Thâm Tâm - Một thời và mãi mãi
Thâm Tâm sinh ra để làm nghệ sĩ. Văn chương nó chọn
anh, chứ không phải anh chọn văn chương. Vâng, văn chương đã chọn Thâm Tâm để cất
cánh trở thành thơ ca và truyện ngắn, trong đó có những vần thơ bất hủ, và một
số áng văn xuôi đẹp đẽ.
Có một cách hình dung về đội ngũ những người sáng tạo văn học,
căn cứ vào mức độ gắn bó với nghề, có thể chia làm hai loại: Một, những người nếu
không viết vẫn sống được, họ có thể bỏ bút đi làm nghề khác, ừ thì cũng có một
chút lưu luyến nào đó với nghề, nhưng mà văn chương chẳng phải là... tất cả, cuộc
đời còn có những thú vị khác hơn; và hai, những người nếu không viết thì không
thể sống nổi, hiểu theo nghĩa cụ thể, vật chất, và cả với nghĩa tinh thần của
nó.
Không sống nổi bởi vì, nếu không viết văn thì họ chẳng biết
làm gì, họ không có cái khả năng mưu sinh bằng những nghề khác, họ không thạo
đi giữa cuộc đời. Không sống nổi bởi vì cái đam mê văn chương như là định mệnh,
nó cứ ám ảnh suốt đời. Có lúc rơi vào chán nản, muốn vứt hết chữ nghĩa văn
chương đi, nhưng rồi bất ngờ nó lại hiện về, nó rủ rê quyến rũ anh, anh lại vồ
lấy bút, lại đêm đêm độc lực viết như thiêu thân, viết như hành xác, viết đến
lao lực... Nhà văn Thâm Tâm thuộc trường hợp thứ hai, nghĩa là Thâm Tâm sinh ra
để làm nghệ sĩ. Như người ta vẫn thường nói: Văn chương nó chọn anh, chứ không
phải anh chọn văn chương.
Vâng, văn chương đã chọn Thâm Tâm để cất cánh trở thành thơ
ca và truyện ngắn, trong đó có những vần thơ bất hủ, và một số áng văn xuôi đẹp
đẽ.
Gia cảnh Thâm Tâm rất cơ hàn, túng quẫn. Từ Hải Dương lên Hà
Nội (1938), kéo theo cả nhà gồm cha mẹ già, hai người chị cùng bốn đứa em còn
nhỏ và người vợ, có đến cả chục miệng ăn như tằm ăn rỗi. Ngần ấy người dồn ép
vào sống trong một căn nhà thuê tháng rộng khoảng chừng hai chục mét vuông.
Thâm Tâm nhận việc đóng sách cho Nhà in Mai Lĩnh rồi mang về cho cả gia đình
làm, còn riêng mình thì đi vẽ tranh minh hoạ cho các báo, làm thơ, viết truyện,
viết kịch, viết tạp văn... gửi đăng các báo vừa để sinh nhai, vừa thoả cái mộng
văn chương hằng ấp ủ. Có nghĩa là ông viết cật lực, chẳng kén chọn gì lắm về đề
tài, thể loại, nơi in...
Nhà văn Vũ Bằng kể lại: Khi đương giữ chân thư ký toà soạn cho
tờ Tiểu thuyết thứ bảy quãng năm 1941- 1943, ông thấy gia cảnh bạn mình túng
thiếu, nên thường ưu tiên cho đăng của Thâm Tâm hai bài trong một số (hoặc một
truyện, một thơ; hoặc một truyện, một kịch với hai bút danh: Thâm Tâm và Tuấn
Trình) để bạn mình có chút đỉnh nhuận bút. Bây giờ nếu ai có điều kiện tiếp xúc
trực tiếp với tờ Tiểu thuyết thứ bẩy vào quãng thời gian này sẽ thấy liên tục
trên các số báo có tác phẩm của Thâm Tâm với hai bút danh như vậy. Ngoài ra ông
còn viết cho Truyền bá, Phổ thông bán nguyệt san (cũng của nhà Tân Dân), Tiểu
thuyết thứ năm của Lê Tràng Kiều (chủ bút) và một số báo khác. Tính sơ bộ trong
tài liệu mà chúng tôi sưu tầm được, ông có hàng chục bài thơ, 70 truyện ngắn
truyện dài, trên chục vở kịch, một số tạp văn... ra đời trong quãng thời gian
này. Có thể khẳng định rằng cái động cơ thôi thúc Thâm Tâm viết được nhiều như
vậy chủ yếu thuộc về lý do mưu sinh, viết văn để kiếm sống, để phụ giúp vào một
gia đình mà lúc nào cũng có nguy cơ đứt bữa.
Có thể ai đó sẽ cho rằng cách giải thích này không được “thơ”
cho lắm, nhưng quả thật như thế (Cơm áo không đùa với khách thơ)! Mà chẳng cứ
gì Thâm Tâm. Nhiều nhà văn nhà thơ ưu tú của chúng ta thời đó vướng vào nghiệp
văn chương, cũng đã từng lận đận mưu sinh bằng ngòi bút. Kể từ bậc “trưởng lão”
Tản Đà, cho đến Ngô Tất Tố, Lê Văn Trương, Lan Khai, Thạch Lam, Nam Cao, Tô
Hoài và rất nhiều nhà văn khác. Vũ Trọng Phụng chẳng đã từng vừa ôm ngực vừa ho
vừa viết, viết đến lao lực rồi chết đó sao.
Mà đã viết mưu sinh thì không thể không chạy theo số lượng.
Tác phẩm được in ấn càng nhiều, thì cái nồi cơm trong mỗi bữa lại càng đầy thêm
một chút, trong bữa ăn mọi người đỡ phải trông nồi ý tứ nhường nhau, mới dám
nhìn thẳng vào mặt nhau một cách tự nhiên, thành thực. Chẳng may trong nhà có
ai ốm đau, con cái có đứa nào sài đẹn mới có cái để chạy thuốc men cho đỡ tủi.
Tuy nhiên, ở những nhà văn có tài, trong số các văn phẩm ít
nhiều chạy theo số lượng ấy vẫn có những tác phẩm đỉnh cao như thường. Vâng, phải
có tài, người có tài thì ngay cả khi viết trong một điều kiện ngặt nghèo nhất,
hoặc viết chạy theo một mục đích sát sườn nhất thì các trang viết vẫn cứ có thể
lấp lánh như thường.
Tống biệt hành của Thâm Tâm là một thi phẩm thuộc vào hàng đỉnh
cao sáng giá như vậy. Xin kể lại một kỷ niệm thời còn học đại học vào quãng những
năm sau ngày giải phóng miền Nam 1975, lúc bấy giờ hầu hết Thơ Mới đang còn bị
định kiến, bị hiểu lầm. Cho nên trong giới sinh viên, ai biết được bài nào liền
thì thụt đọc hoặc chép cho nhau, vì thế nên có tình trạng tam sao thất bản.
Riêng với bài Tống biệt hành, lứa sinh viên bọn tôi chỉ biết có bốn câu đầu. Vì
là thể hành, nên đoán chắc bài thơ sẽ còn dài nữa, nhưng chẳng mấy ai biết phần
tiếp theo là như thế nào, mà hỏi thầy thì không dám. Thôi thì đành ngâm nga bốn
câu thơ đầu:
Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Phải thừa nhận rằng bốn câu mở đầu này có một sức quyến rũ mê
người. Và hầu hết trong số chúng tôi đều coi mấy câu thơ ấy viết về tình yêu,
viết về cuộc tiễn biệt của đôi trai gái yêu nhau nào đó. Bảo là nỗi buồn nặng
trĩu trong lòng đôi người yêu nhau kẻ đi người ở có gì là sai đâu. Chúng tôi lại
còn ngâm nga, thậm chí viết tặng vào sổ tay bạn gái như một gửi gắm vu vơ. Sau
này, khi định kiến đối với Thơ Mới dần được gỡ bỏ, tư liệu về Thơ Mới được công
bố công khai, rộng rãi, mới biết rằng không phải như thế. Hoá ra bài thơ là câu
chuyện và tâm sự của hai người đàn ông tráng chí nặng tình tiễn biệt nhau, một ở
lại một lên đường vì chí lớn. Thậm chí lại có tư liệu cho biết nhà thơ Thâm Tâm
viết tặng cho một người bạn hoạt động bí mật trong tổ chức cách mạng nhân lần
tiễn bạn đi chiến khu chiến đấu. Tuy nhiên, không vì thế mà ý nghĩa bài thơ bị
bó hẹp vào một cách giải thích cụ thể nào, hoặc vẻ đẹp của nó bị suy giảm. Bài
thơ đã được đưa vào trong chương trình văn THPT. Bài thơ đã gây ra những thảo
luận, tranh luận sôi nổi một dạo. Có những cách hiểu khác nhau ít nhiều, điều
này càng chứng tỏ tầm vóc của thi phẩm. Một tác phẩm hay, nó không chịu nằm yên
trong một cách hiểu duy nhất nào, mà nó luôn muốn vượt thoát để đến với tất thảy
mọi người, thuộc về mọi người. Như hương của một loài hoa quý, nó dâng tặng mọi
người, nhưng hễ ai có ý định “nhốt” mùi hương lại đều cảm thấy ít nhiều thất bại.
Với bài thơ bất hủ này, nhà văn Vũ Bằng, một người bạn đàn anh của Thâm Tâm đã
tặng Thâm Tâm một thi hiệu nghe lạ lạ và thú vị: Nhà phù thuỷ hô sóng vào lòng
và gọi hoàng hôn lên mắt.
Cũng lại Vũ Bằng, ông bảo Thâm Tâm là một người ốm yếu mà can
đảm, ý muốn nói thân hình Thâm Tâm thì nhỏ bé, da hơi đen, hơi gầy, ít nói, mà
làm thơ viết văn thì hay nói đến cái tráng chí, cái hùng khí của con người. Quả
thật, trong thơ của Thâm Tâm, thấy ông nói rất nhiều về niềm sầu hận, có khi trực
tiếp, có khi xa gần gián tiếp:
Tan tiệc quần anh, người nuốt giận
Thằng bó văn chương đôi gối hận
Chán ngắt gia tình sầu ngất ngất
Già teo thân thế hận mang mang
Tro tàn có đốt không hồng nữa
Thắt lạnh bên lòng nỗi hận thương
Lòng ai bầm tím, ai buồn tối
Cũng tại rừng đời lạc lối ra
Sầu hận là một trạng thái tâm lý chỉ có đến giai đoạn cuối của
phong trào Thơ Mới mới xuất hiện, nghĩa là vào quãng từ 1940 trở đi. Trước đó
chỉ có thấy sầu mộng (Lưu Trọng Lư, Thế Lữ...), sầu đơn, sầu tủi, u sầu (Xuân
Diệu, Nguyễn Bính...). Những nỗi sầu đó về cơ bản vẫn không nằm ngoài một chữ
tình. Vượt ra khỏi chữ tình một chút, với Huy Cận, lại là vũ trụ sầu. Đến thời
này, sự bế tắc của đời sống cá nhân nghệ sĩ đã lên đến tột đỉnh. Vũ Hoàng
Chương phải kêu lên:
Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh.
Trần Huyền Trân thì:
Kinh thành mây đỏ như son
Cái lồng eo hẹp giam con chim trời.
Đến Nguyễn Bính, cũng đã chán cảnh “giang hồ vặt”:
Đất khách cùng đường ta khóc ta.
Ngay cả Xuân Diệu của những năm 42-43 khi đang lưu lạc ở Mỹ
Tho cũng đã bắt đầu thấy nhắc đến hai chữ “sầu hận”: Ngủ đi, ngủ đi, sầu hận
muôn năm (Riêng tây)...Nếu như các trạng thái sầu trên kia có nguyên do trực tiếp
từ tâm tình cá nhân thì đến sầu hận, nguyên do lại bắt nguồn từ thời thế, từ những
vang động xã hội. Một câu hỏi trực diện đặt ra cho bất cứ người nghệ sĩ nào lúc
này là: Đi về đâu? Câu hỏi đó lập tức bắt người nghệ sĩ phải đối mặt với thời
cuộc. Đi tìm giải pháp cho cách thế tồn tại của cuộc đời, mỗi người lựa chọn
theo những cách khác nhau. Có người vùi mình vào những hưởng thụ cá nhân, nên bế
tắc lại càng bế tắc. Có người nỗ lực tìm đường đổi thay số phận, không chịu bị
cuộc sống đè bẹp. Trong những nỗ lực cảm động đó, có Thâm Tâm. Thơ ca cũng như
văn xuôi của Thâm Tâm có khá nhiều tác phẩm trình bày hình ảnh người ra đi. Người
ra đi này thường được đặt trong tình huống tống biệt, chia ly. Thông thường người
ra đi là một người mang sầu hận, ôm chí lớn, và bữa rượu tiễn biệt đều có những
nhân vật mang dáng dấp trượng phu hoặc chiến binh thời trung đại. Uống rượu thì
phải ném vỡ tan chén rượu, phải tỏ chí ngang tàng, lắm khi nói lời thề thốt:
Thở phù hơi rượu đua tranh
Quăng tay chén khói tan thành trời mưa
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn tay không
Có người rắp tâm ôm chí lớn nhưng không thành, quyết nuôi chí
phục thù. Hình ảnh Huyền Sinh trong truyện ngắn Lá quạt hoa quỳ là một người
như vậy. Chí lớn không có cơ thực hiện, người yêu bị Quỷ vương chiếm đoạt,
chàng tưởng như lâm vào tuyệt vọng. Chàng giả điên để chờ thời. Người điên này
chiều chiều thả vào trời đất tiếng sáo ai oán của mình. Thế rồi một hôm, một
người có dáng trượng phu đến gặp rủ đi. Từ bấy chàng điên mất tích. Chàng đã
lên đường. Đó là một hình ảnh ẩn dụ, nhuốm mầu bi tráng.
Tất cả những điều đó nói với chúng ta rằng Thâm Tâm thuộc
trong số không nhiều các nhà văn có khí cốt mạnh mẽ lúc bấy giờ. Họ không thích
kêu rên, than khóc. Cũng không muốn chết chìm vào trong những khoái thú cá
nhân. Họ muốn đổi thay, muốn lên đường. Dòng huyết mạch chảy mạnh mẽ trong cơ
thể họ. Quả tim trẻ tuổi đang đập rộn trong lồng ngực họ. Thơ của Thâm Tâm, Trần
Huyền Trân có cái ngang tàng, khoẻ khoắn, dám đi “ngược gió” giữa đời. Sự thực
là sầu hận và chí lớn đã tạo nên cái “chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại”
trong Tống biệt hành như Hoài Thanh đã từng cảm nhận. Tôi nghĩ rằng nếu nói lúc
viết Tống biệt hành (1940-1941) Thâm Tâm đã đứng vào hàng ngũ hoạt động cách mạng
thì e hơi sớm, nhưng bảo là Thâm Tâm đã cảm nhận được không khí sục sôi đang diễn
ra từng ngày từng giờ của thời đại do những người cách mạng khởi xướng, lãnh đạo
và đồng tình với nó thì chắc chắn là đã có. Cho nên, như một tất yếu, sau Cách
mạng tháng Tám, Thâm Tâm rất sớm đi theo kháng chiến, đứng vào hàng ngũ những
người cách mạng đánh đuổi kẻ thù xâm lược.
Nhưng nếu chỉ nói như thế không thôi, thì Thâm Tâm không đi
xa hơn là mấy so với các nhà thơ trung đại. Cái điều làm cho Thâm Tâm trở thành
điệu hồn Thơ Mới, Tống biệt hành trở thành thi phẩm Thơ Mới là ở chỗ: Nhà thơ
đã thể hiện được một cách sâu sắc và thành thực đến cảm động cái mối giằng xé
giữa con người tráng chí (con người tỏ mình trước cuộc đời) với con người tình
nghĩa (con người vừa mang bổn phận hiếu đễ với gia đình, vừa thuận theo cái
tình cảm tự nhiên mà ai cũng có với người thân, với bạn bè). Mối giằng xé này
đã làm vọt ra những câu thơ đứng vào hàng tuyệt bút. Hãy thử lắng nghe xem đằng
sau cái vẻ rất Kinh Kha kia là niềm day dứt, nỗi xót thương của một người nặng
tình biết bao nhiêu, tưởng như những giọt nước mắt cố nén nay chực vỡ òa:
Người đi? Ừ nhỉ người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.
Bài thơ đã chạm vào nỗi lòng muôn thủa của kiếp người, thứ tấm
lòng thuộc về nhân loại. Chính vì thế, bài thơ đã đi vào bất tử. Không có cái
tôi Thơ Mới, các nhà thơ của chúng ta làm sao có thể đập vỡ được cái vỏ ước lệ
thuộc về cái ta trung đại để bước vào cái tôi nhân văn phổ quát.
Như ta đã biết, sau này Thâm Tâm đi theo kháng chiến. Ông là
thư ký Toà soạn báo Vệ quốc quân (tiền thân của báo Quân đội nhân dân ngày nay)
có trụ sở đóng tại vùng căn cứ kháng chiến thuộc tỉnh Cao Bằng. Theo các tài liệu
trong hồi ức của bạn bè đồng chí, Thâm Tâm là một người làm báo tận tuỵ, rất có
trách nhiệm trước công việc, trước bạn đọc. Chỉ một cái địa danh in sai trên bản
in thử mà ông đã băng rừng gần chục cây số qua suối lũ, hổ rừng đe doạ để sửa.
Ông mất vì bệnh sốt rét rừng. Cũng là do làm việc quá sức, ăn uống kham khổ, lại
khí hậu khắc nghiệt mà ra cả. Đồng đội ông kể lại rằng khi phát hiện ra Thâm
Tâm bị ốm thì đã vội cáng nhà thơ về trạm xá của đơn vị cách chừng một ngày đường
đi bộ để điều trị, tiếc thay trên đường nhà thơ đã lặng lẽ tắt thở, không kịp
trăng trối điều gì. Lúc ấy vào rạng sáng một ngày thu sương trên núi rừng Việt
Bắc - 18.8.1950.
Người viết bài này đã cùng thân nhân gia đình Thâm Tâm và một
số nhà văn nhà thơ khác của tỉnh Cao Bằng cất công đi tìm mộ nhà thơ Thâm Tâm.
Thật kỳ công. Khung cảnh nơi đây đã khác hẳn. Năm mươi năm vật đổi sao dời. Khi
xác định được đúng ngôi mộ rồi, thì hài cốt nhà thơ đã được bốc dỡ, di dời về
nghĩa trang huyện Quảng Hoà. Nhưng tiếc thay, về tới đây, khi chưa kịp gắn bia
mộ, sơ đồ mộ chí còn trong túi hồ sơ, thì chẳng may trong vụ tháng 2/1979, hồ
sơ bị những kẻ ngoại bang đốt sạch. Vậy là ngôi mộ Thâm Tâm hiện giờ không rõ
đích xác ngôi mộ nào, nhưng chỉ biết chắc chắn là đã có mặt trong các hàng mộ
liệt sĩ vô danh tại Nghĩa trang Quảng Hòa. Tên Anh đã hòa cùng tên Đất Nước.
Khi Thâm Tâm mất, hành trang chẳng có gì. Sau này gia đình
nhà thơ được đơn vị trao lại một chiếc ba lô, trong đó còn một vài thứ gồm mấy
trang ghi chép có tính chất nhật ký, cuốn Đại đội Kim Sơn của tác giả mới in, một
bài tham luận tại Đại hội văn nghệ, sáu bức ảnh chụp hình nhà thơ và các bạn
văn nghệ kháng chiến, một chiếc bút máy và một cái thìa nhỏ. Tất cả chỉ có thế.
Bà quả phụ Thâm Tâm lâu nay vẫn đặt chiếc thìa nhỏ đó lên ban thờ linh hồn Thâm
Tâm, như một kỷ vật thân thương duy nhất còn giữ được. Tuy nhiên, còn có một thứ
hành trang vô giá mà Thâm Tâm để lại đó là các áng văn thơ. Ông viết không phải
là nhiều. Cũng không thể nói đó là một sự nghiệp đồ sộ. Nhưng lạ lùng thay, văn
chương không phục tùng quy luật của số lượng, mà chỉ tuân theo quy luật về chất.
Với Tống biệt hành, với vài ba truyện ngắn, thí dụ như Thuốc mê chẳng hạn, Thâm
Tâm vĩnh viễn có chỗ đứng riêng trong nền văn chương dân tộc.
Núi rừng Việt Bắc, con người Việt Bắc cùng Đất Nước đã tiễn
đưa Thâm Tâm vào cõi mây trời cách đây năm mươi năm có lẻ. Cuộc tống biệt này
không có ngày đoàn tụ. Mỗi khi nhớ về ông, bỗng lại có sương khói hoàng hôn và
những gợn sóng lòng ba động.'
Văn Giá
Nguồn: “Đời sống và đời viết” - Chân dung, tiểu luận,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét