Nghiên cứu phân tâm học 2
8. Trạng thái yêu thương và sự thôi miên
Tiếng nói hàng ngày vẫn trung thành với một thực thể nào đó mặc dù có thất thường
bất nhất đi chăng nữa. Người ta dùng chữ "tình yêu" để chỉ những mối
liên lạc tình cảm rất khác nhau, chúng ta đã gom góp tất cả những mối liên lạc ấy
lại dưới một tên gọi mà không nói rõ rằng phải hiểu danh từ ấy theo nghĩa tình
yêu thật sự, chính nghĩa, và tự nhiên, có bao hàm một ý nghĩa về cấp bậc trong
hiện tượng tình yêu. Chúng ta có thể căn cứ vào sự quan sát để xác định rằng có
một cấp bậc như thế, không khó khăn gì cả.
Trong một vài trường hợp, tình yêu chỉ là sự ràng buộc libido với một đối tượng
(người) để đi đến mục đích thỏa mãn nhục dục một cách trực tiếp, sự ràng buộc sẽ
chấm dứt một khi đạt được một cách: đó là tình yêu thường tình, tình yêu
"nhục dục". Tuy nhiên, chúng ta biết rằng tình trạng libido không phải
bao giờ cũng giản dị như thế. Người ta biết chắc rằng nhu cầu thỏa mãn rồi chẳng
bao lâu lại tái xuất hiện, có lẽ đó là nguyên nhân chính là cho người ta bị
ràng buộc liên tục với đối tượng dục tính, người ta có tình yêu bền bỉ với người
mình yêu, cả trong những khoảng thời gian người ta không có nhu cầu nhục dục.
Đời sống tình ái của loài người khai triển mạnh mẽ như thế còn đem lại một hậu
quả khác. Trong giai đoạn đầu của đời sống chấm dứt vào khoảng lên năm tuổi, đứa
trẻ lấy cha hay mẹ làm đối tượng của tình yêu và tập trung tất cả mọi khuynh hướng
dục tính vào đó, đòi thỏa mãn. Hết giai đoạn ấy sẽ xảy ra hiện tượng dồn nén bắt
buộc nó phải từ bỏ phần lớn những mục tiêu dục tính thơ ấu, do đó mà đứa trẻ
thay đổi thái độ đối với cha mẹ một cách sâu xa. Đứa trẻ vẫn ràng buộc với cha
nhưng mục tiêu của khuynh hướng sơ thủy bị ngăn chặn. Từ đây những tâm tình của
đứa trẻ đối với người thân yêu của nó được gọi là "âu yếm". Người ta
biết rằng những khuynh hướng "khoái cảm" lúc trước vẫn còn mạnh hay yếu
trong tiềm thức, bởi vậy cho nên dòng tâm tình nguyên thủy vẫn chảy theo một hướng
nào đó [1].
Đến tuổi dậy thì bỗng xuất hiện những khuynh hướng mới rất mạnh, hướng về mục
tiêu dục tính trực tiếp. Trong những trường hợp không thuận lợi, những khuynh
hướng mới sẽ là luồng nhục dục tách rời khỏi luồng tâm tình "âu yếm"
bền bỉ. Như vậy là chúng ta có một bức tranh tâm tình mà một vài tư trào văn
chương đã đem lý tưởng hóa đi. Con người tôn thờ một cách viển vông những người
đàn bà mà họ rất kính trọng nhưng không có một chút tình yêu nào, họ chỉ động
tình khi đứng trước những người đàn bà mà họ không yêu, hay họ không ưa mấy tí
nếu họ không khinh bỉ. Nhưng phần nhiều người thiếu niên thực hiện được phần
nào sự tổng hợp ái tình cao thượng với ái tình nhục dục thế phàm, trong trường
hợp ấy thái độ của họ đối với người con gái có cả những khuynh hướng tự do lẫn
khuynh hướng bị cản trở. Người ta có thể căn cứ vào thành phần của hai khuynh
hướng ái tình và nhục dục trong con người để đo mức độ ái tình chân thực của họ.
Chính trong phạm vi "ái tình chân thực" [2] mà chúng tôi chú trọng ngay đến sự kiện
sau đây: người yêu của họ phần nào tránh được sự phê phán của họ, tính nết của
người yêu được đánh giá cao hơn tính nết của những người họ không yêu, và trước
khi họ yêu người ấy họ cũng không đánh giá cao như thế. Khi nào những khuynh hướng
nhục dục bị dồn nén ít hay nhiều, họ có ảo tưởng rằng người được họ ham muốn có
những đức tính ấy chỉ vì người yêu đem lại cho họ những khoái lạc nhục dục.
Chính sự lý tưởng hóa làm cho cách phán đoán sai lạc. Nhưng bù lại chúng ta nhờ
thế mà dễ định hướng hơn: chúng ta thấy rõ rằng đối tượng (của tình yêu) được cọi
là chính cái tôi của họ, và trong trạng thái yêu thương một phần của
cái libido ngã ái được di chuyển sang đối tượng. Trong một vài hình thức chọn lựa
người yêu, đối tượng được dùng để thay thế một lý tưởng mà cái tôi muốn
thu hút nhưng không thành công. Người ta yêu đối tượng vì người ta cho rằng đối
tượng có những điểm thiện mỹ mà cái tôi của người ta vẫn muốn có, và
như thế là người ta tìm một lối quanh co để thỏa mãn ngã ái của người ta.
Giá trị của đối tượng càng được phóng đại và trạng thái yêu thương càng tăng
thêm thì chúng ta càng dễ nhận định. Những khuynh hướng dắt đến sự thỏa mãn nhục
dục tiếp có thể bị đàn áp hoàn toàn, như thường xảy ra trong trường hợp ái tình
thơ mộng của thiếu niên; cái tôi càng ít đòi hỏi, càng thêm khiêm tốn,
còn đối tượng thì càng trở nên đẹp đẽ quý giá, đối tượng thu hút hết cả tình
yêu mà cái tôi có thể có với chính nó, bởi thế cho nên tình trạng ấy
có thể đưa đến hậu quả tự nhiên là hy sinh hoàn toàn cái tôi. Có thể nói rằng
đối tượng nuốt trọn cái tôi. Trong trạng thái yêu thương nào cũng có
khuynh hướng nhún mình, hạn chế lòng ngã ái và quên mình; trường hợp cực đoan
chỉ là trường hợp khuếch đại những nét ấy sau khi những đòi hỏi nhục dục đã biến
mất, trên sân khấu chỉ còn những nét ấy ngự trị.
Sự kiện ấy có thể thấy rõ trong những mối tình đau khổ, bởi vì khi người ta yêu
ai mà được yêu lại thì mỗi lần thỏa mãn là kèm theo sự giảm sút mức độ lý tưởng
hóa người yêu. Đồng thời với sự quên mình người ta cũng đình chỉ những nhiệm vụ
của cái tôi được coi là lý tưởng muốn đạt được, sự quên mình đó không
khác gì sự quên mình cao thượng để phụng sự một ý tưởng trừu tượng. Đã không có
sự phê phán thì người yêu làm cái gì, đòi hỏi cái gì cũng hay, cũng không đáng
chê trách vào đâu được. Tiếng nói của lương tâm đã im bặt khi có cái gì thuận lợi
cho người yêu, con người trở nên mù quáng vì si tình, họ có thể phạm tội ác mà
không hề hối hận. Tình trạng ấy có thể tóm thâu trong công thức sau đây: đối
tượng đã chiếm chỗ của lý tưởng tôi.
Tâm trạng yêu thương phát hiện đến cao độ được gọi là mê hoặc, sự khác biệt giữa đồng
nhất hóa và tâm trạng yêu thương rất dễ mô tả. Trong trường hợp thứ nhất
cái tôi giầu thêm đức tính của đối tượng, nó sáp nhập đối tượng vào
nó bằng cách nhập nội (introjection); trong trường hợp thứ hai nó
nghèo nàn đi, tự nó bỏ mình để đem mình cho đối tượng. Tuy nhiên, xem xét đến
nơi đến chốn thì các mô tả ấy làm xuất hiện những điểm đối lập mà thực ra không
có. Đứng về phương diện lợi ích cho sự tổ chức nội tâm thì không phải là vấn đề
làm giầu thêm hay làm nghèo đi, vì trạng thái yêu thương cùng cực có thể coi
như sự sáp nhập đối tượng vào cái tôi. Có lẽ sự phân biệt sau đây sẽ căn cứ
vào những điểm chính yếu hơn cả; trong trường hợp đồng nhất hóa, đối tượng tan
rã và biến mất, rồi tái sinh vào cái tôi, cái tôi bị biến đổi phần
nào theo mẫu đối tượng đã biến mất; trong trường hợp kia đối tượng vẫn còn đó với
tất cả những đức tính mà cái tôi gán cho nó, nó còn làm hại cái tôi nữa.
Nhưng sự phân biệt như thế cũng có chỗ đáng thắc mắc. Có thật trong sự đồng nhất
hóa người ta bỏ qua những đức tính của đối tượng chăng? Có thể có sự đồng hóa
mà đối tượng không biến mất chăng? Nhưng trước khi bàn đến những vấn đề phức tạp
ấy, chúng ta đã thấy có một vấn đề khác xen vào cần phải giải quyết trước, đó
là vấn đề đối tượng được đặt vào chỗ cái tôi hay được đặt vào chỗ lý tưởng
tôi.
Từ trạng thái yêu thương đến trạng thái thôi miên, khoảng cách không xa lắm.
Hai trạng thái đều có những điểm giống nhau. Người bị thôi miên cũng có thái độ
khiêm tốn phục tòng, quên mình, không phê phán đối với ông thầy thôi miên, họ
chẳng khác nào người si tình đối với người yêu. Chúng ta cũng nhận thấy người bị
thôi miên mất cả sáng kiến riêng, chắc chắn là ông thầy thôi miên đã chiếm chỗ
của lý tưởng tôi. Nhưng trong tình trạng thôi miên những đặc điểm ấy hiện
ra rõ ràng nổi bật hơn, thậm chí chúng ta cho rằng nên cắt nghĩa trạng thái yêu
thương bằng trạng thái thôi miên chứ không nên làm ngược lại. Ông thầy thôi
miên là nhân vật duy nhất chiếm trọn ý tứ của người bị thôi miên, còn ra không
có cái gì đáng kể. Cái tôi của người bị thôi miên thuận thụ tất cả
cái gì ông thầy khẳng định và bắt buộc, như trong một giấc mơ, sự kiện đó nhắc
nhở chúng tôi rằng chúng tôi đã quên không nói đến nhiệm vụ của lý tưởng
tôi, nhiệm vụ hành xử những kinh nghiệm thực tế [3]. Nếu cái tôi công nhận một tri
giác là có thực khi thẩm quyền tâm thần đã tuyên bố rằng sự tri giác ấy có thực
thì không có gì lạ. Vì không có những khuynh hướng đưa đến những mục tiêu dục
tính tự do (nhục dục) cho nên hiện tượng rất tinh thuần. Liên lạc giữa người bị
thôi miên và ông thầy là một liên lạc yêu thương hoàn toàn không có thỏa mãn nhục
dục, còn như trong trạng thái yêu thương thì sự thỏa mãn ấy chỉ tạm thời lui
vào hậu trường, có thể được thực hiện vào lúc nào đó.
Ngoài ra chúng ta còn có thể nói rằng liên lạc thôi miên là một liên lạc tập thể
chỉ có hai người, nếu có thể dùng được danh từ liên lạc tập thể ở đây. Đem so
sánh sự thôi miên với một trạng thái tập thể của đám đông thì vô bổ vì hai trạng
thái y hệt nhau. Trong đám đông, nếu kể một người thì có yếu tố sau đây: thái độ
của họ đối với người cầm đầu. Giới hạn vào một người như vậy, sự thôi miên khác
với trạng thái tập thể đám đông cũng như khác với trạng thái yêu thương ở điểm
không có khuynh hướng dục tính trực tiếp. Như vậy sự thôi miên chiếm một chỗ
trung gian giữa trạng thái hội họp tập thể và trạng thái yêu thương.
Chúng ta nên để ý rằng chính những khuynh hướng dục tính bị lái sang đường khác
đã tạo ra những liên lạc bền bỉ giữa mọi người. Rất dễ giải thích sự kiện ấy:
khuynh hướng dục tính bị lái rẽ ngang không được thỏa mãn toàn vẹn, còn như
khuynh hướng dục tính tự do thì mỗi lần đạt được mục tiêu lại yếu đi lạ lùng, lại
giảm mức độ. Tình yêu nhục dục mỗi lần được thỏa mãn thì phải tắt ngúm; muốn được
bền bỉ, ngay từ đầu nó phải hợp tác với sự âu yếm tinh thuần, lái sang đường
khác, hay chịu thay đổi vào một lúc nào đó.
Chúng ta có thể tìm hiểu những đặc điểm libido của đám đông một cách dễ dàng
hơn trong trạng thái thôi miên, nếu trạng thái thôi miên cũng có những nét như
trạng thái yêu thương không khuynh hướng dục tính trực tiếp, những nét ấy chưa
thể giải thích bằng cách suy lý được. Thôi miên cũng còn nhiều điểm khó hiểu và
xuất hiện như cái gì có vẻ thần bí. Một trong những đặc điểm ấy là một thứ tê
liệt ý chí và cử động; sự tê liệt ấy gây ra vì ảnh hưởng bất lực không có gì chống
cự; đặc điểm này cũng gần như sự thôi miên loài vật bằng cách khủng bố. Người
ta vẫn chưa biết rõ ràng trạng thái thôi miên được tạo ra như thế nào, sự liên
lạc giữa thôi miên và giấc ngủ như thế nào; người này có thể dùng được thuật
thôi miên, người kia chẳng thôi miên được ai cả, sự bí mật ấy khiến cho chúng
ta phải giả thiết rằng trong vấn đề thôi miên người ta đã thực hiện được một điều
kiện chính yếu để giữ cho thái độ libido được tinh thuần mà ta không biết. Một
sự kiện khác đáng chú ý: mặc dù người bị thôi miên rất dễ bị ám thị, nhưng ý thức
đạo đức của họ có thể rất cứng cỏi. Có lẽ phải như thế mới được vì trong những
trò thôi miên vẫn biểu diễn người bị thôi miên yên chí rằng đó chỉ là một trò
chơi, chỉ là tái tạo một tình trạng khác quan trọng hơn, tái tạo một cách không
đúng lắm.
Tuy nhiên, những điều nói trên đây cho phép chúng ta lập một công thức về tổ chức
libido của một đám đông, ít ra theo quan niệm của chúng ta hiện giờ, nghĩa là một
đám đông có người cầm đầu, và chưa có những đặc tính của một cá nhân hoàn bị.
Hiểu như vậy thì một đám đông nguyên thủy xuất hiện như một cá nhân đã
thay thế lý tưởng tôi bằng một đối tượng, hậu quả là cái tôi tự đồng nhất hóa với
đối tượng. Có thể dùng đồ biểu sau đây để diễn tả công thức ấy:
9. Bản năng quần cư
Ảo tưởng giải thích sự bí mật của đám đông bằng công thức nói ở chương trên chẳng
bao lâu đã tiêu tan. Chúng tôi phải trở lại với thực tại gay go là xét cho cùng
thì chúng tôi quy sự bí mật đám đông vào bí mật thôi miên, mà sự thôi miên thì
xét ra còn biết bao cạnh khía tối tăm. Đến đây bỗng xuất hiện một vấn đề khác,
chính vấn đề khác đó lại chỉ cho biết một lối đi nữa.
Chúng ta phải nói rằng hẳn là những mối liên lạc đặc biệt của một đám đông cũng
đủ để cắt nghĩa được tại sao con người thiếu độc lập và sáng kiến, tại sao phản
ứng của họ đồng nhất với phản ứng của những người khác trong đám đông, tại sao
cá nhân thoái lui xuống chỉ còn một đơn vị của đám đông. Nhưng đám đông, kể cả
toàn thể, cũng còn nhiều đặc điểm nữa: hoạt động trí tuệ hạ thấp, tình cảm tăng
cao độ, không thể nén lòng, không tự chế được, trong những phát hiện tình cảm
người ta có khuynh hướng vượt giới hạn và phát ra hành động. Những đặc điểm ấy
cũng như đặc điểm khác tương tự đã được Le Bon mô tả rất tinh tường, hẳn là những
đặc điểm ấy là dấu hiệu thoái lui hoạt động tâm thần về một giai đoạn thô sơ
thuở trước, chúng ta không lạ gì vì đã nhận thấy ở đứa trẻ thơ và người mọi rợ.
Sự thoái lui ấy là đặc điểm của đám đông thường, còn như những đám đông đã có
trình độ tổ chức khá thì những nét tính tình thoái lui, theo chỗ chúng tôi biết,
giảm bớt đi rất nhiều.
Đây là một trạng thái mà tình cảm cá nhân và trí tuệ của mỗi người đều yếu ớt,
không thể tự mình xác định lấy được nếu không dựa vào những biểu lộ tình cảm và
trí tuệ của những người khác. Chúng ta nên nhớ rằng bình thường thì trong xã hội
loài người thiếu gì hiện tượng trong đó người ta chỉ ùa theo người khác chứ ít
khi có sáng kiến, có can đảm riêng của mình, còn bị chi phối nhiều bởi linh hồn
tập thể tạo ra vì chủng tộc, thành kiến giai cấp, dư luận công chúng, v.v... Ảnh
hưởng của sự ám thị đã tối tăm thì lại thêm tối tăm, nếu chúng ta cho rằng ảnh
hưởng ấy không những chỉ tác động từ người cầm đầu đến người trong đám đông, mà
còn tác động qua lại giữa mọi người với nhau, thì chúng ta phải tự trách mình
chỉ xét đến liên lạc giữa người cầm đầu với người trong đám đông mà không xét đến
một yếu tố khác, sự hỗ tương ám thị.
Đã tự xét mình một cách khiêm tốn như thế, chúng tôi sẵn sàng nghe theo một tiếng
nói khác muốn giải thích bằng những nguyên tắc đơn giản hơn. Tôi xin mượn lời
giải thích của ông W. Trotter viết về bản năng quần cư, chỉ tiếc rằng tác giả
không thoát khỏi ác cảm gây nên vì cuộc Đại chiến [4].
Ông Trotter căn cứ vào bản năng quần cư (gregariousness) để giải thích những hiện
tượng tâm thần đặc biệt của đám đông, bản năng ấy là thiên bẩm đối với người
cũng như đối với giống vật. Đứng về phương diện sinh vật học thì tính họp đàn
chỉ là một nét vẻ và một hậu quả của tình trạng loài vật đa bào thượng đẳng, về
phương diện lý thuyết libido thì đó là một biểu lộ mới của khuynh hướng libido,
những sinh vật có cơ thể y hệt nhau có khuynh hướng họp lại với nhau thành những
đơn vị rộng lớn thêm mãi [5]. Cá nhân cảm thấy mình còn thiếu thốn
khi họ chỉ có một mình. Sự lo sợ của con nít là một biểu lộ của bản năng quần
cư. Chống đối lại đoàn cũng tương đương với lìa khỏi đoàn và bởi vậy cho nên
người ta lo ngại mà tránh. Nhưng một đoàn vẫn khước từ cái gì mới mẻ, không
quen. Bản năng quần cư là một bản năng nguyên thủy không thể tỉa tách ra được nữa
(Which cannot be split up).
Theo Trotter thì những bản năng sau đây là bản năng nguyên thủy: bản năng bảo tồn,
bản năng dinh dưỡng, bản năng dục tính và bản năng quần cư. Bản năng quần cư
thường hay đối lập với những bản năng khác. Cảm tưởng tội lỗi và ý thức bổn phận
là hai đặc điểm của một con vật sống họp đàn. Trotter cũng quy về bản năng quần
cư những sức mạnh đàn áp mà nhà phân tâm học khám phá ra, nhân đó mà có sự chống
cự của con bệnh trong lúc ông thầy trị bệnh cho họ. Tiếng nói có tầm quan trọng
vì nhờ nó mà những cá nhân trong một đoàn hiểu được nhau, phần lớn cá nhân
trong một đoàn căn cứ vào tiếng nói để đồng nhất hóa mình với cá nhân khác.
Le Bon cũng nhấn mạnh đặc biệt đến những đám đông tụ họp chốc lát. Mc Dougall
nhấn mạnh đến đoàn thể ổn cố, còn Trotter tập trung sự nhận định vào những đoàn
thể phổ quát nhất của loài người và ông cố gắng tìm ra những căn bản tâm lý.
Nhân những nhận xét của ông, Boris Sidis đã quy bản năng quần cư vào hiện tượng
ám thị, cũng may mà làm như vậy cũng là thừa; đó là cách giải thích theo một mẫu
lạ hoắc, khiếm khuyết, theo tôi thì đảo ngược lại mà nói rằng ám thị là một sản
phẩm của bản năng quần cư có lẽ còn xuôi tai hơn.
Nhưng vì nhiều lẽ người ta có thể nói rằng sự giải thích của Trotter dành một
chỗ quả ít ỏi cho vai trò của người cầm đầu trong đám đông, còn như chúng tôi lại
muốn cho rằng không thể thiếu được bản chất của đám đông, nếu không kể đến người
cầm đầu. Nói chung thì bản năng quần cư không để chỗ cho người cầm đầu, người cầm
đầu chỉ xuất hiện trong đám đông một cách ngẫu nhiên; ngoài ra người ta còn
không hiểu tại sao bản năng ấy lại tạo cho con người nhu cầu có một ông trời,
trong đoàn người ấy thiếu một thầy pháp. Vả chăng, người ta có thể lấy bằng tâm
lý để bắt bẻ quan niệm của Trotter, người ta có thể minh thị, ít ra một cách đại
khái, rằng bản năng quần cư không phải là không tỉa tách ra làm nhiều phần được,
nó không có tính cách nguyên thủy tương đương với bản năng bảo tồn và bản năng
dục tính.
Dĩ nhiên, không dễ gì mà theo dõi sự phát sinh cá thể của bản năng quần cư.
Trotter cho rằng sự sợ hãi của đứa trẻ đứng một mình là bản năng quần cư bộc lộ,
nhưng thiết tưởng chúng ta có thể giải thích ổn thỏa hơn bằng cách khác. Sự sợ
hãi ấy là sự biểu lộ một thị dục không được thỏa mãn, đứa trẻ muốn có mẹ, sau
này nó muốn gần những người quen thộc, sự ước muốn ấy nó không hiểu nguyên nhân
và bản chất và nó chỉ biết biến thành lo sợ [6]. Nó không thỏa mãn nếu chỉ thấy không có
bất cứ người nào trong "đoàn", trái lại sự lo sợ của nó tăng thêm khi
thấy người lạ. Vả chăng, trong một thời gian khá lâu, đứa trẻ không hề có bản
năng quần cư hay ý thức tập thể. Bản năng ấy và ý thức ấy chỉ thành hình dần dần,
đó là hậu quả của mối liên lạc cha con, mẹ con và của sự phản ứng trước tính
ghen tỵ đối với em nó mới ra đời. Đứa trẻ sẽ chẳng ngần ngại gì mà gạt bỏ em nó
để tước đoạt quyền của em; nhưng cha mẹ yêu các con đồng đều, vả chăng nó cũng
không giữ mãi được thái độ ác cảm ấy mà không tai hại cho nó, bởi vậy các con đều
đồng nhất hóa lẫn với nhau, rồi thành hình một ý thức cộng đồng, sau này trường
học làm phát triển thêm ý thức cộng đồng ấy. Từ sự phản ứng ấy thoát thai một sự
đòi hỏi đầu tiên là sự công bằng, ai cũng cần được đãi ngộ như người khác.
Chúng ta biết rằng ở nhà trường nhu cầu công bình của trẻ em mạnh mẽ đến mức
nào. Vì mình không thể là kẻ được mến yêu và ưu đãi hơn ai thì bất nhược đừng
ai được biệt đãi nữa, ai cũng được đãi ngộ như ai. Thiệt là khó tin rằng sự
ghen tị lại có thể biến thành liên đới đối với những trẻ em cùng ngồi trên ghế
nhà trường nếu người ta không thấy có những trường hợp tương tự đã xảy ra vào dịp
khác. Một đám phụ nữ thích thơ mộng cùng mê một chàng ca sĩ hay nhạc sĩ hợp thời
xúm xít lại quanh chàng này khi tan buổi trình diễn. Hẳn là cô nào cũng có lý lẽ
để ghen với những cô khác, nhưng vì các cô đông quá không ai có thể đoạt lấy
chàng trai một mình, tất cả đều chịu bỏ vậy, đáng lẽ cào đầu bứt tóc nhau, họ
đành chỉ hoan hô thần tượng suông và chia nhau một mớ tóc của thần tượng lấy
khước cũng cho là mãn nguyện rồi. Mới đầu là tình địch, sau họ đồng nhất hóa với
nhau, thông cảm nhau trong mối tình chung với một đối tượng duy nhất. Khi một
tình trạng cảm động có thể kết liễu bằng nhiều cách (phần nhiều như thế) giải
pháp hay dù là giải pháp nào có thể đem lại chút thỏa mãn, được dùng đến vì
trên thực tế không dung hòa được với sự thực hiện mục tiêu.
Tất cả những tâm trạng khác sau này người ta nhận thấy hiệu năng trong đời sống
xã hội thí dụ như sự đồng lòng, tinh thần đoàn thể, v.v. đều do sự ghen tị mà
ra. Không ai được hơn ai, tất cả phải làm như thế và cùng có như thế. Sự công
bình xã hội có nghĩa là người ta nhường nhịn cái gì đó để mọi người đều nhường
nhịn cái đó, không được đòi hỏi. Chính sự đòi hỏi công bình ấy là nguồn gốc của
ý thức xã hội và ý thức bổn phận. Phân tâm học cho ta biết một sự bất ngờ nữa rằng
sự đòi hỏi ấy là nguồn gốc của cái gọi là "sợ truyền bịnh cho người
khác" của những người mắc bệnh giang mai; họ lo sợ và họ phải cố gắng chống
lại ý muốn tiềm thức đổ bệnh cho người khác, họ lý luận rằng: tại sao một mình
họ mắc bệnh và không được hưởng trong khi những người lành mạnh được tự do hưởng
những khoái lạc ấy?
Câu chuyện lý thú về một vụ xử kiện của Salomon cũng có nghĩa như thế: vì con của
một người đàn bà này chết thì những người đàn bà khác không được có con sống.
Vua biết người nào có con chết cũng vì đã căn cứ vào ý muốn tiềm thức đó.
Như vậy, ý thức xã hội đặt nền móng trên sự ghen ghét nguyên thủy, sự ghen ghét
nguyên thủy biến thành sự thương mến tích cực, nhưng thực ra đó chỉ là sự đồng
nhất hóa. Vì chúng tôi theo dõi sự biến chuyển ấy từ lúc khởi thủy cho nên
chúng tôi nhận thấy hình như sự biến chuyển diễn ra dưới ảnh hưởng của tình
thương mến chung đối với một người ở ngoài nhóm người ấy. Sự phân tích của
chúng tôi không được đầy đủ, nhưng cũng đủ để cho chúng tôi làm nổi bật sự đòi
hỏi công bình triệt để. Bàn về hai đám đông quy ước là tôn giáo và quân đội,
chúng ta đã thấy đặc điểm chính là mọi người đều được một người cầm đầu thương
yêu như nhau.
Nhưng chúng ta không nên quên rằng sự đòi hỏi công bình chỉ là sự đòi hỏi của
những phần tử đám đông chứ không áp dụng với người cầm đầu. Mọi người đều ngang
nhau nhưng chúa chòm thì phải hơn, phải thống trị tất cả bọn. Nhiều người ngang
nhau, có thể đồng nhất hóa với nhau, và một người ở trên hết: đó là tình trạng
của mọi đám đông có sinh khí. Bởi vậy cho nên chúng tôi xin mạn phép sửa đổi
quan niệm của Trotter: người là con vật sống thành đàn, nghĩa là một phần tử của
một đoàn có chúa chòm cầm đầu.
10. Đám đông và bày ô hợp nguyên thủy
Năm 1917 tôi đã chấp nhận giả thuyết của Ch. Darwin theo đó hình thức nguyên thủy
của xã hội loài người là một bầy ô hợp (horde) chịu sự thống trị của một người
đàn ông có uy lực. Tôi đã minh thị rằng bầy ô họp đó còn để lại những dấu vết
không xóa nhòa được trong tính di truyền của nhân loại; chế độ vật tổ
(totémisme), bước đầu của tôn giáo, luân lý và phân hóa xã hội, có liên lạc với
sự diệt trừ tàn ác người đứng đầu để thay thế bầy ô hợp nguyên thủy dưới quyền
thống trị của người cha bằng một cộng đồng huynh đệ [7]. Đây chỉ là một giả thuyết cũng như những
giả thuyết khác của sử gia để tìm hiểu tiền sử: một câu chuyện "just so
story" như phê bình giả Kroeger có thiện cảm với tôi đã nói. Nhưng tôi cho
rằng một giả thuyết không có gì đáng chê khi người ta có thể dùng để cắt nghĩa
và tổng hợp những sự kiện thuộc về những lãnh vực rất xa xôi.
Chúng ta thấy đám đông có những đặc điểm chẳng khác nào đặc điểm của bầy ô hợp
nguyên thủy: một người có uy lực phi thường ngự trị trên một đám người khác
bình quyền với nhau. Tâm lý đám đông như ta đã biết qua những nét mô tả mà
chúng tôi thường ghi lại như ý thức cá nhân biến mất, ý nghĩ và tình cảm của mọi
người hướng về một chiều duy nhất, tình cảm và hoạt động tiềm thức nổi bật,
khuynh hướng thực hiện ngay những ý muốn xuất hiện, cái tâm lý đám đông ấy
tương ứng với sự thoái lui về một tình trạng sinh hoạt tâm thần nguyên thủy.
Đặc điểm chung của con người như mô tả trên đây phù hợp đặc biệt với bầy ô hợp
nguyên thủy. Ý chí của cá nhân yếu quá không dám hành động. Chỉ có những khích
động tập thể là có thể thúc đẩy được hành động; không có ý chí cá nhân. Sự biểu
thị không dám biến thành ý chí nếu người ta không cảm thấy nó đã phổ biến khắp
mọi người để người ta thấy sự biểu thị mạnh mẽ thêm. Sức biểu thị yếu ớt như vậy
vì liên lạc tình cảm giữa mọi người rất mạnh; điều kiện sống như nhau và không
có của riêng, hai sự kiện ấy cũng làm cho những hoạt động tâm thần giống hệt
nhau. Cả đến việc đi cầu người ta cũng cùng làm với người khác để thỏa mãn
chung, như ngày nay chúng ta còn thấy xảy ra cho trẻ con và ở trại lính. Chỉ có
sự giao cấu là thực hiện riêng cho hai người, vì sự có mặt của người thứ ba thật
là vô ích, người này bị bắt buộc phải chờ đợi và rất khó chịu. Sau này sẽ nói đến
sự phản ứng của nhu cầu dục tính trước sự quần cư.
Như vậy đám đông hiện ra như sự tái tạo bầy ô hợp nguyên thủy. Trong mỗi người
chúng ta đều còn sống sót một người bàn cổ dưới hình thức tiềm năng, đám đông
cũng vậy, đám đông có thể tái tạo bầy ô hợp nguyên thủy.
Bởi vậy chúng ta phải kết luận rằng tâm lý tập thể là tâm lý loài người xưa nhất;
những yếu tố tách rời khỏi tất cả cái gì dính dáng đến đám đông mà chúng tôi đã
dùng để giải thích tâm lý cá nhân, mãi sau này mới thành hình và cũng do tâm lý
tập thể phân hóa mà ra, sự phân hóa đó xảy ra một cách tiệm tiến và đến ngày
nay cũng chỉ mới phân hóa từng phần. Chúng tôi thử tìm điểm khởi đầu của sự tiến
hóa ấy.
Điều thứ nhất chúng tôi nghĩ đến đã minh thị rằng sự khẳng định trên cần phải
đính chính. Chúng ta phải chấp nhận rằng tâm lý cá nhân còn già đời hơn tâm lý
tập thể, bởi vì, theo sự hiểu biết của chúng tôi thì nó phải có từ thuở bắt đầu
có hai thứ tâm lý, vì đó là tâm lý của những người họp thành bầy và tâm lý người
cha, người cầm đầu, người chỉ huy. Các cá nhân trong đám đông cũng ràng buộc với
nhau như ngày nay, nhưng người cha của bầy ô hợp nguyên thủy thì tự do. Cả khi
đứng một mình người cha ấy cũng có hoạt động trí tuệ mạnh mẽ và độc lập, ý chí
của y không cần phải có nhiều người làm tăng cường độ. Như vậy hầu như chúng ta
có lý mà kết luận rằng cái tôi của y không bị giới hạn bởi những ràng
buộc libido, y không yêu ai ngoài sự yêu chính mình và y chỉ đánh giá người
khác theo tiêu chuẩn người khác dùng vào việc thỏa mãn nhu cầu của y. Cái tôi của
y không thiên về đối tượng quá một mức nào.
Vào thuở bình minh của lịch sử nhân loại y đại diện cho một siêu nhân mà
Nietzche chỉ đợi xuất hiện trong một tương lai xa xôi. Ngày nay những người của
đám đông cũng vẫn cần biết rằng người cầm đầu công bằng không thiên vị, nhưng
người cầm đầu không cần yêu ai cả, y có bản chất một người chủ, ngã ái của y
tuyệt đối, y độc lập và đầy tự chủ. Chúng ta biết rằng tình yêu làm suy giảm mức
ngã ái, rất dễ chứng minh rằng vì tác dụng suy giảm ngã ái mà tình yêu góp phần
vào sự khai triển văn minh.
Bấy giờ người cha của bầy ô hợp chưa thành một nhân vật bất tử, mãi sau này người
ta thần thánh hóa y, y mới trở thành nhân vật bất tử. Khi y chết thì phải kiếm
người thay thế, người kế vị chắc là đứa con ít tuổi nhất, đứa con ấy trước kia
cũng chỉ là một người thường của đám đông cũng như những người khác. Hẳn là có
thể biến đổi tâm lý tập thể ra tâm lý cá nhân, và có thể tìm điều kiện biến đổi
ấy, cũng như đàn ong có thể làm cho con ấu trùng trở thành con ong chúa chứ
không trở thành con ong quân. Ở đây người ta có thể tưởng tượng ra tình trạng
sau đây: người cha bàn cổ ấy cấm không cho các con thỏa mãn khuynh hướng dục
tính trực tiếp, y bắt con phải sống trinh bạch, hậu quả là khuynh hướng dục
tính được lái sang đường khác và tạo ra sự ràng buộc tình cảm với cha và với
anh em. Như vậy là y dùng sức mạnh đẩy các con vào tình trạng phát triển tâm lý
tập thể. Phân tích đến cùng thì sự ghen tuông và sự khắc nghiệt của người cha
bàn cổ đã tạo ra tâm lý tập thể [8].
Kẻ kế vị cha có hy vọng được thỏa mãn nhục dục, hậu quả là sự củng cố tâm lý cá
nhân đối diện với tâm lý tập thể. Y dồn libido vào một người đàn bà, y có thể
thỏa mãn ngay và thỏa mãn trực tiếp nhu cầu nhục dục, hai sự kiện ấy giảm bớt tầm
quan trọng của những khuynh hướng lái sang mục tiêu khác và tăng thêm mức độ
ngã ái. Đến chương cuối chúng tôi sẽ trở lại bàn đến mối liên lạc giữa tình yêu
và sự cấu tạo tính tình.
Bây giờ chúng ta hãy nghiên cứu những liên lạc đáng chú ý giữa sự tạo lập bầy ô
hợp nguyên thủy và sự tổ chức đám đông quy ước bảo đảm được tính cách đoàn kết.
Chúng ta đã biết rằng giáo hội và quân đội dựa vào ảo tưởng hay sự hình dung ra
một người cầm đầu yêu đồng đều và công bình tất cả mọi người dưới quyền mình.
Nhưng đó chỉ là sự lý tưởng hóa những điều kiện đã có trong bầy ô hợp nguyên thủy,
trong bầy ô hợp tất cả con trai đều bị cha đàn áp, người nào cũng sợ cha như
nhau. Sự thay đổi sợ hãi thành tình yêu là nền tảng của bộ lạc vật tổ, hình thức
xã hội kế tiếp, tình yêu trở thành nền tảng của mọi bổn phận xã hội. Sức mạnh bất
khả kháng của tập thể tự nhiên là gia đình, bắt nguồn từ sự tin tưởng ở người
cha yêu các con như nhau, sự kiện ấy đã được thực tại chứng minh.
Nhưng đem so sánh đám đông với bầy ô hợp nguyên thủy chúng ta còn rút ra những
nhận xét khác đáng chú ý. Nhờ sự hiểu biết ấy chúng ta rọi ánh sáng vào những
điểm còn mù mịt, bí hiểm trong một tập thể, vào những sự kiện mà chúng ta gọi bằng
những danh từ bí hiểm là thôi miên và ám thị. Xin nhắc lại rằng thôi miên có
cái gì làm cho xao xuyến một cách trực tiếp; và yếu tố xao xuyến đó chỉ có thể
xảy ra vì trấn áp tâm tình, thị dục và những khuynh hướng cũ vẫn quen thuộc [9]. Cũng nhắc lại rằng thôi miên là một trạng
thái cảm ứng. Ông thầy thôi miên cho rằng mình có một sức mạnh bí hiểm, hay nói
trái lại cũng vậy, người bị thôi miên gán cho ông thầy một sức mạnh bí hiểm làm
tê liệt ý chí của mình. Người ta quen gọi sức mạnh đó là nhân điện, nhân điện
chính là sức mạnh nguồn gốc của tục cấm kỵ ta thường thấy ở các xã hội bàn cổ;
đó cũng là sức mạnh phát ra từ người các vua chúa (Mana), ai đến gần sẽ mang
tai họa vào mình. Ông thầy thôi miên có sức mạnh ấy sẽ dùng cách nào để bộc lộ
ra? Họ dùng hai con mắt để thôi miên, họ bắt con đồng phải nhìn vào hai mắt họ.
Nhưng thực ra tướng mạo người cầm đầu làm cho người bàn cổ sợ hãi, làm cho họ
thấy nguy hiểm, cũng như sau này nguyên tắc sợ thần linh. Moise phải đứng làm
trung gian giữa dân chúng và Jehova vì dân chúng không dám nhìn Thượng đế; khi
Moise ở Sinai trở về, mặt ông ta tỏa hào quang, vì phần nào thần khí Mana đã nhập
vào ông ta [10] cũng như mấy người cầm đầu trong đám người
bàn cổ.
Tuy nhiên người ta có thể thôi miên bằng cách khác như bảo con đồng chăm chú
nhìn một vật sáng bóng hay để con đồng nghe một tiếng động đều đều. Nhưng
phương pháp này không chắc lắm, và người ta đã đưa ra nhiều thuyết tâm lý thiếu
sót, có khi sai lạc. Thực ra phương pháp chỉ dùng để tập trung ý tứ tâm thức của
con đồng không cho phép họ chú ý đến cái gì khác. Họ làm vậy cũng như họ bảo:
"Bây giờ chỉ được chú ý đến ta, còn ngoài ra không có cái gì đáng kể".
Hẳn là nếu họ nói ra miệng như vậy thì kỹ thuật của họ không hữu hiệu, bởi vì họ
sẽ làm cho con đồng tỉnh táo không còn vô tâm nữa, con đồng sẽ ý thức mà phản đối
họ. Nhưng trong khi họ làm cho tư tưởng có ý thức của con đồng chìm vào một
thái độ mơ màng không để ý đến thế giới bên ngoài, ý tứ của con đồng tập trung
cả vào họ mà chính con đồng cũng không ngờ, thì giữa ông thầy và con đồng có một
mối tương hệ tùy thuộc, con đồng "di chuyển" tình cảm dục tính nguyên
thủy sang ông thầy. Cũng như phương pháp kỹ thuật dùng để nói những câu ý vị,
những câu khôi hài được mọi người thích thú, phương pháp thôi miên gián tiếp có
hậu quả làm cho người ta tập trung được ý tứ không để tản mát tinh lực tâm thần,
không ngăn cản sự diễn biến của những tiến trình tiềm thức, rốt cục ông thầy
cũng đi đến những kết quả đạt được bằng cách dùng ảnh hưởng trực tiếp, bắt con
đồng nhìn chăm chú vào một vật sáng bóng hay lấy tay xoa trên người con đồng [11].
Ông Ferenczi đã có lý khi ông nói rằng khi ông thầy bảo người bệnh ngủ đi, để sửa
soạn thôi miên, ông thầy đối với họ cũng như cha mẹ họ vậy. Ông cho rằng có thể
chia ra hai loại thôi miên: thôi miên bằng cách ám thị êm ái như vuốt ve, và
thôi miên bằng cách ra một lệnh đe dọa. Loại thứ nhất là thôi miên mẫu tính, loại
thứ hai là thôi miên phụ tính [12]. Ra lệnh cho con bệnh ngủ để tạo trạng
thái thôi miên thực ra chỉ là lệnh bảo con đồng quên thế giới bên ngoài và để hết
ý tứ vào cá nhân ông thầy: vả chăng chính con đồng cũng hiểu như vậy, bởi vì
quên hẳn mọi sự việc trên đời cũng chính là đặc điểm tâm lý của giấc ngủ, chính
vì có chung đặc điểm ấy mà giấc ngủ thực sự gần với giấc ngủ thôi miên.
Ông thầy thôi miên dùng phương pháp của ông ta để thức tỉnh một phần gia tài cổ
xưa trong tâm thần con đồng, người ta đã bộc lộ phần gia tài ấy trong thái độ đối
với cha mẹ, nhất là trong cách hình dung ra người cha: hình ảnh một người oai
quyền tuyệt đối và nguy hiểm, đối với người cha ấy người ta chỉ có thể có thái
độ thụ động và tự hành hạ mình, người ta phải bỏ cả ý chí của mình, người ta
không thể nhìn cha mà không cho là mình đã liều lĩnh phạm tội. Chỉ có như vậy
chúng ta mới hình dung được thái độ của một người trong bầy ô hợp nguyên thủy đối
với người cha của bầy. Nghiên cứu những phản ứng khác của con người chúng tôi
biết rằng người này dễ sống lại những tình trạng bàn cổ ấy hơn người kia. Tuy
nhiên con đồng có thể giữ được một cách lờ mờ ý thức rằng trò thôi miên chỉ là
một trò chơi, làm sống lại những ấn tượng cổ xưa một chốc lát, điều đó đủ làm
cho họ có đủ sức chống cự lại những hậu quả nghiêm trọng quá của trò chơi thôi
miên triệt bỏ ý chí của họ.
Bởi vậy cho nên những đặc điểm của đám đông như bối rối, lo lắng, ép buộc, xuất
lộ vì có sự hỗ ương ám thị đều có thể cắt nghĩa như sau: đám đông có những nét
tương đồng với bầy ô hợp nguyên thủy, bầy ô hợp nguyên thủy là tổ tiên của đám
đông. Người cầm đầu đám đông là hóa thân của người cha bàn cổ mà ai cũng sợ,
đám đông vẫn muốn bị thống trị bởi một oai quyền không giới hạn, người ta khao
khát được cai trị, hay dùng danh từ của Le Bon, người ta khao khát phục tòng.
Người cha bàn cổ là lý tưởng chi phối đám đông, lý tưởng ấy chiếm chỗ của lý
tưởng tôi. Thôi miên có thể quan niệm là một đám đông hai người, nhưng nếu muốn
nói đến ám thị thì cần phải bổ túc thêm: trong đám đông hai người kẻ bị thôi
miên phải có một sự tin tưởng, sự tin tưởng ấy không đặt trên những điều mắt thấy
tai nghe hay trên sự suy lý mà đặt trên sự ràng buộc bởi cái Eros [13].
11. Một trình độ phát triển của cái tôi: lý tưởng tôi
Những sách viết về tâm lý tập thể đã mô tả rất nhiều hiện tượng tâm lý ấy, công
việc mô tả của người này bổ túc công việc của người kia và đã rọi ánh sáng vào
vấn đề, nhưng nếu căn cứ vào đó để xét đoán đời sống của con người ngày nay thì
chúng ta bị đặt trước những sự kiện hết sức phức tạp làm nản chí mọi ý muốn tổng
hợp. Mỗi người tham dự vào rất nhiều đoàn thể, để lộ rất nhiều cách đồng nhất
hóa khác nhau, hướng về rất nhiều mục đích vì bị ràng buộc bởi nhiều mối dây,
xây dựng lý tưởng tôi của mình theo những mẫu rất khác nhau. Như vậy
mỗi người tham dự vào nhiều linh hồn tập thể, linh hồn của chủng tộc, của giai
cấp, của cộng đồng nghề nghiệp, của nhà nước, v.v. ngoài ra họ còn có thể vươn
lên mức độ độc lập và đặc thù nào đó. Những đoàn thể ổn cố và bền bỉ ảnh hưởng
đến con người một cách đều đều, bởi vậy ảnh hưởng đó không được người quan sát
lưu ý bằng những sự kiện bộc lộ ở những đám người tụ hội nhất thời và cũng
chóng tan rã, chính đám đông nhất thời ấy đã cung cấp tài liệu cho Le Bon về đặc
điểm của linh hồn tập thể; và cũng chính trong đám đông ồn ào, nhất thời tụ họp
và có thể nói rằng chùm lên các đám đông ổn cố khác, mà người ta nhận thấy những
đặc điểm của cá nhân tạm thời biến mất.
Chúng tôi đã thử giải thích sự lạ lùng ấy bằng cách giả thiết rằng cá nhân lìa
bỏ lý tưởng tôi của họ để chấp nhận lý tưởng tập thể, thể hiện bởi
người cầm đầu. Tuy nhiên cần phải đính chính rằng không phải trong đủ mọi trường
hợp ta đều thấy phép lạ ấy như nhau. Nhiều khi sự ly dị giữa cái tôi và lý
tưởng tôi không hoàn toàn, cả hai cái có thể đồng hiện diện, cái tôi vẫn
giữ được ít ra một phần nào tính ngã ái của nó. Nhờ vậy mà sự lựa chọn người cầm
đầu được dễ dàng hơn nhiều. Họ chỉ cần có những đức tính điển hình của con vật
làm chúa ở trạng thái tinh thuần và dễ thấy rồi nhờ có sức mạnh và sự tự do dục
tính của họ mà người khác phải nghe theo họ, thế là họ được tôn lên làm chúa và
có oai quyền tuyệt đối mà có lẽ họ cũng không bao giờ dám mơ màng đến nếu không
có hai đức tính ấy. Còn những người khác, nghĩa là những người không thấy người
cầm đầu thể hiện được đầy đủ lý tưởng tôi của họ, họ bị lôi cuốn vì sự
ám thị, nghĩa là nhân sự đồng nhất hóa.
Tóm lại phần đóng góp của tôi vào sự giải thích cơ cấu libido của đám đông thu
gọn trong sự phân biệt cái tôi và lý tưởng tôi, kế đấy là sự
phân biệt hai loại ràng buộc, thứ nhất là ràng buộc nhân sự đồng nhất hóa, thứ
hai là ràng buộc nhân sự thay thế lý tưởng tôi bằng một đối tượng
libido ở ngoài. Giả thuyết lý tưởng tôi đã giúp chúng tôi đi những bước
đầu trong sự phân tích cái tôi, dần dần chúng tôi nhận thấy giá trị của nó
khi đem áp dụng vào nhiều lãnh vực tâm lý học khác nhau. Trong bản nghiên cứu
Zur Einführung des Narzissmus [14] chúng tôi đã thâu góp những dữ kiện bệnh
lý học biện minh cho sự phân biệt ấy. Nhưng tất cả đều cho phép chúng tôi hy vọng
rằng sự nghiên cứu tâm lý học sâu rộng về bệnh biến thái tâm thần (psychose) sẽ
làm hiển hiện tầm quan trọng của nó. Bây giờ chúng ta chỉ nên biết rằng
cái tôi lập một liên lạc giữa đối tượng và lý tưởng tôi, và có lẽ
chúng ta chứng kiến một hiện tượng sau đây: bên trong cái tôi sẽ lập
lại những tác động và phản ứng hỗ tương đã xảy ra giữa đối tượng ở ngoài và
toàn thể cái tôi như lý thuyết bệnh suy nhược thần kinh đã cho chúng
ta biết.
Ở đây chúng tôi chỉ luận đến một trong những hậu quả của cách nhìn ấy, nhân tiện,
chúng tôi có dip bàn lại một vấn đề chưa có giải đáp [15]. Mỗi sự phân hóa tâm thần, như chúng
tôi biết, lại gây ra thêm một sự khó khăn cho tác động tâm thần, làm yếu ớt
thêm và có thể trở thành khởi điểm của sự đình chỉ hoạt động tâm thần, của bệnh
tật. Sinh ra đời là từ trạng thái ngã ái tự túc tự mãn bước sang tình trạng tri
giác thế giới bên ngoài thay đổi luôn luôn và khám phá ra đối tượng lần thứ nhất;
kết quả của sự chuyển tiếp căn bản ấy là chúng ta không thể chịu đựng quá lâu
tình trạng mới tạo ra bởi sự sinh ra đời, chúng ta lẩn tránh nó từng lúc để ẩn
thân vào giấc ngủ và thấy lại trạng thái trước nằm trong bào thai mẹ bình nhiên
và cách biệt hẳn thế giới bên ngoài. Vả chăng việc trở lại tình trạng tiền sinh
cũng là hậu quả của sự thích ứng với ngoại giới, nhờ có ban đêm kết tiếp ban
ngày mà chúng ta xóa bỏ được phần lớn những kích thích của đời sống hoạt động
ban ngày.
Trải qua sự phát triển của con người từ bé tới lớn, tâm thần phân hóa,
cái tôi nhất trí được thành lập, mặt khác cũng thành lập một
cái tôi tiềm thức, tức là cái tôi bị dồn nén khác với
cái tôi ý thức; sự ổn cố của những thành phần mới tạo ra này luôn
luôn bị đe dọa. Trong giấc mơ và trong bệnh suy nhược thần kinh cái tôi tiềm
thức bị cô lập tìm đủ mọi cách để len lỏi phá cửa vào tâm thức, cửa ngõ ấy được
bảo vệ bằng đủ mọi cách. Trong lúc thức và tâm thần khỏe mạnh chúng ta dùng đến
những cách giả tạo đặc biệt để cho phần bị dồn nén tạm thời bước vào cái tôi,
chúng ta tìm cách dẹp bỏ những khó khăn, đánh lừa những sức kháng cự để giúp nó
và chúng ta hưởng một chút khoan khoái nào đó. Đứng về phương diện đó chúng ta
có thể cắt nghĩa được nét trí khôn và sự hài hước và phần nào nghệ thuật khôi
hài nói chung. Những ai đã hiểu biết tâm lý bệnh suy nhược thần kinh đều có thể
tìm ra những thí dụ tương tự, nhưng có lẽ có tầm quan trọng kém hơn. Chúng tôi
không nói nhiều về điểm ấy vì chúng tôi phải đem áp dụng quan điểm trên đây vào
những trường hợp cần phải chú ý trong lúc này.
Chúng ta có thể chấp nhận hẳn rằng sự phân ly cái tôi với lý tưởng
tôi cũng không thể chịu đựng lâu được và thỉnh thoảng lại có tình trạng
thoái lui. Mặc dù bị cấm đoán và hạn chế, người ta vẫn có lúc vi phạm, bằng chứng
là dân chúng rất ưa thích những dịp hội hè cương thường được nới rộng đôi chút
(Vật tổ và cấm kỵ). Những ngày hội của người La Mã và những hội hóa trang ngày
nay rất giống hội hè của người bàn cổ ở điểm chính yếu là người ta được buông
cương thả lỏng, vi phạm những tục lệ được coi là thiêng liêng nhất. Nhưng lý
tưởng tôi là tổng số những sự hạn chế mà con người phải uốn mình theo, bởi
vậy khi nào cái tôi trở về với lý tưởng, khi nào cái tôi giải
hòa với lý tưởng, thì con người thấy mình bằng lòng mình, sự thỏa lòng ấy tương
đương với cái vui sướng ngày hội linh đình [16].
Có những người mà tâm trạng vui buồn có định kỳ, hết rầu rĩ quá độ lại chuyển
sang những mức phải tôn lên đến mức an vui cao độ. Sự dao động ấy lúc mạnh lúc
yếu, khi thì quá yếu không thấy được, khi thì mạnh cực độ, như trong trường hợp
bệnh ưu uất (mélancolie) và điên cuồng (manie), những trạng thái rất thống khổ
gây ra nhiều xáo trộn tâm thần cho người bệnh.
Trong những trường hợp điển hình của tâm trạng biến đổi có định kỳ như thế,
hình như việc đời không có ảnh hưởng quyết định; về những lý do gây ra bệnh của
họ người ta cũng không thấy lý do nào khác những lý do bệnh khác. Bởi vậy người
ta quen lệ cho rằng những trường hợp ấy không có căn bệnh tâm thần. Nhưng có những
trường hợp tâm trạng vui buồn có định kỳ tương tự lại rất dễ quy vào loại ngoại
thương tâm thần sau này sẽ nói đến.
Như vậy thì không ai biết rõ những lý do gây ra sự dao động bộc phát của trạng
thái tâm tình. Chúng ta cũng không biết gì hơn về động cơ đã làm cho ưu uất
(mélancolie) chuyển sang điên cuồng (manie). Vì không có cách giải thích nào
khác cho nên chúng tôi tạm đem giả thuyết nói trên áp dụng cho những bệnh ấy: lý
tưởng tôi sau khi đã kiểm soát gắt gao cái tôi, có lúc tạm thời hợp lại
với cái tôi làm một.
Để tránh khỏi sự tối tăm, xin độc giả nhớ kỹ điều này: theo cách phân tích của
chúng tôi thì không thể chối cãi được rằng cái tôi và lý tưởng
tôi của người điên cuồng (maniaque) chỉ là một, thậm chí người ấy bị chi
phối bởi một cảm tưởng đắc thắng và thỏa mãn, họ không bị chỉ trích, họ tự do
phóng túng không còn phải hối hận e ngại gì cả. Đối với trường hợp bệnh ưu uất
thì không được hiển nhiên như thế nhưng cũng có thể đúng: cái khổ sở của người
bệnh là sự chống đối kịch liệt giữa hai phần của cái tôi, lý tưởng
tôi quá khắt khe lên án cái tôi nghiêm ngặt thành thử người bệnh
tự hạ mình, tự nhục mạ. Đây chỉ biết rằng nguyên nhân sự bất hòa ấy nên tìm ở
chỗ khác hay ở những cuộc náo loạn từng định kỳ nói ở trên.
Vả chăng sự biến thành điên cuồng cũng không phải là nhất định phải có trong số
những triệu chứng bệnh hoạn của sự suy yếu ưu uất. Có những chứng ưu uất đơn,
chỉ có một cơn hay lên cơn từng định kỳ mà không biến thành điên cuồng. Nhưng
cũng có những trường hợp ưu uất mà điều kiện ở ngoài đóng một vai trò hiển
nhiên về phương diện bệnh căn. Những trường hợp ấy xảy ra vì có người thân chết,
hoặc vì người ta gặp nghịch cảnh, người ta không yêu nữa, người ta thu hồi cái
libido trước đã đem phóng vào đối tượng yêu. Cũng như bệnh ưu uất ngẫu phát, bệnh
ưu uất do tâm thần gây ra có thể biến đổi sang chứng điên cuồng rồi sau đó trở
lại ưu uất, chu kỳ ấy trờ đi trở lại nhiều lần. Như vậy thì tình trạng cũng khá
tối tăm, nhất là cho đến ngày nay phân tâm học ít khi chữa những hình thức và
những trường hợp bệnh ưu uất [17].
Những trường hợp duy nhất mà chúng tôi hiểu rõ hiện nay là trường hợp người ta
từ bỏ người yêu vì người yêu tỏ ra không xứng đáng. Bấy giờ sẽ xảy ra trường hợp
sau đây: đối tượng được tái tạo ra trong cái tôi do sự đồng nhất hóa
và nó bị lý tưởng tôi lên án nặng nề. Sự sỉ vả đả kích đối tượng
thành ra đả kích sỉ vả chính mình [18].
Cả loại ưu uất có thể biến thành điên cuồng, thậm chí đặc điểm ấy xuất hiện như
một đặc điểm không dính dáng gì đến những đặc điểm của bảng liệt kê những dấu
hiệu bệnh hoạn.
Nhưng chúng tôi không thấy khó khăn gì khi chúng tôi lấy yếu tố náo loạn định kỳ
giữa cái tôi và lý tưởng tôi để giải thích hai loại bệnh ưu
uất, ưu uất ngẫu phát và ưu uất có nguyên nhân tâm thần. Còn như đối với chứng
ưu uất ngẫu phát thì người ta có thể chấp nhận rằng lý tưởng tỏ vẻ nghiêm khắc
quá, hậu quả là nó bị tiêu diệt nhất thời một cách tự động. Trong những trường
hợp ưu uất do nguyên nhân tâm thần, cái tôi nổi loạn vì lý tưởng
tôi nghiệt khắc với nó, trách cứ nó đồng nhất hóa với một đối tượng đáng
ghét và đã bị loại bỏ.
12. Một vài quan điểm phụ
Công việc nghiên cứu của chúng tôi có thể coi như đã tạm kết thúc; trong khi
tìm tòi chúng tôi đã thấy mở ra nhiều viễn tượng. Tuy rằng chúng tôi có hy vọng
khám phá mới lạ và tiến vào những hướng tốt đẹp, nhưng chúng tôi chưa tiện bước
vào những con đường mới ấy; trong chương cuối này chúng tôi chỉ có thể bàn lại
những điểm chưa kịp nói hết trong các chương trên.
A. Chúng tôi phân biệt ra sự đồng nhất hóa cái tôi và sự thay thế lý
tưởng tôi bằng một đối tượng. Hai đám đông quy ước nói ở trên, quân đội và
giáo hội Công giáo, đem lại cho chúng tôi những thí dụ ý nghĩa vì sự phân biệt ấy.
Hẳn là vị bề trên trong một tổ chức giáo hội cũng không khác ông tướng trong
quân đội, ông tướng tượng trưng cho lý tưởng của quân lính, còn mối dây liên lạc
giữa quân lính với nhau đặt trên nền tảng đồng nhất hóa, do đó mà mọi người có
bổn phận với anh em đồng đội và được anh em đồng đội săn sóc giúp đỡ. Trái lại
một người lính muốn tự đồng nhất hóa với người cầm đầu mình sẽ dơ dáng dại hình
đến thế nào? Không phải là không có lý do mà trong trại Wallenstein một binh
nhì chế diễu viên đội trưởng với lời lẽ như sau:
"Ông bắt chước đại tướng từ cách nhổ nước miếng đến bước đi."
Trong giáo hội Công giáo thì khác. Mỗi người con chiên yêu đức Chúa như yêu lý
tưởng của mình và mỗi người bị ràng buộc với người khác bởi sự đồng nhất hóa.
Nhưng giáo hội đòi hỏi ở họ nhiều hơn thế. Họ phải tự đồng nhất hóa với Chúa và
phải yêu người khác cũng như Chúa yêu họ. Như vậy giáo hội đòi hỏi tình trạng
ràng buộc libido đã tạo ra trong cộng đồng phải có hai chiều bổ túc. Một đằng,
đồng nhất hóa bổ túc tình yêu, đằng khác tình yêu bổ túc đồng nhất hóa. Hai sự
bổ túc ấy vượt hẳn tình trạng của đám đông. Người ta có thể là người tin đạo
nhưng không bao giờ có ý đặt mình vào địa vị Chúa Christ và mở rộng cõi lòng
yêu tất cả mọi người như Chúa đã làm. Người hèn kém không thể có ngưỡng vọng đặt
tới tâm hồn cao thượng và sức mạnh của chúa Christ. Nhưng Kitô giáo duy trì và
khuyến khích ngưỡng vọng ấy cho nên đã tạo được một nền luân lý cao hơn.
B. Chúng tôi đã nói rằng nghiên cứu sự phát triển tâm thần của nhân loại,
người ta có thể xác định được thời kỳ mà tâm lý cá nhân thoát ra từ tâm lý tập
thể, thời kỳ cá nhân đạt được chút độc lập đối với đám đông [19].
Bây giờ xin trở lại huyền thoại khoa học về người cha của bầy người ô hợp
nguyên thủy. Người cha ấy sau này trở nên đấng sáng tạo thế gian, điều đó hữu
lý vì y đã sinh ra các con trong đám đông thứ nhất. Đối với đứa con nào y cũng
là người lý tưởng đáng sợ đáng tôn thờ, đó là nguồn gốc của khái niệm cấm kỵ
sau này. Đám con một ngày kia xúm lại giết cha và làm phân tán quyền tối thượng
ấy. Tuy đắc thắng nhưng không người con nào nắm được địa vị của người cha, nếu
có người nào muốn làm thế thì cả bọn trở nên thù nghịch tiếp theo là tranh
giành và giết chóc. Sau cùng họ đành phải từ bỏ ý muốn cái quyền của người cha.
Họ bèn thành lập cộng đồng huynh đệ vật tổ, mọi người đều có quyền ngang nhau,
đều liên lạc với nhau bởi cùng những sự cấm đoán, phải nhờ đến những cuộc chém
giết ghê sợ và cùng phải ăn năn tội lỗi. Nhưng vẫn còn sự bất mãn với nếp trật
tự ấy và đó là nguồn gốc của sự tiến triển khác. Dần dần các phần tử trong cộng
đồng huynh đệ lập lại trật tự cũ theo một kế hoạch mới; người đàn ông lại là
người cầm đầu nhưng chỉ còn là trưởng gia đình, y dẹp bỏ mọi uy quyền của chế độ
mẫu hệ đã thành hình từ khi giết người cha nguyên thủy. Để bù lại, trưởng gia
đình thừa nhận những thần linh mẫu hệ mà kẻ thờ phượng là các thầy phép đã bị
hoạn, họ theo gương người cha của bầy ô hợp nguyên thủy, tuy nhiên gia đình mới
này chỉ là cái bóng của gia đình cũ, nhiều cha quá, quyền hành của người này bị
hạn chế bởi quyền hành của những người khác.
Sự cấm đoán kéo dài làm người ta sốt ruột cho nên có người định vượt lên trên
đám đông để giữ địa vị người cha. Người có ý ấy là nhà thi sĩ anh hùng ca đầu
tiên, sự tiến bộ chỉ có trong trí tưởng tượng của y mà thôi. Nhà thi sĩ này đã
biến đổi thực tại theo ý muốn của y. Y phát minh ra huyền tượng anh hùng. Kẻ
nào một mình giết được người cha thì kẻ ấy là anh hùng, người anh hùng ấy còn
xuất hiện trong huyền thoại như một con quỷ vật tổ. Người cha là người lý tưởng
đầu tiên của đứa trẻ, còn người anh hùng đúng như trí tưởng tượng của nhà thi
sĩ tạo ra, sẽ là lý tưởng tôi đầu tiên, có ngưỡng vọng chiếm địa vị của
người cha. Có lẽ nhà thơ cho là đứa con út có thể làm được công việc ấy, con út
là con yêu của mẹ, đứa con út được mẹ che chở khi cha ghen ghét, vào thời kỳ sống
thành bầy ô hợp nguyên thủy nó là người kế vị cha. Khiếu thi vị hóa sự thật của
thời kỳ ấy: người đàn bà gây ra sự chém giết nhau và là đầu mối của sự thèm muốn
đã được biến đổi thành mụ xúc xiểm và đồng lõa trong các cuộc xung đột.
Huyền thoại cho rằng chỉ có người anh hùng là lập được công trạng, nhưng hẳn là
phải có cả bầy mới lập được công trạng ấy. Theo Rank thì người ta tìm ra những
di tích rõ ràng của tình trạng trong các truyện hoang đường, truyện hoang đường
chỉ làm biến dạng mà thôi. Trong các truyện hoang đường thường nói đến người
con út nhờ tính khờ khạo mà thoát khỏi bàn tay độc ác của cha, cha cho rằng nó
không nguy hiểm. Người anh hùng ấy có trách nhiệm cao trọng nhưng muốn thành
công phải có sự góp sức của một bầy vật nhỏ như ong, kiến. Những con vật ấy chỉ
là cách biểu tượng bầy anh em trong bầy ô hợp nguyên thủy, cũng như trong biểu
tượng giấc mơ sâu bọ côn trùng tượng trưng cho anh em và chị em (coi là trẻ con
với ý khinh bỉ). Ngoài ra người ta còn nhận thấy dễ dàng rằng những hành vi nói
trong huyền thoại và truyện cổ tích tượng trưng cho chiến công của người anh
hùng.
Vậy thì con người vượt qua được tình trạng tâm lý tập thể nhờ có huyền thoại.
Huyền thoại đầu tiên hẳn là có ý nghĩa tâm lý, đó là huyền thoại người anh
hùng. Huyền thoại giải thích thiên nhiên nhắc lại mãi sau này mới xuất hiện.
Người thi sĩ bước được bước ấy để lợi dụng trí tưởng tượng của quần chúng cũng
biết cách trở lại với cuộc sống thực sự, như Rank đã nói. Y đi chỗ này chỗ khác
kể cho mọi người nghe những công nghiệp mà trí tưởng tượng của y gán cho người
anh hùng, còn người anh hùng ấy thực ra là chính y. Như vậy là y trở lại với thực
tại trong khi đưa người nghe lên ngang với tầm tưởng tượng của y. Những người
nghe biết rõ nhà thi sĩ của họ lắm, họ tự đồng nhất hóa với người anh hùng và
cùng có một thái độ đối với người cha nguyên thủy, một thái độ đầy ham muốn
chưa thực hiện được.
Sự thần thánh hóa người anh hùng đã tâng bốc huyền tượng anh hùng. Có thể rằng
người anh hùng thần thánh hóa có trước người cha thần thánh hóa vào báo trước
ngày trở về của người cha nguyên thủy mà bề ngoài một ông thần. Như vậy theo thứ
tự thời gian chúng ta có: nữ thần-mẹ, rồi sau mới có anh hùng-ông trời-cha. Chỉ
khi nào người cha nguyên thủy mà loài người không bao giờ quên được nâng lên
hàng một ông trời, là bấy giờ ông trời mới có những đặc điểm như chúng ta thấy
ngày nay. (Trong sự trình bày vắn tắt này, chúng tôi đã phải loại bỏ nhiều tài
liệu thâu lượm được trong các truyện hoang đường, huyền thoại, cổ tích, phong tục,
v.v...)
C. Trong cuốn sách này chúng tôi thường hay nói đến khuynh hướng dục tính
trực tiếp và khuynh hướng dục tính lái sang chiều khác, chúng tôi hy vọng rằng
sự phân biệt ấy không làm cho người đọc quá thắc mắc. Tuy nhiên, đem một vài
chi tiết ra bàn lại cũng không đến nỗi vô ích, mặc dù chúng tôi phải nhắc lại
những điều đã nói ở trên.
Thí dụ đầu tiên ý nghĩa hơn cả về khuynh hướng dục tính bị lái sáng đường khác
có thể tìm trong sự tiến triển của cái libido trong đứa trẻ con. Tâm tình của đứa
trẻ đối với những người chăm nom nó vẫn còn giữ được nguyên vẹn trong những ý
muốn của nó, ý muốn ấy bộc lộ khuynh hướng dục tính của nó. Đứa trẻ đòi người
thân của nó phải bày tỏ với nó những cách âu yếm mà nó biết, nó muốn hôn hít,
ôm ấp, nhìn họ, nó nhìn bộ phận sinh dục của nó với con mắt hiếu kỳ, nó cũng có
thái độ hiếu kỳ đối với sự bài tiết phân và nước tiểu của nó, nó hứa sẽ lấy mẹ
nó hay lấy người vú nuôi nó tuy chỉ có những sở kiến lông bông về lấy vợ lấy chồng,
nó muốn làm cho cha nó đẻ một đứa con, v.v. Sự quan sát trực tiếp và sự phân
tích về sau những vết tích tuổi thơ cho chúng tôi biết chắc rằng có những mối
dây mật thiết giữa âu yếm và ghen tị một bên, bên kia là những ý hướng dục
tính; sự quan sát và phân tích ấy chứng tỏ rằng đứa trẻ lấy người thân yêu nó
làm đối tượng cho những khuynh hướng dục tính đặt chưa đúng hướng.
Hình thức tình yêu thứ nhất của đứa trẻ liên hệ mật thiết với mặc cảm Oepide,
lúc khởi sự thời kỳ lắng chìm thì hình thức tình yêu ấy bị đàn áp. Chỉ còn lại
một sự ràng buộc thương mến thuần túy, nhưng sự thương mến ấy không thể gọi bằng
tính từ "tình dục" được. Phân tâm học cố gắng rọi ánh sáng vào chỗ
thâm sâu đời sống tâm thần, chúng tôi đã minh thị rằng những ràng buộc dục tính
của mấy năm đầu tuổi thơ vẫn còn nhưng còn ở tình trạng dồn nén trong tiềm thức.
Chúng tôi có thể cả quyết rằng sự thương mến người nào chỉ là một tâm tình kế
tiếp sự ràng buộc có khuynh hướng dục tính đặt chưa đúng hướng nói ở trên, hay
đúng hơn, là một biểu thị biểu tượng (imago) của sự ràng buộc ấy.
Hẳn là phải có một cuộc kháo sát riêng mới có thể biết được rằng trong một trường
hợp nhất định luồng khuynh hướng dục tính cũ còn đó hay đã khô cạn hẳn. Hay nói
rõ ràng hơn: nó vẫn còn đó, nhưng chỉ còn là một hình thể, một khả năng, nhân một
sự thoái lui nó lại có thể ngoi lên: điều cần biết là bây giờ nó còn hiệu lực đến
mức nào, điều đó không phải là dễ. Chúng ta cần phải tránh hai sự lỗi lầm: đánh
giá quá thấp cái tiềm thức bị đàn áp và phán đoán những hiện tượng bình thường
bằng những tiêu chuẩn chỉ áp dụng cho những hiện tượng bệnh hoạn.
Đối với một quan niệm tâm lý học không chịu đi sâu xuống những tâm tình bị đàn
áp thì những ràng buộc tâm tình thương mến không làm gì có tính cách dục tính,
mặc dù chúng xuất phát từ những khuynh hướng có đối tượng dục tính [20].
Chúng ta có quyền để cả quyết rằng những khuynh hướng mà chúng ta nói đến là những
khuynh hướng đã bị lái sang con đường khác mục tiêu dục tính, tuy rằng chúng ta
khó mà mô tả sự thiên lệch ấy cho hợp với phân phối tâm lý siêu hình. Tuy
nhiên, chúng ta có thể nói rằng những khuynh hướng bị ngăn cản ấy vẫn có mầu sắc
dục tính ít nhiều: người cảm mến ai, tôn thờ ai vẫn có gần gụi và thấy mặt người
mình cảm mến, tình yêu đây không còn sắc thái ái tình. Chúng ta có thể coi sự cải
đổi mục tiêu ấy là sự bắt đầu thăng hoa khuynh hướng dục tính. Đứng về phương
diện chức vụ thì những khuynh hướng dục tính không bị cản trở. Vì không thể thỏa
mãn hoàn toàn được cho nên những khuynh hướng ấy tỏ ra có thể tạo ra những mối
ràng buộc lâu bền, còn như những khuynh hướng dục tính trực tiếp có thể thoái
giảm sau mỗi lần thỏa mãn, đối tượng của nó cũng có thể thay đổi được, nó có thể
bỏ người cũ, tìm người khác. Những khuynh hướng bị cản trở có thể hòa lẫn với
những khuynh hướng không bị cản trở theo những tỉ lệ nhiều ít khác nhau, biến đổi
một lần nữa thành khuynh hướng không bị cản trở.
Người ta biết rằng những liên lạc thân mến có tính cách bạn hữu của người đàn
bà biết ơn và thán phục ai, rất dễ trở thành ham muốn tình ái, thí dụ như tình
thầy trò, người con gái cảm phục một nghệ sĩ.
Những ràng buộc tình cảm như thế tuy mới đầu không hề có ý tìm tình, nhưng sẽ dẫn
tới ngay cửa vào ước vọng dục tính. Trong cuốn Lòng mộ đạo của hầu tước
Zinzendorf, Pfister đã đưa ra một thí dụ ý nghĩa để minh thị rằng sự ràng buộc
tôn giáo mạnh mẽ dễ trở thành sự thèm muốn dục tính bồng bột đến thế nào. Vả
chăng, sự biến đổi khuynh hướng dục tính trực tiếp thành sự cảm mến thuần túy bền
bỉ cũng là sự chi thường, và sự biến đổi ấy là phần lớn nền tảng để củng cố một
cuộc hôn nhân lấy nhau vì say mê nhau.
Dĩ nhiên, chúng ta không lấy làm lạ mà nhận thấy rằng những khuynh hướng dục
tính bị cản trở cũng do những khuynh hướng dục tính trực tiếp mà ra, chúng phát
sinh khi nào có sự trắc trở bên ngoài hay trong nội tâm chống lại mục tiêu dục
tính. Sự dồn nén xảy ra trong thời kỳ lắng chìm dục tính chính là một trong những
trở ngại bên ngoài nhập vào nội tâm thành trở ngại bên trong. Trở lại người cha
nguyên thủy của bầy ô hợp nguyên thủy, chúng ta đã chấp nhận rằng ông ta nghiệt
khắc, ông ta bắt các con không được thỏa mãn tình dục, thành thử những khuynh
hướng dục tính của các con bị cản trở mục tiêu, còn chính ông ta thì ông ta tự do
thỏa mãn dục tính và không có sự ràng buộc nào cả. Tất cả sự ràng buộc của các
phần tử trong đám đông đều bắt nguồn từ những khuynh hướng bị cản trở. Nhưng
nói đến đây chúng ta đã bước sang một đề tài khác liên hệ đến những liên lạc giữa
khuynh hướng dục tính trực tiếp và sự thành lập một đám đông, một đoàn thể.
D. Những điểm sau cùng đã cho phép chúng ta hé thấy những khuynh hướng dục
tính trực tiếp không thuận lợi cho sự cấu tạo tập thể chút nào. Hẳn là trong sự
tiến triển của gia đình có một giai đoạn hôn nhân "tập thể", nhưng
tình yêu dục tính càng có tầm quan trọng đối với cá nhân, cá nhân càng trở nên
si tình, thì tình yêu càng hướng về sự giới hạn trong hai người mà thôi - una
cum uno - bản chất của mục tiêu dục tính hình như cũng bắt buộc như thế.
Những khuynh hướng hôn phối đành phải bằng lòng với sự thay thế đối tượng tình
yêu này bằng đối tượng tình yêu khác.
Hai người tụ họp với nhau nhằm mục đích thỏa mãn dục tính vẫn tìm đến nơi biệt
tịch, sự kiện ấy là một minh chứng sống động để chống lại bản năng quần cư và ý
thức tập thể. Hai người càng yêu nhau, họ càng tự túc tự mãn. Sự cố gắng thoát
khoải ảnh hưởng đám đông bộc lộ dưới hình thức cảm tưởng xấu hổ. Những xúc động
rất mãnh liệt gây ra bởi lòng ghen dùng để bảo vệ người mình lựa chọn khỏi sự
xúc phạm có thể xảy đến vì sự ràng buộc tập thể, chỉ khi nào yếu tố cá nhân
trong tình yêu tức sự thương mến đã biến mất hẳn và chỉ nổi bật có yếu tố nhục
dục, bấy giờ mới có thể có những sự loạn dâm công khai như những buổi hội phóng
dục gọi là "Orgie" của người La Mã thời cổ. Nhưng đây cũng là sự
thoái lui của liên lạc dục tính về tình trạng trước, trong đó ái tình đúng
nghĩa không đóng một vai trò nào cả, đối tượng dục tính nào cũng có giá trị
ngang nhau, cũng gần như Bernard Shaw đã nói một cách độc địa: "Yêu nghĩa
là phóng đại vô chừng sự khác biệt giữa người đàn bà này và người đàn bà
khác".
Rất nhiều sự việc khác như biện minh cho quan điểm rằng ái tình xuất hiện rất
muộn trong sự liên lạc dục tính giữa trai gái, do đó sự đối lập giữa tình yêu dục
tính và sự ràng buộc tập thể cũng xuất hiện muộn. Mới nhìn thì sự giả thiết ấy
hầu như không thể dung hòa được với huyền thoại gia đình nguyên thủy của chúng
tôi. Có phải rằng vì tình yêu mẹ và chị em mà bày anh em xúm lại giết cha
không? Khó lòng mà hình dung được tình yêu ấy là cái gì khác với một thứ tình
yêu nguyên thủy, toàn diện, nghĩa là nguyên một khối vừa là thương mến vừa là
ham muốn tình dục? Nhưng nghĩ cho cùng thì sự thắc mắc đó càng xác định quan điểm
của chúng tôi. Trong số những phản ứng gây ra vì sự giết cha, có sự thành hình
thói phép lấy vợ ở ngoài bộ lạc vật tổ, nghĩa là nghiêm cấm tình dục với đàn bà
trong gia đình mà đứa trẻ đã yêu từ thuở còn thơ. Như vậy là có sự phân biệt ra
hai cạnh khía, cạnh khía thương mến và cạnh khía tình dục của tình yêu nam nhi,
hậu quả của sự phân đôi ấy còn tồn tại cho đến ngày nay [21]. Bởi có tục lấy vợ ở ngoài bộ lạc mà
người đàn ông bắt buộc phải thỏa mãn tình dục với đàn bà ở ngoài bộ bộc xa lạ
không gợi cho họ chút tình yêu và thương mến nào.
Trong những đám đông quy ước lớn, như giáo hội và quân đội, không có chỗ cho
đàn bà với tư cách là đối tượng dục tính. Những liên lạc tình ái giữa đàn ông
và đàn bà đều ở ngoài tổ chức. Cả trong những đám đông có cả nam lẫn nữ, sự
khác biệt về nam nữ tính không có vai trò nào cả. Không có vấn đề tìm hiểu xem
cái libido duy trì sự đoàn kết đám đông có bản chất đồng tính ái hay lưỡng tính
ái, bởi vì đám đông được tổ chức theo tiêu chuẩn khác chứ không theo tiêu chuẩn
nam nữ tính, sự tổ chức ấy lại không kể đến những mục tiêu chỉ đạo sự tổ chức
sinh dục tính.
Những khuynh hướng dục tính trực tiếp giữ được tính cách cá nhân nào đó, cả đến
những người bị chìm vào trong đám đông. Khi nào cá tính vượt qua môt mức độ nào
thì tập thể bị đe dọa tan rã. Giáo hội có lý do đích đáng để khuyến cáo đạo hữu
sống độc thân và bắt buộc thầy tu phải chay tịnh, nhưng ái tình nhiều khi làm
cho thầy tu phá giới. Tình yêu đàn bà làm sụp đổ những dây liên lạc tạo ra vì
chủng tộc, vượt lên trên biên giới quốc gia và giai cấp xã hội, và như thế tình
yêu đã góp phần lớn vào nền văn hóa. Có lẽ tình yêu đồng tính ái dễ thỏa hiệp
hơn với những dây liên lạc tập thể, cả trong những trường hợp mà nó xuất hiện
như khuynh hướng dục tính không bị cản trở: đây là một sự kiện quan trọng nhưng
không tiện giải thích vì phải đi xa quá.
Xét nghiệm phân tâm những bệnh suy nhược thần kinh chúng tôi đã nhận thấy rằng
những triệu chứng của bệnh ấy bắt nguồn từ những khuynh hướng dục tính trực tiếp
bị dồn nén, nhưng vẫn có sức hoạt động. Chúng ta có thể bổ túc công thức ấy mà
nói thêm rằng: những triệu chứng ấy còn có thể bắt nguồn từ những khuynh hướng
bị cản trở, nhưng bị cản trở qua loa chưa dứt hẳn làm cho chúng có thể trở lại
với mục đích dục tính đã đàn áp. Điều đó cắt nghĩa được tại sao chứng suy nhược
thần kinh làm cho người ta ác cảm với xã hội, đào một hố sâu giữa cá nhân và những
tập thể mà họ tham dự. Người ta có thể nói rằng chứng suy nhược thần kinh là một
yếu tố làm tan rã đám đông, cũng ngang mức độ với ái tình. Bởi vậy mỗi khi có
khuynh hướng mạnh mẽ thành lập tập thể thì bớt chứng suy nhược thần kinh, nó có
thể tạm thời biến mất. Vả chăng người ta đã thử lợi dụng sự đối lập giữa suy
nhược thần kinh và tinh thần tập thể để chữa bệnh. Cả những người không lấy làm
tiếc rằng người văn minh đã bỏ mất ảo tưởng tôn giáo cũng công nhận rằng khi mà
những ảo tưởng ấy đủ sức mạnh thì đó là sức chống lại suy nhược thần kinh hữu
hiệu nhất cho những người còn có ảo tưởng tôn giáo. Chúng ta cũng thấy dễ dàng
rằng sự gia nhập những giáo phái hay cộng đồng thần-bí-tôn-giáo hay triết-lý-thần-bí
là một cách tìm phương thuốc gián tiếp chống lại thứ suy nhược thần kinh. Tất cả
những sự kiện ấy đều liên hệ tới sự đối lập giữa những khuynh hướng dục tính trực
tiếp và những khuynh hướng dục tính bị cản trở.
Nếu không tham gia vào một tập thể nào, người suy nhược thần kinh sẽ phải dùng
những triệu chứng suy nhược để thay thế tâm thần tập thể mà họ thiếu thốn. Họ tự
tạo cho mình một thế giới tưởng tượng, tôn giáo của họ, hệ thống huyền hoặc của
họ, và họ cũng tái tạo những định chế của nhân loại dưới một sắc thái lệch lạc,
họ phản lại sự đóng góp tích cực của những khuynh hướng dục tính trực tiếp vào
công cuộc xây dựng tập thể [22].
E. Trước khi chấm dứt, chúng ta hãy đứng về phương diện libido, để lập một
bảng so sánh những trạng thái đã bàn qua: trạng thái ái tình, trạng thái thôi
miên, sự thành lập tập thể và chứng suy nhược thần kinh.
Trạng thái ái tình đặt nền tảng trên sự đồng hiện diện của những khuynh hướng dục
tính rẽ hướng, không nhắm vào mục tiêu, đối tượng thu hút lấy một phần libido
ngã ái của cái tôi. Trạng thái ấy giới hạn vào cái tôi và đối tượng.
Trạng thái thôi miên giống trạng thái ái tình ở điểm nó cũng giới hạn vào
cái tôi và đối tượng, nhưng phần nhiều nó dựa vào những khuynh hướng
dục tính bị cản trở và đem đối tượng đặt vào chỗ lý tưởng tôi.
Trong đám đông tiến trình ấy được khuếch đại; tâm trạng đám đông cũng giống trạng
thái thôi miên ở chỗ bản chất của những bản năng giữ nhiệm vụ đoàn kết, nó còn
giống ở chỗ thay thế đối tượng bằng lý tưởng tôi; nhưng trong đám đông còn
thêm sự đồng nhất hóa cá nhân với những người khác, sự đồng nhất hóa ấy có thể
xảy ra vì mọi người đều có cùng một thái độ với đối tượng.
Thôi miên và tâm trạng đám đông đều là vết tích di truyền của sự phát sinh cái
libido nhân loại từ uyên nguyên của nó, thôi miên là sự tồn tại dưới hình thức
một xu hướng tự nhiên, đám đông là sự tồn tại dưới hình thức một hiện tượng sống
sót trực tiếp. Trong cả hai trường hợp những khuynh hướng dục tính bị cản trở
hay trực tiếp đều thuận lợi cho sự phân chia thành cái tôi và lý
tưởng tôi, sự phân chia ấy đã bắt đầu từ trạng thái ái tình.
Bệnh suy nhược thần kinh tách ra khỏi loại hiện tượng ấy. Suy nhược thần kinh dựa
vào một đặc điểm của sự tiến triển cái libido nhân loại, dựa vào cái gọi là hai
cách ăn khớp của cơ năng dục tính trực tiếp (như nói sau đây), đến thời kỳ lắng
chìm thì không còn hai cách ăn khớp ấy nữa [23]. Cũng như thôi miên và tâm trạng đám
đông, suy nhược thần kinh cũng có tích cách thoái lui (tình trạng ái tình không
có tính cách thoái lui). Sự suy nhược xảy ra mỗi khi sự biến cải từ mục tiêu dục
tính trực tiếp sang mục tiêu dục tính bị cản trở không được hoàn hảo, sự suy
nhược ấy là hậu quả của cuộc xung đột giữa người có khuynh hướng có thể tiến
triển được vì nhập vào với cái tôi và những phần tử của khuynh hướng
bị rớt lại trong tiềm thức; phần tử bị rớt nhập vào với những yếu tố bị dồn
nén, chúng cùng đòi hỏi thỏa mãn trực tiếp. Bệnh suy nhược thần kinh có một nội
dung hết sức phong phú vì: 1) nó gồm tất cả những liên lạc có thể có giữa
cái tôi và đối tượng, những liên lạc trong đó đối tượng còn giữ
nguyên những liên lạc trong đó đối tượng đã bị sa thải hay nhập vào cái tôi,
2) những liên lạc phát sinh vì cuộc xung đột giữa cái tôi và lý
tưởng tôi.
Chú thích:
[1] Coi Sexualtheorie
[2] Über die allgemeine Niedrigung des
Liebeslebens, Sammlung, 1918
[3] Xin coi "Metapsychologische Ergänzung zur
Traumlehre", trong Sammlung kleiner Schriften zur Neurosenlehre, phần
4, 1918
[4] Instincts of the Herd in Peace and War, London
1916.
[5] Coi phần thứ nhất sách này.
[6] Coi Phân tâm học nhập môn, chương 25
Freud
[7] Vật tổ và cấm kỵ
[8] Chúng ta có thể cho rằng các con bị xua đuổi
phải tránh xa, bởi vậy cho nên họ vượt được giai đoạn đồng nhất hóa, họ trở nên
đồng tính ái (homosexuel) và đạt được tự do, nhờ có tự do ấy mà họ dám giết
cha.
[9] Das Unheimliche, Imag, V, 1919
[10] Coi Vật tổ và cấm kỵ
[11] Ý tứ tiềm thức của con đồng tập trung vào ông
thầy thôi miên, trong khi tâm thức của họ không để ý đến những tri giác thế giới
bên ngoài, sự kiện ấy cũng tương tự những điều chúng tôi nhận thấy trong lúc trị
bệnh bằng phân tâm học. Trong thời gian phân tâm nghiệm, ít ra cũng có một lần
con bệnh cả quyết rằng họ không hề có một ý tưởng nào hiện lên trong trí. Sự
liên tưởng tự do của họ bị đình chỉ, những kích động thường ngày vẫn điều động
sự liên tưởng ấy bây giờ trở nên vô hiệu, nhưng nếu ta hỏi vặn họ thì họ thú thực
rằng họ đang nghĩ đến phong cảnh nhìn thấy qua cửa sổ phòng khám bệnh, hay họ
nghĩ đến tấm thảm, đến cái đèn treo. Khi họ bắt đầu chịu ảnh hưởng "di
chuyển", họ vẫn còn bị thu hút bởi những ý tưởng tiềm thức liên hệ đến ông
thầy, ý nghĩ của họ không bị ngăn cản nữa khi ông thầy cắt nghĩa cho họ hiểu trạng
thái của họ.
[12] "Introjection und
Übertragung", Jahrbuch der Psychoanalyse, I, 1909
[13] Tôi nghĩ rằng nên chú ý đến sự kiện sau đây:
Những quan điểm trong chương này cho phép chúng ta có thể từ quan niệm của
Bernheim về thôi miên đi ngược trở lên đến quan niệm cũ thô sơ hơn. Bernheim tưởng
rằng có thể lấy hiện tượng ám thị làm một nguyên thể bất khả phân, từ đó diễn dịch
ra tất cả các hiện tượng thôi miên của sự ám thị. Theo ý chúng tôi thì ám thị
chỉ là một phát hiện của trạng thái thôi miên, và trạng thái thôi miên bắt nguồn
từ một thiên tư tấm thức có từ lịch sử xa xưa của gia đình loài người.
[14] Jahrbuch der Psychoanalyse, VI, 1914 – Sammlung
kleiner Schriften zur Neurosenlehre, IV.
[15] "Trauer und Melancholie", Internat.
Zeitschr. f. Psychoanalyse, IV, 1916-1918, Sammlung kleiner Schriften zur
Neurosenlebre, IV
[16] Khi nào cái tôi đứng khít với lý
tưởng tôi người ta có một cảm tưởng đắc thắng. Cảm tưởng phạm tội (hay tự
ti) có thể coi là tình trạng căng thẳng giữa cái tôi và lý tưởng.
Trotter đi từ bản năng quần cư diễn dịch ra sự dồn nén. Tôi cũng diễn tả ý bằng
cách nói khác khi tôi gán cho lý tưởng tôi vai trò dồn nén ấy (Einführung des
Narzissmus).
[17] Xin coi Abraham: "Ansätze psychoanalytischen
Erforschung und Behandlung des manisch-depressiven Irreseins", 1912,
trong Klinische Beiträge zur Psychoanalyse, 1911
[18] Đúng hơn sự sỉ vả ấy ẩn nấp sau sự sỉ vả
chính mình, chính cái tôi của mình; sự sỉ vả ấy gay gắt, dai dẳng, có tình cách
nghiêm trọng, không cho cãi lại, y như người mắc bệnh ưu uất vẫn tự trách mắng
mình vậy.
[19] Những quan điểm sau đây là kết quả của cuộc
trao đổi ý kiến với ông Ranki.
[20] Những tâm tình thù nghịch tuy có cơ cấu phức
tạp hơn nhưng cũng không ở ngoài thông lệ này.
[21] "Über die allgemeine Erniedrigung des
Liebeslebens", 1912, Sammlung kleiner Schriften zur Neuroselehre, IV
[22] Vật tổ và cấm kỵ, chương II (cuối).
[23] Sexualtheorie in lần thứ 4a, 1920, trang
96.
Phần thứ ba - Cái tôi và vô thức
Lời nói đầu
Trong phần này chúng tôi đi vào những quan điểm đã phác họa trong phần Vượt
xa hơn nguyên tắc khoan khoái, chúng tôi vẫn giữ thái độ hiếu kỳ từ tốn đã dẫn
dắt chúng tôi khi viết cuốn tiểu luận này. Chúng tôi vẫn trở lại những ý kiến ấy
qua tâm phân nghiệm; khi đã phối hợp tri và hành chúng tôi rút ra những kết luận
mới, tuy nhiên chúng tôi không vay mượn thêm cái gì của sinh vật học. Bởi vậy
trong phần này chúng tôi gần với phân tâm học hơn phần đầu. Bởi vậy phần này có
tính cách tổng hợp hơn là khai thác một vài nguyên tắc và hầu như hướng về một
mục đích khá cao trọng. Tuy nhiên chúng tôi cũng nhận thấy không vượt qua được
một vài sự nhận xét thô sơ và chúng tôi xin nhận trước những lời chỉ trích.
Nhưng chúng tôi đề cập đến những vấn đề chưa hề được minh giải phân tâm học, và
chúng tôi phải bàn đến một vài thuyết đề xướng bởi những học giả không phải
phân tâm học gia, hay bởi những phân tâm học gia đã già kinh nghiệm. Chúng tôi
công nhận rằng đã dùng những kết quả khảo cứu của người khác nếu là trường hợp
nào đó, nhưng nếu là kết quả khảo cứu của riêng tôi thì tôi không cho là mình
đã vay mượn của ai. Nếu có những vấn đề mà phân tâm học không bàn đến thì chúng
tôi phải tìm nguyên nhân, chúng tôi không có thành kiến hay có thái độ tiêu cực
đối với những vấn đề ấy, chúng tôi không bàn đến vì trên địa hạt phân tâm học
chúng tôi chưa gặp những vấn đề ấy. Ngày nay chúng tôi nhận thấy phải đem ra
bàn thì những vấn đề ấy hiện ra dưới mắt chúng tôi khác hẳn dưới mắt những người
khác.
1. Ý thức và tiềm thức
Trong chương nhập đề này tôi không đề cập đến vấn đề nào mới mẻ và tôi không
tránh được việc nhắc lại những điều đã nói ở trên.
Sự phân chia ra tâm thần ý thức và tâm thần tiềm thức là quan điểm nền tảng của
phân tâm học, không có nó thì không thể hiểu được những tiến trình bệnh lý thường
có và sự trầm trọng của sinh hoạt tâm thần, và cũng không thể đem ra nghiên cứu
một cách khoa học. Xin nhắc lại một lần nữa dưới hình thức khác: phân tâm học
không cho rằng tâm thức (ý thức) là thể tính (tinh lý, essence) của sinh hoạt
tâm thần, phân tâm học cho rằng tâm thức chỉ là một đức tính của sinh hoạt tâm
thần, có thể đồng hiện hữu với những đức tính khác hay không có mặt.
Nếu tôi có ảo tưởng rằng những người để tâm đến tâm lý học đọc thiên tiểu luận
này thì tôi chắc chắn rằng hơn một độc giả bất bình vì tôi dành cho tâm thức một
chỗ đứng khiêm tốn quá, họ sẽ bỏ dở ngay từ trang đầu không cất công đọc tiếp.
Phần nhiều người có kiến thức triết học không thể hiểu được rằng một sự kiện
tâm thần lại có thể không ý thức được, họ loại bỏ ý tưởng đó, họ cho là vô lý
và mâu thuẫn với luận lý lành mạnh. Theo tôi thì chỉ tại những người ấy chưa từng
nghiên cứu hiện tượng thôi miên và hiện tượng giấc mơ, những hiện tượng ấy, nếu
không kể đến cạnh khía bệnh lý có thể có, sẽ bắt buộc chúng ta phải chấp nhận
cách nhìn như chúng tôi vừa nói ở trên. Trái lại, tâm lý học của họ căn cứ vào
sự hiện diện của tâm thức được những vấn đề liên hệ với thôi miên và giấc mơ.
Có ý thức trước hết là những chữ dùng để mô tả và chỉ liên hệ đến sự tri giác
trực tiếp nhất và chắc chắn nhất. Nhưng kinh nghiệm cho ta biết rằng một yếu tố
tâm thần, thí dụ một biểu thị, không bao giờ ý thức được một cách thường xuyên.
Đặc điểm của những yếu tố tâm thần là trạng thái ý thức biến mất rất nhanh
chóng. Một biểu thị ý thức được vào lúc nào đó, lát sau sẽ không còn như thế nữa,
nhưng rất dễ trở lại ý thức với điều kiện nào đó. Trong khoảng cách giữa hai lần
ý thức chúng ta không biết biểu thị ấy sẽ như thế nào, chúng ta có thể nói rằng
nó lắng chìm, nói như vậy chúng ta hiểu là lúc nào nó cũng có thể trở lại
ý thức. Khi nói rằng trong khoảng cách ấy, một biểu thị trở thành tiềm thức,
chúng ta đưa ra một định nghĩa đúng, trạng thái tiềm thức ấy đúng khít với trạng
thái lắng chìm và khả năng trở lại ý thức. Triết gia sẽ có thể chỉ trích như
sau: danh từ tiềm thức không thể áp dụng được trong trường hợp riêng
vì trong lúc một biểu thị ở vào trạng thái lắng chìm thì nó không biểu thị cho
cái gì là tâm thần cả. Chúng tôi xin miễn trả lời vì chúng tôi sợ bị lôi cuốn
vào một cuộc tranh luận hình thức không có lợi gì cả.
Nhưng chúng tôi đã đi tới khái niệm tiềm thức bằng một lối khác, nhất là chúng
tôi sử dụng những kinh nghiệm trong đó có liên hệ đến năng động tâm thần
(dynamisme psychique). Chúng tôi phải chấp nhận rằng có những tiến trình tâm thần
mạnh mẽ, hay những biểu thị (đây chỉ kể đến yếu tố lượng, nghĩa là tổ chức và
điều hành) có thể bộc lộ bằng những hậu quả tương tự những hậu quả gây ra bởi
những biểu thị khác, hoặc là những hậu quả trở thành hình thức biểu thị và có
thể hiện lên ý thức mặc dù những tiến trình làm phát sinh những hậu quả ấy
không hiện lên ý thức được. Ở đây không cần nhắc lại từng chi tiết những điều
đã nói đi nói lại nhiều lần. Chúng ta chỉ cần nhắc lại rằng lý thuyết phân tâm
học chú trọng vào điểm ấy, nếu có những biểu thị không thể trở thành ý được thì
hẳn là phải có nguyên nhân nào chống lại; nếu không có sức chống lại thì tất
nhiên chúng trở thành ý thức được; xem như thế thì chúng cũng không khác nhiều
những yếu tố khác của tâm thần được thừa nhận cho trở thành ý thức. Thuyết này
đứng vững vì kỹ thuật phân tâm học đã tìm ra một phương tiện để diệt trừ sức chống
cự và cho phép những biểu thị tiềm thức ấy hiện lên ý thức. Chúng tôi dùng chữ
dồn nén để chỉ những biểu thị chưa có thể xuất hiện ra ý thức như thế; còn như
sức mạnh gây ra sự dồn nén, chúng tôi nhận ra nó dưới hình thức một sự kháng cự.
Như vậy những khiếu nại về tiềm thức của chúng tôi đã được diễn dịch từ thuyết
dồn nén. Cái bị dồn nén đối với chúng tôi là kiểu mẫu tiềm thức đầu tiên. Tuy
nhiên chúng tôi biết rằng có hai loại tiềm thức, những sự kiện tâm thần lắng
chìm nhưng có thể trở lại ý thức, và những sự kiện tâm thần dồn nén bị bỏ rơi
không bao giờ hiện lên ý thức được. Quan niệm năng động tâm thần của chúng tôi
không thể nào không ảnh hưởng đến cách dùng danh từ và sự mô tả hiện tượng. Khi
chúng tôi nói đến sự kiện tâm thần lắng chìm thì chúng tôi cho rằng đó là những
sự kiện tiềm thức hiểu theo nghĩa mô tả chứ không phải hiểu theo nghĩa năng động;
chúng tôi gọi sự kiện tâm thần lắng chìm là sự kiện tiền ý thức (préconscient),
còn danh từ tiềm thức thì dành cho những sự kiện dồn nén nghĩa là đứng về
phương diện năng động thì gọi là tiềm thức. Như vậy là chúng ta có ba danh từ: ý
thức, tiền ý thức và tiềm thức mà không phải chỉ có ý nghĩa
mô tả thuần túy mà thôi. Chúng tôi chấp nhận rằng tiền ý thức gần với ý thức
hơn tiềm thức. Chúng tôi đã chấp nhận cho tiềm thức có tính cách tâm thần thì
chúng tôi không ngại ngùng gì mà cho rằng tiền ý thức, nghĩa là cái gì lắng
chìm cũng có tính cách tâm thần. Nhưng tại sao chúng tôi không theo gương các
triết gia vạch một đường ranh giới ở giữa, tiền ý thức và tiềm thức ở một bên,
bên kia là ý thức, như vậy có vẻ hữu lý hơn không? Nếu làm như vậy thì chúng
tôi phải coi tiền ý thức và tiềm thức là hai thứ loại của tinh lực tâm thần.
Tuy làm như vậy nhất quán hơn, nhưng trong sự trình bày chúng tôi sẽ vấp phải
những khó khăn nan giải. Điều quan trọng là tinh lực tâm thần phù hợp gần hết mọi
phương diện với cái thường được coi là thuộc về tâm thần, điều quan trọng đó bị
đẩy lui xuống hàng thứ yếu, làm lợi cho một thành kiến đã có từ ngày người ta
chưa biết tới tinh lực tâm thần, hay ít ra điểm chính yếu của nó.
Ba danh từ của chúng tôi: ý thức, tiền ý thức và tiềm thức dễ
sử dụng hơn, người ta được tự do hơn trong việc suy tưởng, với điều kiện là nếu
đứng về phương diện mô tả, chúng tôi chỉ có hai loại tiềm thức, nhưng về phương
diện năng động chỉ có một mà thôi. Trong một vài trường hợp chúng ta có thể
trình bày sự việc mà không cần phân biệt như thế, trong những trường hợp khác
chúng ta lại cần phân biệt. Dầu sao thì chúng ta cũng đã đủ làm quen với ý
nghĩa kép của cái tiềm thức, chưa bao giờ chúng ta thấy rắc rối. Sau hết, sự
phân biệt ra ý thức và tiềm thức rút cục chỉ có một vấn đề tri giác, một vấn đề
có hai cách trả lời: có và không, chính việc tri giác cũng không
cho ta biết lý lẽ tại sao chúng ta biết rằng vật này tri giác được vật kia
không tri giác được. Chúng ta sẽ lầm lẫn nếu chúng ta phàn nàn rằng năng động
tâm thần bao giờ cũng xuất hiện ra hai mặt (ý thức và tiềm thức) [1].
Nhưng những cuộc tìm tòi phân tâm học say này đã minh thị rằng những sự phân biệt
ấy cũng còn thiếu thốn, chưa được thỏa mãn. Trong số những trường hợp mà chúng
ta nhận thấy sự phân biệt còn thiếu thốn, chúng tôi xin nêu ra trường hợp sau
đây rõ ràng hơn cả. Chúng ta hình dung ra những tiến trình tâm thần của một người
nào là một tổ chức nhất trí tạo thành cái tôi của người đó. Cái tôi thuộc
về ý thức, nó kiểm soát và trông coi cửa ngõ bước vào cơ năng vận động, nghĩa
là việc ngoại xuất (extériorisation) một khích động. Cái tôi có thẩm
quyền tự kiểm soát những tiến trình của mình, ban đêm nó ngủ, nhưng vẫn còn quyền
kiểm duyệt giấc mơ. Cũng từ cái tôi mà xuất phát sự dồn nén, do sự dồn
nén mà một vài khuynh hướng tâm thần không những bị trục xuất khỏi ý thức mà
còn bị kiềm tỏa chặt chẽ không thể phát hộ dưới bất cứ hình thức nào. Trong thời
kỳ tâm phân nghiệm những khuynh hướng bị dồn nén nổi dậy chống lại cái tôi,
công việc của ông thầy là loại trừ những sức chống cự mà cái tôi đưa
ra ngăn cản ông thầy không cho lại gần những khuynh hướng bị dồn nén. Trong thời
kỳ ấy người bệnh tỏ ra bối rồi khi bị bắt buộc phải làm một loại công việc nào
đó, họ không còn liên tưởng được nữa khi họ sắp tới gần những khuynh hướng bị dồn
nén. Chúng tôi bảo cho họ biết rằng họ bị ảnh hưởng của một sức chống cự, nhưng
họ không biết gì cả; mặc dù những cảm tưởng buồn bực làm cho họ phải công nhận
rằng họ bị chi phối bởi một sức chống cự, họ cũng không biế sức chống cự đó là
cái gì, nó ở đâu ra. Nhưng chắc chắn là sức chống cự ấy xuất phát tự cái tôi và
cũng là một thành phần của cái tôi, chúng tôi bị đặt trước một tình thế mà
chúng tôi chưa hề nghĩ đến. Chúng tôi tìm thấy trong cái tôi một cái
gì không ý thức được như những khuynh hướng bị dồn nén, nghĩa là gây ra hậu quả
rõ rệt mà vẫn giấu mặt. Bởi có những sự kiện ấy cho nên trong công việc tâm
phân nghiệm của chúng tôi, chúng tôi thường gặp rất nhiều khó khăn, rất nhiều
điểm tối tăm khi chúng tôi muốn y theo những cách định nghĩa quen thuộc, thí dụ
cho rằng bệnh suy nhược thần kinh là sự xung đột giữa ý thức và tiềm thức. Sự đối
lập ý thức tiềm thức không dùng được với quan niệm của chúng tôi về cơ cấu tâm
thần, chúng tôi phải đưa ra công thức khác: sự đối lập giữa cái tôi nhất
trí và những yếu tố tách rời khỏi cái tôi rồi bị dồn nén.
Công thức ấy có hậu quả trọng đại đến quan niệm của chúng tôi về tiềm thức.
Phương diện năng động của vấn đề cho phép chúng tôi đưa ra một hiệu chính đầu
tiên, phương diện cơ cấu cho phép chúng tôi hiệu chính một lần nữa. Chúng tôi
nhận thấy rằng tiềm thức không đúng khít với những đơn tố bị dồn nén. Hẳn là tất
cả cái gì bị dồn nén đều ở trong tiềm thức, nhưng cũng có những đơn tố tiềm thức
mà không phải là cái gì bị dồn nén. Một phần của cái tôi, không biết quan
trọng hay không đáng kể, cũng không thể ý thức được. Và phần đó lại không có
tính cách lắng chìm như tiền ý thức, vì nếu nó có thể ý thức được thì mỗi khi
đánh thức nó dậy nó phải trở thành cái ý thức được, ông thầy đã chẳng gặp khó
khăn mỗi khi muốn làm cho nó trở thành ý thức. Như vậy chúng tôi thấy cần phải
chấp nhận rằng có một cái tiềm thức thứ ba, không phải là cái gì bị dồn nén;
nhưng chúng tôi phải thú nhận rằng tính chất của tiềm thức mất hết ý nghĩa chuẩn
xác. Tiềm thức trở thành một phẩm chất có rất nhiều nghĩa không còn tính cách
phổ quát, không thể đem ra diễn dịch một cách chắc chắn như chúng tôi vẫn làm.
Nhưng chúng tôi cũng không bỏ được những khái niệm ý thức và tiềm thức vì hai
khái niệm ấy đem lại chút ánh sáng duy nhất dẫn dắt chúng tôi trong thâm sâu tối
thẳm của tâm thần.
2. Cái tôi và vô thức
Công việc khảo cứu về bệnh lý đã làm cho chúng tôi chú trọng thái quá đến tâm
tình dồn nén. Chúng tôi muốn biết rõ hơn về cái tôi từ khi chúng tôi
biết rằng phần nào của nó có thể không ý thức được. Cho đến ngày nay chúng tôi
chỉ có một điểm để làm mốc cho dễ nhận, đó là phẩm chất ý thức được hay không ý
thức được của những yếu tố tâm thần. Nhưng rốt cuộc chúng tôi nhận thấy rằng đó
là một sự kiện có rất nhiều nghĩa.
Tất cả kiến thức của chúng ta đều liên hệ đến ý thức. Chúng ta chỉ có thể biết
tiềm thức nếu chúng ta làm cho nó trở thành cái gì ý thức được. Nhưng chúng ta
chớ vội lạc quan: tại sao lại có thể ý thức được? Làm cho cái gì trở thành cái
có thể ý thức được nghĩa là gì? Làm cách nào để đạt được kết quả ấy?
Chúng tôi đã biết rằng chúng tôi đi từ chỗ nào làm khởi điểm để trả lời những
câu hỏi ấy. Chúng tôi vẫn nói rằng ý thức là bề mặt của bộ máy tâm thần; nói
khác đi, chúng tôi cho rằng ý thức có một chức vụ điều hành bởi một hệ thống gần
với ngoại giới hơn cả, xét về phương diện vị trí không gian. Vị trí không gian
gần ngoại giới đó không những phải hiểu theo nghĩa chức vụ mà còn phải hiểu
theo nghĩa giải phẫu [2].
Bởi vậy cho nên trong công việc tìm tòi của chúng tôi, chúng tôi phải khởi sự từ
ngoài mặt, ngoài mặt tiếp thụ sự tri giác.
Trên nguyên tắc thì tất cả những tri giác từ ngoại giới đến (tri giác cảm giác)
đều ý thức được; những cái mà ta gọi là cảm giác và tình cảm từ trong người ta
đến cũng là tri giác được. Nhưng còn những tiến trình nội tâm mà chúng ta gọi một
cách không rõ là "tiến trình trí tuệ" thì sao? Chúng ta nên quan niệm
rằng đó là những di động của tinh lực tâm thần xảy ra trong bộ máy tâm thần,
tìm lối tiến đến hành động và bước lên bề mặt, chỗ đóng đồn của ý thức? Hay ta
nên quan niệm rằng ý thức tiến lại gần tinh lực tâm thần để phối hợp với tinh lực
tâm thần? Ở đây chúng ta bị đặt trước những khó khăn không tránh được khi người
ta quá bận tâm với phương diện vị trí không gian của những sự kiện tâm thần. Cả
hai quan niệm đều bế tắc, hẳn là phải có một quan niệm thứ ba.
Chúng tôi đã từng đưa ra ý kiến [3] rằng
sự khác biệt thực sự giữa một biểu thị tâm thần và một biểu thị tiền ý thức (ý
tưởng) như sau: biểu thị tiềm thức liên hệ đến những vật liệu mà chúng ta không
biết rõ, còn như biểu thị tiền ý thức phối hợp với một biểu thị tâm từ
(représentation verbale). Đây là ngưỡng vọng thứ nhất xác định tiềm thức và tiền
ý thức bằng đường lối khác đli tìm liên lạc giữa chúng với ý thức. Câu hỏi:
"Một sự kiện làm thế nào để trở thành ý thức?" có thể thay thế bằng
câu hỏi sau đây thuận lợi hơn: "Tại sao một sự kiện lại có thể trở thành
tiền ý thức?". Trả lời: nhờ sự phối hợp với những biểu thị tâm từ tương ứng.
Những biểu thị tâm từ ấy là những dấu vết bảo thức năng (traces mnémiques): trước
kia chúng là những tri giác, cũng như những dấu vết bảo thức năng khác, chúng
có thể trở lại ý thức. Trước khi phân tích những biểu thị ấy, chúng tôi cần phải
nói đến một giả thuyết: chỉ có cái gì trước đã hiện hữu như một tri giác ý thức,
sau này mới khích động ở trong, nếu muốn trở thành ý thức, phải tìm cách biến
thành một tri giác ở ngoài, chúng chỉ có cách nhờ đến dấu vết bảo thức năng.
Những dấu vết bảo thức năng ấy, chúng tôi cho là chúng cũng ở trong những hệ thống
có tiếp xúc trực tiếp với hệ thống tri-giác-ý-thức, do đó những sức lực tâm thần
của chúng có thể truyền sang hệ thống tri-giác-ý-thức một cách dễ dàng. Chúng
ta hãy nghĩ đến những trường hợp ảo giác và nghĩ đến sự kiện sau đây: một hoài
niệm rõ rệt nhất cũng vẫn có thể phân biệt được với ảo giác và tri giác bên
ngoài; chúng ta cắt nghĩa được ngay rằng khi nhớ lại một hoài niệm thì tinh lực
tâm thần không rời khỏi hệ thống hoài niệm, còn như trong trường hợp tri giác
thì tinh lực không những truyền từ dấu vết bảo thức năng sang hệ thống tri-giác-ý-thức,
mà chạy hết cả sang đó.
Những dấu vết tâm từ phần lớn do sự tri giác thính giác mà ra, tri giác thính
giác là kho dự trữ những yếu tố khả giác để tiền ý thức sử dụng. Còn như những
yếu tố thị giác trong biểu thị tâm từ thì người ta có thể bỏ qua vì chúng chỉ
có tính cách thứ yếu, nhờ đọc sách báo mà người ta có. Hình ảnh vận động của
danh từ cũng chỉ là những ký hiệu đứng hàng phụ thuộc, trừ trường hợp người vừa
câm vừa điếc.
Chúng ta không có ý giản dị hóa vấn đề và hạ thấp tầm quan trọng của những dấu
vết bảo thức năng thuộc loại thị giác hay không công nhận rằng những tiến trình
trí tuệ có thể trở thành ý thức nhờ cách nhớ lại những dấu vết thị giác. Chúng
tôi còn công nhận nhiều người dùng đến cách thị giác hóa để làm cho tư tưởng hiện
lên ý thức. Sự nghiên cứu giấc mơ và những biểu thị lông bông của tiền ý thức,
theo sự quan sát của J. Varendonck, có thể cho ta một ý niệm xác thực về tư tưởng
thị giác; sự nghiên cứu minh thị rằng phần nhiều chỉ những vật liệu cụ thể
trong ý niệm được trở thành ý thức đối với loại tư tưởng thị giác, còn những
liên lạc là đặc điểm của ý niệm thì không dễ gì mà thị giác hóa được. Như vậy,
hình ảnh là phương tiện bất toàn để làm cho tư tưởng hiện lên ý thức, và người
ta có thể nói rằng tư tưởng thị giác gần với những tiến trình tiềm thức hơn là
tư tưởng tâm từ, tư tưởng thị giác có từ lâu đời hơn tư tưởng tâm từ, kể về
phương diện hệ thống phát sinh học (phylogénèse) cũng như về phương diện cá thể
phát sinh học (ontogénèse).
Nếu đường lối từ tiềm thức đến tiền ý thức là như vậy thì câu hỏi: "Tại
sao chúng ta có thể đưa những yếu tố bị dồn nén lên (tiền) ý thức được?" sẽ
được trả lời như sau: "Bằng cách phân tích để lập lại những phần tử trung
gian tiền ý thức là những hồi tưởng tâm từ". Vì có phần tử đứng trung gian
như vậy cho nên ý thức vẫn ở nguyên chỗ của nó và tiềm thức không cần phải dời
chỗ ở mới gặp được ý thức.
Những liên lạc giữa sự tri giác ngoại giới và cái tôi có tính cách hiển
nhiên, những liên lạc nối liền sự tri giác nội tâm với cái tôi cần phải
xem xét riêng. Người ta muốn tự hỏi rằng người ta có quyền nối liền tất cả ý thức
vào hệ thống phù việt "tri-giác-ý-thức" không?
Sự tri giác bên trong cung cấp những cảm giác liên hệ tới những tiến trình xảy
ra trong những lớp khác nhau, có thể ở rất sâu trong bộ máy tâm thần. Chúng ta
biết rất ít về những cảm giác ấy, khoan khoái và khó chịu có thể coi là những mẫu
cảm giác biết rõ hơn cả. Chúng lâu đời hơn, đơn sơ hơn những cảm giác từ ngoài
đến và chúng cũng có thể xảy ra trong những trạng thái rối loạn của tâm thần. Ở
chỗ khác chúng tôi đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng về phương diện tổ chức của
chúng và đến những lý do tâm lý siêu hình của tầm quan trọng ấy. Chúng có nhiều
ngăn, cũng như những tri giác từ ngoài đưa vào, chúng có thể cùng một lúc từ
nhiều điểm khác nhau đưa tới và có phẩm chất trái ngược nhau.
Những cảm giác khoái trá không có tính cách thôi thúc cưỡng bách, những cảm
giác khó chịu có tính cách đó đến cao độ. Cảm giác đòi hỏi sự thay đổi, nó tìm
hết cách để giải tỏa tinh lực của nó, bởi vậy cho nên chúng ta nói rằng đặc điểm
của sự khoái trá là tăng áp thế tinh lực còn đặc điểm của sự khó chịu là giảm
áp chế tinh lực.
Trong sinh hoạt tâm thần sự việc này xảy ra liên tiếp sự việc kia, ta cảm thấy
khoái trá hay khó chịu; khoan khoái và khó chịu tạo thành "cái gì"
khác hẳn cảm giác về phương diện phẩm cũng như về phương diện lượng, chúng ta
muốn biết "cái đó" có thể ở ngay tại chỗ mà trở thành ý thức hay nó
phải chuyển tới hệ thống Y. (ý thức) mới trở thành ý thức được.
Theo kinh nghiệm trị bệnh thì ý kiến sau có vẻ đúng hơn. Kinh nghiệm cho biết rằng
"cái đó" cũng xử sự như một manh ý (ý định manh nha) bị dồn nén. Manh
ý ấy tìm cách phát lộ, nó phát ra những sức vận động, nhưng cái tôi không biết
rằng mình chịu áp lực của nó. Muốn trở thành ý thức dưới hình thức một cảm giác
khó chịu hay đau khổ manh ý ấy đã phải đối phó với sức chống cự lại nó. Sự đau
đớn là một vòng trung gian giữa tri giác bên trong tuy nó có thể bắt nguồn từ
thế giới bên ngoài. Sự đau đớn cũng có thể không ra khỏi tiềm thức. Như vậy,
chúng ta đã nói đúng khi cho rằng tình cảm và cảm giác phải dồn đến hệ thống Y.
mới có thể trở thành ý thức được. Nếu bị cản trở giữa đường thì tình cảm và cảm
giác không được người ta cảm thấy là tình cảm và cảm giác, tuy rằng "cái
gì" tương ứng với chúng vẫn không thay đổi trong khi khích động diễn biến.
Nói một cách vắn tắt tuy không đúng lắm thì chúng ta gọi là cảm giác tiềm
thức và chúng ta nhấn mạnh vào sự tương đồng của nó với biểu thị tiềm thức.
Sự khác biệt giữa hai sự kiện như sau: biểu thị tiềm thức muốn tiến vào ý thức
thì phải tạo nhiều vòng móc nối, nhiều giai đoạn trung gian, còn cảm giác thì
không cần, nó truyền thẳng đến ý thức. Nói một cách khác: nói đến cảm giác thì
không cần phân biệt ý thức và tiền ý thức, một cảm giác sẽ là cảm giác ý thức
hay cảm giác tiềm thức chớ không bao giờ là cảm giác tiền ý thức. Mặc dù một cảm
giác phối hợp với những biểu thị tâm từ, nó cũng trở thành ý thức một cách trực
tiếp, không nhờ cậy gì biểu thị.
Như vậy, chúng ta đã biết rõ vai trò của biểu thị tâm từ. Nhờ có sự trung gian
của nó mà những tiến trình trí tuệ nội tâm trở thành những tri giác. Chúng ta
có thể nói rằng biểu thị tâm từ chỉ có mặt đấy để làm cái cớ cho người ta nói:
sự tri thức nào cũng do sự tri giác bên ngoài mà ra. Khi nào tư tưởng ở trong
tình trạng tràn đầy, thì người ta tri giác ý tưởng như là ở ngoài đến, và bởi vậy
cho nên người ta cho là thật.
Sau khi đã giải thích mối liên lạc giữa sự tri giác ngoại giới, sự tri giác nội
giới và hệ thống phù việt "tri-giác-ý-thức", chúng ta có thể đem lại
cho quan niệm về cái tôi của chúng ta một hình thức toàn vẹn.
Cái tôi được cấu tạo từ hệ thống T. (tri giác), hệ thống T. là cái
nhân, rồi đến tiền ý thức dựa vào những dấu vết bảo thức năng. Ngoài ra chúng
ta còn biết rằng cái tôi cũng có phần không ý thức được.
Chúng tôi thiết nghĩ, nên nghe lời bàn của một tác giả vì cớ riêng muốn thuyết
phục quan điểm của chúng tôi rằng nó không thể có tính cách khoa học chuẩn xác
và cao xa được. Đó là ông Groddeck, ông nhắc đi nhắc lại mãi không chán rằng
cái tôi trong quan niệm của chúng tôi sẽ có thái độ thụ động trước cuộc
đời; nói theo ngôn ngữ của ông thì chúng ta bị khu xử bởi những sức mạnh kỳ lạ
mà chúng ta không kiểm soát được [4].
Chúng ta ai cũng có những cảm tưởng như thế, tuy rằng không bị ảnh hưởng đến nỗi
không thể có những cảm tưởng khác, chúng tôi không ngần ngại mà đặt cách nhìn của
ông vào chỗ xứng đáng với nó trong khoa học. Tôi sẽ chú ý đến quan điểm của ông
và đề nghị: cho cái tôi là một thực thể khởi điểm từ hệ thống T. (hệ
thống tri giác), hệ thống ấy trước hết là tiền ý thức, vô thức (Es) sẽ dùng để
chỉ tất cả những yếu tố tâm thần khác, cái tôi nối dài gốc rễ của nó
xuống những yếu tố đó, phần nối dài có tính cách tiềm thức [5].
Chúng ta sẽ nhận thấy ngay quan niệm ấy hữu ích cho chúng ta để mô tả và hiểu
biết những sự kiện nghiên cứu. Tâm thần con người có một cái vô thức không
biết được, trên mặt cái vô thức có một cái tôi, cái tôi thoát
từ hệ thống T. (tri giác). Muốn hình dung những sự kiện ấy dưới hình thức một
biểu đồ, chúng ta bảo rằng tôi chỉ bao phủ vô thức bằng cái mặt của
nó, cái mặt ấy là hệ thống T. giữa cái tôi và vô thức không
có sự phân biệt dứt khoát nhất là phía dưới cái tôi muỗn lẫn lộn với vô
thức.
Những yếu tố bị dồn nén cũng lẫn lộn với vô thức, chúng cũng là một thành
phần của vô thức. Cũng nhờ có vô thức mà những yếu tố bị dồn nén
có thể ăn thông với cái tôi trong khi chúng bị sức chống cự ngăn cản
không cho ngoi lên trên mặt. Tất cả những sự phân biệt mô tả trên đây căn cứ
vào kinh nghiệm bệnh lý học chỉ liên hệ đến những lớp bề ngoài của bộ máy tâm
thần và chúng tôi chỉ biết có thế.
Sự thoát thai cái tôi và sự tách rời nó khỏi vô thức còn
tùy thuộc một yếu tố khác ngoài ảnh hưởng của hệ thống T. Thân thể của con người,
nhất là bề mặt của thân thể, là nơi vừa phát sinh những tri giác bên ngoài vừa
phát sinh những tri giác bên trong. Đối với cái tôi, thân xác bị coi là một
vật lạ, nhưng thân xác cho giác quan biết hai thứ cảm giác, một thứ có thể đồng
hóa với tri giác bên trong. Vả chăng tâm sinh lý học đã minh thị rằng thân xác
của ta thoát ra từ thế giới tri giác. Sự đau đớn hình như cũng đóng một vai trò
quan trọng trong tiến trình này. Trong những bệnh đau đớn chúng ta biết thêm về
những cơ quan trong thân xác ta, có lẽ sự kiện ấy cho ta một ý niệm về cách
hình dung ra thân xác của chúng ta.
Rất dễ nhận thấy cái tôi là một phần của vô thức đã biến cải
dưới ảnh hưởng trực tiếp của ngoại giới và nhờ sự trung gian của hệ thống ý-thức-tri-giác.
Trong một phạm vi nào cái tôi đại diện cho sự phân hóa bề ngoài nối
dài ra. Cái tôi cũng cố gắng bắt cái vô thức và ý hướng vô
thức chịu ảnh hưởng của ngoại giới, lấy nguyên tắc thực tại thay thế nguyên
tắc khoái lạc, nguyên tắc khoái lạc độc quyền trong thế giới vô thức. Sự
tri giác đối với cái tôi cũng như bản năng và xung động bản năng đối
với vô thức. Cái tôi đại diện cho lý trí và đức độ, trái lại vô
thức bị đam mê ngự trị. Tất cả những sự kiện ấy phù hợp với sự phân biệt
thông thường, nhưng chúng ta chỉ nên chấp nhận về đại cương, chỉ đúng một cách
đại loại.
Về phương diện chức vụ thì bình thường cái tôi có tầm quan trọng vì
nó kiểm soát vận động tính (motilité). Trong sự liên lạc với vô thức chúng
ta có thể so sánh cái tôi với một người kỵ mã làm chủ được con ngựa
khỏe hơn mình, chỉ khác có điều người kỵ mã có tài lực riêng của họ để thống trị
con vật, còn cái tôi chỉ thống trị bằng tài lực đi mượn chỗ khác. Còn
có thể đi xa hơn, người kỵ mã không muốn bỏ ngựa thì muốn đến đâu phải đem cả
ngựa đi, cái tôi cũng vậy, cái tôi đem ý muốn của vô
thức diễn tả thành hành động làm như chính nó muốn thế.
Cái tôi trước hết là một thực thể thân xác, không những một thực thể
chỉ có bề mặt, mà còn là một thực thể tương ứng với sự phóng rọi một bề mặt. Để
dùng một cách ví von giải phẫu học, chúng tôi ví nó với cái "hình nộm ảo"
của giải phẫu học gia, hình nộm đó đặt trong lớp vỏ của não, đầu đâm xuống đất
chân chổng lên trời, mắt nhìn về phía sau và khu vực ngôn ngữ ở bên trái.
Sự liên lạc giữa cái tôi và ý thức đã nhiều lần được mô tả, có nhiều
điểm quan trọng cần phải nhắc lại. Chúng ta đã quen đề cập đến giá trị xã hội
và đạo đức trong bất cứ lãnh vực nào, chúng ta không lấy làm ngạc nhiên rằng những
mê say thấp kém đều tụ hội trong tiềm thức, chúng ta tin rằng những sự kiện có
nhiều giá trị xã hội và đạo đức sẽ được phép bước vào ý thức dễ dàng hơn. Nhưng
kinh nghiệm phân tâm cho chúng tôi biết rằng cách nhìn ấy căn cứ vào một sự lầm
lẫn hay một ảo tưởng. Chúng tôi biết rằng một sự suy luận trí tuệ khúc mắc thường
đòi hỏi tập trung tư tưởng cao độ, cũng có thể thực hiện trong tiền ý thức
không cần xuất hiện trong ý thức. Đó là trường hợp mà sự thật không còn chối
cái được, những trường hợp xảy ra trong giấc ngủ, người ngủ tỉnh dậy bỗng thấy
giải đáp những vấn đề khó khăn, một bài toán hay chuyện gì đó mà họ đã nghĩ mãi
không ra trong lúc tỉnh táo [6].
Tuy nhiên, chúng ta có thể kể ra một thí dụ khác kỳ lạ hơn. Trước lúc tâm phân
nghiệm chúng tôi nhận thấy có những người mà thái độ tự phê binh và lòng tự sỉ
tỏ ra rất hữu hiệu, thái độ tự phê bình và lòng tự sỉ là những chức vụ của tâm
thần chắc chắn là mật thiết với những giá trị luân lý và xã hội rất cao, và hoạt
động trong tiềm thức của họ. Xem như vậy thì không phải chỉ có sức kháng cự của
người bệnh đưa ta để chống lại lệnh của ông thầy phân tâm mới có tính cách một
hoạt động tiềm thức mà thôi. Sự kiện mới mẻ ấy bắt buộc chúng ta phải nói đến một cảm
tưởng tội lỗi tiềm thức, và nói như vậy là chúng tôi thêm lúng túng sau khi đã
lúng túng vì sức kháng cự tiềm thức; chúng tôi nhận thấy mình tiến đến những điều
bí mật mới, nhất là từ khi chúng tôi biết chắc rằng cảm tưởng phạm tội tiềm
thức đóng một vai trò quyết định về phương diện tổ chức tâm thần, nó gây
những trở ngại lớn cho người bệnh, rất khó khỏi bệnh. Trở lại nói đến bảng giá
trị của chúng tôi, chúng tôi có thể nói rằng: không phải chỉ có cái gì sâu thẳm
trong tâm thần mới là tiềm thức mà thôi, cái gì cao đẹp nhất cũng ở trong tiềm
thức. Như vậy là chúng tôi chứng minh một lần nữa những điều chúng tôi đã nói ở
trên về cái tôi ý thức, nó chỉ đại diện cho thân xác của ta mà thôi.
3. Ngã, siêu ngã và lý tưởng ngã
Nếu cái tôi (ngã) chỉ đại diện cho một phần vô thức đã biến
thái vì ảnh hưởng của tri giác, nếu trong lãnh vực tâm thần nó chỉ đại diện cho
thế giới thật bên ngoài, thì chúng ta chỉ đứng trước một tình trạng hết sức giản
dị. Nhưng còn nhiều nữa chứ không phải chỉ có thế.
Ở chỗ khác [7] chúng
tôi đã trình bày những lý do đã khiến cho chúng tôi chấp nhận một phần nữa của
cái tôi gọi là lý tưởng tôi (lý tưởng ngã) hay siêu
ngã. Những lý do ấy bây giờ vẫn còn giá trị [8].
Phần đó của cái tôi có những liên lạc với ý thức kém mật thiết và kém
mạnh mẽ chứ không bằng những liên lạc mà chúng tôi nói đến ở chương trên, đó là
một sự kiện mới lạ cần phải xem xét.
Đến đây tôi bắt buộc phải đi ra ngoài đề. Chúng tôi đã giải thích được sự đau đớn
trong bệnh ưu uất [9],
khi giả thiết rằng cái tôi bỗng dưng tìm thấy trong mình nó đối tượng
dục tính, đối tượng dục tính đó, vô thức đã phải từ bỏ lý do này hay
vì lý do khác; nói khác đi, tinh lực tập trung vào đối tượng đã thu hồi và tiêu
tan đi. Nhưng trong lúc chúng tôi đề nghị sự giải thích ấy chúng tôi chưa hiểu
được hết ý nghĩa của tiến trình tâm thần đó, chúng tôi không biết rằng đó là một
tiến trình điển hình và thường xảy ra. Tuy nhiên, sau này chúng tôi hiểu rằng sự
thế chân đó đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong sự cấu tạo cái tôi và
góp phần chính vào sự thành lập tính tình con người.
Lúc khởi thủy, thời kỳ mới sinh ra, con người sống giai đoạn thụ khoái cảm bằng
cái miệng, sự tập trung ý tứ vào một đối tượng hay sự đồng nhất hóa là những
công việc rất khó phân biệt nhau. Đến những giai đoạn sau, người ta chỉ có thể
giả thiết rằng sự tập trung ý tứ vào một đối tượng khởi sự từ vô thức, vì
đối với vô thức thì khuynh hướng tình dục chính là nhu cầu của nó.
Cái tôi, lúc đầu còn yếu ớt, thường không biết gì về sự tập trung ý tứ vào
đối tượng, nó chịu thụ động chấp nhận những sự việc đó mà không hiểu gì cả, hay
nó tìm cách chống lại bằng phương tiện dồn nén [10].
Nếu vì lẽ này hay lẽ khác, vô thức phải từ bỏ đối tượng dục tính ấy,
cái tôi thường biến tính, chúng tôi không thể mô tả cách nào khác
cách cho rằng cái tôi đã thấy lại đối tượng dục tính ở trong mình nó,
chúng tôi không thể nói đến chi tiết về điều kiện thực hiện sự thay đổi đó. Đó
chính là cái gì xảy ra trong trường hợp mắc bệnh ưu uất. Cái tôi phóng
nhập đối tượng đã bị vô thức từ bỏ. Có lẽ nhờ sự phóng nhập ấy – một
sự phóng nhập có ý nghĩa một sự thoái lui về tình trạng sinh hoạt tâm thần của
giai đoạn tối sơ thụ khoái cảm bằng miệng - nhờ sự phóng nhập ấy mà cái tôi làm
cho người ta dễ từ bỏ và có thể từ bỏ được đối tượng. Cái tôi tự đồng
nhất hóa với đối tượng bị vô thức từ bỏ. Cũng có thể nói rằng sự đồng
nhất hóa ấy là điều kiện mà không có nó vô thức không thể từ bỏ được
đối tượng. Dẫu sao thì dây cũng là một tiến trình rất thường xảy ra, nhất là
trong những giai đoạn tiến triển chưa được già dặn, nhờ có tiến trình ấy người
ta có thể đặt giả thuyết rằng tính tình của cái tôi là hậu quả của sự
từ bỏ liên tiếp hết đối tượng này đến đối tượng khác, tính tình của cái tôi là
lịch sử của những lựa chọn liên tiếp các đối tượng khác. Không phải người nào
cũng chịu đựng được dễ dàng ảnh hưởng của sự lựa chọn liên tiếp những đối tượng
tình dục ấy; chúng ta nhận thấy những sức kháng cự khác nhau từ người này sang
người khác. Bởi vậy cho nên tính tình đàn bà cho thấy dễ dàng dấu vết của những
kinh nghiệm liên tiếp ấy, đời sống của họ rất giàu kinh nghiệm tình ái. Trong một
vài trường hợp, người ta nhận thấy có sự đồng hiện hữu của hai sự kiện: tập
trung vào một đối tượng và đồng nhất hóa, nghĩa là một sự thay đổi tính nết xảy
ra trước khi từ bỏ đối tượng. Trong những trường hợp như thế, sự thay đổi tính
nết còn sót lại sau khi có liên lạc đối tượng, phần nào dùng để giữ lấy những
liên lạc ấy.
Đứng về quan điểm khác, chúng ta có thể nói rằng lấy sự lựa chọn đối tượng tình
dục thay thế cho sự biến đổi cái tôi là một phương tiện mà cái tôi vẫn
dùng để lấy cảm tình của vô thức và củng cố liên lạc với vô thức,
cái tôi tỏ ra rất mềm dẻo đối với những gì xảy ra trong vô thức.
Khi cái tôi khoác lấy bộ mặt của đối tượng, hình như nó tìm cách chiếm
lấy tình yêu của vô thức, khuyên nhủ vô thức để vô thức đỡ
tiếc nuối cái đã mất; cái tôi muốn bảo vô thức: "Này, em có
thể yêu anh, anh giống đối tượng yêu của em như hệt".
Trong trường hợp này thái độ dục tính đối với đối tượng biến thành libido ngã
ái, như vậy là người ta từ bỏ mục tiêu dục tính thuần túy, như vậy là khử dục
tính, là thăng hoa. Ở đây chúng ta có thể đặt ra một câu hỏi đáng đem ra bàn về
chi tiết, chúng ta muốn biết rằng đây có phải là một phương tiện thăng hoa nói
chung không? Sự thăng hoa nào cũng thực hiện qua sự trung gian của cái tôi,
biến libido dục tính hướng vào đối tượng thành libido ngã ái và đem lại cho
libido ngã ái những mục tiêu khác chăng? [11] Còn
như vấn đề tìm hiểu xem sự biến đổi ấy có hậu quả nào khác đến số phận về sau của
bản năng, nhất là sự phân tán những bản năng đã kết hợp với nhau, thì sau này
chúng ta còn có dịp bàn đến.
Trong khi chờ đợi, chúng tôi cần phải dừng bước lại ít lâu để bàn về sự đồng nhất
hóa cái tôi với những đối tượng dục tính. Khi sự đồng nhất hóa nhiều
quá, mạnh quá, không thỏa hiệp được với nhau thì sẽ xảy ra tình trạng bệnh hoạn
hay khởi đầu cho sự bệnh hoạn. Hậu quả có thể là sự phân tán cái tôi, những
sự đồng nhất hóa trong cái tôi ly tán với nhau, kháng cự nhau; có lẽ
tình trạng là cá tính đa dạng (multiple personnalité), những sự đồng
nhất hóa khác nhau tìm cách chiếm lấy cả tâm thức (ý thức) về mình. Tuy rằng sự
tranh giành ấy không đi đến đâu nhưng cũng có thể gây ra xung đột, không phải sự
xung đột nào cũng có tính cách bệnh hoạn.
Tuy rằng sau này tính tình con người kháng cự lại những ảnh hưởng của các đối
tượng đã lìa bỏ, nhưng những sự đồng nhất hóa đầu tiên thực hiện vào lúc thơ ấu
vẫn giữ được tính cách đại quát và bền bỉ. Điểm này dẫn chúng ta đến thời kỳ
thoát thai lý tưởng của cái tôi, bởi vì đàng sau cái tôi ấy ẩn
náu sự đồng nhất hóa đầu tiên và quan trọng nhất của con người: sự đồng nhất
hóa với người cha [12].
Sự đồng nhất hóa ấy hầu như không phải là hậu quả của sự tập trung vào đối tượng,
đó là sự đồng nhất hóa trực tiếp, ngay tức khắc, xảy ra trước khi biết tập
trung vào một đối tượng nào. Nhưng những khát vọng dục tính của thời kỳ dục
tính đầu tiên hướng vào người cha và người mẹ hầu như chỉ là sự đồng nhất hóa bậc
hai và gián tiếp, để củng cố sự đồng nhất hóa nguyên thủy và trực tiếp; đó là
trường hợp người bình thường.
Những liên lạc ấy thật là phức tạp, bởi vậy cho nên cần phải mô tả chi tiết. Có
hai yếu tố gây ra sự phức tạp ấy; mặc cảm Oepide có ba mặt, còn bản chất của
con người là lưỡng dục tính (bisexualité).
Đối với con trai thì trường hợp của nó đơn giản hóa hết sức sẽ như sau: từ rất
sớm nó tập trung libido vào mẹ nó, sự tập trung ấy khởi sự từ cái vú mẹ cho nó
bú, đó là trường hợp điển hình của sự lựa chọn đối tượng bởi có tiếp giáp trực
tiếp; còn như đối với cha thì đứa trẻ chiếm lấy đối tượng bằng cách đồng nhất
hóa với cha. Hai thái độ ấy đồng hiện hữu trong một thời gian, cho đến khi thị
dục dục tính đối với mẹ được củng cố, nó nhận thấy cha là chướng ngại vật ngăn
cản nó thực hiện thị dục, bấy giờ là lúc phát sinh mặc cảm Oepide [13].
Sự đồng nhất hóa với cha trở thành có tính cách thù nghịch, gây ra ý muốn loại
bỏ cha để thay thế cha ở bên cạnh mẹ. Bắt đầu từ lúc ấy thái độ đối với cha là
thái độ lưỡng ứng, có thể cho rằng tính cách lưỡng ứng đó mới đầu đã ám tàng
trong sự đồng nhất hóa, bây giờ chỉ có việc bộc lộ ra mà thôi. Tính cách lưỡng ứng
đối với cha và xu hướng thương mến mẹ là những yếu tố của mặc cảm Oepide đơn
và tích cực của đứa trẻ.
Đến lúc tiêu hủy mặc cảm Oepide đứa trẻ phải bỏ khuynh hướng lấy mẹ làm đối tượng
dục tính. Có thể xảy ra hai trường hợp: một là đồng nhất hóa với mẹ, hai là củng
cố sự đồng nhất hóa với cha. Thường thường ta coi trường hợp thứ hai là trường
hợp bình thường; trong những trường hợp bình thường nó có thể giữa được đến mức
nào thái độ thương mến mẹ. Sau khi tiêu hủy mặc cảm Oepide, phần nam tính của
tính tình đứa trẻ được củng cố. Con gái cũng vậy; sau khi tiêu hủy mặc cảm
Oepide, nó có thể đồng nhất hóa với mẹ (và nếu sự đồng nhất hóa ấy đã có sẵn,
thì nó được củng cố thêm), tình trạng ấy có hậu quả là củng cố phần nữ tính của
đứa trẻ.
Những sự đồng nhất hóa ấy không trả lời vào sự chờ đợi của chúng tôi bởi vì
chúng không phải là sự kiện cái tôi nuốt trọn đối tượng mà người ta từ
bỏ; tuy nhiên việc nuốt trọn đó thường xảy ra cho con trai cũng như con gái.
Trong thời kỳ tâm phân nghiệm, thường khi đứa con gái từ bỏ cha (đối tượng tình
yêu) rồi lấy nam tính làm lý tưởng và đồng nhất hóa với đối tượng, tức là với
cha coi như là một lý tưởng, chứ không phải với mẹ. Dĩ nhiên, việc ấy tùy thuộc
trình độ phát triển nam tính của nó, không kể bản chất của xu hướng nam tính thế
nào.
Hình như sự đồng nhất hóa với cha hay với mẹ của trai và gái sau khi tiêu hủy mặc
cảm Oepide, tùy thuộc vào sức mạnh tương đối của xu hướng dục tính của từng người.
Đó là khía cạnh thứ nhất mà tính cách lưỡng dục tính bộc lộ và can thiệp vào số
mệnh của mặc cảm Oepide. Nhưng lưỡng dục tính còn bộc lộ dưới một cạnh
khía khác ý nghĩa hơn nhiều. Người ta có cảm tưởng rằng mặc cảm Oepide đơn
giản không phải là trường hợp thường thấy, đó chỉ là một quan niệm đơn giản hóa
và biểu đồ hóa của chúng ta, nhiều khi rất tiện dụng. Tìm tòi sâu rộng hơn, nhiều
khi chúng tôi khám ra mặc cảm Oepide dưới hình thức toàn vẹn, một hình thức có
đủ hai sắc thái tích cực và tiêu cực, có liên lạc với lưỡng dục tính nguyên thủy
của đứa trẻ: chúng ta muốn nói rằng không những đứa con trai có thái độ lưỡng ứng
đối với cha và thái độ thương mến dục tính đối với mẹ mà thôi, đồng thời nó
cũng có thái độ như con gái, nó có tình thương cảm nữ tính đối với cha và có
thái độ thù nghịch đối với mẹ. Sự can thiệp của lưỡng dục tính làm cho công việc
tìm hiểu đích xác những liên lạc giữa sự lựa chọn đối tượng đầu tiên và sự đồng
nhất hóa đầu tiên thực là khó khăn, mô tả những liên lạc ấy cho thật sáng sủa
và cụ thể lại càng khó khăn hơn. Tính cách lưỡng ứng trong sự liên lạc của đứa
trẻ với cha mẹ nó có thể cắt nghĩa một cách đại cương bằng lưỡng dục tính chứ
không phải bằng sự đồng nhất hóa xảy ra sau sự ghen ghét cha như nói ở trên.
Nói chung, nhất là đối với người có bệnh suy nhược thần kinh, thì chúng ta nên
chấp nhận rằng mặc cảm Oepide của họ toàn vẹn. Kinh nghiệm phân tâm sẽ chứng
minh rằng trong nhiều trường hợp một trong hai yếu tố tạo ra mặc cảm Oepide biến
mất chỉ để lại những dấu vết mờ mịt khó thấy, thậm chí người ta có cả một bản
kê liên tiếp, ở trên cùng là mặc cảm Oepide bình thường và tích cực, dưới cùng
là mặc cảm Oepide lộn ngược tiêu cực, từ trên xuống dưới là những trường hợp
trung gian đại diện cho hình thức toàn vẹn có sự tham dự của cả hai yếu tố, yếu
tố nọ nhiều thì yếu tố kia ít. Đến khi tiêu hủy mặc cảm Oepide bốn khuynh hướng
của nội dung mặc cảm ấy kết hợp với nhau để làm thoát thai sự đồng nhất hóa với
cha và sự đồng nhất hóa với mẹ: sự đồng nhất hóa thứ nhất sẽ lại kết hợp với xu
hướng dục tính của mặc cảm tích cực, nghĩa là xu hướng lấy mẹ làm đối tượng; đồng
thời sự đồng nhất hóa ấy cũng thay thế cho xu hướng dục tính lấy cha làm đối tượng,
xu hướng này sẽ tham dự vào mặc cảm Oepide tiêu cực. Sự đồng nhất hóa với mẹ
cũng xảy ra trong tình trạng tương tự, nhưng theo một phương thức đảo ngược các
yếu tố. Cường độ mạnh hay yếu của hai sự đồng nhất hóa phản chiếu sự chênh lệch
của hai loại xu hướng dục tính.
Sự kiện chính yếu là sau giai đoạn ngự trị của mặc cảm Oepide, sự biến đổi phổ
quát nhất của cái tôi còn để lại cả hai sự đồng nhất hóa, sự ràng buộc giữa hai
sự đồng nhất hóa ấy thế nào thì chúng tôi không được biết rõ. Sự biến đổi cái
tôi chiếm một chỗ riêng và giữ một vai trò riêng đối lập với nội dung khác của
cái tôi, nội dung khác đó là lý tưởng hay Siêu Ngã.
Tuy nhiên Siêu Ngã không phải là cái gì còn lại nhân việc lựa chọn đối
tượng đầu tiên của vô thức, Siêu Ngã còn có ý nghĩa một kiến tạo
dùng để chống đối lại sự lựa chọn ấy một cách mạnh mẽ. Đối với cái tôi,
không những nó khuyên bảo: "Hãy làm như thế này" (như cha mày), mà nó
còn có ý nghiêm cấm nữa: "Đừng có như thế" (đừng có như cha mày); nói
rõ hơn, nó bảo: "Đừng làm tất cả cái gì cha mày làm, có nhiều cái chỉ cha
mày được làm mà thôi". Siêu Ngã có hai sắc diện như thế là vì nó
dùng hết sức lực để dồn nén mặc cảm Oepide và nó chỉ được thoát thai nhân có sự
dồn nén ấy mà thôi. Dĩ nhiên là dồn nén mặc cảm Oepide không phải là việc dễ.
Cái tôi ấu trĩ của đứa trẻ nhận thấy cha mẹ, nhất là người cha, làm
trở ngại sự thực hiện thị dục liên hệ đến mặc cảm Oepide của nó, nó muốn cố gắng
tăng cường phương tiện và khả năng hành động, nó bèn tạo ra trở lực ngay trong
bản thân nó. Nó vay mượn phần nào sức mạnh của cha, sự vay mượn ấy là một việc
làm nặng nề hậu quả. Siêu ngã cố gắng tái tạo và duy trì tính tình của
người cha, mặc cảm Oepide càng mạnh thì dưới ảnh hưởng của tôn giáo, gia pháp,
giáo dục, báo chí, sự dồn nén càng nhanh, siêu ngã càng nghiêm khắc với
cái tôi, siêu ngã hoạt động với tư cách tiếng nói của lương tâm,
có lẽ cũng có cảm tưởng phạm tội phi ý thức. Sau này chúng tôi sẽ nói đến một
vài dự kiến về nguồn gốc của sức mạnh siêu ngã thống trị cái tôi,
và của sức kiềm tỏa gắt gao mà siêu ngã bắt những phần tử khác vào
khuôn vào phép.
Suy nghĩ về thể thức xác nhận siêu ngã, chúng tôi nhận thấy nó là kết quả
của hai yếu tố sinh vật rất quan trọng: 1) tình trạng ấu trĩ bất lực và tùy thuộc
của nhiều trong một thời gian khá lâu; 2) mặc cảm Oepide xuất hiện vì sự phát
triển libido bị cản trở, nói khác đi là tính cách lưỡng ứng của dục tính. Đặc
điểm sau cùng này hầu như chỉ loài người mới có, một giả thiết phân tâm học cho
là một nét di truyền, sự tiến hóa của loài người hướng về văn hóa do sự thúc đẩy
của điều kiện sống dưới thời kỳ băng giá của trái đất. Sự phân biệt ra siêu
ngã và ngã không phải là một sự kiện tình cờ, đó là kết quả tự
nhiên của sự tiến triển cá nhân và nòi giống gop góp được những đặc điểm quan
trọng nhất; sự phân biệt siêu ngã và ngã vừa là nét vẻ bền
bỉ của ảnh hưởng cha mẹ, vừa lưu tồn những yếu tố làm xuất hiện sự phân biệt ấy.
Người ta đã nhiều lần chỉ trích phân tâm học không lưu ý đến cái gì cao nhã, đạo
đức, siêu việt trong con người. Lời chỉ trích vô bằng về hai phương diện: lịch
sử và phương pháp làm việc. Về phương diện lịch sử, phân tâm học đã gán cho
khuynh hướng đạo đức và thẩm mỹ một vai trò quan trọng trong sự dồn nén ngay từ
đầu; về phương diện phương pháp làm việc, người chỉ trích không muốn hiểu rằng
sự tìm hiểu phân tâm học không có cái gì chung với một hệ thống triết lý có sẵn
một học thuyết toàn vẹn và thành tựu; phân tâm học bắt buộc phải tiến từng bước
để hiểu những điểm khúc mắc của động tác tâm thần qua sự phân tích những hiện
tượng bình thường và bất thường. Chúng ta còn phải nghiên cứu những yếu tố bị dồn
nén của đời sống tâm thần thì chúng ta không có sự lo ngại của những người muốn
giữ lấy vẻ thuần khiết của cái gì cao cả trong linh hồn với bất cứ giá nào.
Nhưng bây giờ chúng tôi đã đi vào sự phân tích cái tôi, chúng tôi có thể
trả lời cho những người thắc mắc với vấn đề đạo đức và chủ trương rằng ý thức đạo
đức phải có yếu tính cao cả, chúng tôi sẽ trả lời rằng: hẳn là phải có, yếu
tính cao cả đó không phải cái gì khác cái tôi lý tưởng, cái siêu
ngã tóm thâu đạo làm con đối với cha mẹ. Còn nhỏ chúng ta đã biết những
nhân vật thượng đẳng đối với chúng ta và chúng ta đã thán phục cha mẹ, sợ cha mẹ,
sau này chúng ta hội nhập nhân vật ấy vào ta, chúng ta đồng hóa nhân vật ấy.
Như vậy cái tôi lý tưởng là gia tài thừa hưởng của mặc cảm
Oepide, bởi vậy nó biểu lộ những khuynh hướng mạnh mẽ nhất, những ý tưởng
libido quan trọng nhất của vô thức. Nhờ sự trung gian của tôi lý
tưởng mà cái tôi làm chủ được mặc cảm Oepide và đồng thời
cũng nghe theo vô thức. Cái tôi đại diện chính yếu cho ngoại giới,
cho thực tại, siêu ngã chống lại nó vì siêu ngã đại diện
cho quyền hạn của nội tâm, của vô thức. Chúng ta sẽ thấy phân tích đến
cùng thị sự xung đột giữa cái tôi và lý tưởng của chúng ta phản ảnh sự
đối lập giữa ngoại giới và thế giới tâm thần.
Những cái gì mà sự tiến hóa của loài vật sinh sống và của giống người đã để lại
trong vô thức đều sống lại trong quan niệm lý tưởng của chúng ta như
một sở đắc của cá nhân. Tôi lý tưởng được cấu tạo và có một lịch sử
như thế, nó có những mối liên lạc mật thiết và chặt chẽ nhất với gia tài truyền
thống của cá nhân. Cái gì thuộc về lớp sâu thẳm của đời sống tâm thần cá nhân,
nhờ cái tôi lý tưởng mà trở thành cái gì cao cả nhất trong linh hồn
con người, xét theo kích thước những giá trị thường được chúng ta tôn trọng.
Nhưng chúng ta không thể định chỗ đứng cho tôi lý tưởng theo cách xác
định vị trí của cái tôi hay theo cách so sánh để mô tả sự liên lạc giữa
cái tôi và vô thức như chúng tôi đã làm.
Rất dễ chứng minh rằng tôi lý tưởng thỏa mãn được tất cả những điều
kiện mà yếu tính cao trọng của con người phải thỏa mãn, tôi lý tưởng
được tạo ra để thay thế tình yêu mến người cha, bởi vậy nó là cội rễ của tôn
giáo. Vì ý thức được sự cách biệt giữa cái tôi và tôi lý tưởng cho
nên con người cảm thấy sự đớn hèn có tính cách tôn giáo mà lòng tin đạo và mê đạo
tất phải có. Trong thời kỳ phát triển sau, vai trò người cha được thầy học và
luật pháp đảm nhiệm, huấn từ và lệnh nghiêm cấm còn tất cả sức mạnh trong tôi lý
tưởng để bắt con người theo đạo lý. Hoạt động của cái tôi còn xa ý thức
đạo lý, do đó mà phát sinh cảm tưởng phạm tội. Ý thức xã hội căn cứ vào sự đồng
nhất hóa với mọi người trong tập thể có cùng một cái tôi lý tưởng như
mình.
Tôn giáo, luân lý và ý thức xã hội, ba yếu tố nền tảng của yếu tính cao trọng
nhất trong con người [14] mới
đầu chỉ là một toàn thể bất khả phân. Trong quyển sách Vật tổ và cấm kỵ chúng
tôi đã đưa ra một giả thuyết theo đó thì ba yếu tố ấy con người đã hấp thụ được
lần hồi qua thời gian tiến hóa phát sinh: hệ thống tôn giáo và luân lý được hấp
thụ nhờ sự chiến thắng mặc cảm Oepide; ý thức xã hội được hấp thụ nhờ sự dẹp
bỏ những tàn tích tranh giành giữa các phần tử của thế hệ trẻ. Hình như đàn ông
đã mở đường cho sự hấp thụ luân lý, đến sau nhờ có hôn nhân, truyền thống ấy
cũng trở thành sở đắc của đàn bà. Cho đến ngày nay ý thức xã hội cũng còn là một
thượng tầng cơ cấu vượt lên trên những xu hướng tranh giành đố kỵ đối với anh
em chị em. Sự căm thù không thể thỏa mãn được, nó được thay thế bằng sự đồng nhất
hóa với người trước là thù địch của mình. Sự quan sát những người đồng tính ái
nhẹ đã xác định cách nhìn của chúng tôi, theo đó thì sự đồng nhất hóa cũng dùng
để thay thế một thái độ mến yêu người nào, thái độ ấy chấm dứt những sự căm thù
gây gổ [15].
Đề cập đến lãnh vực phát sinh học (phylogénie) chúng tôi thấy xuất hiện nhiều vấn
đề mà chúng ta những muốn tránh giải đáp. Nhưng nếu tránh không được, chúng ta
phải thử làm xem. Mặc dù chúng ta lo ngại tốn công vô ích. Câu hỏi thứ nhất làm
cho chúng tôi chú ý đến như sau: có phải cái tôi nguyên thủy
hay vô thức nhờ ảnh hưởng cha mẹ mà hấp thụ được trước tiến cái mà ta
gọi là tôn giáo và luân lý chăng? Nếu là cái tôi, tại sao chúng ta không
cho rằng nói đến những sở đắc di truyền của cái tôi là đủ rồi? Nếu
là vô thức thì những sở đắc ấy phù hợp với bản tính của nó như thế
nào? Hay là chúng tôi đã lầm lỗi khi cho rằng sự phân hóa thành Ngã (tôi), siêu
ngã và vô thức đã xảy ra vào một thời kỳ xa xôi quá chăng? Hay
là chúng tôi phải thành thực mà công nhận rằng dầu sao thì cách quan niệm tiến
trình của cái tôi như thế không giúp cho sự hiểu biết hệ thống phát
sinh (phylogénie) và không dùng được.
Chúng ta hãy trả lời những câu dễ nhất. Về sự phân hóa ra tôi và vô
thức thì không những chỉ có người bàn cổ mới qua thời kỳ phân hóa ấy mà những
sinh vật sống đơn sơ hơn cũng vậy, bởi vì đó là một nét cần thiết của ảnh hưởng
ngoại giới. Còn siêu ngã thì chúng tôi quy vào kinh nghiệm tâm thần
đã làm thoát thai chế độ vật tổ. Như vậy, vấn đề tìm hiểu xem cái tôi hay vô
thức có những kinh nghiệm và sở đắc ấy không cần đặt ra. Suy xét cặn kẽ
hơn, chúng tôi nhận thấy rằng tất cả những kinh nghiệm mà vô thức nhận
được, đều qua sự trung gian của cái tôi, vì cái tôi ở vị trí tiếp
xúc với ngoại giới. Tuy nhiên, vì phẩm chất và đặc tính của cái tôi như
vậy cho nên chúng ta không thể nói đến sự di truyền trực tiếp. Ở đây mở ra cái
hố ngăn cách cá nhân và giống nòi. Vả chăng chúng ta cũng không nên quan niệm rằng
giữa cái tôi và vô thức có sự khác biệt hẳn, chúng ta không
nên quên rằng cái tôi chỉ là một phần của vô thức đã bị
phân hóa một cách đặc biệt. Những kinh nghiệm của cái tôi, nếu xét về
phương diện di truyền thì hầu như không để lại vết tích gì, nhưng nếu là những
kinh nghiệm mạnh mẽ và nhắc đi nhắc lại luôn luôn, một số lớn người của nhiều
thế hệ liên tiếp cũng làm như thế, thì kinh nghiệm ấy trở thành kinh nghiệm của vô
thức, dấu vết bảo thức năng của kinh nghiệm được truyền thống duy trì và bảo tồn.
Chính vì thế mà vô thức truyền thống lưu trữ rất nhiều đời sống chúng
con, khi cái tôi bới tìm siêu ngã trong vô thức, thực
ra nó chỉ làm sống lại những nét vẻ kiếp trước của nó.
Vì thể thức cấu tạo của siêu ngã, người ta hiểu rằng những xung đột ngày
trước giữa cái tôi và những đối tượng libido của vô thức sẽ
tiếp tục và biến thành xung đột giữa cái tôi và siêu ngã (thừa
kế của vô thức). Khi cái tôi không chiến thắng được mặc cảm Oepide
thì số tinh lực mà nó rút ra của vô thức sẽ lại hoạt động trong tôi lý
tưởng tượng trưng cho phe đối lập với nó. Tôi lý tưởng thông đồng với
những xung động bản năng tiềm thức, sự kiện ấy cắt nghĩa được hiện tượng bí hiểm
sau đây: phần lớn cái tôi lý tưởng không ý thức được, xa lạ đối với
cái tôi. Cuộc đấu tranh gay go trong những lớp thâm sâu của tâm thần không
kết thúc được bằng cách thăng hoa và đồng nhất hóa, nó sẽ tiếp tục trên tầng lớp
cao tột của tâm thần.
4. Hai loại bản năng
Như chúng tôi đã nói ở trên, khi phân chia bản thể tâm thần ra vô thức, ngã và siêu
ngã chúng tôi đã tiến được một bước trong sự hiểu biết, sự phân chia ấy
còn đem lại cho chúng tôi phương tiện để tìm hiểu sâu xa hơn và mô tả rõ ràng
hơn những liên lạc năng động của sinh hoạt tâm thần. Chúng ta đã biết rằng
cái tôi chịu ảnh hưởng của sự tri giác một cách đặc biệt, chúng ta có
thể nói một cách tổng quát rằng tri giác đối với cái tôi cũng như bản
năng và xu hướng đối với vô thức. Nhưng chúng ta cũng cần nói thêm rằng đến
lượt cái tôi cũng chịu ảnh hưởng của bản năng và xu hướng không khác
gì vô thức vì nó cũng chỉ là một phần của vô thức đã biến đổi
một cách đặc biệt.
Đối với xu hướng và bản năng chúng tôi đã trình bày quan niệm của chúng tôi
trong phần đầu, chúng tôi vẫn giữ nguyên quan niệm ấy và dùng làm nền tảng cho
sự nhận định sau này. Chúng tôi chấp nhận rằng có hai loại bản năng, một loại gồm
những bản năng dục tính (Eros), loại ấy có tính cách hiển nhiên hơn cả và dễ
tìm hiểu hơn cả. Loại ấy gồm có bản năng dục tính chính thức không thể tiễu trừ
được, ngoài ra còn có những khuynh hướng đã bị tách rời khỏi mục tiêu và được
thăng hoa, sau hết là bản năng bảo tồn mà trước chúng tôi đã cho là thuộc về cái tôi và
đã cho là đối lập với khuynh hướng dục tính. Chứng minh sự hiện hữu của loại thứ
hai khó khăn hơn, sau cùng chúng tôi cho rằng khuynh hướng hành hạ (sadism) là
đại diện cho loại thứ hai. Căn cứ vào lý do lý thuyết áp dụng trong sinh vật học,
chúng tôi chấp nhận có bản năng chết, chức vụ của nó là đưa tất cả cái gì có cơ
thể sinh sống đến trạng thái vô hồn (chết), còn như mục đích của bản năng dục
tính là làm cho sự sống phức tạp để duy trì và bảo tồn, nó tìm cách đưa những
chất khác ở ngoài vào trong chất sống để hội nhập vào chất sống, một cơ thể sống
đó lại phân chia ra thành nhiều. Cả hai loại bản năng (dục tính và chết) đều xử
sự như những bản năng bảo tồn hiểu theo nghĩa đích xác nhất, vì cả hai loại đều
nhắm vào sự tái lập một tình trạng đã bị sự xuất hiện đời sống làm xáo trộn.
Như vậy sự xã hội đời sống là nguyên nhân của sự kéo dài hạn đời sống cũng như
của sự tìm đến cái chết; đời sống xuất hiện như một cuộc vật lộn hay một sự tạm
thỏa hiệp giữa hai khuynh hướng ấy. Vấn đề uyên nguyên của đời sống là một vấn
đề vũ trụ quan, phương diện cứu cánh và ý hướng của đời sống cần phải có một lời
giải đáp nhị nguyên.
Mỗi loại bản năng có một tiến trình sinh lý (xây dựng hay phá hủy); cả hai tiến
trình đều hoạt động trong các thành phần của chất sinh sống, nhưng tỉ lệ khác
nhau, thậm chí vào một lúc nào đó một thành phần có thể tự cho là mình đại diện
đặc biệt cho sự sống.
Bây giờ chúng ta chưa thể có một ý niệm nào về cách phối hợp, hợp tác, pha trộn
của hai bản năng sống và chết. Nhưng nếu người ta chấp nhận cách nhìn của chúng
tôi thì người ta phải chấp nhận rằng những sự phối hợp, hợp tác và pha trộn ấy
luôn luôn xảy ra trong một phạm vi rộng lớn. Sự hợp tác của một số lớn những độc
bào đơn sơ làm thành những sinh vật đa bào đã ngăn cản hiệu lực của bản năng chết
trong một tế bào riêng rẽ, bản năng chết bị lái ra ngoài nhờ sự trung gian của
xu hướng phá hoại. Cơ quan điều động xu hướng ấy là bắp thịt, từ đây bản năng
chết (hay ít ra một phần) sẽ bộc lộ dưới hình thức bản năng phá hoại nhắm vào
ngoại giới và các sinh vật sống khác.
Khi đã chấp nhận có sự pha trộn hai loại bản năng chúng ta sẽ thấy ngay có thể
tách rời chúng, tách rời hẳn hay phần nào. Trong yếu tố hành hạ của bản năng dục
tính chúng ta có một thí dụ cụ thể về sự pha trộn bản năng, nhắm vào một mục
tiêu nhất định; còn như sự hành hạ dưới hình thức độc lập của một hành vi ác
dâm, thì lại là một thí dụ khác về sự tách riêng quá mức. Chúng ta đứng trước
những toàn bộ sự kiện chưa được nhận định theo những khái niệm mà chúng tôi chủ
trương. Chúng ta nhận thấy khuynh hướng phá hoại luôn luôn xuất hiện dưới hình
thức một xu hướng rẽ ngang và phục vụ bản năng sinh sống; chúng tôi ngờ rằng bệnh
động kinh (épilepsie) là một triệu chứng phân tán hai bản năng, chúng tôi bắt đầu
hiểu rằng trong số những hậu quả tai hại của một vài bệnh suy nhược thần kinh nặng
như bệnh nhược thần kinh ám ảnh (névrose obsessionnelle) chẳng hạn, chúng ta
nên chú trọng đặc biệt đến sự phân tán bản năng và vai trò quan trọng bậc nhất
của bản năng chết. Tổng quát hóa các nhận định chúng tôi đã chấp nhận rằng
nguyên nhân chính yếu của sự đàn áp libido trong thời kỳ thơ cấu từ năm thứ hai
đến năm thứ ba (phase sadique anale) là sự phân ly bản năng, ngược lại sự tiến
triển từ giai đoạn có tình dục chính thức nguyên thủy sang giai đoạn có tình dục
chính thức hoàn thành (từ năm thứ sáu đến tuổi dậy thì) chỉ có thể thực hiện được
nhờ ghép thêm những yếu tố tình ái. Chúng ta cũng có thể tự hỏi rằng tính cách
lưỡng ứng thường thấy hiện rõ ở những người có thể tạng dễ suy nhược thần kinh,
phải chăng cũng là hậu quả của sự phân ly bản năng; hẳn là sự phân ly ấy xảy ra
vào một thời kỳ rất xa xôi, thậm chí chúng ta nên cho là một sự pha trộn không
đúng mức thì đúng hơn.
Dĩ nhiên, chúng ta nên chú trọng đến sự tìm hiểu xem có thể lập được liên lạc
giữa những thực thể tôi, siêu ngã, vô thức và hai loại bản
năng hay không? Có thể lập những liên lạc vững chắc và bất biến giữa nguyên tắc
khoái lạc chi phối tiến trình tâm thần và hai loại bản năng, giữa nguyên tắc
khoái lạc và những phân hóa của tâm thần chăng? Nhưng trước khi bàn đến những vấn
đề ấy chúng ta phải đánh tan một điểm hoài nghi mà cách đặt vấn đề của chúng ta
tạo ra. Nguyên tắc khoái lạc thì không có gì đáng nghi ngờ, sự phân biệt ra nhiều
phần của cái tôi dựa vào những kinh nghiệm trị bệnh, nhưng sự phân biệt
hai loại bản năng không đặt trên một căn bản vững vàng và có thể mâu thuẫn với
những sự kiện phân tích ở bệnh viện.
Hình như có một sự kiện thuộc loại ấy. Chúng ta có thể thay thế sự đối lập giữa
hai loại bản năng bằng sự quy hướng của yêu thương và căm thù. Muốn tìm một đại
diện cho Eros (bản năng sinh sống) chúng ta không thấy khó khăn gì; trái lại
chúng ta khó lòng thỏa mãn khi đề cập đến xu hướng phá hoại (do căm thù mà ra)
như là đại diện của bản năng chết, chúng ta khó lòng mà có một ý niệm cụ thể về
bản năng chết. Sự quan sát trị bệnh luôn luôn chứng minh một cách bất ngờ rằng
căm thù vẫn kèm theo tình yêu (lưỡng ứng), rằng căm thù báo hiệu trước cho tình
yêu, trong điều kiện nào đó căm thù có thể biến thành tình yêu hay trái lại
tình yêu có thể biến thành căm thù. Nếu đây là một trường hợp biến đổi thực sự
chứ không phải chỉ là cái nọ kế tiếp cái kia trong thời gian thì hiển nhiên là
chúng tôi đã không có căn bản chắc chắn khi phân biệt từ gốc rễ hai loại: xu hướng
tình yêu và bản năng, sự phân biệt ấy giả thiết rằng phải có những tiến trình
sinh lý diễn biến theo hai chiều đối lập nhau.
Thế nhưng, sự kiện yêu ai rồi sau ghét họ hay trái lại ghét họ rồi sau yêu họ,
sự kiện ấy không dính dáng gì đến vấn đề của chúng ta. Cả trường hợp sau đây
cũng vậy: một tình yêu còn lắng chìm trước tiên chỉ biểu lộ ra thái độ căm thù
và xu hướng gây gổ, trường hợp ấy chỉ là trường hợp yếu tố ái tình đến chậm vì
thế yếu tố phá hoại đã ra tay trước. Nhưng tâm lý người suy nhược thần kinh cho
ta biết nhiều trường hợp trong đó giả thuyết biến đổi tỏ ra hữu lý hơn. Trong bệnh
điên hành hạ (paranoĩa persecutoria) người bệnh chống lại tình yêu đồng tính ái
quá mạnh đối với người họ yêu, thành thử họ nghĩ rằng người ấy bức bách họ, họ
có thái độ nguy hiểm cho người ấy. Sự thể ấy cho phép chúng tôi ken vào giữa
hai giai đoạn yêu và ghét một giới hạn trung gian yêu đang biến ra thù. Mới đây
những công cuộc tìm tòi phân tâm học cho biết rằng sự xuất hiện đồng tính ái và
những tình cảm xã hội khử dục tính, thường vẫn kèm theo sự ganh ghét rất ác liệt,
sự ganh ghét ấy phải biến đi để đối tượng đồng nhất hóa. Người ta có thể tự hỏi
đây có phải là sự biến đổi trực tiếp căm thù ra tình yêu chăng? Có phải rằng
chúng ta đứng trước những biến đổi nội tại không liên can gì đến sự biến đổi
thái độ của đối tượng yêu không?
Nhưng phân tích tiến trình biến chuyển của bệnh cuồng (paranoĩa) chúng tôi nghĩ
rằng đó chỉ là một hành động máy móc. Đó là một thái độ lưỡng ứng; còn như sự
biến đổi thì xảy ra nhân sự đổi chỗ của tinh lực, một số lượng tinh lực rút khỏi
khuynh hướng ái tình để thêm vào khuynh hướng căm thù.
Trong những trường hợp thù ghét nhường chỗ cho đồng tính ái, chúng ta đứng trước
một tình trạng không phải là đồng nhất nhưng tương tự. Vì thái độ căm thù không
hy vọng thỏa mãn, nó phải nhường chỗ cho thái độ yêu thương (tổ chức lại cho hợp
tình hợp cảnh), thái độ yêu thương có nhiều hy vọng thỏa mãn nghĩa là có thể giải
tỏa được tinh lực. Bởi vậy cho nên trong những trường hợp chúng tôi nói đến, giả
thuyết biến đổi trực tiếp xem ra vô dụng, nhất là sự biến đổi trực tiếp như thế
không thể dung hòa được với sự khác biệt về phẩm chất của hai loại bản năng.
Kể đến một khả năng khác của động cơ biến đổi ái tình thành căm thù, chúng tôi
mặc nhiên chấp nhận một giả thuyết mà bây giờ cần phải minh định. Chúng tôi đã
giả thiết rằng trong hoạt động tâm thần (trong cái tôi hay vô thức cũng
vậy); một số lượng tinh lực có thể đổi chỗ được, tinh lực chẳng cần kén cá chọn
canh, nó phục vụ ai cũng được, nó có thể thêm vào một khuynh hướng ái tình hay
phá hoại đã phân hóa về phẩm chất để tăng cường tổng số tinh lực. Nếu không đặt
giả thuyết tinh lực có thể đổi chỗ được thì sự giải thích của chúng tôi thiếu nền
tảng. Bây giờ vấn đề là tìm hiểu xem tinh lực ấy ở đâu ra, nó ở chỗ nào tâm thần,
nó có ý nghĩa gì.
Vấn đề phẩm chất của xu hướng bản năng và sự duy trì phẩm chất ấy trải qua sự
thăng trầm của xu hướng, cho đến ngày nay vẫn còn tối tăm, ít khi nói đến. Đối
với những khuynh hướng dục tính từng phần dễ quan sát thì chúng ta nhận thấy dễ
dàng một số tiến trình có thể xếp vào cùng một loại: thí dụ, chúng ta biết rằng
những khuynh hướng từng phần có thông đồng với nhau ít nhiều, một khuynh hướng
thuộc về một nguồn thụ khoái cảm có thể san sẻ bớt cường lực của nó cho một
khuynh hướng từng phần thuộc về một nguồn thụ khoái cảm khác; sự thỏa mãn một
khuynh hướng có thể thay thế sự thỏa mãn một khuynh hướng khác, v.v... Tất cả những
sự kiện ấy đã giúp chúng tôi lập một vài giả thuyết.
Trong sự thảo luận sau này, chúng tôi chỉ đề nghị một giả thuyết chứ không phải
một bằng chứng. Có thể chấp nhận rằng tinh lực ấy vô tư và có thể đổi chỗ ở,
tinh lực ấy điều động cái tôi và vô thức, nó xuất phát từ chỗ dự
trữ libido ngã ái, nghĩa là nó đại diện cho libido khử dục tính. Quả vậy, những
xu hướng ái tình nói chung thì rất mềm dẻo, rất dễ lái sang nhiều lối rẽ ngang,
rất dễ đổi chỗ hơn những khuynh hướng phá hoại. Cứ theo giả thuyết ấy thì có thể
giả thiết rằng libido khử dục tính và có thể đổi chỗ sẽ phục vụ nguyên tắc
khoái lạc, nó khai thông những sự đình trệ hay ngưng đọng và làm cho sự giải tỏa
được dễ dàng. Thí dụ như có sự giải tỏa thì sự giải tỏa ấy sẽ như thế nào nó
cũng không cần biết. Chúng ta biết rằng đó là đặc điểm của những tiến trình tập
trung tinh lực trong vô thức. Người ta cũng nhận thấy đặc điểm ấy trong tiến
trình tập trung tinh lực ái tình nhằm vào một đối tượng ngẫu hứng, không được
người ta chú ý và ưa thích lắm; trong khi tâm phân nghiệm, việc ấy cũng xảy ra
cho hiện tượng di chuyển, cán bộ chỉ cần di chuyển được tâm tình của họ thôi,
không cần biết nạn nhân của họ là ai. Rank đã kể lại những thí dụ thú vị về sự
báo thù của cán bộ, nạn nhân của họ là ông thầy, chẳng đáng là nạn nhân của họ
chút nào. Tiềm thức xử sự như thế làm chúng ta nghĩ đến một truyện tiếu lâm:
trong một làng kia có ba người thợ may bị xử giảo vì người thợ rèn đã phạm tội
nặng đến chết. Lý luận của mấy ông làng là có một tội thì phải làm tội, làm tội
ai cũng được không cần đúng hung thủ, miễn là có người chịu tội. Chúng tôi đã
ghi nhận rằng trong công việc cấu tạo giấc mơ những tiến trình nguyên thủy khi
đổi từ chỗ này sang chỗ khác cũng chẳng bận tâm kén chọn gì cả. Trong trường hợp
giấc mơ, sự không cần kén chọn là không cần kén chọn đối tượng, nhưng trong trường
hợp chúng tôi nghiên cứu đây, sự kén chọn nhắm vào hướng đi của tác động giải tỏa.
Xét kỹ thì vấn đề chọn đối tượng và vấn đề hướng đi hẳn là thích hợp với quan
niệm của chúng tôi về chức vụ của cái tôi.
Nếu quả thực tinh lực có thể đổi chỗ như thế đại diện cho libido khử dục tính,
chúng ta cũng có thể gọi là tinh lực thăng hoa, hiểu theo nghĩa nó theo đúng
thói phép của cái Eros chỉ huy sự sinh sống, thói phép ấy là hợp lại, liên kết
lại để thực hiện sự thống nhất, thống nhất là nét riêng biệt, hay ít ra là hoài
bão chính của cái tôi. Nếu chúng ta cho rằng những tiến trình trí tuệ hiểu theo
nghĩa rộng cũng quy về nguồn tinh lực có thể đổi chỗ được, thì chúng ta có thể
nói rằng tiến trình trí tuệ cũng được nuôi dưỡng bởi những xung động tình ái đã
thăng hoa.
Như vậy là chúng tôi lại tới giả thuyết đã đưa ra ở trên kia, theo đó thì sự
thăng hoa thường thường được thành tựu nhờ sự trung gian của cái tôi. Nhân
tiện đây xin nhắc lại một việc mà chúng tôi đã chấp nhận rằng có thể xảy ra:
cái tôi thay thế cho vô thức để nhắm vào đối tượng trong những
giai đoạn ấu trĩ cũng như những giai đoạn sau con người đã phát triển đầy đủ;
cái tôi chiếm lấy libido, phần đã biến thái của nó nhân sự đồng nhất
hóa sẽ sử dụng số lượng libido ấy. Libido của vô thức chuyển sang
libido của cái tôi sẽ từ bỏ những mục tiêu dục tính, đó là sự khử dục
tình. Mặc dù người ta nghĩ thế nào về những tiến trình trên đây, chúng ta cũng
nhận thấy chúng tiết lộ cho chúng ta biết một điều rất quan trọng: chúng ta có
thể hiểu rõ hơn sự liên lạc giữa cái tôi và Eros. Cái tôi chiếm
đoạt lấy libido và tự xưng là đối tượng duy nhất của tình yêu, nó khử dục tính
và thăng hoa libido của vô thức, như vậy là cái tôi đã trái
phép, đã không theo ý Eros nữa, nó quay lại phục vụ những khuynh hướng đối lập.
Tuy nhiên nó vẫn còn giữ lấy phần khác những sở đắc của vô thức, nó tham dự
vào phần khác ấy. Cách xử sự của cái tôi như vậy còn có một hậu quả
khác sau này sẽ nói đến.
Những quan điểm trên đây cho phép chúng tôi sửa đổi một nét quan trọng của lý
thuyết ngã ái. Lúc khởi thùy tất cả libido đều tập trung ở trong vô thức vì
cái tôi còn đang thành lập chưa xong. Vô thức sử dụng một
phần libido để nhắm vào đối tượng, cái tôi dần dần phương trưởng tìm
cách chiếm lấy libido ấy và bắt vô thức phải chấp nhận mình làm đối
tượng tình yêu duy nhất. Bởi vậy cho nên ngã ái của cái tôi là một thứ
ngã ái hạng nhì chiếm đoạt của đối tượng.
Chúng tôi càng theo dõi những khuynh hướng của bản năng có thể quan sát được
thì chúng tôi càng nhận thấy chúng là cái Eros đi rẽ ngang. Nếu không có những
quan điểm trình bày trong phần "Vượt qua nguyên tắc khoái lạc", và nếu
không biết rằng Eros có những yếu tố hành hạ thì chúng tôi không thể giữ vững
quan niệm nhị nguyên của chúng tôi. Những lý do trên đây đã bắt buộc chúng tôi
giữ vững quan niệm thì chúng tôi phải cho rằng bản năng chết hoạt động âm thầm,
còn mọi sự ồn ào của đời sống đều do Eros mà ra [16].
Đời sống là tự Eros mà ra và đời sống là sự chiến đấu với Eros! Nguồn gốc khoái
lạc dùng làm kim chỉ nam cho vô thức trong cuộc chiến đấu với libido,
sự can thiệp của libido làm rối loạn dòng suối của cuộc sống. Nếu đời sống bị
chi phối bởi nguyên tắc giữ nguyên tình trạng (principle de la constance) như
quan niệm của Fechner, nghĩa là đời sống tiến đến sự chết (để giữ nguyên tình
trạng khoáng vật vô tri vô thần), thì chính những bản năng dục tính, chính cái
Eros ngăn cản sự chảy xuôi xuống bằng cách đưa vào những áp thế mới. Vô thức tránh
sự khó chịu sẽ chống lại áp thế đó bằng đủ mọi cách. Cách thứ nhất là thỏa mãn
ngay đòi hỏi của libido dục tính, nghĩa làm tìm cách thỏa mãn những khuynh hướng
dục tính trực tiếp. Cách thứ hai, và cách này hữu hiệu hơn, trong một lúc thỏa
mãn để câm miệng những đòi hỏi từng phần, nó tống những chất có dục tính ra
ngoài, những chất đó chứa đầy áp thế tình dục. Xuất tinh dịch trong khi giao hợp
phần nào tương ứng với phân ly giữa thân xác con người và nguyên sinh chất mầm
giống. Bởi vậy cho nên sau khi giao hợp người ta bước vào một trạng thái giống
hệt trạng thái chết, và cũng bởi vậy cho nên loài vật hạ đẳng chết ngay sau khi
sinh đẻ. Loài vật hạ đẳng chết sau khi sinh đẻ vì sau khi tống khứ cái Eros để
thỏa mãn dục tính thì sự chết được tự do hoạt động để hoàn thành sứ mạng không
gặp trở lực nào nữa. Sau hết xin nói thêm rằng cái tôi đem lại sự dễ
dàng cho vô thức để chiến đấu với libido, bằng cách thăng hoa một phần
libido làm của riêng nó và nó dùng để theo đuổi mục tiêu của nó.
5. Những tình trạng lệ thuộc của cái tôi
Những đề mục dùng cho các chương trên không hẳn là phù hợp với nội dung, muốn
nghiên cứu những liên lạc mới chúng tôi phải nhắc lại những quan điểm hầu như
đã thảo luận xong, chúng tôi phải làm như vậy là vì những đề tài thảo luận phức
tạp vô cùng.
Đã nhiều lần chúng tôi nói rằng phần lớn cái tôi được cấu tạo bởi sự
đồng nhất hóa, những đồng nhất hóa đó là những yếu tố tình dục đã nhập
vào vô thức nhưng bị cái tôi đoạt lấy; những đồng nhất hóa
đầu tiên hoạt động chống lại cái tôi, dần dần cái tôi có sức mạnh
và có nhất trí có thể đương đầu được với chúng. Siêu ngã có ưu thế đối với
cái tôi nhờ một yếu tố có tầm quan trọng về hai phương diện: 1) yếu tố
ấy đại diện cho sự đồng nhất hóa đầu tiên nói ở trên, lúc ấy cái tôi còn
yếu ớt; 2) yếu tố ấy là con thừa tự của mặc cảm Oepide, với tư cách ấy nó đưa
vào cho cái tôi những vật quý giá nhất. Trong một phạm vi nào, vai
trò của yếu tố quan trọng ấy đối với những biến đổi sau này của cái tôi cũng
như vai trò của giai đoạn dục tính nguyên sơ đối với sinh hoạt dục tính của đứa
trẻ sau khi dậy thì. Yếu tố ấy tuy chịu mọi ảnh hưởng ở ngoại giới nhưng vẫn giữ
suốt đời những đặc điểm đã thừa hưởng của mặc cảm Oepide, nghĩa là khả năng chống
lại cái tôi và ngự trị cái tôi. Nó vẫn nhớ những chỗ non yểu và
lệ thuộc ngày xưa của cái tôi tuy rằng cái tôi đã trưởng
thành. Cũng như đứa trẻ phải vâng lời cha mẹ, cái tôi phục tòng mệnh
lệnh nghiêm khắc của siêu ngã.
Nhưng vì siêu ngã thoát thai từ những di tích đầu tiên trong vô
thức cho nên nó còn có ý nghĩa lớn lao hơn. Nhưng chúng tôi đã minh thị, siêu
ngã có ưu thế như vậy vì nó tiếp xúc thẳng với những sở đắc có tính cách hệ
thống phát sinh (phylogénique) của vô thức, nó thể hiện tất cả những
cái tôi xa xưa đã để lại vết tích di truyền trong vô thức. Nhờ
những may mắn đó siêu ngã lúc nào cũng tiếp xúc mật thiết với vô
thức và có thể đại diện cho vô thức bên cạnh cái tôi. Nó
bám sâu xuống vô thức vì thế nó xa ý thức hơn cái tôi [17].
Muốn hiểu rõ những mối liên lạc ấy chúng tôi chỉ cần nhớ lại một vài quan sát bệnh
viện đã biết từ lâu nhưng còn đợi lập thành lý thuyết.
Trong lúc tâm phân nghiệm một vài người tỏ ra có thái độ rất kỳ lạ. Khi ông thầy
cho họ hy vọng và tỏ ra thỏa mãn về bệnh có thuyên giảm, thì họ tỏ ra không vui
lòng, tình trạng của họ nặng thêm. Cách cục ấy bộ lộ sự mâu thuẫn của họ và ý
muốn của họ tỏ ra mình hơn ông thầy. Nhưng chẳng bao lâu chúng tôi nhận thấy
đây là một hiện tượng sâu xa hơn. Không những họ không thể khen ngợi và biết ơn
được mà họ còn phản ứng lại sự tiến bộ của phương trị liệu, thật là trái với dự
tưởng của thầy thuốc. Đối với những người bệnh khác, bệnh lui đôi chút thì triệu
chứng tăng gia hay tạm biến mất, người bệnh tăng thêm đau khổ một thời gian,
tình trạng người bệnh đáng lẽ khá hơn thì lại nặng thêm. Trường hợp này gọi
là phản ứng trị liệu pháp tiêu cực.
Hẳn là đối với những người ấy có cái gì chống đối lại sự khỏi bệnh, họ sợ lúc
khỏi như sợ sự nguy hiểm. Người ta có thể nói rằng đối với họ nhu cầu mắc bệnh
trội hơn nhu cầu khỏi bệnh. Khi phân tích sự kháng cự ấy bằng những phương tiện
thường dùng, khi đem tách riêng thái độ gây gổ với ông thầy và thái độ bám riết
một hình thức gia trọng bệnh hoạn nào đó, thì chúng tôi nhận thấy có một yếu tố
cản trở họ khỏi bệnh rất mạnh mẽ. Mạnh mẽ hơn cả sự ngã ái ngang ngạnh, hơn cả
thái độ tiêu cực đối với ông thầy và ý muốn tăng thêm bệnh.
Đó là yếu tố "luân lý", nghĩa là một cảm tưởng phạm tội chỉ tìm thỏa
mãn trong bệnh tật và không muốn từ bỏ cực hình đại diện bở sự đau đớn. Đó là một
điều chẳng làm cho chúng ta vui sướng nhưng chúng ta công nhận là có thực. Tuy
nhiên cảm tưởng phạm tội rất kín miệng, nó chẳng nói năng gì cho người bệnh biết
là họ có cảm tưởng phạm tội ấy, họ chỉ yên chí rằng họ mắc bệnh thế thôi. Cảm
tưởng ấy xuất lộ ra hình thức một sức kháng cự, khó lòng mà trừ bỏ sức kháng cự
lại ý muốn khỏi bệnh. Nói cho họ biết lý do mà họ kháng cự lại cũng không phải
là việc dễ; họ vơ ngay lấy cách giải thích dễ dàng nhất; cách chữa bằng phân
tâm học không thể khỏi bệnh được [18].
Sự mô tả trên đây chỉ đúng với những trường hợp cực đoan, nhưng có thể khá đúng
với nhiều bệnh suy nhược thần kinh, có lẽ tất cả các bệnh suy nhược thần kinh nặng.
Người ta có thể tự hỏi rằng có phải chính yếu tố cảm tưởng phạm tội đó, nghĩa
là thái độ của tôi lý tưởng, đã đóng vai trò quyết định trong bệnh
suy nhược thần kinh và làm cho người bệnh nặng không? Bởi vậy chúng tôi xin nói
thêm vài nhận xét về sự bộc lộ cảm tưởng phạm tội trong nhiều trường hợp khác.
Mô tả cảm tưởng phạm tội bình thường và ý thức được thì không khó, đó là một
cách lên án cái tôi của thẩm quyền phê phán, có sự căng thẳng giữa tôi và tôi lý
tưởng. Cảm tưởng hèn kém của người suy nhược thần kinh cũng có thể giải thích
như thế được. Trong hai loại suy nhược thần kinh mà chúng tôi biết rõ, cảm tưởng
tự ty có thể ý thức được rất rõ; tôi lý tưởng tỏ ra rất nghiệt khắc
và độc ác với cái tôi. Ngoài nét chung ấy ra, hai bệnh nói trên (suy nhược
thần kinh ám ảnh và ưu uất) còn có những nét khác nhau rất ý nghĩa của thái độ
tôi lý tưởng.
Trong bệnh suy nhược thần kinh ám ảnh (hay ít ra một vài hình thức bệnh ấy), cảm
tưởng phạm tội có tính cách cấp tính, nhưng cái tôi nổi lên chống lại
cảm tưởng ấy, chống lại lời buộc tội của tôi lý tưởng và nhờ ông thầy
giúp tay để chống lại. Nếu nghe theo cái tôi của người bệnh thì thật
là vô lý. Sự phân tích cho biết rằng siêu ngã chịu những ảnh hưởng mà
cái tôi không biết đến. Người ta đã khám phá ra rằng những xung động
bị dồn nén đã nuôi dưỡng cảm tưởng phạm tội. Siêu ngã tỏ ra rộng kiến
thức hơn tôi và vô thức.
Trong trường hợp bệnh ưu uất, người ta có cảm tưởng rõ rệt hơn rằng siêu
ngã đã dụ dỗ được lương tâm (ý thức) về phía mình. Nhưng lần này thì
cái tôi không phản đối gì cả, nó biết mình tội lỗi và chịu hình phạt.
Chúng tôi biết rằng giữa bệnh suy nhược thần kinh và bệnh ưu uất có sự khác biệt
về thái độ đối với cảm tưởng tội lỗi như thế. Trong bệnh thứ nhất chúng ta thấy
có những khuynh hướng chướng tai nghịch nhĩ mà cái tôi không biết đến;
trong bệnh ưu uất cái tôi tự đồng nhất hóa với đối tượng, siêu
ngã trừng trị đối tượng ấy (thành thử nó trừng trị cái tôi).
Trong hai bệnh thần kinh đó cảm tưởng phạm tội có cường độ mạnh khác thường, hẳn
là chúng ta không thể không có lời giải thích, nhưng vấn đề chính yếu lại ở chỗ
khác, sau này sẽ bàn đến. Chúng tôi sẽ thảo luận khi đã nói hết những trường hợp
cảm tưởng phạm tội lặn sâu dưới tiềm thức.
Những trường hợp điển hình nhất là bệnh loạn thần kinh (hystérie) và những trạng
thái thuộc loại loạn thần kinh. Rất dễ khám phá ra động cơ đã làm cho cảm tưởng
phạm tội ở lại tiềm thức. Cái tôi của người loạn thần kinh chống lại
một tri giác cực nhọc cho nó là sự đe dọa của siêu ngã quan tòa; nó
làm như vậy chẳng khác nào nó vẫn thường chống lại một đối tượng đáng ghét bằng
cách dồn nén. Vậy thì cái tôi chính là nguyên nhân làm cho một cảm tưởng
tội lỗi phải dừng lại trong tiềm thức. Chúng tôi biết rằng cái tôi phần
nhiều thay mặt siêu ngã để thực hiện sự mà phục vụ siêu ngã;
nhưng lần này thì nó dùng sự dồn nén để chống lại siêu ngã khắt khe.
Chúng ta biết rằng trong bệnh suy nhược thần kinh ám ảnh sự phản ứng đóng một
vai trò quan trọng; ở đay cái tôi chỉ có thể đẩy xa được những vật liệu
liên quan đến cảm tưởng phạm tội.
Người ta có thể đi xa hơn và lập giả thuyết sau đây: trong tình trạng bình thường
phần lớn cảm tưởng phạm tội phải ở lại tiềm thức, đó là cái gọi là thắc mắc
lương tâm liên quan mật thiết với mặc cảm Oepide, và mặc cảm Oepide thì ở trong
tiềm thức. Có người nói đến nghịch lý sau đây: con người bình thường không những
vô luân hơn họ tưởng mà họ còn đạo đức hơn mà họ không ngờ; phân tâm học đã đưa
ra những yếu tố làm nền tảng cho vế trên, còn vế dưới thì phân tâm học cũng
không có gì phản đối [19].
Chúng tôi phải ngạc nhiên rằng khi cảm tưởng phạm tội tiềm thức tăng cường độ đến
một mức nào thì có thể làm cho con người phạm trọng tội được. Tình trạng đó có
thực. Nhiều thanh niên trọng tội đã có cảm tưởng phạm tội từ trước chứ không phải
lúc làm tội ác mới có cảm tưởng ấy: một cảm tưởng như thế là nguyên nhân sâu xa
của trọng tội, kẻ ác sẽ bớt ám ảnh khi đem nối liền cảm tưởng ấy với một việc
có thực và hiện tiền.
Trong những trường hợp ấy chúng ta thấy bộc lộ sự độc lập của siêu ngã đối
với cái tôi và những dây liên lạc mật thiết của siêu
ngã với tiềm thức. Chúng tôi đã nói đến những dấu vết tâm từ không ý thức
được của cái tôi, chúng tôi có thể tự hỏi rằng siêu ngã có phải
chính là những dấu vết tâm từ đó hay cái gì tương tự như thế không? Câu trả lời
của chúng tôi dè dặt và khiêm tốn: chúng tôi xin nói rằng nếu không thể chối
cãi được rằng siêu ngã có nguồn gốc từ thính giác mà ra, nếu siêu
ngã là một phần của cái tôi, nếu những biểu thị tâm từ (khái niệm, trừu
tượng hóa) dùng để làm cho siêu ngã có thể thấu đến ý thức được, thì
hẳn là tinh lực ở trong nội dung siêu ngã phải bắt nguồn từ vô
thức, chứ không phải phát ra từ những tri giác thính giác hay thị giác, hay sự
kiện giáo dục.
Trên kia chúng tôi đã nêu lên câu hỏi sau đây: tại sao siêu ngã vừa
xuất hiện như một cảm tưởng phạm tội (đúng hơn là một thẩm quyền phê phán, cảm
tưởng phạm tội chỉ là hình thức mà cái tôi tri giác sự phê phán đó),
lại vừa tỏ ra nghiêm khắc và nhẫn tâm với cái tôi như thế? Trước hết,
trong bệnh ưu uất chúng tôi nhận thấy siêu ngã có uy quyền thật lớn,
nó chiếm lấy ý thức, đàn áp cái tôi hầu như nó tận dụng cả bản năng
hành hạ trong con người. Theo quan niệm bản năng hành hạ của chúng tôi thì có
thể nói rằng yếu tố phá hoại được siêu ngã sử dụng để đàn áp
cái tôi. Điểm nổi bật trong siêu ngã là sự trau dồi bản năng chết,
nhiều khi cái tôi bị đẩy vào sự chết nếu nó không biết đường trú ẩn
vào trạng thái điên cuồng.
Những lời trách phạt của lương tâm cũng không kém phần thậm tệ trong một vài
hình thức bệnh suy nhược thần kinh ám ảnh, nhưng tình trạng không hiện rõ bằng.
Trái với những gì xảy ra trong bệnh ưu uất, người bệnh suy nhược thần kinh ám ảnh
không bao giờ bước tới chỗ tự vẫn, dầu sao thì họ cũng được bảo vệ khỏi sự nguy
hiểm ấy hơn người loạn thần kinh. Chúng tôi hiểu rõ rằng cái tôi được
an ninh là nhờ sự kiện nó duy trì và bảo tồn đối tượng. Trong bệnh suy nhược thần
kinh ám ảnh, có sự thoái lui về tình trạng tổ chức tâm thần của thời kỳ tiền
sinh dục, nhờ vậy những xung động tình yêu có thể biến thành xung động gây gổ đối
với đối tượng. Bản năng phá hoại trở lại tự do, muốn tiêu hủy đối tượng hay ít
ra hình như có ý ấy. Cái tôi không chấp nhận những khuynh hướng phá
hoại ấy, nó cưỡng lại bằng cách thành lập đủ mọi phương tiện phản động và đề
phòng, bởi vậy những khuynh hướng ấy phải lưu lại trong vô thức.
Nhưng siêu ngã vẫn làm như chính cái tôi là thủ phạm những
khuynh hướng ấy, siêu ngã nghiêm chỉnh mà thực hiện công trình phá hoại
của nó, như vậy đủ tỏ ra đây không phải là một vẻ ngoài gây ra vì sự thoái lui,
nhưng đúng là sự thay thế tình yêu bằng căm thù thực sự. Bị công kích cả hai mặt
cái tôi trở nên bất lực, nó phải chống lại những xúi gịuc của vô thức hiểm
độc và những lời trách phạt của lương tâm. Nó chỉ có thể ngăn cản được những
hành vi thô thiển nhất của cả hai bên và nó chỉ làm được một việc là tự dằn vặt
mình mãi, hay hành hạ đối tượng, nếu có thể được.
Những bản năng chết của con người có thể đi theo hai con đường: khi thì chúng
vô hại nhờ có sự pha trộn với những yếu tố dục tính khác, khi thì chúng được
lái ra ngoài dưới hình thức gây gổ, nhưng phần lớn chúng vẫn tự do theo đuổi
công việc của chúng ở bên trong. Tại sao trong bệnh ưu uất siêu ngã lại
có thể trở thành một chỗ chứa chất những bản năng chết?
Nếu người ta quan niệm rằng đạo đức hạn chế bản năng, thì người ta có thể
nói: vô thức thì hoàn toàn phi luân lý, cái tôi rán sức
theo đạo đức, còn siêu ngã có thể trở nên đạo đức thái quá và cũng độc
ác như vô thức. Con người ta càng ít gây gổ đối với người khác thì họ càng
có nhiều gây gổ, nhiều nghiêm khắc của siêu thức. Cứ theo lý luận thường
dùng thì sự thể phải ngược lại: nếu siêu ngã đòi hỏi con người phải mềm
mỏng thì tất nhiên nó đã bỏ tính gây gổ. Nhưng sự thật thì đúng như chúng tôi
đã nói: một người càng dẹp bỏ tính gây gổ thì siêu ngã của họ càng
gây gổ đối với cái tôi của họ. Siêu ngã hướng vào cái tôi mà
gây gổ. Luân lý cương thường có những điều cấm đoán, những sự hạn chế, do đó mà
có quan niệm một nhân vật trên cao đã bắt tội ai thì chẳng còn chút gì là
thương xót.
Khó lòng mà giải thích những sự kiện ấy nếu không lập một giả thuyết. Siêu
ngã, như chúng tôi đã biết, thoát thai từ sự đồng nhất hóa với hình ảnh của người
cha nguyên thủy. Sự đồng nhất hóa ấy đòi hỏi con người phải khử dục tính, phải
thăng hoa. Sự biến cải như thế hầu như phải kèm theo sự phân tán bản năng. Sau
khi bản năng thăng hoa thì những yếu tố tình dục không còn đủ sức mạnh để cầm
chân tất cả những yếu tố phá hoại, chúng sẽ bộc lộ ra dưới hình thức gây gổ,
phá hủy. Nói chung, thì nhờ sự phân tán đó mà siêu ngã hiện ra với những
nét nghiệt khắc và độc ác.
Xin nói thêm vài lời về bệnh suy nhược thần kinh ám ảnh. Ở đây sự thể khác hẳn.
Sự phân tán bản năng dắt đến tình trạng thả lỏng cho sự gây gổ hoành hành, sự
phân tán ấy không xảy ra trong cái tôi, mà xảy ra trong vô thức. Những
tiến trình khởi sự từ vô thức sẽ lan tràn sang siêu ngã làm
cho nó thêm cay nghiệt với cái tôi vô tội. Tuy nhiên, trong cả hai
trường hợp, cái tôi đều tìm cách làm chủ được libido nhờ sự đồng nhất
hóa, libido đã tách rời khỏi sự gây gổ, siêu ngã sẽ đẩy sự gây gổ ấy
vào việc công hãm cái tôi.
Những ý kiến của chúng tôi về cái tôi bắt đầu sáng sủa, những mối dây
liên lạc của nó cũng bắt đầu hiện ra rõ rệt. Bây giờ chúng tôi đã làm quen với
cái tôi, với ưu khuyết điểm của nó. Nó có những chức vụ quan trọng; nhờ có
liên lạc với thế giới tri giác nó điều động sự diễn biến của những tiến trình
tâm thần trong thời gian và đem lại kinh nghiệm thực tại. Sử dụng đến những tiến
trình trí tuệ, nó trì hoãn những giải tỏa vận động và kiểm soát lối chuyển sang
cơ năng vận động. Tuy nhiên, chức vụ sau này chỉ có hình thức chứ ít có thực sự,
đối với hành động nó đóng vai trò một ông vua trong nước quân chủ lập hiến, quyết
định của ông vua cần có để ban hành một đạo luật nhưng ông vua suy nghĩ và do dự
rất lâu trước khi dùng quyền phủ quyết. Kinh nghiệm ngoại giới làm cho
cái tôi thêm phong phú; nhưng vô thức đối với nó lại là một
thứ ngoại giới khác mà nó tìm cách kiểm soát. Nó chiếm của vô thức càng
nhiều libido càng hay, nó biến đổi những đối tượng dục tính mà vô thức đã
ghi được thành những sản phẩm lai căng của nó. Với sự hỗ trợ của siêu ngã nó
khai quật những kinh nghiệm tiền sử tích chứa trong vô thức bằng cách
nào đó mà chúng ta không hiểu.
Nội dung của vô thức có thể thâm nhập vào cái tôi bằng hai
lối khác nhau. Lối thứ nhất là lối trực tiếp, lối thứ hai đi qua tôi lý
tưởng, cả hai lối cùng hoạch định một cách dứt khoát bản chất của một vài loại
hoạt động tâm thần. Sự tiến triển của cái tôi tiến từ sự tri giác bản
năng đến sự làm chủ bản năng, từ sự vâng lời bản năng đến sự chế ngự bản năng.
Tôi lý tưởng tức là một tổ chức phản kháng chống lại những tiến trình bản năng
sẽ góp phần quan trọng vào sự tiến triển ấy. Phân tâm học là một phương pháp
giúp cho cái tôi chinh phục dễ dàng được vô thức.
Mặt khác, cái tôi đó xuất hiện như một cái bung xung phải nô lệ ba
phương diện và vì thế bị đe dọa bởi ba sự nguy hiểm: ngoại giới, libido của vô
thức và sự nghiêm khắc của siêu ngã. Ba thứ lo sợ tương ứng với ba sự
nguy hiểm ấy, vì lo sợ là đặc điểm của sự tháo lui trước tình trạng nguy hiểm.
Cái tôi đứng ở giữa vô thức và ngoại giới, bởi vậy nó tìm
cách dung hòa hai bên, nó làm cho vô thức thích ứng với ngoại giới;
nhờ có tác dụng của bắp thịt nó làm cho ngoại giới thích ứng với đòi hỏi của vô
thức. Nói đúng ra nó có thái độ của ông thầy lúc tâm phân nghiệm: với kinh nghiệm
ngoại giới của nó, nó phục vụ ước vọng dục tính của vô thức và tìm
cách thu hút lấy tất cả libido của vô thức. Không những nó là phụ tá của vô
thức, nó còn là tên nô lệ của vô thức tìm cách lấy lòng chủ. Nó cố gắng
hết sức sống hòa thuận với vô thức, diễn tả những mệnh lệnh mông
lung vô thức thành những ý thức hữu lý của nó, đem lại ảo tưởng rằng vô
thức vâng theo sự bó buộc của đời sống thực sự nhưng kỳ thực vô thức vẫn
cứng đầu chẳng chịu uốn mình vào khuôn phép, nó cố gắng làm dịu bớt sự xung đột
giữa hai bên, vô thức một bên, bên kia là thực tại và siêu ngã.
Vì vị trí trung gian giữa vô thức và thực tại, nhiều khi nó buộc lòng
phải tỏ ra nô lệ, tùy thời, giả dối, cũng như người làm chính trị tuy có lúc biết
việc làm lắm, nhưng phải bỏ ý cứng ngắc của mình để lấy lòng quần chúng.
Đối với hai loại bản năng, cái tôi không có thái độ vô tư chút nào. Bằng
cách đồng nhất hóa và thăng hoa nó tiếp tay cho bản năng chết đang chuyển động
trong vô thức, nó chiến thắng libido và hứng lấy sự nguy hiểm, bản năng chết
có thể quay ra chống lại nó và tiêu hủy nó. Bởi vậy cho nên nó bắt buộc phải
đèo bồng cái libido để trở thành một đại diện của Eros, nó muốn sống và muốn được
yêu.
Tuy nhiên công việc thăng hoa của nó có hậu quả là phân tán bản năng, nó đem lại
tự do cho những bản năng gây gổ trong siêu ngã; tự sự vật lộn với libido
nó dấn mình vào sự nguy hiểm là trở thành nạn nhân của sự gây gổ và có thể quỵ
ngã. Cái tôi phải chịu đau đớn vì siêu ngã gây gổ với nó, sự
đau đớn có thể đưa đến sự chết được, trường hợp ấy tương đương với trường hợp của
loài vật độc bào, con độc bào chết vì chất độc của phân nó bài tiết ra. Đứng về
phương diện tổ chức thì chất bài tiết của loài độc bào cũng ví như hậu quả của
sự thăng hoa cái tôi thành siêu ngã, tai hại cho cái tôi.
Cái tôi phải lệ thuộc nhiều, trong số ấy sự lệ thuộc siêu ngã đáng
kể hơn cả.
Cái tôi có thể coi là bình chứa lo sợ. Bị đe dọa bởi ba mối nguy hiểm,
nó phải phát triển phản ứng tháo lui, trong sự chạy trốn nó cố gắng không để
cho sự ràng buộc tình dục của nó bén mảng tới tri giác vì sợ nguy hiểm, nó cũng
không cho bén mảng tới tiến trình tương tự sự tri giác xảy ra trong vô thức,
nó làm cho hiện ra hình thức lo sợ. Phản ứng nguyên thủy đó sau này nhường chỗ
cho động cơ tự vệ (động cơ của bệnh hiềm, phobie). Khó lòng mà nói rõ được
cái tôi sợ gì nguy hiểm ở ngoài, hay nói rõ sự nguy hiểm gây ra bởi
cái libido của vô thức; đúng hơn, nó sợ bị nô lệ hay bị phá hủy, sự phân
tích không cho chúng tôi biết gì về phương diện ấy. Cái tôi chỉ nghe
lời cảnh cáo của nguyên tắc khoái lạc. Nhưng chúng tôi có thể nói đích xác về
cái gì ẩn nấp sau sự lo sợ mà cái tôi cảm thấy khi đối diện với siêu
ngã, nghĩa là cái gì ở đằng sau sự lo sợ gây nên thắc mắc lương tâm. Nhân vật tối
cao trước kia tượng trưng cho mối đe dọa thiến bộ phận sinh dục của con người
nay trở thành lý tưởng của cái tôi, hẳn là mối lo sợ bị thiến đó tạo ra
cái nhân, sau này những mối lo sợ liên hệ với thắc mắc lương tâm sẽ ghi vào
xung quanh cái nhân ấy; chúng ta có thể đi xa hơn mà nói rằng thắc mắc lương
tâm của người lo sợ là hình thức tiến bộ của sự lo sợ bị hoạn.
Nói một cách tuyệt đối rằng "mọi sự lo sợ thực ra chỉ là sợ chết"
không có ý nghĩa gì nhiều, và dầu sao cũng khó mà chứng giải. Có lẽ nên phân biệt
lo sợ chết với lo sợ dục tính của bệnh suy nhược thần kinh thì phải hơn. Lo sợ
chết đặt ra cho phân tâm học một vấn đề khó khăn, bởi vì sự chết là một khái niệm
trừu tượng, nội dung tiêu cực, chưa tìm được cái gì trong tiềm thức tương ứng với
nó. Động cơ của sự sợ chết có lẽ chỉ là cái tôi giải tỏa một số lớn
libido ngã ái, nói khác đi là nó tự hy sinh, nó từ bỏ đối tượng cũng như trong
những cơn bộc phát lo sợ khác. Tôi thiết tưởng sự lo sợ chết xảy ra giữa
cái tôi và siêu ngã.
Chúng ta biết rằng lo sợ chết xảy ra trong hai trường hợp, cả hai trường hợp
tuy khác nhau nhưng đều thuận lợi cho mọi thứ lo sợ: một là sự phản ứng lại một
sự nguy hiểm ở bên ngoài, hai là tiến trình xảy ra ở bên trong như trường hợp bệnh
ưu uất chẳng hạn. Lại một lần nữa, nhờ có bệnh suy nhược thần kinh mà chúng tôi
hiểu những trường hợp lo sợ thực sự.
Lo sợ chết kèm theo bệnh ưu uất chỉ có thể cắt nghĩa bằng một cách: cái tôi tự
hủy mình vì nó cảm thấy nó bị khinh rẻ và đàn áp chứ không còn được siêu ngã
yêu dấu. Chính vì thế mà cái tôi cho rằng đời sống thì phải được siêu
ngã yêu mến, ở đây siêu ngã còn đại diện cho vô thức nữa.
Nhưng cái tôi cũng có thái độ lo sợ khi nó đứng trước một sự nguy hiểm
nghiêm trọng thực sự mà nó cho là không thể chống đỡ bằng phương tiện của riêng
nó. Nó cảm thấy những sức che chở đều bỏ rơi nó cho nên nó nhận lấy cái chết.
Cũng có một tình trạng tương tự có thể coi là nguồn gốc của sự lo sợ đầu tiên xảy
ra cho đứa trẻ khi phải xa cách mẹ nó, có thể coi là nguyên nhân sâu xa của sự
buồn rầu lo sợ trong thời kỳ thơ ấu.
Những quan điểm trên đây làm cho sự lo sợ chết và sự lo sợ vì thắc mắc lương
tâm xuất hiện như sản phẩm của mối lo sợ bị thiến. Vì cảm tưởng phạm tội đóng một
vai trò quan trọng trong bệnh suy nhược thần kinh, chúng ta có thể nghĩ rằng
trong những trường hợp nặng, sự lo sợ của bệnh suy nhược thần kinh thường sẽ được
tăng cường bởi một sự lo sợ khác bắt nguồn từ một khu vực ở giữa cái tôi và siêu
ngã (lo sợ chết, lo sợ vì thắc mắc lương tâm, lo sợ bị hoạn).
Vô thức không có phương tiện nào để bày tỏ yêu hay ghét với cái tôi.
Nó bất lực không nói ra được ý muốn, không biểu lộ được cái gì là ý chí khúc
chiết rành rọt. Nó chỉ là cái vũ trường để bản năng sống và bản năng chết tranh
giành nhau, chúng ta đã biết rằng trong cuộc tranh giành ấy hai bản năng đối thủ
dùng những phương tiện nào để hạ nhau. Chúng ta có thể mô tả tình trạng ấy: vô
thức bị kiềm tỏa bởi những bản năng chết; những bản năng chết câm lặng
nhưng mạnh mẽ, chúng muốn được yên ổn, chúng cũng theo nguyên tắc khoái lạc dẹp
sự rối loạn gây nên bởi Eros. Nhưng chúng tôi e rằng trình bày sự vật như thế sẽ
đánh giá quá thấp vài trò của Eros.
Chú thích:
[1] Xin
coi "Bemerkungen über den Begriff des Unbewussten", trong Sammlung
kleiner Schriften zur Neurosenlehre, loại 4. chúng tôi nhận thấy cần phải nói đến
một hướng mới trong sự phê bình cái tiềm thức. Nhiều tác giả tuy chấp nhận những
sự kiện phân tâm học nhưng từ chối không chấp nhận cái tiềm thức, họ trưng ra bằng
chứng không thể chối cãi được là ý thức, với tư cách là một hiện tượng cũng có
nhiều mức cường độ và sáng sủa. Có những tiến trình mà chúng ta ý thức được
minh bạch, có thể nói là cụ thể, nhưng cũng có những tiến trình mà chúng ta chỉ
ý thức được lờ mờ. Các tác giả ấy còn nói thêm rằng những tiến trình mà các nhà
phân tâm học gia gọi là tiềm thức, gọi như thế không được xác đáng, vì thực ra
những tiến trình ấy cũng ý thức được, cũng "ở trong ý thức", nếu chú
ý đến hẳn hoi chúng vẫn có thể trở thành ý thức hoàn toàn và mạnh mẽ.
Nếu cho rằng những lý lẽ ấy có thể có giá trị nào trong việc minh giải một vấn
đề tùy thuộc chặt chẽ vào những ước lệ hay những yếu tố tình cảm như vấn đề
này, thì chúng tôi xin trả lời như sau: vì ý thức có những mức độ sáng sủa rõ
ràng khác nhau mà kết luận rằng không tiềm thức thì chẳng khác nào khẳng định rằng
không có tối vì sáng cũng có nhiều mức độ từ tờ mờ đến sáng chói, chẳng khác
nào căn cứ vào mức độ yếu hay khỏe của sự sống mà nói rằng không có sự chết. Những
cách lý luận như thế có thể tài tình đến một mức nào, nhưng không có giá trị thực
tiễn, người ta sẽ thấy ngay khi người ta định rút ra cách áp dụng, thí dụ: đã
không có tối, thì chẳng cần gì phải thắp đèn; đã không có sự chết thì tất cả
các sinh vật đều bất tử. Ngoài ra, nếu cho rằng cái không tri giác được cũng ở trong
ý thức thì người ta không còn tin tưởng được rằng hoạt động tâm thần cho ta biết
chắc chắn một cách trực tiếp nữa. Một thứ ý thức mà người ta không biết nó thế
nào đối với tôi chỉ là một giả thuyết còn vô lý hơn giả thuyết rằng có riêng một
đời sống tâm thần tiềm thức. Sau hết, những người đồng hóa tiềm thức với cái
không tri giác được, không kể đến tiềm thức với cái không tri giác được, không
kể đến những điều kiện năng động mà phân tâm học cho rằng có tầm quan trọng
chính yếu, những tác giả ấy đã không kể đến hai sự kiện sau: thứ nhất, họ quên
rằng rất khó chú ý đúng mức đến cái gì không tri giác được và phải cố gắng đến
như thế nào; thứ hai, họ không biết rằng dù cố gắng có kết quả thì ý thức cũng
không nhận thực được cái mà trước đây không tri giác được, nó sẽ từ khước mà
cho đó là cái gì lạ hoắc, trái ngược. Ý muốn cho rằng tiềm thức chỉ là cái
không tri giác được hay chỉ tri giác được rất ít, thực ra chỉ là hậu quả của một
thành kiến chủ trương sự đồng nhất của tâm thần và ý thức.
[2] Coi
phần "Vượt qua nguyên tắc khoái lạc".
[3] "Das
Unbewusste", Internat, Zeitschr. f. Psychoanalyse, III, 1915; Sammlung
kleiner Schriften zur Neurosenlebre, IV, 1918
[4] G.
Groddeck, Das Buch vom Es. Internat, psychoanayt. Verlag, 1923.
[5] Về
điểm này Groddeck cũng theo gương Nietzsche. Nietzsche dùng danh từ ấy để chỉ
cái gì không thuộc về ta và phải vâng theo nhu cầu thiên nhiên trong người
chúng ta.
[6] Người
ta vừa cho tôi biết một trường hợp như thế để phản đối một đoạn mô tả
"công việc làm trong giấc mơ" của tôi.
[7] Zur
Einführung des Narzissmus: Massenpsychologie und Ich-analyse. Xin coi phần II,
Tâm lý tập thể và phân tích cái tôi.
[8] Tôi
đã lầm khi gán cho siêu ngã chức vụ kinh nghiệm thực tại. Chức vụ ấy để cho
cái tôi đảm nhiệm thì không còn gì hay hơn vì nó có liên lạc với thế
giới tri giác. Tất cả những điều tôi nói ở trên về cá nhân của cái tôi,
nói một cách mơ hồ, không đích xác, những điều đó vẫn còn giá trị nếu người ta
hiểu rằng cái nhân đó chính là hệ thống "ý-thức-tri-giác".
[9] Trauer
und Melancholie.
[10] Dùng
cách đồng nhất hóa để thay thế việc lựa chọn đối tượng dục tính, chúng ta có một
thí dụ trong sự tin tưởng của người bàn cổ; họ ăn con vật, đức tính của con vật
sẽ truyền sang người làm cho họ có đức tính của con vật, nhân sự tin tưởng ấy
có những tục cấm kỵ của họ. Sự tin tưởng ấy cũng là nền tảng của tục ăn thịt
người, sự tin tưởng ấy còn truyền lại trong tục lệ ăn uống ở bộ lạc vật tổ,
trong lễ ban Thánh Thể. Theo sự tin ấy thì sau khi đã ăn uống đối tượng, về sau
hậu quả sẽ phát hiện thực sự qua sự lựa chọn, đối tượng dục tính.
[11] Bây
giờ chúng ta đã tách rời cái tôi khỏi vô thức, chúng ta cần phải
chấp nhận rằng vô thức là kho chứa libido, chữ libido hiểu theo nghĩa
nguyên thủy của nó. Còn như libido mà cái tôi nhận được những sự đồng
nhất hóa như chúng tôi mới mô tả, thì đó là nguồn gốc của hiện tượng ngã ái bực
hai.
[12] Có
lẽ nên cẩn thận hơn mà nói rằng: đất nước với cha mẹ, vì trước khi đứa trẻ biết
rõ sự khác biệt nam nữ, nó có chung một thái độ với cha hay mẹ.
[13] Tâm
lý tập thể và phân tích cái tôi.
[14] Ở
đây chúng tôi không nói đến khoa học và nghệ thuật.
[15] Coi: Tâm
lý tập thể và phân tích cái tôi - về một vài động cơ suy nhược thần kinh
liên hệ đến sự ghen tuông, bệnh cuồng (paranola) và đồng tính ái.
[16] Theo
sách nhìn như thế, thì chính Eros làm cho bản năng chết không tác động vào cái
tôi mà bị lái ra ngoài.
[17] Phóng
theo cái hình nhân của nguyên tử học, chúng ta có thể nói cái tôi của
phân tâm học hay siêu hình tâm lý học đứng ngược đầu xưống dưới, chân lên trên.
[18] Loại
bỏ được cảm tưởng phạm tội nấp trong tiềm thức người bệnh cũng không phải là dễ
dàng. Chúng tôi không có một phương tiện trực tiếp, còn phương tiện gián tiếp
thì chúng tôi chỉ biết có một cách lần hồi đem những lý do bị dồn nén trong tiềm
thức ra ánh sáng và dần dần biến đổi cảm tưởng phạm tội tiềm thức ra cảm tưởng
phạm tội ý thức. Chúng tôi có may mắn đặc biệt để thành công nếu gặp trường hợp
cảm tưởng phạm tội tiềm thức vay mượn, nghĩa là người bệnh tự đồng nhất hóa với
người trước kia là đối tượng dục tính của họ. Cảm tưởng phạm tội ấy là cái gì
còn sót lại của mối tình đã lìa bỏ. Có sự tương đồng rõ rệt với tình trạng người
bệnh ưu uất. Khi người ta khám phá ra dưới cảm tưởng phạm tội tiềm thức một dấu
vết tình ái cũ thì công việc trị bệnh được giải quyết tốt đẹp: trái lại, nếu
không có thì kết quả bất chắc. Trước hết, kết quả tùy thuộc vào cảm tưởng phạm
tội mạnh hay yếu, nếu mạnh thì khó mà đối đầu với nó bằng một sức mạnh ngang
hàng. Kết quả còn tùy thuộc cá nhân ông thầy, nghĩa là con bệnh có sẵn sàng lấy
ông thầy thay thế cho tôi lý tưởng của họ không? Nếu có thì ông thầy
sẽ đóng vai một nhà tiên tri, một người cứu rỗi linh hồn. Nhưng phép tắc tâm
phân nghiêm cấm ông thầy dùng uy tín của mình như vậy, chúng tôi phải thành thực
mà thú nhận rằng đây lại là một khó khăn nữa. Mục đích của phương liệu phân tâm
không phải là làm cho không thể có những phản ứng bệnh hoạn được mà chỉ là làm
cho cái tôi có tự do để muốn quyết định theo đường nào thì quyết định
lấy.
[19] Thực
ra câu nói chỉ nghịch lý ở bề ngoài; con người có thể đi rất xa trên đường thiện
cũng như trên đường ác, họ có thể làm được nhiều hơn họ tưởng, nói khác đi, con
người có thể biết nhiều hơn những gì mà cái tôi của họ biết bằng sự
tri giác ý thức.
Phần thứ tư - Quan điểm về chiến tranh và tử vong
1. Chiến tranh và những thất bại của chiến tranh
Chúng ta bị lôi cuốn vào cơn gió lốc của thời đại chiến tranh này [1],
chúng ta không có tin tức đầy đủ, chúng ta không thể lùi ra để phán đoán những
sự thay đổi đã thành tựu hay sẽ thành tựu, chúng ta không thể ức đoán được
tương lai đang thành hình, bởi thế cho nên chúng ta không thể hiểu được những cảm
tưởng vấn vít lấy chúng ta và cũng không thể hiểu được giá trị những sự phán
đoán của chúng ta. Hầu như xưa nay chưa từng có một biến cố nào phá hủy nhiều
gia tài quý báu chung của nhân loại như thế, chưa từng có một biến cố nào gây hỗn
loạn cho những thông minh sáng suốt, hạ thấp những cái gì cao cả đến như thế.
Khoa học cũng mất cả đức tính vô tư đôn hậu của nó. Người phụng sự khoa học
cũng phải nao núng đến tột bực, họ đành phải mượn khí giới khoa học để có thể
chống lại kẻ thù. Khoa nhân loại học tìm cách chứng mình rằng kẻ thù là một giống
người hèn kém và thoái hóa; thầy thuốc tinh thần bệnh học tìm ra những thác loạn
trí tuệ và tâm thần của kẻ thù. Có lẽ chúng ta chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của cái
gì xấu xa nhất trong thời đại của chúng ta khiến cho chúng ta không biết đem so
sánh với những thời đại khác mà chúng ta không sống mà chúng ta cũng không phải
chịu thống khổ.
Con người không phải là người lính trận, không phải là một bánh xe trong guồng
máy chiến tranh vĩ đại, bởi vậy họ bị mất hướng, họ bị thiên lệch, họ bị sút
kém mọi khả năng. Bởi vậy họ sẵn lòng chấp nhận sự chỉ bảo giúp họ phần nào để
họ suy tính và rung cảm. Trong số những yếu tố có thể cho là nguyên do sự nghèo
nàn tâm thần của người ở hậu phương, chúng tôi đề nghị đưa ra hai yếu tố để thảo
luận: sự thất vọng tạo ra bởi chiến tranh - và thái độ mới đối với cái chết, tạo
ra bởi sự thất vọng mỗi khi có chiến tranh.
Khi tôi nói đến thất vọng, chắc hẳn bạn đọc cũng đoán ra tôi muốn hiểu sự thất
vọng như thế nào. Không cần phải là một cao đồ của tình thương, không cần phủ
nhận sự cần thiết sinh vật và tâm lý của sự đau đớn trong đời sống con người,
chúng ta cũng muốn lên án chiến tranh, lên án mục phiêu và phương tiện của chiến
tranh, chúng ta mong muốn chấm dứt chiến tranh. Người ta có thể nghĩ rằng không
thể trừ bỏ được chiến tranh nếu các dân tộc còn sống trong những điều kiện khác
biệt nhau, nếu những tiêu chuẩn xét định giá trị còn khác biệt nhau, nếu hận
thù còn chia rẽ con người và những sức mạnh tâm thần mãnh liệt sâu xa còn nuôi
dưỡng hận thù. Người ta đã quen nghĩ rằng trong nhiều năm nữa còn có chiến
tranh giữa các dân tộc lạc hậu và các dân tộc văn minh, giữa các chủng tộc khác
màu da, có thể giữa những dân tộc thiểu số ở Âu châu còn chậm tiến hay thoái
hóa. Các đại cường quốc trên hoàn vũ người da trắng có sứ mạng dẫn dắt nhân loại
trên bước tiến, họ có quyền lợi rải rác khắp thế giới, họ đã tiến bộ về kỹ thuật
để làm chủ được thiên nhiên và họ có những giá trị nghệ thuật khoa học tốt đẹp,
chúng ta có thể hy vọng rằng ít ra những quốc gia ấy tìm ra được những phương
thế khác để giải quyết mâu thuẫn và xung đột quyền lợi, ngõ hầu tránh được chiến
tranh tàn khốc. Quốc gia nào cũng có những tiêu chuẩn đạo đức cao trọng, người
người phải tôn trọng nếu muốn hưởng hạnh phúc của nền văn minh. Kỷ cương trong
một quốc gia thường rất nghiêm ngặt và đòi hỏi nhiều ở con người: phải có nhiều
cố gắng hạn chế và tiết chế, phải từ bỏ sự thỏa mãn nhiều bản năng. Trong sự cạnh
tranh người ta không được dùng đối trá và xảo quyệt để kiếm những số lời phi
thường. Chính quyền được lành mạnh và ổn cố cũng nhờ sự tôn trọng quy phạm đạo
đức, người ta nghiêm cấm sự vi phạm, và người ta cũng không tha thứ được ai muốn
lấy lý trí mà phê phán. Như vậy chúng ta phải giả thiết rằng chính quyền nhất định
tôn trọng quy phạm đạo đức, không muốn làm gì phạm đến nó vì người ta sẽ phạm đến
nền tảng của chính quyền. Sau hết, người ta có thể chấp nhận rằng những chủng tộc
thiểu số sống trong những quốc gia lớn tuy không ăn ở xấu xa với ai, cũng không
được quyền tham dự vào cộng đồng quốc gia hay chỉ được người ta miễn cưỡng mà
cho tham dự, tuy rằng chủng tộc thiểu số rỏ ra có năng lực để tham gia tích cực
vào hoạt động quốc gia. Người ta nghĩ rằng những khối dân tộc lớn đã có đủ ý thức
về cái gì chia rẽ họ, bởi vậy họ không đến nỗi lầm lẫn người ngoại chủng với kẻ
thù như thời cổ.
Vì tin tưởng sự đoàn kết của các dân tộc văn minh cho nên nhiều người đã bỏ tổ
quốc sang sống ở nước ngoài, cuộc sống của họ liên hệ tới mối giao hảo giữa các
dân tộc bạn. Còn như những người không bị nhu cầu cuộc sống bắt buộc phải ở một
nơi, họ có thể hưởng được thú vui và lợi ích của nhiều nước văn minh, họ có một
ý niệm tổ quốc rộng rãi và có thể đi lại nhiều nơi không gặp trở ngại và không
bị ngờ vực. Họ có thể thưởng thức vẻ đẹp của biển xanh lam, vẻ đẹp của non cao
tuyết phủ và của đồng ruộng anh tươi, vẻ đẹp của rừng phương bắc và rừng phương
nam, họ có thể rung cảm trước những cảnh huy hoàng di tích lịch sử hay trước vẻ
tịch mạc của thiên nhiên chưa có dấu vết con người. Tổ quốc mới của họ đồng thời
cũng là một viện bảo tàng tích trữ những kho tàng của nền văn minh lưu truyền lại
cho thế hệ sau. Qua những căn phòng bảo tàng việc họ có thể nhận thấy anh em bốn
bể năm châu đã thực hiện được những công trình toàn thiện có sắc thái xa lạ, họ
đã đạt được vẻ toàn thiện ấy nhờ ảnh hưởng của dòng máu pha trộn trải qua lịch
sử, của tinh hoa tú khí đất nước của họ. Nơi này là nghị lực lạnh lùng bất khuất
đạt tới mức hùng dũng cao siêu, nơi kia là nghệ thuật tuyệt vời đem lại cho đời
sống một vẻ mỹ lệ, nơi khác nữa ý thức trật tự, pháp luật và kỹ thuật đã đưa
con người lên làm chủ được thiên nhiên.
Ngoài ra chúng ta không nên quên rằng người của xã hội văn minh nào cũng tự tạo
cho mình một tập thơ "Parnasse", một phong độ Anthènes. Trong số những
đại tư tưởng gia, thi sĩ, nghệ sĩ đủ mọi quốc gia, họ lựa những người đã luyện
cho họ phong độ thanh cao, những người đã mở tầm kiến thức cho họ để họ tìm những
phút tiêu dao, họ sẽ xếp những danh nhân ấy và hàng thi bá danh hào của tổ quốc
họ. Danh nhân thế giới không vì khác ngôn ngữ mà xa lạ với họ, họ cảm phục một
danh nhân nước ngoài, một người thăm dò những mê say sùng sục trong lòng người,
một người mơ mộng say sưa những vẻ đẹp thanh tao, một người tiên tri tiên đoán
thuần những chuyện khủng khiếp động trời, một người châm biếm nét trí khôn có
thừa, họ mến phục những tinh hoa của nhân loại không phải vì họ là người mất gốc
không nghĩ đến tổ quốc không nghĩ đến tiếng mẹ đẻ thân yêu của họ.
Thỉnh thoảng người thưởng thức gia tài chung của nhân loại vẫn phải áy náy vì
tiếng bấc tiếng chì cảnh cáo họ rằng nhân loại còn cách biệt nhau về phong tục
tập quán, chiến tranh vẫn còn có thể xảy ra. Người ta không muốn tin như vậy,
nhưng nếu vạn nhất chiến tranh không thể tránh được thì chúng tôi thử hỏi nó sẽ
như thế nào? Đây là dịp để biểu lộ sự tiến bộ của tình liên đới nhân loại, từ
thuở người Hy Lạp đã biết ra lệnh nghiêm cấm không cho phá hoại một thành phố ở
nơi chiến trường, chặt cây và phá đường dẫn thủy vào thành phố. Một cuộc chiến
tranh như thế là một cuộc so tài thư hùng của hai phe, hết sức tránh tàn phá và
thống khổ cho dân chúng và nương tay cho người thua trận, đoàn cứu thương sẽ
trông nom săn sóc họ. Người ta không làm gì phương hại đến dân chúng không tham
dự vào chiến tranh, đến đàn bà không biết cầm súng, đến con nít, vì sau này con
nít đến tuổi trưởng thành sẽ trở thành bạn hữu và người cộng tác với phe bên
kia. Cũng nên nói thêm rằng những xí nghiệp và định chế liên quốc gia đã lập ra
trong thời bình phải được duy trì và bảo vệ.
Một trận chiến tranh như thế cũng còn khốc hại và ác liệt, nhưng nó không làm
gián đoạn sự tiến triển những dây liên lạc tinh thần giữa các dân tộc.
Chúng ta không muốn chiến tranh, nhưng chiến tranh xảy ra để làm cho chúng ta
thất vọng. Không những ngày nay chiến tranh ác liệt điêu tàn hơn bất cứ cuộc
chiến nào trong quá khứ vì khí giới công kích và tự vệ tinh vi hơn trước, mà
chiến tranh còn khốc liệt tàn bạo cũng bằng nếu không hơn bất cứ một cuộc chiến
tranh nào. Chiến tranh không còn kể gì đến quyền tư nhân; không kiêng nể kẻ bị
thương và thầy thuốc, không phân biệt phần tử chiến đấu và phần tử không tham dự
vào chiến tranh, chiến tranh xúc phạm đến quyền tư hữu. Chiến tranh đảo lộn tất
cả vì điên dại mù quáng, các lãnh tụ làm như là không có tương lai, không có
hòa bình nữa. Họ phá hủy tất cả những liên lạc cộng đồng giữa các dân tộc giao
tranh và có thể để lại sự căm thù hiềm khích khiến cho khó lòng mà lập lại mối
liên lạc trong nhiều năm về sau.
Chiến tranh còn cho ta biết rằng các dân tộc văn minh hiểu nhau quá ít, họ căm
thù và ghê tởm nhau chỉ vì hai nước có chiến tranh. Một dân tộc văn minh bị người
ta ghét bỏ và gán cho danh từ dã man, bị loại khỏi cộng đồng văn minh, tuy rằng
dân tộc ấy quan trọng nhất vào nền văn minh. Chúng tôi hy vọng rằng một sử gia
vô tư sẽ chứng minh rằng đó là một dân tộc cũng nói một ngôn ngữ như chúng ta,
cũng ở trong hàng ngũ những người thân yêu của chúng ta, những người ít vi phạm
đạo đức của con người. Nhưng ở thời buổi này ai là người dám tự mình phán đoán
giá trị của mình?
Nhà nước đại diện cho nhân dân, chính phủ đại diện cho nhà nước. Một công dân
phải lấy làm ghê rợn mà nhận thấy trong lúc chiến tranh cái gì họ linh cảm được
lờ mờ trong thời bình đã trở thành sự thực: nhà nước nghiêm cấm cá nhân dùng đến
sự bất công không phải vì nhà nước muốn loại bỏ sự bất công, mà vì nhà nước muốn
độc quyền việc sử dụng phương tiện bất công, cũng như nhà nước độc quyền muối
và thuốc lá. Trong thời chiến nhà nước tự cho phép mình làm đủ mọi việc bất
công, đủ mọi điều hung ác mà nếu là hành động của tư nhân thì đã làm mất phẩm
giá con người. Đối với kẻ thù, không những người ta dùng đến xảo quyệt mà còn
dùng đến vu cáo gian manh cố ý, người ta lạm dụng đến độ chưa từng thấy có
trong các trận chiến tranh thời trước. Nhà nước bắt người dân vâng lời tuyệt đối
và hy sinh quá mức, coi người dân như vị thành niên, che giấu sự thật, kiểm duyệt
thông tin và dư luận khiến cho dân chúng tinh thần xuống thấp, không sao đối
phó được với hoàn cảnh bất lợi. Nhà nước từ khước mọi thỏa ước và hiệp định ký
kết với những quốc gia khác, thú nhận lòng tham vô bờ, khát vọng quyền thế
không chút ngại ngùng; tư nhân vì lòng ái quốc phải tán thành vô điều kiện.
Nhà nước phải dùng đến sự bất công, vì nếu không dùng đến sẽ bị dồn vào thế hèn
kém. Tôn trọng đạo đức, không dùng đến hành vi độc ác bạo hành thì thật là bất
lợi cho cá nhân cũng như cho nhà nước. Nhà nước cũng ít khi đền bù cho công dân
đã hy sinh tuy bắt buộc họ phải hy sinh. Ngoài ra, chúng ta không nên lấy làm lạ
rằng các quốc gia lâm chiến đã không tôn trọng đạo đức thì đạo đức của tư nhân
cũng không tránh được ảnh hưởng ấy; bởi vì lương tâm của chúng ta không phải là
một vị quan tòa liêm chính như các nhà đạo đức vẫn nói, lương tâm, theo nguồn gốc
của nó, chỉ là một thứ "lo ngại có tính cách xã hội" chứ không có gì
hơn. Khi mà thiếu sự khiển trách của cộng đồng thì bản năng được thả lòng, con
người có thể làm đủ mọi hành vi độc ác gian giảo, phản bội và tàn nhẫn, nếu xét
đến trình độ văn hóa của họ thì không ai ngờ họ có thể như thế được.
Chính vì vậy mà người công dân của thế giới văn minh trên kia đã nói rằng bỗng
thấy mình lạc lõng giữa cuộc đời, giữa những điêu tàn của tổ quốc, giữa sự hủy
hoại những gia tài chung của nhân loại, giữa sự nhục mạ con người.
Tuy nhiên chúng ta phải tĩnh tâm mà suy xét. Con người vẫn theo đuổi ảo tưởng. Ảo
tưởng cũng có cái hay là che lấp nỗi khổ tâm và làm cho con người cảm thấy thỏa
mãn. Nhưng sẽ có ngày ảo tưởng đụng chạm đến thực tại, tốt hơn hết là đợi cho ảo
tưởng bị thiêu hủy không nên kêu ca oán thán.
Trong trận chiến tranh này, có hai nguyên nhân làm cho chúng ta thất vọng: các
quốc gia lâm chiến không tôn trọng đạo đức để đối xử với nhau, trong khi ấy thì
trong quốc nội cá nhân tự cho mình là người bảo vệ đạo đức; nguyên nhân thứ hai
là sự tàn nhẫn mà không ai ngờ những người đại diện cho trình độ văn minh cao lại
có thể làm được.
Chúng ta hãy xét đến nguyên nhân thứ hai và tìm cách diễn tả sự trạng dưới hình
thức sáng sủa và vắn tắt. Người ta đã căn cứ vào đâu mà nói rằng con người có
thể tiến lên một trình độ đạo đức cao? Câu trả lời thứ nhất như sau: nhân chi
sơ tính bản thiện. Nhưng đó là một cách trả lời vô giá trị, chúng tôi không muốn
bàn đến ở đây. Cách trả lời thứ hai là chấp nhận rằng có một sự tiến hóa, dưới ảnh
hưởng của nền giáo dục và bầu không khí văn minh xu hướng xấu dần dần sẽ biến mất
và sẽ nhường chỗ cho những xu hướng tốt. Nhưng nếu quả như vậy thì tại sao
chúng ta vẫn thấy những xu hướng xấu bùng ra mạnh mẽ mặc dù có ảnh hưởng của sự
giáo dục và của không khí văn minh?
Như vậy chúng ta không thể chấp nhận được cách trả lời thứ hai. Thực ra những
xu hướng xấu không biến đâu mất, không bao giờ bị đánh bật rễ. Trái lại, những
cuộc tìm tòi tâm lý học, nhất là phân tâm học đã minh thị phần thâm sâu nhất, mật
thiết nhất của người chồng chỉ gồm những xu hướng tối sơ y như nhau trong bất cứ
người nào và hướng về sự thỏa mãn những nhu cầu nguyên thủy. Tự nó, xu hướng ấy
không tốt mà cũng không xấu. Chúng tôi xếp loại những xu hướng ấy và những phát
hiện của chúng vào loại tốt hay loại xấu, căn cứ vào tiêu chuẩn sau đây: chúng
có xúc phạm đến tập thể cộng đồng hay không? Những xu hướng bị xã hội cho là xấu
và bài trừ như ích kỷ và độc ác đều thuộc về xu hướng nguyên thủy.
Những xu hướng ấy phải qua một giai đoạn tiến hóa rất lâu trước khi phát lộ ra ở
người lớn. Chúng bị kiềm chế, hoặc chúng hướng về những mục tiêu khác, chuyển
sang những lãnh vực khác, chúng phối hợp với nhau, chúng đổi đối tượng, chúng
quay lại phá phách chính người có xu hướng. Chúng ta có những cách phản ứng lại
những xu hướng ấy làm cho chúng ta dễ tin rằng chúng đã đổi bản chất, tin rằnh
ích kỷ đã đổi thành vị tha, độc ác thành yêu thương. Cái làm cho chúng ta dễ lầm
lẫn là một vài xu hướng lúc mới đầu xuất hiện như những cặp đôi, đó là những hiện
tượng ít người biết, gọi là hiện tượng "lưỡng ứng tâm tình". Một
trong những sự phát lộ của hiện tượng lưỡng ứng dễ quan sát và dễ hiểu là một
người thường có thái độ vừa yêu nồng nàn và ghét cay độc. Phân tâm học nói thêm
rằng hai tâm tình đối lập nhau như thế cùng lấy một người làm đối tượng.
Sự mô tả sơ sài trên đây đem lại ánh sáng để chúng ta định nghĩa cái gọi là
tính tình, chúng ta sẽ nhận thấy sự phân định cổ điển căn cứ vào hai chữ
"tốt" và "xấu" rất thiếu thốn. Con người không bao giờ hoàn
toàn tốt hay hoàn toàn xấu: thường thường họ tốt về phương diện này nhưng lại xấu
về phương diện khác, với điều kiện này thì họ hiền, với điều kiện khác thì họ
ác. Kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng trong lúc tuổi thơ những xu hướng rất
"dữ tợn", trong nhiều trường hợp, lại là điều kiện để hướng về điều
thiện khi đứa trẻ đã lớn. Những đứa trẻ ích kỷ nhất có thể trở thành những công
dân từ thiện tột bậc và có thể hy sinh lớn lao; phần nhiều những vị thánh đồ
giàu lòng bác ái, những người không thiết danh lợi ở dời, những người bảo vệ
loài vật, lúc nhỏ thường bộc lộ bản năng hành hạ và độc ác đối với loài vật.
Sự biến đổi những xu hướng xấu là hậu quả của hai yếu tố ngoại giới và nội tâm
cùng tác động theo một chiều hướng. Yếu tố nội tâm là ảnh hưởng của yếu tố tình
và nhu cầu yêu mến đến những xu hướng xấu. Yếu tố tình ghép vào với xu hướng
ích kỷ làm cho xu hướng ích kỷ biến thành xu hướng xã hội tính. Con người sẽ nhận
thấy rằng được người ta yêu mến là một cái lợi mà nên hay cần phải hy sinh nhiều
xu hướng "xấu" để được yêu mến và hưởng cái lợi ấy. Yếu tố bên ngoài
là áp lực của sự giáo dục tượng trưng cho văn hóa, sau này con người sẽ trực tiếp
tiếp xuc với ảnh hưởng văn hóa. Văn minh chỉ có thể xuất hiện và phát triển nhờ
con người từ khước sự thỏa mãn một vài nhu cầu, những thế hệ sau muốn được hưởng
ích lợi của đời sống văn minh thì đến lượt học phải từ khước sự thỏa mãn một
vài bản năng. Trong đời sống cá nhân luôn luôn có sự biến đổi áp lực bên ngoài
thành áp lực bên trong. Nhờ ảnh hưởng liên tiếp của xã hội văn minh, càng ngày
càng nhiều xu hướng ích kỷ biến đổi thành xu hướng xã hội nhờ ghép thêm yếu tố
tình. Sau hết chúng ta có thể chấp nhận rằng những áp lực bên trong mà tác dụng
biểu lộ qua sự tiến hóa của nhân loại, lúc khởi thủy lịch sử nhân loại chỉ là
những áp lực bên ngoài. Ngày nay con người sinh ra đã mang theo một tiềm năng
biến đổi những khuynh hướng ích kỷ thành khuynh hướng xã hội, tiềm năng ấy tổ
tiên di truyền cho họ, chỉ một xung động nội tâm nhẹ cũng đủ tạo ra sự biến đổi
ấy. Nhưng những khuynh hướng khác cũng biến đổi, không phải vì tiềm năng di
truyền mà vì áp lực của những yếu tố ngoại giới. Chính vì thế mà mỗi người vừa
chịu ảnh hưởng của đời sống văn minh hiện tại vừa chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh
sống tổ tiên mình ngày trước.
Nếu dùng những chữ năng khiếu thích ứng với đời sống văn minh để chỉ
khả năng biến đổi xu hướng ích kỷ do ảnh hưởng của những yếu tố tình, thì chúng
ta có thể nói rằng năng khiếu ấy gồm có hai phần, một phần thiên bẩm, còn phần
kia là sở đắc; giữa phần thiên bẩm và phần sở đắc, giữa mỗi phần là những
khuynh hướng không biến đổi, sự liên lạc rất khác nhau.
Chúng ta có thói quen gán cho phần thiên bẩm của năng khiếu thích ứng với đời sống
văn minh một giá trị quá cao. Nói chung thì chúng ta đánh giá quá cao năng khiếu
ấy và đánh giá quá thấp những bản năng vẫn giữ nguyên tình trạng nguyên thủy.
Nói khác đi, chúng ta cho rằng con người tốt hơn giá trị thực sự của họ. Tuy
nhiên, cũng còn một cớ khác làm chúng ta không phán xét đúng mức được, chúng ta
kết luận theo một chiều thuận lợi cho họ quá.
Những xung động bản năng của người khác dĩ nhiên ở ngoài tầm tri giác của chúng
ta. Chúng ta suy luận tất nhiên phải căn cứ vào hành vi và thái độ của họ rồi
tìm sự liên hệ với những nguyên nhân nguồn gốc ở đời sống bản năng. Trong nhiều
trường hợp sự kết luận sai sự thật. Cùng một hành vi "tốt", xét theo
góc cạnh đời sống văn minh, có thể có những nguyên nhân "cao thượng"
trong một vài trường hợp, trong những trường hợp khác nguyên nhân lại rất tầm
thường. Lý thuyết gia đạo đức học gọi những hành động biểu lộ xu hướng tốt là
hành động "tốt", còn những hành động không thỏa mãn điều kiện ấy thì
không được cái hân hạnh ấy. Nhưng xã hội không cần phân biệt như thế, xã hội chỉ
xét theo khía cạnh thực tiễn; xã hội chỉ cần người ta xử sự đúng những bó buộc
của đời sống văn minh là đủ, không cần xét đến nguyên nhân.
Trên kia chúng tôi đã nói rằng giáo dục và hoàn cảnh tạo ra áp lực bên ngoài, hậu
quả là con người hướng đời sống bản năng về điều thiện, mở đường thuận lợi cho
ích kỷ biến thành vị tha. Nhưng hậu quả ấy không nhất thiết phải có, không phải
là trường hợp nào cũng có. Giáo dục và hoàn cảnh không phải bao giờ cũng khích
lệ tình yêu, giáo dục và hoàn cảnh còn dùng đến những phương tiện khác như thưởng
và phạt. Bởi vậy cho nên thường khi có người xử sự tốt và đáng khen mà đời sống
bản năng của họ không tăng tiến, xu hướng ích kỷ của họ không biến đổi thực sự
thành xu hướng xã hội. Đại loại thì kết quả cũng không khác, đời sống của xã hội
cũng khả quan, chỉ trong những trường hợp đặc biệt chúng ta mới biết rằng có
người ăn ở thiện vì đời sống bản năng của họ thúc đẩy họ làm thiện, có người ăn
ở thiện chỉ vì làm như vậy phù hợp mới mục tiêu ích kỷ của họ. Tuy nhiên nếu chỉ
hiểu biết bề ngoài thì không có cách nào phân biệt hai trường hợp, chúng ta sẽ
lạc quan và mà cho rằng có nhiều người có khuynh hướng biến đổi ra tốt.
Xã hội văn minh của chúng ta đòi hỏi con người phải có hạnh kiểm tốt nhưng
không bận tâm đến những khuynh hướng ở dưới nền móng của hạnh kiểm, xã hội luyện
cho một số đông người vâng theo điều kiện của đời sống văn minh, nhưng bản chất
của họ không tham dự vào sự phục thiện ấy. Như thế cũng đã là một sự thành
công, sự thành công khuyến khích xã hội thêm nghiêm khắc về phương diện đạo đức,
hậu quả là đào sâu thêm hố ngăn cách giữa thái độ bắt buộc con người phải có và
khuynh hướng bản năng của họ. Bản năng bị đàn áp mỗi ngày mỗi nhiều, gây nên
tình trạng căng thẳng do đó mà xảy ra những hiện tượng phản ứng và bù trừ rất kỳ
dị. Trong lãnh vực dục tính, sự đàn áp khó hơn, chúng ta thấy có những hiện tượng
phản ứng gây ra vì các bệnh suy nhược thần kinh. Trong những lãnh vực khác, áp
lực của đời sống văn minh tuy không làm phát hiện những hiện tượng bệnh hoạn
chính thức, nhưng cũng đưa đến những sự thiên lệch tính tình, những bản năng bị
chế ngự vẫn sẵn sàng đợi cơ hội là đoạt lấy sự thỏa mãn. Người nào phải theo
thói phép mà phản ứng liên tục, không thỏa hiệp được với bản năng sâu xa của
mình, người ấy sống trong tình trạng tiêu xài quá khả năng tài chính, khách
quan mà nói thì có thể cho họ là ngụy thiện, là giả dối tuy họ không ý thức được
sự giả dối ấy. Chúng ta không thể chối cãi được rằng nền văn minh của chúng ta
thuận lợi cho sự giả dối ấy quá mức bình thường. Chúng ta có thể nói chẳng chút
vọng ngôn rằng nền văn minh hiện đại đặt nền tảng trên sự giả dối ấy. Nhưng nếu
loài người chịu khó sống theo sự thật tâm lý của họ thì sẽ có sự thay đổi sâu
xa. Như vậy, số người chấp nhận cái văn minh vỏ ngoài nhiều hơn số người thực sự
văn minh, và chúng ta có thể tự hỏi rằng nếu chỉ có một số người là phong độ
văn hiến trở thành một đặc tính của tổ chức tâm thần, thì cũng cần phải có một
mức độ ngụy thiện nào đó để duy trì, và bảo vệ nền văn minh chăng? Vả chăng người
ta duy trì văn minh với nền tảng bấp bênh như thế là người ta cũng hy vọng rằng
qua mỗi thế hệ, xu hướng sẽ biến đổi thành tốt thêm, đó là điều kiện của một nền
văn minh tốt đẹp hơn.
Những quan điểm trên đây mang lại cho chúng ta sự an ủi thứ nhất, chúng ta
không thấy có lý do để đau khổ và thất vọng trước những hành động không xứng
đáng với quan niệm văn minh của chúng ta. Thực ra người đời không đến nỗi xuống
thấp như chúng ta tưởng, vì một lẽ rất thường là họ không đạt được một trình độ
cao như chúng ta tưởng. Các dân tộc đối xử với nhau không kể gì đến đạo đức, họ
tưởng rằng có thể nhất thời từ khước những bổn phận của đời sống văn minh và thả
lòng cho những khuynh hướng dồn nén bùng ra. Chúng ta hãy giả thiết rằng thứ đạo
đức tương đối ấy vẫn duy trì được trong nội địa của mối quốc gia, không bị xúc
phạm nặng nề.
Chúng ta có thể có một ý niệm sâu xa hơn về ảnh hưởng tinh thần của chiến
tranh, chiến tranh đã làm thay đổi sâu xa phong độ và hành vi của người xưa, đó
là một lời cảnh cáo thêm để chúng ta thêm thận trọng, không nên bất công với
người ở quốc gia khác. Sự tiến hóa tâm thần có một đặc điểm không thấy có trong
những tiến trình tiến hóa hay phát triển khác. Khi một làng phát triển thành một
tỉnh hay một đứa trẻ trở thành người lớn. Phải dùng trí nhớ hồi tưởng lại chúng
ta mới có thể thấy những nét cũ trong những nét mới; thực ra những vật liệu cũ
và những hình thức cũ đã biến mất để nhường chỗ cho những vật liệu mới và những
hình thức mới. Trong sự tiến hóa tâm thần thì khác. Đây là một tình trạng không
giống tình trạng nào, chúng ta có thể nói rằng tất cả giai đoạn phát triển cũ vẫn
còn tồn tại ở bên cạnh giai đoạn mới phát sinh. Trong sự nối tiếp, có sự đồng
hiện hữu, vẫn những tài liệu trước được dùng trong sự biến đổi về sau. Trạng
thái tâm thần cũ, có thể nằm yên trong nhiều năm không hề phát hộ ra ngoài;
nhưng chúng tôi xin nhắc lại rằng nó vẫn tồn tại, có lúc nó có thể trở thành
hình thức biểu lộ của những sức lực tâm thần, có thể là hình thức biểu lộ duy
nhất, hầu như những giai đoạn tiến triển về sau đã biến mất. Tuy nhiên phần tâm
thần được phát triển không có gì là vững chắc, nó dễ bị đàn áp; thường khi một
giai đoạn tiến triển cao hơn về sau đã bị bỏ rơi thì khó lòng mà lấy lại được.
Trái lại những trạng thái nguyên sơ rất dễ tái diễn, rất dễ nhớ lại, cái gì là
nguyên thủy trong đời sống tâm thần của chúng tôi sống bất tử.
Những bệnh gọi là bệnh tâm thần, đối với người không có kiến thức chuyên môn,
là hậu quả của sự phá hủy đời sống tâm thần và tâm trí. Nhưng thực ra sự phá hủy
chỉ là phá hủy những cái sở đắc và những giai đoạn phát triển sau này. Điểm
chính của bệnh tinh thần là sự thoái lui về những trạng thái cũ của đời sống
tâm linh và của đời sống cơ năng. Chúng ta có một thí dụ điển hình về sự linh động
của sinh hoạt tâm thần, đó là giấc ngủ mà mỗi đêm lại xuất hiện. Từ khi chúng
ta biết suy diễn giấc mơ, cả những giấc mơ bông lông nhất, khó hiểu nhất, chúng
ta đã biết rằng khi người ta ngủ người ta cởi bỏ tất cả cái gì là đạo đức như cởi
bỏ quần áo đến hôm sau tỉnh dậy mới mặc lại. Sự cởi bỏ đạo đức như thế dĩ nhiên
không có gì là nguy hiểm, vì giấc ngủ làm tê liệt người chúng ta, bắt buộc
chúng ta phải bất động. Chỉ có giấc mơ là theo chúng ta biết sự thoái lui của đời
sống tâm thần về một trong những giai đoạn phát triển ngày trước. Thí dụ giấc
mơ bị chi phối bởi những nguyên nhân hoàn toàn ích kỷ. Trong một cuộc hội họp
những nhà trí thức ở Mỹ, một người Anh bạn hữu của tôi lên tiếng bênh vực
nguyên tắc ấy, tức thời một bà đưa ra nhận xét rằng ý kiến của ông ta có thể
đúng ở bên nước Áo, còn bà và các bạn của bà thì bao giờ cũng có lòng vị tha, cả
trong giấc mơ cũng vậy. Bạn tôi, tuy là người Anh, cũng phải đưa ra những kết
quả thâu lượm của việc phân tích giấc mơ để trả lời bà kia rằng trong giấc mơ,
các bà sang trọng bên Mỹ chẳng chịu thua kém các bà bên Áo về phương diện ích kỷ.
Như vậy là người ăn miếng trả miếng. Như vậy sự biến đổi xu hướng nguyên thủy,
nền tảng của nếp sống văn minh, có thể vì một biến cố xảy ra trong đời sống mà
thoái lui chốc lát hay rất lâu. Chúng ta không thể chối cãi được rằng ảnh hưởng
của chiến tranh thuộc về những loại sức mạnh có thể gây ra sự thoái lui như thế,
bởi vậy có thể phải nhân nhượng, chúng ta không nên cho rằng những người cư xử
trái với nguyên tắc của chính sách văn minh không có năng khiếu thích ứng với đời
sống văn minh, chúng ta hãy nán đợi tình hình sáng sủa hơn, bình lặng hơn, hoàn
cảnh sẽ làm dịu lòng người để những tâm tình cao đẹp có thể nổi lên trên mặt.
Nhưng chúng ta cũng nhận thấy có một triệu chứng làm cho chúng ta kinh ngạc và
lo ngại không kém sự hạ thấp trình độ đạo đức. Chúng tôi muốn nói đến mức độ
trí tuệ thấp kém, đến sự ương ngạnh ngu muội, không hiểu được những lý lẽ xác
đáng nhất, đến sự dễ tin như con nít nghe theo những lời vô lý hết sức. Cảnh
tình thật hết sức buồn nản, chúng tôi xin nói rằng chúng tôi không bị mù quáng
vì có ý thiên về bên nào, đến nỗi chỉ nhìn thấy những khuyết điểm trí tuệ như
thế của một trong hai phe địch thủ. Hiện tượng ấy còn có thể cắt nghĩa dễ dàng
hơn hiện tượng nói ở trên. Chúng tôi không đến nỗi phải rối trí. Triết gia và
những người hiểu hiểu rõ tâm lý loài người đã chỉ trích chúng tôi lầm lỗi mà
cho rằng trí tuệ là một khả năng đứng độc lập và không kể đến sự lệ thuộc trí
tuệ vào sinh hoạt tình cảm. Trí năng của chúng ta chỉ có thể làm việc hữu hiệu
nếu nó không bị ảnh hưởng bởi những tình cảm mạnh mẽ; trái lại nó chỉ còn là một
khí cụ để phục vụ ý muốn của con người, ta muốn có kết luận nào là ta huy động
một số lý lẽ thuận tiện để đi đến kết luận đó. Lý lẽ hợp lý không làm gì được để
chống lại quyền lợi của tình cảm, bởi vậy cho nên trong thế giới quyền lợi đem
nhẽ lý ra so tài không được việc gì cả. Kinh nghiệm phân tâm học xác nhận sự thật
ấy. Hàng ngày chúng tôi có dịp nhận thấy những người thông minh nhất bất thần mất
cả khả năng suy xét và xử sự như những người ngu muội, khi những ý kiến trình
bày với họ vấp phải sự kháng cự của tâm tình; nhưng khi đã đánh tan được sức
kháng cự ấy thì trí tuệ và sự hiểu biết của họ sẽ trở lại bình thường. Cuộc chiến
tranh này đã làm cho những phần tử ưu tú nhất phải mù quáng lý trí, đó chỉ là một
hiện tượng thứ yếu, đó chỉ là hậu quả của sự khích động tình cảm, chúng ta mong
rằng nó sẽ biến mất khi những nguyên nhân của nó cũng biến mất.
Sau khi đã học cách tìm hiểu con người chúng ta không đến nỗi quá buồn vì thất
vọng gây ra bởi các dân tộc kình chống nhau, chúng ta phải học cách đòi hỏi ở họ
vừa phải thôi. Các dân tộc tái tạo lại sự tiến hóa của cá nhân, có thể rằng
ngày nay các dân tộc cũng còn ở giai đoạn tổ chức nguyên sơ, giai đoạn còn thấp
kém trên bước đường đưa đến sự tổ chức cao hơn. Bởi vậy cho nên chúng ta vẫn
chưa thấy hậu quả đạo đức hóa của áp lực bên ngoài. Chúng ta có thể hy vọng rằng
một cộng đồng quyền lợi rộng lớn tạo ra bởi sự giao thông tiện lợi, bởi sự
thông thương, bởi sự liên lạc ngày càng nhiều, sẽ tạo áp lực có hậu quả đạo đức
hóa như thế. Nhưng lúc này hầu như các dân tộc nghe theo tham vọng của họ hơn
là quyền lợi chính đáng. Họ chỉ đem quyền lợi chánh đáng ra làm bình phong để lấy
có thỏa mãn dục vọng, để biện bác cho sự thỏa mãn dục vọng của họ. Tại sao các
chủng tộc thường hay khinh bỉ nhau, ghét bỏ nhau, căm thù nhau như vậy? Đó là một
sự bí mật mà tôi không hiểu được. Chỉ cần tụ hội một số đông, một triệu người
là những sở đắc về đạo đức của con người ta tan rã chỉ còn lại những thái độ
tâm thần nguyên sơ nhất, thô lỗ nhất, hung bạo nhất. Hiệu quả ấy rất đáng tiếc,
nhưng có lẽ sẽ bớt khốc hại dần nhờ sự tiến hóa. Tăng thêm sự thẳng thắn và sự
thành thực trong mối liên lạc giữa mọi người, giữa nhà cầm quyền và người bị
trí sẽ đem lại may mắn để khai lối cho sự tiến hóa ấy.
2. Thái độ trước cái chết
Ngày nay chúng ta cảm thấy mình xa lạ trong một thế giới mà trước kia chúng ta
thấy đẹp đẽ quen thuộc, chúng tôi cho rằng nguyên nhân tại cuộc chiến tranh đã
làm cho chúng ta rối loạn không còn thái độ vững tâm in sâu trong tâm trí trước
cái chết như ngày xưa.
Thái độ ấy không kém thẳng thắn và thành thực. Nghe chúng ta nói người ta sẽ bảo
chúng ta tin tưởng rằng cái chết là mức tới của đời sống cần phải có, mỗi người
chúng ta có món nợ đối với tạo hóa phải thanh toán bằng cái chết, chết là một
hiện tượng thiên nhiên, thực ra chúng ta có thói quen xử sự như thể mọi việc đều
khác hẳn. Chúng ta làm hết cách để tránh cái chết, để loại bỏ cái chết khỏi đời
sống. Chúng ta đã tìm cách bao phủ cái chết bằng sự yên lặng, chúng ta đã nghĩ
ra một câu phương ngôn: "Họ nghĩ đến chuyện ấy như là nghĩ đến sự chết"
(nghĩa là họ không nghĩ đến); dĩ nhiên, người ta nghĩ đến cái chết của chính
mình (nhưng thực ra chúng ta chỉ suy luận về cái chết của người chứ ít khi suy
luận về cái chết của mình). Sở dĩ như vậy là vì chúng ta không thể nào hình
dung ra cái chết của chúng ta, mỗi lần chúng ta thử làm thế, chúng ta vẫn nhận
thấy chúng ta chỉ nhìn với con mắt bàng quan. Bởi vậy cho nên tư tưởng phân tâm
học tuyên bố rằng xét cho cùng thì không ai tin mình chết, hay nói khác đi,
trong tiềm thức của chúng ta, chúng ta tin rằng chúng ta bất tử.
Đối với cái chết của người khác thì người văn minh cẩn thận tránh không nói đến
sự chết trước mặt người đã gần kề cái chết. Chỉ có trẻ con mới không biết ý tứ
như thế: trẻ con rủa nhau chết, dọa nạt làm chết nhau, nó còn có đủ ngây thơ để
nói với mẹ một cách tự nhiên: "Bao giờ má chết thì con sẽ làm cái này cái
nọ". Đến lượt người lớn văn minh không muốn nghĩ đến cái chết của một người
thân, vì như thế sẽ tỏ ra độc ác, nhẫn tâm, chỉ có thầy thuốc hay luật gia vì bận
tâm nghề nghiệp mà phải nói đến mà thôi. Người ta còn ít nói hơn khi nào người
chết để lại cho người ta một gia tài lớn, hay vì người chết mà người ta được tự
do, được tăng tiến địa vị. Hẳn là những quan điểm ấy không chống lại được cái
chết, mỗi khi có tang tóc chúng ta bị xúc động sâu xa và thất vọng. Chúng ta
luôn luôn nhấn mạnh đến tính cách ngẫu nhiên của sự chết chứ không cho là một sự
cần thiết: tai nạn, bệnh tật, ôn dịch, già nua, những sự kiện ấy bộc lộ khuynh
hướng loại bỏ tính cách cần thiết của sự chết, và cho nó là một biến cố ngẫu
nhiên. Nhưng trường hợp chết chóc càng ngày càng nhiều khiến cho chúng ta sợ
hãi. Đối với sự chết chúng ta cũng có thái độ kỳ lạ: chúng ta tránh sự phê
phán, chúng ta tha thứ cho sự bất công của nó và chúng ta cho là một việc rất tự
nhiên khi thấy người ta đọc điếu tang hay khắc bia trên mộ chí nói đến đức hạnh
của người quá cố. Sự kính trọng người chết, sự kính trọng mà người chết chẳng cần
đến đối với chúng ta như cái gì hơn là sự thật, nhiều người còn cho là hơn cả sự
kính trọng dành cho người sống.
Văn minh đòi hỏi chúng ta phải có một thái độ đã khuôn định trước với người chết,
chúng ta kinh hoàng, chúng ta đau đớn vì một người thân qua đời: cha mẹ, vợ chồng,
anh em, con cái hay bạn hữu. Hầu như người chết mang theo hy vọng, hoài bão, niềm
vui của chúng ta, chúng ta không nghe lời an ủi và chúng ta tuyên bố rằng người
đã chết không ai thay thế được. Chúng ta làm như chúng ta muốn chết theo người
thân yêu.
Thái độ ấy có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của chúng ta. Đời sống nghèo nàn đi,
mất cả ý nghĩa đáng sống khi chúng ta không biết coi sự sống của chúng ta là
cái gì đáng đem ra thử thách. Đời sống sẽ trở nên trống rỗng và không khác nào
chúng ta theo đuổi một chuyện tình mà biết trước là không đi đến đâu, chỉ khác
chuyện tình thật một điều là hai bên đều nghĩ đến ta không nghĩ đến những sự
nguy hiểm cho chúng ta và cho người thân của chúng ta. Chúng ta không dám làm
những công việc nguy hiểm nhưng cần thiết như lái phi cơ, thám hiểm những xứ xa
xôi, thí nghiệm chất nổ, v.v. chúng ta không muốn làm vì chúng ta tự hỏi: nếu xảy
ra tai nạn thì ai là người phụng dưỡng mẹ già, ai nuôi vợ dại con thơ? Khuynh
hướng loại bỏ cái chết khỏi đời sống còn làm cho chúng ta phải từ khước và giữ
mình nhiều nữa. Tuy nhiên, câu châm ngôn của đoàn người tranh thương nước Đức
là: vượt trùng dương là điều cần chứ sống không phải là điều cần.
Dĩ nhiên, chúng ta tìm trong thế giới giả tưởng, trong văn chương, trong ca kịch,
những cái gì mà trong đời sống thực chúng ta chịu bỏ.
Chúng ta còn thấy những người biết cách chết và dạy bảo người khác cách chết.
Chỉ có cách này là hội được điều kiện để hòa giải chúng ta với cái chết. Quả vậy,
sự hòa giải ấy chỉ có thể thực hiện được nếu chúng ta tin tưởng rằng sau khi chết
chúng ta vẫn tiếp tục sống một cuộc sống không còn ô trọc bụi trần. Hẳn là
chúng ta phải buồn rầu nếu biết rằng đời sống chỉ là cuộc cờ, đi sai một nước
cũng đủ thua cuộc, chúng ta càng chán nản hơn khi biết rằng không thể đánh ván
khác để gỡ. Nhưng trong thế giới giả tưởng chúng ta tìm thấy cuộc sống khác thần
tiên hơn mà chúng ta rất cần. Chúng ta đồng nhất hóa mình với một người anh
hùng lúc họ chết (để sang sống cuộc sống ở thế giới bên kia với họ), ấy thế mà
chúng ta vẫn sống nhăn, sẵn sàng để chết theo người anh hùng khác một chuyến nữa
mà không hại gì.
Hẳn là thái độ ước định trước cái chết như thế không thể dung hòa được với chiến
tranh. Không thể chối cãi sự chết được nữa, chúng ta phải tin tưởng rằng có sự
chết. Người ta chết thật sự, không phải từng người một, mà hàng loạt từng chục
ngàn người mỗi ngày. Đây không còn là chết ngẫu nhiên. Khi một trái tạc đạn rớt
trúng người này chứ không phải người khác thì đó là một sự ngẫu nhiên; nhưng
người kia có thể chết vì trái tạc đạn khác. Cái chết chồng chất trên đầu người,
thây chết thành núi như thế thì chúng ta không còn dung hòa được với khái niệm
ngẫu nhiên nữa. Đời sống trở lại có ý nghĩa, nó thấy lại nội dung của nó.
Chúng ta cần phải chia ra làm hai loại: loại người liều chết mà xông ra trận,
và loại người ở hậu phương có thể nhận được tin người thân của mình chết vì
thương tích hay bệnh tật. Hẳn là nghiên cứu tâm lý các chiến sĩ sẽ biết nhiều
điều hay, nhưng chúng tôi không am tường vấn đề này. Bởi vậy chúng ta phải giới
hạn sự tìm tòi trong loại thứ hai, chúng tôi cũng thuộc vào thứ hai. Tôi đã nói
rằng năng lực cơ năng của chúng ta bị xáo trộn và sút kém, theo ý tôi thì
nguyên do chính yếu là chúng ta không thể giữ được thái độ cũ đối với sự chết
và chúng ta chưa tìm ra được thái độ mới. Có lẽ chúng ta đã đạt được những kết
quả tốt bằng cách nghiên cứu những thái độ của con người trước cái chết: Thái độ
có thể cho là thái độ của người bàn cổ, người tiền sử, thái độ còn tồn tại
trong mỗi người chúng ta, không ý thức được mà chỉ ẩn nấp trong những lớp dưới
sâu tâm thần.
Đối với thái độ của người tiền sử trước cái chết, dĩ nhiên chúng ta chỉ biết bằng
cách suy đoán và diễn dịch, nhưng tôi thiết nghĩ phương pháp ấy đã đem lại kết
quả có thể tin được.
Thái độ của người bàn cổ trước cái chết thật là mâu thuẫn rõ rệt. Một đằng họ
coi trọng cái chết, họ coi là cái chết chấm dứt cuộc đời và họ đem quan niệm ấy
ra áp dụng; đằng khác họ phủ nhận cái chết, họ không cho cái chết có ý nghĩa gì
và không cho rằng cái chết có hiệu năng. Chắc họ là giống đam mê, độc ác và dữ
tợn hơn những con vật khác. Họ giết hại một cách tự nhiên và dễ dàng. Chúng ta
không có lý lẽ gì để bảo rằng họ có một thứ bản năng như bản năng của những
loài vật khác không giết hại và ăn thịc con đồng loại với chúng.
Bởi vậy cho nên lịch sử nhân loại tối sơ đầy rẫy giết chóc. Ngày nay con em
chúng ta học ở nhà trường cái gọi là lịch sử thế giới không phải cái gì khác những
cuộc chém giết kế tiếp nhau, dân tộc nọ chết giết dân tộc kia. Cảm tưởng phạm tội
mông lung mờ mịt của loài người có từ thời ký tối cổ, cảm tưởng ấy kết tinh lại
trong một vài tôn giáo thành tội nguyên thủy, tội nguyên thủy có lẽ chỉ là vang
âm của một cuộc xung đột đẫm máu xảy ra cho người tiền sử. Trong cuốn Vật
tổ và cấm kỵ chúng ta đã dựa vào Robertson Smith, Atkinson và Darwin để
tìm một ấn tượng về tội lỗi nguyên thủy đó, chúng ta cho rằng Thiên Chúa giáo
hiện thời cũng còn những điển cố để có thể kết luận rằng tội nguyên thủy có thực.
Vì Con Trời đã phải hy sinh tính mạng để cứu chuộc nhân loại khỏi tội nguyên thủy,
người ta phải kết luận rằng theo một luật lệ có từ thời Moise, phạm tội gì phải
đúng tội ấy, thì tội nguyên thủy phải là tội giết người. Chỉ có một tội như thế
mới phải chuộc tội bằng tính mạng mình. Vì tội nguyên thủy là tội xúc phạm đến
Trời-Cha, cho nên tội lỗi xa xưa nhất của nhân loại chỉ có thể là tội giết cha,
người cha nguyên thủy của bày ô hợp nguyên thủy, hình ảnh người cha ấy còn lại
trong trí nhớ và sau này trở thành một ông thần [2].
Hẳn là người bàn cổ cũng như chúng ta, khó lòng hình dung ra cái chết của mình,
cái chết đối với họ cũng không thực như đối với ta. Nhưng có trường hợp mà những
niềm tin trái ngược nhau về cái chết phải gặp nhau và xung đột nhau, đó là một
trường hợp rất ý nghĩa và có nhiều hậu quả. Trường hợp đó xảy ra khi người bàn
cổ trông thấy vợ con hay bạn hữu thân yêu của họ chết, tình yêu cũng có từ lâu
đời như khuynh hướng giết người. Trong lúc đau đớn hẳn là họ phải tự nhủ rằng
cái chết không tha ai, rồi họ cũng chết như người khác, điều ấy làm cho họ phẫn
nộ: những người thân yêu ấy chẳng phải là một phần cái tôi của họ mà
họ yêu mến ư? Mặt khác, cái chết của người thân hiện ra như một việc rất tự
nhiên, bởi vì người thân phần nào là một phần cái tôi của họ, nhưng
phần khác lại xa lạ với họ. Luật lưỡng ứng ngày nay còn chi phối thái độ của
chúng ta đối với những người chúng ta yêu hơn cả, trong thời kỳ nguyên thủy luật
lưỡng ứng hẳn là tác động không giới hạn như ngày nay. Chính vì thế mà người
thân của họ chết đồng thời cũng là người xa lạ và kẻ thù, họ còn có thái độ căm
thù đối với người chết (coi Vật tổ và cấm kỵ).
Theo triết gia thì vẻ huyền bí của cái chết bắt nguồn gốc bàn cổ phải suy nghĩ,
phải lấy đó làm khởi điểm cho triết luận. Về điểm này thì có lẽ triết gia đặt vấn
đề theo quan điểm của triết gia mà không kể đến những nguyên nhân khác của đời
sống bàn cổ. Tôi thiết nghĩ nên bớt tầm quan trọng của quan niệm nấy, nên sửa
chữa đi mà nói rằng người bàn cổ chỉ cảm thấy mình đắc thắng khi đứng trước xác
chết của địch thủ, họ chẳng bận tâm bới óc tìm bí mật đời sống và sự chết. Cái
làm cho họ phải nghĩ ngợi không phải là vẻ huyền bí của cái chết nói chung mà
chính là xung đột tâm tình khi họ chứng kiến một người chết vừa thân yêu vừa
đáng ghét và xa lạ. Tâm lý bắt nguồn từ xung đột tâm tình ấy. Con người không
thể không nghĩ đến cái chết khi họ đã phải đau đớn vì mất một người thân; nhưng
đồng thời họ cũng không muốn chấp nhận sự thật vì họ không thể đặt mình vào chỗ
người chết. Bởi vậy họ phải tìm cách thỏa hiệp: họ chấp nhận rằng rồi cũng đến
lượt họ chết, nhưng họ không chịu cho là họ mất hẳn tăm tích (nhưng kẻ thù của
họ chết mất tăm tích là một việc tự nhiên). Trước thi hài người yêu, họ tưởng
tượng ra có thần, họ thấy mình đắc tội vì cảm thấy thỏa mãn trong lúc tang tóc,
thế là những ông thần đầu tiên ấy biến thành lũ quỷ ác phải nghi kỵ. Sau khi chết,
thây tan rã, do đó mà quan niệm con người phân ra hồn và xác. Sự tưởng nhớ người
chết còn lại trong tâm trí mãi về sau, do đó mà có sự tin tưởng rằng có nhiều
kiếp khác, do đó mà người ta nghĩ rằng sau khi chết còn sống kiếp khác.
Đời sống kiếp sau mới đầu chỉ là một sự nối dài của đời sống đã bị cái chết làm
cho đứt đoạn: đời sống kiếp sau chỉ có cái bóng, không có nội dung, người ta
không quan tâm đến lắm. Chúng ta thử nhớ lại câu trả lời của linh hồn Achille
cho Ulysse: "Hỡi Akhileus, lúc còn sống chúng ta tôn sùng ngươi như một
ông Trời, bao giờ ngươi chỉ huy những người chết; ngươi đã chết như thế đó,
nhưng chớ phàn nàn làm gì – Nói thế và Akhileus trả lời: Xin đừng nói đến cái
chết, hỡi Odysseus hào hùng! Thà rằng tôi là người nông phu, làm mướn cho một
người nghèo còn hơn là chỉ huy những người chết mất tăm mất tích".
(Odyssée XI. V. 484-491, bản dịch của Leconte de Lisle).
Chúng ta cũng nên nhớ lại một đoạn thơ mãnh liệt và cay độc của Heine:
Người dân ngu tầm thường nhất
Sống ở Stuckert trên bờ sông Neckar
Lòng sung sướng hơn tôi
Người anh hùng đã chết
Ông hoàng của đêm tối dưới âm phủ.
Mãi sau này các tôn giáo mới có ý kiến trình bày cuộc sống ở thế giới bên kia
là cao quý toàn thiện và cho rằng cuộc sống trần gian giới hạn bởi cái chết chỉ
là sửa soạn cho cuộc sống tốt đẹp kiếp sau. Từ đó đến quan niệm có tiền kiếp chỉ
có một bước và người ta đã tiến lên bước ấy: người ta cho rằng loài người đã sống
nhiều kiếp trước khi sống kiếp trần gian, người ta sáng chế ra luân hồi và sự
thể hiện nhiều lần, chỉ có mục đích là cho cái chết không còn giá trị gì nữa,
chỉ có mục đích không cho cái chết đóng vai trò đối lập với sự sống, tiêu hủy sự
sống. Chúng ta thấy rõ: sự chối bỏ cái chết mà trên kia chúng tôi đã trình bày
là một trong những ước lệ của đời sống xã hội, sự chối bỏ ấy có nguồn gốc xa
xôi lắm.
Con người đối diện với xác chết của người thân yêu không những đã nghĩ ra những
thuyết về linh hồn, sự tin tưởng bất tử, mà còn có cảm tưởng phạm tội cảm tưởng
ấy bắt rễ chắc, đó là những kỷ cương luân lý thứ nhất. Điểm quan trọng nhất của
cương thường xuất hiện trong lương tâm mới bừng tỉnh là: không được giết người.
Điều ấy diễn tả phản ứng chống lại sự thù ghét mà người ta cảm thấy xen lẫn vào
sự buồn thương đối với người thân yêu đã chết, dần dần người ta cũng phản ứng
như thế đối với những người xa lạ và cả với những kẻ thù đáng ghét.
Ở thời đại chúng ta người ta không bận tâm đến cương thường. Khi sự xung đột dã
man trong cuộc chiến tranh chấm dứt, có kẻ thắng người thua, người chiến sĩ thắng
trận trở về gia đình với vợ con, không hề nhớ đến sự rối loạn họ gây ra, không
còn nhớ đến kẻ thù họ giết chết. Những bộ lạc man di ngày nay còn sống sót hẳn
gần với người bàn cổ (hay ít ra họ có thái độ như thế nếu họ không chịu ảnh hưởng
của người văn minh), họ có tâm trạng khác hẳn. Người man di, dù là người Úc
châu, người Boschiman hay tổ dân Terre de Feu, đều không phải là kẻ sát nhân
không biết hối cải; khi họ chiến thắng trở về họ không được vào làng bằng những
tục lệ ăn năn rất phiền phức và khó nhọc. Họ bị cấm không được vào làng vì có tục
mê tín, họ sợ hồn những người bị giết trở về báo thù. Nhưng hồn kẻ bị giết
không phải là cái gì khác mối lo của họ, sự hối hận của họ vì họ đã phạm tội
sát nhân. Trong sự mê tín ấy có một điểm tế nhị của lương tâm mà những người
văn minh chúng ta không có (Vật tổ và cấm kỵ).
Những tâm hồn tin đạo tìm cách thuyết phục rằng chúng ta không biết đến cái gì
xấu xa tầm thường, họ tìm cách căn cứ vào sự nghiên cứu cấm giết người có từ
lâu đời để rút ra những kết luận bênh vực khuynh hướng nhân luân thiên bẩm của
chúng ta. Khốn thay, lý lẽ ấy lại có thể đem ra chứng minh cái gì ngược lại và
có thể chứng minh mạnh mẽ hơn. Người ta lại dùng đến sự nghiêm cấm khẩn thiết
và gắt gao như thế thì tất nhiên xung động giết người phải mạnh mẽ lắm. Còn như
ước vọng cao đẹp của linh hồn thì người ta chẳng cần gì phải ra lệnh cấm
đoán [3].
Ấy chính vì cách đặt vấn đề cấm đoán: "Không được giết người" mà
chúng ta biết chắc rằng chúng ta là con cháu một thế hệ giết người tiền sử, thế
hệ ấy kéo dài rất lâu và cũng như chúng ta có cái mê say giết người từ trong
máu. Tìm cách chối cãi sức mạnh và tầm quan trọng của khuynh hướng nhân luân là
một sở đắc của lịch sử nhân loại và là gia tài truyền thống của nhân loại ngày
nay, nhưng tiếc thay mức độ thay đổi, không có gì là vững chắc.
Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu tiềm thức của tâm thần chúng ta. Công việc chỉ có
thể làm được nhờ phương pháp phân tâm học, phương pháp duy nhất cho chúng ta
phương tiện lặn xuống đáy sâu tâm thần. Tiềm thức có thái độ nào đối với cái chết?
Đúng như người bàn cổ vậy. Về phương diện này thì cũng như nhiều phương diện
khác, người bàn cổ vẫn nguyên vẹn sống sót trong tiềm thức chúng ta. Cũng như
người bàn cổ, tiềm thức của chúng ta không tin rằng nó có thể chết được, nó cho
rằng nó bất diệt. Cái mà ta gọi là tiềm thức, nghĩa là những lớp sâu xa của
linh hồn, lớp gồm những bản năng nói chung, không biết sự phủ nhận, không biết
cái "không", những cái trái ngược nhau dung hòa với nhau và phối hợp
với nhau; bởi vậy đối với tiềm thức không có cái chết mà chúng ta gán cho một nội
dung tiêu cực (không, phủ nhận). Như vậy sự tin tưởng cái chết không có điểm tựa
nào trong bản năng, có lẽ chúng ta phải tìm ở đây sự giải thích bí mật của tính
anh hùng. Người muốn giải thích duy lý tính anh hùng sẽ cho rằng người anh hùng
theo đuổi những giá trị trừu tượng và phổ quát quý giá hơn cả đời sống. Nhưng
theo ý tôi thì thường thường người anh hùng hành động theo bản năng và bồng bột,
họ không biết đến giá trị quý giá ấy và họ xông pha nguy hiểm chẳng cần nghĩ
xem hậu quả sẽ như thế nào. Hoặc là đó chỉ là cái cớ để đánh tan sự ngập ngừng
nghi ngại ngăn cản cái bồng bột hào hùng của tiềm thức. Trái lại sự lo sợ trước
cái chết chỉ là một hiện tượng thứ yếu và là hậu quả của cảm tưởng phạm tội;
chúng ta chịu sự kiềm tỏa của nó nhiều hơn chúng ta tưởng.
Chúng ta có thể giết hại kẻ thù mà không chút hối hận cũng như người bàn cổ, và
chúng ta coi cái chết của kẻ thù là phi thường.
Tuy nhiên, ta khác với người bàn cổ về một điểm, thực tại cho biết rằng điểm ấy
quyết định. Tiềm thức của chúng ta chỉ nghĩ đến cái chết, mong muốn kẻ thù chết
mà không đem ra thực hiện. Chúng ta sẽ lầm lớn nếu chúng ta cho rằng thực tại tâm
thần đó không đáng là bao so với thực tại có thật. Thực tại tâm
thần đó cũng quan trọng lắm và có nhiều hậu quả. Trong tiềm thức của chúng
ta, hàng ngày, hàng giờ, chúng ta giết bỏ tất cả những người xúc phạm đến ta,
làm thương tổn đến ta. Chúng ta hay nói với giọng đùa cợt: "Trời đánh
thánh vật nó!", nói như vậy để che lấp sự bực mình. Nhưng điều chúng ta
không nói thẳng ra chính là câu: "Chết đi cho rảnh!", ta rủa họ như
thế, tiềm thức của ta cho đó là cái gì có thực chứ không phải chuyện nói rỡn,
tiềm thức có những cách cục mà lương tâm của chúng ta chối bỏ không chịu nhận.
Tiềm thức của chúng ta muốn giết người cả vì những chi tiết nhỏ nhặt, nó cũng
như luật Dracon của cổ Hy Lạp, chỉ biết có một tội chết chứ không biết áp dụng
tội nào nhẹ hơn, làm như vậy có lý lắm chứ, vì mọi sự xúc phạm đến chúa tể
trong thế giới của chúng ta, thực ra là đáng khép vào tội khi quân.
Chính vì thế mà xét những thèm muốn và khát vọng tiềm thức của chúng ta, thì
chúng ta chỉ là một lũ sát nhân. Cũng may mà những khát vọng và thị dục đó đối
với chúng tôi không có sức mạnh như đối với người bàn cổ [4];
nếu không thì nhân loại đã sụp đổ từ lâu vì người ta không còn kiêng nể gì ai,
người ta sẽ thủ tiêu hết, bất chấp là thánh hiền hay người nhân đức hay vợ con.
Những khẳng định của phân tâm học không được người thường tin tưởng lắm. Người
ta gạt bỏ đi vào cho là vu khống, lương tâm người ta có những lý lẽ và bằng chứng
chắc chắn để bênh vực quan niệm về "thiện tâm" người ta cố ý không
nói đến những dấu hiệu nhỏ mà tiềm thức vẫn thường dùng để bộc lộ sự có mặt của
nó ra ngoài ý thức. Bởi vậy chúng tôi thiết tưởng nhắc lại điều sau dây cũng
không phải là vô ích: nhiều nhà tư tưởng hẳn là không chịu được ảnh hưởng phân
tâm học, họ phàn nàn rằng chúng ta rất dễ xóa bỏ trong tâm trí của tất cả cái
gì có thể ngăn cản đường tiến của chúng ta. Không kể gì đến sự nghiêm cấm giết
người. Tôi chỉ xin kể ra đây một thí dụ ai cũng biết.
Trong cuốn truyện Le Père Goriot, Balzac viện dẫn một đoạn văn của Rousseau.
Rousseau hỏi độc giả sẽ làm gì nếu họ có thể chỉ ước một điều là giết được ngay
một vị quan đại thần ở Bắc Kinh rất kín đáo không ai biết được, mà lại được hưởng
những lợi lộc to tát. Chúng ta có thể đoán được họ không coi tính mạng của ông
quan Tầu đáng là bao nhiêu. Giết ông quan trở thành một thành ngữ chỉ xu hướng
kín đáo mà con người nay cũng vẫn có.
Ngoài ra chúng ta còn biết nhiều câu khôi hài, nhiều truyện tiếu lâm bỉ ổi nói
đến khuynh hướng ấy, thí dụ truyện một người chống tuyên bố: "Khi nào một
trong hai chúng mình chết, tôi sẽ đến Paris". Khôi hài độc địa như thế,
người ta chỉ làm được khi người ta dùng khôi hài để diễn tả một sự thật mà người
ta chối cãi, nếu nói trắng ra không úp mở thì người ta không dám làm. Quả vậy,
người ta hiểu quá rằng nói một cách nửa nạc nửa mỡ thì nói cái gì cũng được cả,
cả những sự thật không nên nói.
Cũng như người bàn cổ, trong tiềm thức chúng ta có trường hợp mà hai thái độ đối
lập nhau về cái chết gặp gỡ nhau và xung đột nhau, một thái độ cho cái chết là
tiêu hủy sự sống, còn thái độ kia cho cái chết là không có thực. Trường hợp của
chúng ta cũng không khác gì trường hợp của người bàn cổ: cái chết hay sự nguy
hiểm xảy đến cho một người thân yêu, vợ chồng, cha mẹ, anh chị em, con cái hay
bạn hữu. Một đằng, người thân yêu thuộc vào thế giới mật thiết thâm sâu của
chúng ta, họ là một phần của cái tôi; nhưng đằng khác họ cũng là người lạ,
là kẻ thù, ít ra một phần nào. Ngoại trừ một vài trường hợp đặc biệt, còn thì
những thái độ yêu đương nồng nàn và êm dịu nhất cũng vẫn điểm thêm một chút
ghen ghét có thể hàm ý thầm kín của tiềm thức mong cho người tình chết. Nhưng lần
này thì cuộc xung đột có nguồn gốc lưỡng ứng ấy không làm xuất hiện thuyết luân
hồi hay nguyên tắc đạo đức, nhưng nó đưa đến bệnh suy nhược thần kinh, mở đường
cho sự quan sát rộng rãi và có thể tìm hiểu cả đời sống tâm thần bình thường.
Bác sĩ phân tâm học biết rằng họ hay thấy triệu chứng người bệnh bộc lộ sự bận
tâm của họ đến người thân yêu của họ, bác sĩ cũng hay thấy những lời tự trách
vô cớ của người bệnh nhân dịp có thân nhân qua đời. Nghiên cứu những triệu chứng
ấy, thầy thuốc không còn nghi ngờ gì nữa: trong tiềm thức, con người thầm mong
cho người thân của họ chết.
Thế nhân thường ghê tởm những tâm tình bỉ ổi như vậy, sự ghê tởm ấy cũng đủ lý
lẽ chính đáng để họ cho lời nói của phân tâm học là vô lý, là khó tin. Theo tôi
nghĩ thì làm như vậy rất đáng tiếc. Tôi không muốn hạ thấp ái tình, vả chăng thực
tại sẽ cải chính lời nói của tôi. Hẳn là lý trí và tình cảm của chúng ta không
chịu chấp nhận sự ràng buộc chặt chẽ ái tình vào với căm thù, nhưng trẻ tạo
không hơn chúng ta nhiều, trẻ tạo biết lợi dụng sự phối hợp yêu và ghét để giữ
cho tình yêu có màu tươi và khỏi bị lung lạc bởi sự ghét bỏ. Người ta có thể
nói rằng những tâm tình đẹp đẽ nảy nở trong tình yêu của chúng ta là hậu quả của
sự phản ứng lại những xung động thù ghét mà chúng ta cảm thấy trong thâm tâm của
chúng ta.
Tóm lại: Tiềm thức của chúng ta và người bàn cổ có những nét chung, như không
thể hình dung ra được cái chết của mình, mong cho người lạ và kẻ thù chết, thái
độ lưỡng ứng đối với người thân yêu. Đem so sánh thái độ nguyên thủy trước cái
chết và thái độ mà chúng ta phải có theo ước lệ của đời sống văn minh, chúng ta
sẽ thấy khác nhau một trời một vực!
Rất dễ tìm xem chiến tranh có ảnh hưởng gì đến tình trạng ấy. Lớp phù sa của
văn minh phủ lên trên sẽ bị cuốn đi để trơ ra con người nguyên thủy của chúng
ta. Chiến tranh làm cho chúng ta phải có một thái độ anh hùng mới, một người
anh hùng không cho rằng mình lại có thể chết được; chiến tranh làm cho người
ngoại bang xuất hiện ra những kẻ thù mà chúng ta phải tiêu diệt hay mong mỏi
cho chết; nhưng chúng ta phải giữ bình tĩnh và can đảm trước cái chết của những
người thân yêu. Tuy nhiên chúng ta không thể trừ bỏ được chiến tranh. Cạnh
tranh sẽ còn mãi nếu còn tồn tại những sự chênh lệch phũ phàng giữa mức sống của
các dân tộc, nếu các dân tộc còn căm thù nhau sâu xa. Trong hoàn cảnh ấy câu hỏi
đặt ra sẽ như sau: đã không tránh được chiến tranh thì tốt hơn hết, nên thích ứng
với tình trạng có hơn không? Chúng ta nên chấp nhận rằng thái độ trước cái chết
mà đời sống văn minh tạo ra cho chúng ta đã vượt chúng ta về phương diện tâm
lý, như vậy thì có nên gạt bỏ thái độ ấy đi mà trở lại với sự thật chăng? Hay
hơn cả, có phải là nên trả lại cho cái chết chỗ đứng của họ trong đời sống cũng
như trong tư tưởng của chúng ta, và nên chú trọng hơn đến thái độ tiềm thức của
chúng ta đối với cái chết, thái độ mà chúng ta vẫn cố sức đè nén xuống? Làm như
thế không phải là một sự tiến bộ, trái lại là một sự thoái lui, ít ra về một
vài phương diện, nhưng chúng ta có cái lợi là thành thực đối với mình và làm
cho đời sống có thể chịu đựng được. Làm cho đời sống có thể chấp nhận được là bổn
phận đầu tiên của con người. Ảo tưởng không có giá trị gì khi ảo tưởng chống đối
lại bổn phận ấy.
Xin nhắc lại câu ngạn ngữ cổ: Si vis pacem para bellum. Nếu muốn hòa bình
thì phải sẵn sàng để chiến tranh.
Có lẽ đã đến lúc phải sửa lại câu ấy như sau: Si vis vitam, para mortem. Nếu
muốn chịu đựng được cuộc sống thì phải sẵn sàng để nhận cái chết.
Danh từ dùng trong bản dịch:
Ấn tượng |
Impression |
Ám thị |
Suggestion |
Bảo thức năng |
Mnème mnémique |
Bản năng |
Instinct |
Bản năng sống |
Instinct de vie |
Bản năng chết |
Instinct de mort |
Bản năng dục tính |
Instinct sexuel |
Bản năng bảo tồn |
Instinct de conservation |
Bản năng phá hoại |
Instict de destruction |
Bầy ô hợp nguyên thủy |
Horde primitive |
Biểu thị |
Représentation |
Cảm giác |
Sentation |
Cảm ứng |
Induction |
Di chuyển: hiện tượng xảy ra lúc tâm phân nghiệm, con bệnh
di chuyển tâm tính bị dồn nén, lấy ông thầy làm đối tượng |
Transfert |
Dục tính |
Sexuel, sexualité |
Hiểu theo nghĩa rộng, năng chính yếu của sự sống |
một bản |
Đứng dừng |
Fixation |
Dừng lại ở một giai đoạn phát triển thời thơ ấu. |
|
Đồng tính ái |
Homosexuel |
Đồng nhất hóa |
Identification |
Đối tượng |
Objet |
Đổi chỗ |
Déplacement |
Đám đông |
Foule |
Eros. Chỉ bản năng chính yếu chỉ huy sự sống |
Eros |
Hành hạ (khuynh hướng) |
Sadisme |
Giao cảm |
Sympathic |
Giai đoạn tiền sinh dục, giai đoạn |
Phase prégénitale |
sinh dục: chỉ những giai đoạn phát |
Phase génitale |
triển của bản năng dục tính. |
|
Hình thái học |
Morphologie |
Hệ thống phát sinh |
Excitation |
Libido. Tinh lực đại diện cho sức sống, phát hiện chính yếu
là dục tính |
Libido |
Lưỡng tính hợp thể |
Amphimixie |
Lưỡng ứng tính |
Ambivalence |
Lưỡng ứng tâm tính |
Ambivalence affective |
Lưỡng dục tính |
Bisexualité |
Lo sợ, sợ hãi, kinh sợ |
Angoisse, peur, frayeur |
Lý tưởng tôi, siêu ngã |
Idéal du moi, sur-moi |
Mặc cảm |
Complexe |
Năng động |
Dynamique |
Ngoại phôi điệp |
Ectoderme |
Nhắc lại (khuynh hướng) |
Tendance à la répétition |
Nhị nguyên, đối tính |
Dualisme |
Nhập nội |
Introjection |
Nguyên tắc giữ nguyên tình trạng |
Principle de constance |
Nguyên tắc thực tại |
Principle de réalité |
Nguyên tắc khoái lạc |
Principle de plaisir |
Nguyên sinh động vật |
Protozoaire |
Ngoại thương |
Traumatisme |
Phôi thai học |
Embryologie |
Phóng rọi |
Projection |
Quần cư (bản năng) |
Instinct grégaire |
Rẽ ngang, rẽ hướng |
Dériver, dérivation |
Sự thật âm thầm |
Réalité, psychique |
Suy nhược thần kinh (bệnh) |
Névrose |
Suy nhược thần kinh sợ sệt (bệnh) |
Phobie névrotique |
Suy nhược thần kinh di chuyển (bệnh) |
Névrose de transfert |
Suy nhược thần kinh ám ảnh (bệnh) |
Névrose d’obsession |
Siêu ngã |
Ueberich, sur-moi |
Tâm thần sinh lý học |
Psychophysiologie |
Tâm thần |
Psychique |
Tâm thần biến thái (bệnh) |
Psychose |
Thần kinh tâm thần (bệnh) |
Psycho-névrose |
Tiến trình |
Procesus |
Trạng thái |
État |
Tâm từ (biểu thị) |
Représentation verbale |
Tinh lực |
Énergie |
Tinh lực không liên kết |
Énergie non liée |
Linh lực liên kết |
Énergie liée |
Tiền ý thức |
Préconscient |
Trích trùng |
Infusoire |
Tâm lý siêu hình |
Métapsychologie |
Thích xác |
Topique |
Tôi lý tưởng |
Moi idéal |
Ưu uất (bệnh) |
Mélancolie |
U uất (bệnh) |
Hypochondrie |
Vật tổ |
Totem |
Vô thức Ca, |
ES |
Xung động |
Impulsion |
Ý thức |
Conscient |
Chú thích:
[1] Tác
giả viết trong thời Đệ nhất Thế chiến.
[2] Xin
coi chương cuối Vật tổ và cấm kỵ.
[3] Coi
sự chứng minh hùng hồn của Frazer trong Vật tổ và cấm kỵ.
[4] Xin
coi Vật tổ và cấm kỵ, chương nói về sức mạnh vô song của ý chí.
Nguồn: Nghiên cứu phân tâm học của Freud do Vũ Đình
Lưu dịch. An Tiêm xuất bản lần thứ nhất, Sài Gòn 1969. Bản điện tử do talawas
thực hiện.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét