách sáng tạo của từng nhà thơ. Với những
khát vọng được sống hết với những giá trị tốt đẹp của con người nhưng các nhà
thơ mới lại phải đối diện với cuộc sống kim tiền đầy ô trọc của xã hội thực
dân, các nhà Thơ mới nhanh chóng rơi vào trạng thái cô đơn, bơ vơ, không lối
thoát. Tuy nhiên trong tiềm thức của họ vần âm thầm chảy mãi dòng suối văn hóa
Việt và tâm hồn dân tộc. Bế tắc trước cuộc sống, họ tìm đến những con đường
thoát ly trong thơ mới. Cái tôi cá nhân được phân hóa ra làm nhiều kiểu, họ góp
phần làm dấy lên một cuộc cách mạng trong văn chương và coi đó như là nơi tốt
nhất để thực hiện khát vọng, giá trị riêng, coi văn chương “như một tiếng thở
dài chống chế độ thuộc địa” (Trường Chinh). Nhìn chung, có những con đường
thoát ly sau trong Thơ mới:
Trốn
vào tình yêu là con đường phổ biến nhất của thơ ca lãng mạn đương thời mà tiêu
biểu là Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử… các nhà thơ trốn vào tình yêu
nhưng vẫn mang theo cái Tôi mong manh, đầy bất trắc:
Hãy xếp lại muôn vàn ân ái
Đừng trách nhau, đừng ái ngại nhau
Thuyền yêu không ghé bến sầu
Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng…
(Lưu Trọng Lư)
Trốn
vào quá khứ là con đường tìm về với những vẻ đẹp cổ xưa của văn hóa dân tộc mà
tiêu biểu là Vũ Đình Liên, Huy Cận… Các nhà thơ tìm về với quá khứ như một sự
chạy trốn khỏi hiện tại ngột ngạt nhưng rồi vẫn không dứt khỏi một cái Tôi cá
nhân mang nặng nỗi ưu tư, ngơ ngác:
Lòng ta là những hàng thành quách cũ
Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa
(Vũ Đình Liên)
Trốn
vào thế giới siêu hình của tôn giáo, trốn vào trụy lạc với những cơn say của rượu
và khói thuốc phiện như trong thơ Vũ Hoàng Chương và điên loạn như trong thơ
Hàn Mặc Tử, Bích Khê… nhưng vẫn hoài ám ảnh bởi cái Tôi cá nhân đầy sầu muộn,
cô dơn:
“Say đi em! Say đi em!
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho
cung bực ngả nghiêng, điên rồ xác thịt
Rượu,
rượu nữa và quên, quên hết!…
Nhưng
em ơi
Đất trời
nghiêng ngửa
Mà trước
mắt thành sầu chưa sụp đổ
Đất trời
nghiêng ngửa
Thành
sầu không sụp đổ, em ơi!”
(Vũ Hoàng Chương)
Cái
Tôi trong thơ mới trốn vào nhiều nẻo, có nhiều màu sắc phức tạp khác nhau nhưng
ở đâu nó cũng buồn và cô đơn. Không có lối thoát, không có tương lai, chỉ thấy
đất trời tối tăm mù mịt, đó là cái buồn, cái cô đơn ngay trong bản chất từ khi
thơ mới cất tiếng chào đời. Hoài Thanh đã nhận xét: “Đời chúng ta nằm trong
vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta
thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư,
ta điên cuồng với hàn mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động
tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta
ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận… Thực chưa bao giờ thơ Việt nam buồn
và xôn xao đến thế.”
2.3. Cái tôi cá nhân và sự thay đổi về hệ thống thi pháp.
Thơ mới
với sự xuất hiện của cái tôi cá nhân đã mang theo nhiều khát vọng cá nhân và đi
theo đó là nhu ccaafu đổi mới về thi pháp và tư duy thơ, cho sự sáng tạo những
hình thức biểu hiện phong phú mang sắc thái độc đáo của phong cách cá nhân.
Giáo sư Hồ Thế Hà đã quan niệm “Thơ Mới đã thực sự làm một cuộc cách mạng
trong thi ca. Họ quan niệm về con người, về không gian, thời gian cũng
như những mối tương quan khác với môi trường, thiên nhiên hoàn toàn khác trước
và thể hiện cách nhìn ấy vào từng tác phẩm một cách thành công”.
Thứ nhất,
về quan niệm con người, cái Tôi cá nhân đã nhìn nhận con ngươi ở một vị thế
khác hẳn với con người trong văn học trung đại. văn học trung đại phủ nhận con
người cá nhân và đề cao con người cộng đồng, con người công dân. Con người phải
khuất phục bởi “mệnh trời”, bởi ý vua, con người phải nép mình vào thiên nhiên,
phải phục tùng đạo đức. Con người trong Thơ mới được đặt ở vị trí là trung tâm
của những mối quan hệ. Thơ mới đề cao giá trị bản ngã, cái nhìn lãng mạn đã đưa
con người ngang tầm vũ trụ thậm chí cao hơn cả vũ trụ:
“Ta là một, là riêng, là thứ nhất
Không có ai bè bạn nổi cùng ta”
(Xuân Diệu)
“Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp có muôn hình, muôn thể
Mượn cây bút nàng Ly tao tôi vẽ
Và mượn cây đàn ngàn phím tôi ca”
(Thế Lữ)
Thứ
hai, cảm thức về thời gian trong thơ mới cũng là một nét độc đáo. Thơ mới luôn
nhìn đời bằng con mắt thời gian. Thời gian trong Thơ mới luôn gắn liền với tâm
trạng. Với Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư… thời gian hiện tại luôn gắn liền với nhịp sống
hối hả, vội vàng , gấp gáp:
“Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi, tình non sắp già rồi…”
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”
(Xuân Diệu)
Còn thời
gian quá khứ thì thường gắn với sự tiếc nuối vì những gì đẹp đẽ đã vội đi qua:
“Ai hay trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
Với cả hoa tươi muôn cánh rữa
Về đây đem chắn nẻo xuân sang”
(Chế Lan Viên)
Thứ
ba, cảm nhận về không gian nghệ thuật trong Thơ mới cũng là bước đột phá mới mẻ
so với thơ cũ. Nếu thiên nhiên trong thơ xưa là tiêu chuẩn của cái đẹp, là thước
đo vẻ đẹp con người thì đến Thơ Mới, cách nhìn nhận ấy không còn nguyên vẹn nữa.
Thiên nhiên, vũ trụ được đánh giá theo cái nhìn trạng thái cảm xúc của
con người. Độ cao rộng, mênh mông của thiên nhiên bây giờ được cảm nhận thông
qua không gian ngập tràn nỗi cô đơn của Huy Cận:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
(Huy Cận)
“Sương nương theo trăng ngừng lên trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi…”
Không
gian được cảm nhận bằng sự cảm nhận tinh tế của các giác quan và đặc biệt là
xúc cảm:
"Không gian như có dây tơ
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu
Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều
Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn”
(Xuân Diệu)
Và có
khi, không gian nghệ thuật trong Thơ mới còn được cảm nhận ở chiều sâu của
không gian văn hóa, tập trung tất cả vẻ đẹp của truyền thống gắn với khát vọng
của cá nhân:
“Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u
cùng với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương
đồng gió nội bay đi ít nhiều”
(Nguyễn Bính)
Có thể
nói, cái Tôi cá nhân là một cuộc giải phóng vĩ đại trong thi ca Việt Nam. Từ
đây, thơ Việt Nam bước vào một thời kỳ mới phát triển rực rỡ với những phong cách
thơ độc đáo, mỗi người mỗi vẻ làm nên “một thời đại trong thi ca”.
3. Thơ
mới - sự bùng nổ của ngôn từ.
Một biểu
hiện khá rõ rệt của tinh thần dân tộc trong Thơ mới là lòng yêu thương Tiếng Việt.
Mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học phương Tây đặc biệt làvăn học Pháp
nhưng Thơ mới vẫn giữ gìn và không ngừng phát huy vẻ đẹp của tiếng nói dân tộc
trong sự bùng nổ của ngôn từ. trong những năm dài nô lệ, tiếng Việt không những
không bị thoái hóa, lai căng mà lại càng trở nên trong sáng và giàu có hơn. Sự
bùng nổ ngôn từ trong Thơ mới chính là sự tiếp thu tinh hoa nền thi ca nhân loại
dựa trên phương tiện ngôn ngữ tiếng Việt để tạo nên những nét độc đáo trong
thơ.
3.1
Thơ Mới chống lại các quy luật gò bó của thơ cũ đã tỏ ra lỗi thời.
Hệ thống
thi pháp của văn học trung đại mang nặng tính quy ước, khuôn khổ về âm thanh,
nhịp điệu, thể loại.Điều này vẫn còn ảnh hưởng trong các thế hệ nhà thơ đầu
tiên của thế kỷ XX như Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu người mà Hoài Thanh đánh giá là
“đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kì đang sắp sửa”, nhưng
đến thế hệ của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan
Viên,… thì Thơ mới đã phá vỡ cái hàng rào thi pháp cũ kỹ đó để xây nên nền thi
ca mới bằng những viên gạch mới.
Trước
hết, về âm thanh, Thơ mới thể hiện nhiều kiểu dạng âm thanh khác nhau, với sự
phong phú về giai điệu gợi nên những tâm trạng giàu cảm xúc:
“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”
(Hàn Mặc Tử)
Âm
thanh đọng lại trong từng tiếng thơ, độ ngân rung “vắt vẻo” hòa nhịp với âm trầm
“hổn hển” thể hiện sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế. Các từ láy “vắt vẻo”,
“hổn hển”, “thầm thĩ” là ba cung bậc của âm thanh mùa xuân đang chín, thấm sâu
vào hồn người đến nhẹ nhàng lắng dịu, chan chứa thương yêu.
Âm
thanh trong thơ mới chính là sự kết hợp rất tự do, thoải mái giữa các vần bằng,
vần trắc kết hợp những từ láy tượng thanh, độ dài của câu thơ tạo nên
nhưng âm thanh sống động vô cùng như “tiếng trúc tuyệt vời” của Thế Lữ:
“Tiếng địch thổi đâu đây
Cớ sao mà réo rắt?
Lơ
lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt
Mây bay… gió quyến mây bay,,,
Tiếng vi vút như khuyên van, như dìu dặt,
Như hắt hiu cùng với gió heo may.”
(Thế Lữ”)
Về nhịp
điệu có thể nói Thơ mới rất giàu nhịp điệu và dường như có tính nhạc trong thơ
nữa. Đó chính là nhịp điệu ngân vang, sáng trong trong thơ Nguyễn Nhược
Pháp: “Hôm nay đi chùa Hương/ Hoa cỏ mờ hơi sương/ Cùng thầy me em dậy/ Em vấn
đầu soi gương…”; nhịp điệu hối hả, gấp gáp trong thơ Xuân Diệu - nhà thơ thời
gian trong tình yêu nồng cháy: “mau với chứ/ vội vàng lên với chứ!/ - Em/ em
ơi/ tình non đã già rồi…”; những âm thanh có độ ngân dài cùng nhịp điệu biến đổi
linh hoạt trong thơ Phạm Huy Thông: “Vừng hồng tắm nắng chân mây xa/… Anh Nga!
/Anh Nga!/ Dưới ánh trăng tà…”; những nhịp sóng đôi, nghẹn ngào, ngập ngừng nhớ
về quá khứ trong thơ Vũ Đình Liên: “Giấy đỏ/ buồn/ không thắm - Mực đọng/ trong/ nghiên
sầu’ và đặc biệt là tiếng nhạc trong thơ Lưu trọng Lư. Đó là cái đẹp của cấu
trúc ngôn từ thơ, cái đẹp của sự hài hòa âm thanh, màu sắc, của cấu trúc sóng
đôi… tất cả tạo nên bản nhạc mơ hồ, rung động và đầy bí ẩn như một huyền thoại:
“Em không nghe / mùa thu
Lá thu rơi/ xào xạc
Con nai vàng/ ngơ ngác
Đạp trên lá/ vàng khô”
(Lưu Trọng Lư)
Về
cách phối vần, Thơ mới vô cùng đa dạng và phong phú trong cách phối vần giữa
các dòng thơ và cả giữa các tiếng trong cùng dòng thơ tạo nên sự cách tân mới mẻ
trong nghệ thuật thơ Việt Nam so với luật lệ trong thơ xưa. Thơ xưa đòi hỏi phải
có phối vần thì mới thành thơ nhưng Thơ mới có khi không cần vần mà
chỉ đổi thanh cũng rất thơ vậy:
“Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát”
(Đoàn Phú Tứ)
Sự phối
vần ngay giữa các tiếng trong cùng dòng thơ cũng góp phần biểu đạt dụng ý nghệ
thuật của tác giả và đây cũng là sự cách tân độc đáo:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
- “Ô hay, buồn vương cây ngô đồng
Vàng
rơi, vàng rơi, thu mênh mông”
- “Chị ấy
năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ
sông trắng nắng chang chang”
Về thể loại, phải nói rằng Thơ mới rất đa dạng về thể loại.
Thơ mới tự tạo ra những thể loại mới tuy nhiên không phải là đoạn tuyệt hẳn với
cái cũ mà còn là sự kế thừa và cách tân những tinh hoa của thơ cũ đồng thời
cũng có sự tiếp thu sáng tạo các thể thơ nước ngoài. Thể thơ lục bát cổ truyền
vẫn được sử dụng nhưng có cách tân về khổ thơ:
“Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp dăng màn âm u
Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về…”
(Huy Cận)
Thể thơ 2 chữ, 4 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ… đã hình thành và
có vị trí riêng.
Thể
thơ hai chữ:
“Sương
rơi
Nặng
trĩu
Trên
cành
Dương
liễu…
Nhưng
hơi
Gió bấc
Lạnh
lùng
Hiu hắt
Thấm
vào
Em ơi,
Trong
lòng
Hạt
sương
Thành
một
Vết
thương …”
(Nguyễn Vỹ)
Nhưng
nhìn chung, đa số dùng thể thơ tự do, tôn trọng những thay đổi linh hoạt hơn về
cách hiệp vần.
“Ta quá say rồi
Sắc ngã màu trôi…
Gian
phòng không đứng vững
Có ai
ghì hư ảnh sát kề môi?
Chân rã rời
Quay
cuồng chi được nữa
Gối mỏi gần rơi!
Trong
men cháy giác quan vừa bén lửa
Say không còn biết chi đời.”
(Vũ Hoàng Chương)
3.2
Ngôn ngữ Thơ mới giàu hình tượng và cảm xúc.
Trước
hết, ngôn ngữ trong Thơ mới cũng có sự kế thừa những hình ảnh quen thuộc trong
thơ ca xưa hay từ văn học dân gian. Từ câu ca dao:
“Em như cây quế giữa rừng
Thơm cay ai biết, ngát lừng ai hay”
đã được
tiếp thu một cách nhuần nhị trong những câu thơ rất mới của Xuân Diệu ở bài “Gửi
hương cho gió”:
“Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm
Đem gửi hương cho gió phũ phàng
Hết một đời thơm trong kẻ núi
Không người du tử đến nhầm hangắng
Hay cảnh chiều xuân trong thơ nữ sĩ Anh Thơ cũng có nét tương đồng với “Bến đò
xuân đầu trại” của Nguyễn Trãi:
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”
Bên cạnh
đó, ngôn ngữ trong Thơ mới cũng có những sự kết hợp mới mẻ, táo bạo làm giàu
thêm khả năng biểu cảm của vốn từ tiếng Việt:
“Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người”
Các
tác giả Thơ mới thay nhau khai thác các cấu trúc có nhiều tính từ, từ láy, các
biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ … làm nên sự phong phú và đẹp
tuyệt vời những hình ảnh đầy tính gợi hình gợi cảm trong thơ:
“Trong khóm vi vu rào rạt mãi,
Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?
Ô kìa! Bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.”
(Hàn Mặc Tử)
“Ô hay, tôi lại nhớ thu rồi…
Mùa thu rớm máu rơi từng chút
Trong lá bàng thu đỏ ngập trời.
Đường về thu trước xa lăm lắm,
Mà kẻ đi về chỉ một tôi!”
(Chế Lan Viên)
Một
trong những nét sáng tạo trong cách dùng từ của các nhà Thơ mới là sự tiếp thu
chủ nghĩa tượng trưng trong thơ Pháp. Đó chính là sự tương hợp giữa hương thơm,
màu sắc và âm thanh, hay biểu hiện cảm giác thiên về sự cảm nhận đa giác quan.
Xuân Diệu viết:
“Sống toàn tâm, toàn trí, toàn hồn!
Sống toàn thân và thức nhọn giác quan
Và thức cả trong giấc nồng phải ngủ”
“Sống
toàn thân và thức nhọn giác quan”, Xuân Diệu đã tuyên ngôn thơ về lối sống để
nhận thức khám phá, sáng tạo nghệ thuật của thơ mình là sự sắc bén của các giác
quan.
Cảm nhận
sự cô đơn dường như bằng thị giác:
“Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá
Hai
người nhưng chẳng bớt bơ vơ”
Cảm nhận
cái đẹp của mùa xuân lại bằng vị giác:
“Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”
Có thể
nói, “từ ngữ Thơ mới tung hoành, biến hóa, vắt dòng, liên kết, đảo vị, thay thế,
biến ảo vần nhịp, tạo ra những vang động, nối kết giữa Đông Tây, giữa cũ và mới;
giữa truyền thống-cách tân… trên cơ sở ngôn ngữ thơ Việt. Đó là “một cuộc nổi
loạn của ngôn từ” tạo ra vẻ đẹp lộng lẫy của thơ Việt Nam trên hành trình nghệ
thuật đau khổ của nó” (PGS. Hồ Thế Hà).
C. PHẦN KẾT LUẬN
Có thể
nói, Thơ Mới là một hiện tượng lớn nhất nửa đầu thế kỷ và bừng sáng rực rỡ vào
những năm 30 của thế kỷ XX. Với mười lăm năm phát triển, phong trào Thơ mới đã
tạo nên “một thời đại trong thi ca” mà trước đó chưa hề đó. Sự bùng nổ của cái
tôi cá nhân và sự bùng nổ về nghệ thuật ngôn từ có thể coi là những đặc trưng
quan trọng của Thơ Mới. Với những đặc trưng này, Thơ Mới đã góp phần đưa quá
trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc đầu thế kỷ XX đạt được những thành tựu
quan trọng. Thơ Mới xứng đáng tiếp nối dòng chảy bất tận của nền thi ca dân tộc
Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. PGS.TS Hồ Thế Hà - Chuyên đề “Thơ và thơ Việt Nam hiện đại”
2. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu - Văn học Việt Nam (1900-1945),
NXB Giáo dục, 1997
3. Hoài Thanh, Hoài Chân - Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 2000
4. TPVH trong nhà trường - Xuân Diệu, tác phẩm và lời bình, NXB
Văn học, 2011.
4. Tủ sách VH trong nhà trường - Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, Đoàn
Văn Cừ, Anh Thơ, NXB Văn nghệ, TP.HCM, 1998.
5. Nhà văn và TP trong nhà trường - Chế Lan Viên và Huy Cận, NXB Giáo dục, 1999.
5/7/2014
Nguyễn Thị Bích Vân
Theo https://ntbv1979.violet.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét