Đi tìm thời gian đã mất
(Đọc Đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật, hồi ký
GS.NGND Hà Minh Đức năm nay 85 tuổi. Đồng nghiệp
dạy học và văn chương đánh giá ông như một “người làm vườn vĩnh cửu”. Hơn 60
năm tuổi nghề (dạy học, viết văn) ông đã xuất bản 75 tác phẩm gồm đủ các thể loại
(nghiên cứu, lý luận, phê bình, sáng tác).
Lĩnh vực sáng tác đã làm nên một “hiện tượng Hà Minh Đức” (gần
1/3 số tác phẩm thuộc về các thể loại sáng tác ký và thơ). Nếu không nói quá
thì đã có một “Văn sản Hà Minh Đức”. GS Hà Minh Đức vinh sự nhận Giải thưởng
Hồ Chí Minh về Khoa học và Công nghệ, 2010.
Đi tìm thời gian đã mất...
Quả thực không sai khi nói đang có “hội chứng hồi ký” trong
văn hóa đọc của người Việt hôm nay. Độc giả nhiều khi hoang mang về sự thật được
viết ra trong những cuốn sách mà đọc xong thấy ngay thói thường “ta thì trong
người thì đục”. Thật may mắn tôi và nhiều người đã thoát ra được cái sự mắc
mớ, rối ren đó khi đọc xong Đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật. Thiết nghĩ,
cái nhan đề này nếu bỏ ghi chú thể loại thì độc giả khi cầm sách sẽ nghĩ đây là
một cuốn sách phê bình văn chương (vì chúng ta đã quen với một định đề “nghệ
thuật đi tìm cái đẹp trong đời sống, phê bình đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật”).
“Đi tìm thời gian đã mất” (nương theo ánh sáng của cái đẹp), tôi nghĩ, chính là
“cấu tứ” quan trọng của Đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật. Trên con đường
thiên lý dài dằng dặc và khổ ải này, như hồi ký tái hiện, tôi chú ý đến mấy mốc
chính của một đời người: tự tin bước vào đời, hăm hở vào nghề, bước lên đài
vinh quang nghề nghiệp, cuối dặm đường xa đã ngả bóng chiều. Chín chương của hồi
ký (đánh dấu từ I đến IX) đã tái dựng những bước đi hào hứng say mê nhưng đầy tự
tin và thận trọng của một người quyết chí lập nghiệp. Ai cũng có quá khứ, và
không chỉ thế hệ tác giả mà cả thế hệ chúng tôi (sinh những năm năm mươi thế kỷ
trước) đều đói nghèo, lận đận, trầy trật phấn đấu trong một hoàn cảnh đầy những
thử thách khắc nghiệt. Nên chương I (Quê hương thời niên thiếu) đã như là chỉ dấu
cho tôi đọc thích thú tiếp chương II (Ra Hà Nội). Năm 1968, chiến tranh
ác liệt, tôi cũng một mình đi theo người anh rể từ Hà Tĩnh ra Hà Nội học lớp 10
(hệ phổ thông 10 năm lúc đó). Thật nhiều cảnh ngộ và cảm xúc, bây giờ nhớ lại ứa
cả nước mắt. Vì thế khi đọc “Ra Hà Nội” của Hà Minh Đức tôi rất thú vị, vì cái
thưở ban đầu Thủ đô ấy đã găm vào ký ức người viết, nó gây liên tưởng cho người
đọc có tâm cảm như tôi - ra Hà Nội đi học đại học. Bây giờ vào đại học là “chuyện
thường ngày ở huyện”. Nhưng những ngày xa xôi ấy, là một sự kiện trọng đại “Tôi
đi Hà Nội vào buổi sáng ngày 20-10-1954” (lúc ấy tác giả 19 tuổi). Thời bấy giờ
đi bộ là chính. Sau mấy ngày vất vả rồi cũng đến Thủ đô. Bây giờ thí sinh trúng
tuyển đại học, đi từ Thanh Hóa ra Hà Nội chỉ mất 3 giờ đồng hồ trên xe ô tô chất
lượng cao. Sung sướng và tiện nghi đôi khi làm người ta quên đi ý nghĩa của sự
chinh phục hoàn cảnh. Anh thanh niên xứ Thanh có nguyện vọng thi vào Đại học Sư
phạm. Nhưng còn những một tháng rưỡi nữa trường mới mở cửa thi tuyển. Về hay ở?
Đang lúng túng thì gặp anh Chương Thâu, từ Nghệ An ra sớm hơn, cho sáng kiến ở
lại và tìm về vùng ngoại thành (Vĩnh Tuy) trú ngụ, vừa kiếm việc làm thêm (viết
báo nhì nhằng), vừa chờ thời cơ,... Rồi cũng đến ngày nhập trường. Thôi khỏi phải
nói nỗi hân hoan vui mừng của chàng tân sinh viên Hà Minh Đức lúc đó. Đọc
chương II xong tôi nghĩ, đây cũng là “nhập môn” để người trẻ bây giờ biết rằng
trước khi học chữ phải học sống. Chương III (Làm thầy), ghi lại cái hăm hở của
tuổi trẻ nhiệt huyết khi chọn nghề “làm thầy” cho cả cuộc đời mình. Bây giờ
trong cơ chế thị trường, đôi khi xã hội nhìn nghề dạy học qua lăng kính lợi
ích/ lợi nhuận mà ít quan tâm tới ý nghĩa của nghề “trồng người”. Chàng thanh
niên Xứ Thanh tốt nghiệp đại học tháng 7-1957 (chỉ có 2 năm mà vẫn giỏi
giang) và chính thức được giữ lại làm cán bộ giảng dạy của Trường từ tháng
9-1957. Vì sao lại chọn nghề làm thầy ? Có nhiều lý do. Nhưng theo tôi thì, nghề
dạy học hợp với “tạng người” của anh thanh niên xứ Thanh Hà Minh Đức - nghề này
đòi hỏi sự nền nếp, kiên nhẫn, phải có lửa để truyền lửa dẫu biết sẽ thanh bần
về tiền tài, vật chất. Và quan trọng hơn cả là phù hợp với niềm đam mê, sở
thích cá nhân (được sống và làm những việc mình yêu thích, khó lắm thay). Có một
sự kiện (tình tiết) tôi rất quan tâm: Khi vào nghề anh thanh niên xứ Thanh được
thụ giáo một bậc túc nho, một học giả, một nhân cách đặc biệt của xứ Nghệ -
Giáo sư Đặng Thai Mai. Tôi nghĩ đó là hạnh phúc của nhà giáo trẻ Hà Minh Đức.
Không phải ai bước vào nghề cũng có may mắn và thuận lợi như thế. Đó là vạn sự
khởi đầu nan, đầu xuôi đuôi lọt. Dĩ nhiên nội lực là quan trọng. Nhưng thử nghĩ
xem nếu không có cú huých ban đầu này liệu ly nước có tràn nếu thiếu giọt nước
mát lành, quý giá đến như thế? Được Giáo sư Đặng Thai Mai dìu dắt (tiếp sức, tiếp
lửa) nên thầy giáo trẻ Hà Minh Đức sớm trưởng thành. Năm 26 tuổi, Hà Minh Đức
công bố tác phẩm nghiên cứu đầu tay Nam Cao - Nhà văn hiện thực xuất sắc (NXB
Văn học, 1961). Đến nay, nhiều công trình nghiên cứu về Nam Cao đã xuất bản,
nhưng công trình của Hà Minh Đức vẫn có giá trị, ý nghĩa mở đường.
Mốc thứ ba “vinh quang nghề nghiệp” đánh dấu những công thành
danh toại của Hà Minh Đức là từ những Năm 90 của thế kỷ trước (1990 đến năm
2000 ông làm Chủ nhiệm Khoa Báo chí, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, sau này là
Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQGHN). Năm 1995 đến 2003, khi nhận thêm trách nhiệm
Viện trưởng Viện Văn học (bây giờ thuộc Viện HLKHXH Việt Nam) thì uy tín chuyên
môn của GS. Hà Minh Đức đã toàn vẹn. Ông là một nhà khoa học, một nhà hoạt
động xã hội trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Các giải thưởng cao quý mà ông nhận
được (cao nhất là Giải thưởng Hồ Chí Minh về KH&CN, năm 2010) đã xác nhận
con đường đi đến đài vinh quang của một trí thức xã hội chủ nghĩa. Những phần
thưởng cao quý mà ông nhận được, tôi nghĩ, hoàn toàn xứng đáng.
Mốc cuối “đường xa đã ngả bóng về chiều”, thực sự ám gợi
độc giả khi đọc xong hồi ký Đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật. Nghỉ làm việc
ở tuổi 70 (với học hàm GS), nhưng không ngưng nghỉ lao động trí tuệ, nghệ thuật.
Thử tính từ năm 70 tuổi (năm 2005) đến 85 tuổi (năm 2020), GS. Hà Minh Đức
vẫn như con tằm nhả tơ, công bố 37 tác phẩm (gồm các thể loại nghiên cứu/ lý luận/
sáng tác), đúng bằng ½ tổng số tác phẩm của một đời dạy văn và viết văn. Vậy
thì làm gì có “ngả bóng” hay “về chiều”. Trong một bài viết về GS. Hà Minh Đức
gần đây tôi đặt tựa “Cháy đến giọt cuối cùng” là vì thế.
Văn hóa của văn chương...
Hiển nhiên văn hóa là chân đế, căn cốt, nền tảng của đời
sống xã hội, trong đó có văn chương. Thông thường, văn hóa thể hiện qua ba phạm
trù cơ bản: giá trị, bản sắc và ứng xử. Đọc Đi tìm cái đẹp trong nghệ
thuật tôi quan tâm tới phương diện “ứng xử”, xem đó như là nơi thể hiện cốt
cách, tài năng cốt cách văn hóa của tác giả. Trước hết, tôi chú tâm đến cách
tác giả giải quyết mối quan hệ “riêng - chung” của sự viết? Có hẳn chương VIII
với tựa “Ngày tháng của riêng mình”. Có thể nói đây là “góc riêng tư” đáng yêu
nhất của bất kỳ ai. Mỗi người có những nỗi niềm, khao khát, bí mật của riêng
mình. Như thế mới là con người đích thực. Tác giả có những nỗi buồn, đau riêng,
có người biết nhiều, có người biết ít, lại có người không biết. Nhưng điều quan
trọng hơn cả là chủ thể biết cách xoa dịu những nỗi đau đó. Tác giả cậy đến con
chữ, đến văn thơ, ở đó được tự do bộc lộ, gửi gắm, ký thác. Đọc thơ Hà Minh Đức thấy man mác một nỗi buồn đẹp về tình đời, tình người. Đọc văn xuôi Hà Minh Đức
thấy tác giả là người tinh tế, bặt thiệp, chiêm nghiệm và từng trải. Cả văn cả
thơ gợi liên tưởng về sự thấu cảm, chia sẻ. Câu chữ thơ tuy giăng mắc nỗi buồn
nhưng không yếm thế, bi lụy. Câu chữ văn xuôi tuy sát sạt thực tế nhưng không bỗ
bã, buông tuồng, không ám chỉ. Văn có cái tinh chất đại khí, mã thượng. Tiếng
Việt được tác giả nắn nót lựa chọn, nâng niu cả trong văn nghiên cứu/ lý luận/
phê bình lẫn sáng tác.
Một khó khăn mà tác giả vượt qua được nhờ vào sự mẫn cảm, độ
lượng, hòa khí là khi viết về những con người, nhân vật đặc biệt như Trần Đức
Thảo, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường,... Có ai đó thiếu thiện chí cho rằng cách
viết của tác giả trong Đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật là “né”, nhẹ
hơn là “ôn hòa”, “bảo an” (!?). Riêng tôi không nghĩ thế. Tôi thấy tâm thế
“trăm năm trong cõi người ta” chính là động hướng ngòi bút nhà văn khi viết về
việc, về người của quá vãng. Nếu trong nghiên cứu ngòi bút của nhà văn hài hòa
trí tuệ và tình cảm thì trong sáng tác, theo tôi, ngòi bút này duy tình.
Nói văn hóa của văn chương còn ở khía cạnh khác, theo tôi là
quan trọng, ở nỗ lực của tác giả nhằm bảo lưu ký ức của các thế hệ sáng tác văn
chương. Không nhiều người biết và chia sẻ lao động nghệ thuật âm thầm, bền bỉ
và kiên nhẫn của GS. Hà Minh Đức suốt hơn nửa thế kỷ chắt chiu tư liệu từ những
tiếp xúc nghề nghiệp với các nhà văn tài năng như Tố Hữu, Tô Hoài, Huy Cận, Chế
Lan Viên, Xuân Diệu, Anh Thơ, Tế Hanh, Nguyễn Đình Thi,... để tái tạo thành những
trang sách như những bảo tàng văn chương sống đáng quý cho các thế hệ độc giả: Tố
Hữu - Cách mạng và thơ, Huy Cận - Ngọn lửa thiêng không tắt, Tô Hoài
- Đời văn và tác phẩm, Nguyễn Đình Thi - Chim phượng bay về núi, Nữ sĩ Anh Thơ -
Mùa hoa đồng nội, Tế Hanh - Mãi mãi hoa niên, Xuân Diệu - Vây giữa tình yêu, Chế
Lan Viên - Người trồng hoa trên đá, Nguyễn Bính - Thi sĩ của đồng quê.
Hà Nội, tháng 5-2020
Bùi Việt Thắng
Nguồn: Báo Văn nghệ, số 26 ngày 27-6-2020
Theo http://vanvn.net/
Theo http://vanvn.net/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét